LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội thì ngành thuế Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc. Thuế thực sự là nguồn thu chủ yếu của ngân sách quốc gia, góp phần thực hiện các mục đích khác như định hướng sản xuất, tiêu dùng; điều tiết thu nhập Hệ thống chính sách thuế dần được hoàn thiện, cơ chế quản lý thuế đang được từng bước cải cách cho phù hợp với quá trình phát triển đất nước và thông lệ quốc tế.
Trong thời gian qua, nhiều nội dung mới trong công tác thuế đã được hình thành và phát triển ở Việt Nam. Dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế là một trong số đó. Dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế đã có những bước phát triển nhất định, thu được một số kết quả khả quan và có tác dụng tích cực đối với cơ chế quản lý thuế hiện đại. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó thì vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế do cơ quan thuế cung cấp chưa phát huy được hiệu quả thực sự. Dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế do khu vực tư cung cấp chưa được quan tâm phát triển. Thực trạng này đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu, đánh giá thành công, hạn chế cùng các nguyên nhân của hoạt động hỗ trợ đối tượng nộp thuế hiện nay; tìm hiểu, học tập kinh nghiệm của nước ngoài về lĩnh vực này; từ đó đề ra một số biện pháp để thúc đẩy sự phát triển dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế trong điều kiện hiện nay của Việt Nam.
Xuất phát từ lý do đó, em đã chọn đề tài “Các giải pháp nhằm phát triển dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế trong điều kiện hiện nay của Việt Nam” để tìm hiểu, nghiên cứu.
Đề tài được kết cấu theo 3 nội dung chính :
- Chương 1: Tổng quan về dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế.
- Chương 2: Thực trạng áp dụng dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế ở Việt Nam hiện nay.
- Chương 3: Giải pháp phát triển dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Trong quá trình làm bài luận văn này, em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Liên. Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới cô.
LỜI MỞ ĐẦU 1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 3
Chương 1 4
TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ HỖ TRỢ ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ 4
1.1Khái quát về dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế: 4
1.1.1Khái niệm: 4
1.1.2 Đối tượng của dịch vụ HTĐTNT: 6
1.1.3 Nội dung và các hình thức thực hiện dịch vụ HTĐTNT: 7
1.1.3.1 Tuyên truyền về pháp luật thuế: 7
1.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động HTĐTNT: 9
1.2 Sự cần thiết phải phát triển dịch vụ HTĐTNT ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay: 10
1.2.1 Sự cần thiết phải phổ biến pháp luật thuế: 10
1.2.2 Tính chất phức tạp của các quy định về nghiệp vụ thuế: 12
1.2.3 Kiến thức, trình độ của các cán bộ quản lý ở các cơ sở sản xuất kinh doanh còn hạn chế: 13
Chương 2 15
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG DỊCH VỤ HTĐTNT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 15
2.1 Bối cảnh triển khai áp dụng dịch vụ HTĐTNT: 15
2.1.1 Quá trình triển khai hoạt động HTĐTNT tại cơ quan thuế: 15
2.1.2 Áp dụng thí điểm cơ chế tự kê khai, tự nộp ở một số Cục thuế: 16
2.1.3 Quy trình quản lý thuế mới: 19
2.2 Kết quả của hoạt động HTĐTNT ở Việt Nam trong thời gian qua: 21
2.2.1 Dịch vụ HTĐTNT công: 21
2.2.1.1 Thời gian trước quí IV năm 2001: 21
2.2.1.2 Thời gian sau quí IV năm 2001: 22
2.2.2 Dịch vụ HTĐTNT tư: 30
2.2.3 Đánh giá chung về dịch vụ HTĐTNT trong thời gian qua: 31
2.2.3.1 Những kết quả đã đạt được: 31
2.2.3.2 Những vấn đề còn tồn tại: 33
2.3 Một số kinh nghiệm nước ngoài về dịch vụ HTĐTNT: 37
2.3.1 Kinh nghiệm của Nhật Bản: 37
2.3.2 Kinh nghiệm của Vương quốc Anh: 38
2.3.3 Kinh nghiệm của Trung Quốc: 39
2.3.4 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: 40
Chương 3 42
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ HTĐTNT TRONG 42
ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY CỦA VIỆT NAM 42
3.1 Yêu cầu, mục tiêu của việc phát triển dịch vụ HTĐTNT trong thời gian tới: 42
3.1.1 Yêu cầu phát triển dịch vụ HTĐTNT: 42
3.1.1.1 Đáp ứng yêu cầu của chương trình cải cách quản lý thuế: 42
3.1.1.2 Đảm bảo cho ĐTNT hiểu rõ pháp luật thuế và các nghĩa vụ phải làm đồng thời nâng cao nhận thức của toàn xã hội về thuế: 43
3.1.1.3 Yêu cầu về cán bộ làm công tác HTĐTNT: 44
3.1.2 Mục tiêu phát triển dịch vụ HTĐTNT trong thời gian tới: 45
3.2 Một số giải pháp phát triển dịch vụ HTĐTNT: 45
3.2.1 Xác định kế hoạch tuyên truyền, hỗ trợ trong từng giai đoạn: 45
3.2.2 Tổ chức bộ máy thực hiện dịch vụ HTĐTNT trong ngành thuế: 47
3.2.4 Ban hành văn bản pháp luật quy định hoạt động hỗ trợ, tư vấn thuế độc lập: 49
3.2.5 Các giải pháp điều kiện: 50
KẾT LUẬN 53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 54
56 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2020 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các giải pháp nhằm phát triển dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o dân đóng góp để phục vụ lợi ích của nhân dân”.
2.”Tổ chức, cá nhân nộp thuế là nhân tố thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của đất nước và ngân sách quốc gia”.
3.”Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước”.
4.”Nộp thuế để xây dựng đất nước giàu mạnh, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc”.
5.”Thuế là nguồn thu chủ yếu để xây dựng và phát triển đất nước”.
6.”Nộp thuế để xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
7.”Nộp thuế là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi công dân”.
Đến nay, trên cả nước đã có 2739 panô, áp phích tuyên truyền về thuế, được thống nhất nội dung và đặt ở nơi dễ quan sát.
Tuyên truyền qua trang web của Tổng cục thuế: Năm 2004, Tổng cục thuế đã mở trang tin điện tử www.gdt.gov.vn trên internet. Website này cung cấp các văn bản pháp quy về thuế còn hiệu lực thi hành, phân theo từng loại: Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết, Nghị định, Thông tư; cung cấp các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về thuế của Chính phủ, Bộ Tài chính, Tổng cục thuế và Cục thuế các tỉnh, thành phố; cung cấp các thủ tục về đăng ký, cấp mã số thuế, mua và quản lý, sử dụng hoá đơn, kê khai và nộp thuế, quyết toán thuế, xử lý vi phạm về thuế, miễn-giảm-hoàn thuế. Đến nay, website Tổng cục thuế đã vận hành tương đối ổn định, được cập nhật thông tin đầy đủ, kịp thời; bước đầu đã phục vụ tốt các nhu cầu tra cứu, tìm hiểu chính sách thuế và nhiều thông tin khác cho các ĐTNT và mọi thành phần xã hội khác. Tính đến nay đã có khoảng 800000 lượt người truy cập.
Các hình thức khác: Ngoài các hình thức tuyên truyền thường xuyên trên, năm 2004, Tổng cục thuế còn tổ chức 2 buổi họp báo đạt kết quả tốt: Họp báo đầu xuân kết hợp với việc tuyên truyền 3 Luật thuế mới; Họp báo với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các hiệp hội, ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao với nội dung giải đáp các thắc mắc của doanh nghiệp về các Luật thuế mới. Hằng năm, Tổng cục thuế và các Cục thuế đều tuyên dương, khen thưởng các ĐTNT thực hiện tốt nghĩa vụ thuế. Cuối năm 2004, đã có 7717 doanh nghiệp được tôn vinh. Đồng thời, ngành thuế cũng lên án các ĐTNT cố ý vi phạm pháp luật thuế, gian lận về hoá đơn chứng từ để trốn thuế, hoàn khống thuế giá trị gia tăng…Một số Cục thuế như Cục thuế Quảng Ninh, Nghệ An, Lâm Đồng, Hà Tây…đã tranh thủ sự giúp đỡ của Ban tuyên giáo tỉnh uỷ ra Bản tin nội bộ, trong đó có chuyên mục phổ biến chính sách thuế, được phát hành hàng tháng đến từng Chi bộ Đảng, đến các xã, phường, thị trấn. Nhiều cục thuế còn chủ động đề xuất với cấp uỷ, Uỷ ban nhân dân tuyên truyền, vận động các ĐTNT thi đua trong sản xuất, kinh doanh, phấn đấu nộp ngân sách Nhà nước vượt dự toán thu của năm.
*Công tác hỗ trợ:
Công tác hỗ trợ ĐTNT được Tổng cục thuế đặc biệt quan tâm chỉ đạo. Do vậy, các Cục thuế đều có sự chuyển biến từ nhận thức đến các công việc cụ thể hằng ngày. Các Cục thuế đã tiến hành thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về chức năng, nhiệm vụ, địa điểm, số điện thoại liên lạc của bộ phận hỗ trợ ĐTNT tại địa phương. Hoạt động hỗ trợ ĐTNT hiện nay của cơ quan thuế được chia thành 4 hình thức chủ yếu:
Hướng dẫn, giải đáp trực tiếp cho ĐTNT tại cơ quan thuế:
Tại bàn đăng ký, cán bộ hỗ trợ ĐTNT phát Phiếu đăng ký (mẫu số 01A), Phiếu đánh giá chất lượng công tác hỗ trợ ĐTNT (mẫu số 02A) và số thứ tự đăng ký cho ĐTNT.
Sau khi ĐTNT điền các nội dung vào Phiếu đăng ký, nộp lại cho bàn đăng ký, cán bộ tại bàn đăng ký nhập các thông tin trên phiếu vào Sổ đăng ký dịch vụ hỗ trợ ĐTNT (mẫu số 03) và hướng dẫn ĐTNT đến cán bộ trực tiếp giải đáp.
Căn cứ vào nội dung Phiếu đăng ký, cán bộ hỗ trợ sẽ lần lượt giải đáp các yêu cầu của ĐTNT. Trường hợp chưa thể trả lời ngay, cán bộ phải ghi lại nội dung hẹn trả lời sau trên Phiếu đăng ký và photo gửi ĐTNT giữ 1 bản. Thời gian trả lới sau không quá 3 ngày đối với trường hợp phải tham khảo ý kiến của các bộ phận cùng cơ quan, không quá 15 ngày đối với trường hợp phải xin ý kiến của cấp trên.
Đối với các vấn đề có thể nảy sinh tranh chấp về nghĩa vụ thuế của ĐTNT, cần có cơ sở pháp lý thì đề nghị ĐTNT làm văn bản gửi đến cơ quan thuế để được hướng dẫn bằng văn bản.
Sau khi giải đáp xong cho ĐTNT, cán bộ hỗ trợ ghi lại vào Phiếu đăng ký, tóm tắt những nội dung chính đã trả lời, các căn cứ pháp lý, các vấn đề hẹn trả lời sau và thời gian hẹn trả lời.
Hàng ngày, lãnh đạo bộ phận Hỗ trợ ĐTNT sẽ kiểm tra lại nội dung giải đáp mà các cán bộ đã thực hiện hôm trước.
Hàng quý, cán bộ phụ trách bộ phận hỗ trợ ĐTNT chỉ đạo rà soát lại các yêu cầu của ĐTNT hỏi trong kỳ, tổng hợp những vấn đề được hỏi nhiều lần báo cáo lên cơ quan cấp trên để làm căn cứ biên soạn tài liệu hướng dẫn chung cho toàn ngành.
Hướng dẫn, giải đáp cho ĐTNT qua điện thoại:
Khi tiếp nhận câu hỏi của ĐTNT, cán bộ hỗ trợ lần lượt giải đáp từng câu hoi, đúng nội dung yêu cầu, tránh để người hỏi phải đợi trong quá trình trả lời.
Trường hợp cán bộ hỗ trợ không trả lời ngay được câu hỏi thì hẹn ĐTNT sẽ trả lời sau (thời gian trả lời chậm nhất không quá 3 ngày).
Sau khi trả lời ĐTNT, cán bộ hỗ trợ phải ghi lại trên Phiếu đăng ký những vấn đề ĐTNT đã hỏi và nội dung trả lời đề làm cơ sở cho việc đánh giá chất lượng thực hiện.
Đồng thời, cũng phải tiến hành kiểm tra, tổng hợp, báo cáo như hỗ trợ ĐTNT tại cơ quan thuế.
Hướng dẫn, giải đáp cho ĐTNT bằng văn bản:
Khi ĐTNT đề nghị hướng dẫn, giải đáp vướng mắc về thuế bằng cách gửi văn bản, cơ quan thuế phải vào sổ và xử lý công văn theo đúng trình tự quy định về tiếp nhận, xử lý và ban hành văn bản theo quy định của Tổng cục thuế. Lãnh đạo phòng xem xét nội dung ĐTNT yêu cầu để phân công cán bộ trả lời văn bản cho phù hợp.
Cán bộ được giao trả lời văn bản có trách nhiệm nghiên cứu kỹ nội dung văn bản và chính sách thuế hiện hành để dự thảo phương án trả lời. Nếu thấy cần thiết, cán bộ hỗ trợ phải liên hệ với ĐTNT, đề nghị cung cấp thêm thông tin, tài liệu. Nếu có vướng mắc, cán bộ hỗ trợ cần báo cáo lãnh đạo phòng. Nếu cấp Cục thuế vẫn không trả lời được thì phải có văn bản báo cáo Tổng cục thuế.
Sau khi cán bộ hỗ trợ soạn dự thảo công văn trả lời, lãnh đạo phòng kiểm tra lại nội dung đã trả lời, ký trách nhiệm và trình lãnh đạo Chi cục, Cục ký duyệt theo đúng thẩm quyền. Công văn trả lời được chuyển đến Phòng hành chính đóng dấu, vào sổ công văn và gửi cho ĐTNT. Công văn trả lời này cùng toàn bộ hồ sơ, tài liệu của ĐTNT sẽ được lưu và tập hồ sơ trả lời của phòng và ghi kết quả vào Sổ nhật ký hỗ trợ.
Hướng dẫn, giải đáp cho ĐTNT thông qua tổ chức hội nghị:
Theo hình thức hướng dẫn này, ĐTNT được chia thành 2 nhóm: doanh nghiệp mới thành lập và doanh nghiệp đã hoạt động lâu năm. Đối với các doanh nghiệp mới thành lập, Cục thuế sẽ tổ chức lớp tập huấn. Đối với doanh nghiệp khác, Cục thuế sẽ tổ chức đối thoại hoặc hội nghị phổ biến chính sách thuế mới.
Định kỳ hàng tháng, căn cứ vào mã số thuế được cấp trong tháng, phòng Tuyên truyền và hỗ trợ ĐTNT gửi Phiếu đăng ký tập huấn cho tất cả các doanh nghiệp mới thành lập, sau đó tổng hợp phiếu đăng ký tập huấn đã nhận lại để gửi giấy mời tập huấn miễn phí đến từng doanh nghiệp. Nội dung thường được phổ biến, hướng dẫn là: các sắc thuế liên quan đến nghĩa vụ của ĐTNT (chủ yếu là thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế môn bài, thuế tiêu thụ đặc biệt); thủ tục kê khai, nộp thuế; hướng dẫn mở sổ sách kế toán; hướng dẫn các quy định về phát hành, quản lý và sử dụng hoá đơn, chứng từ; những sai sót về thuế thường mắc phải… Kết thúc buổi tập huấn, cán bộ hỗ trợ thu lại Phiếu đánh giá của các ĐTNT để làm cơ sở cho việc điều chỉnh phương pháp, nội dung của cá buổi hướng dẫn tiếp theo.
Khi có các quy định mới, các thay đổi trong chính sách và thủ tục về thuế được ban hành, bộ phận HTĐTNT xác định phạm vi ĐTNT có liên quan đến các thay đổi này, lập danh sách và gửi giấy mời họ đến tập huấn miễn phí. Đồng thời, cơ quan thuế còn thường xuyên tổ chức đối thoại trực tiếp với các doanh nghiệp nhằm giải đáp kịp thời các vướng mắc của họ khi thực hiện các luật thuế.
Có thể tổng kết về công tác hướng dẫn cho ĐTNT trong năm 2004 của ngành thuế ở bảng sau:
Bảng 1: Tổng kết công tác hướng dẫn cho ĐTNT năm 2004
Phạm vi
Hình thức
Cả nước
Cục thuế Hà Nội
Cục thuế
Quảng Ninh
HD qua điện thoại
59339 cuộc
60 cuộc/ngày
5346 cuộc
HD tại cơ quan thuế
37552 lượt
20 lượt/ngày
3124 lượt
HD bằng văn bản
8952 văn bản
hơn 1000 văn bản
70 văn bản
Tập huấn DN
mới thành lập
14658 DN
5 lớp
hơn 2000 DN
15 hội nghị
1760 DN
Tập huấn DN
đang hoạt động
109165 DN
30 lớp
15500 DN
Đối thoại với DN
437cuộc,21452DN
19 cuộc,3500 DN
(Nguồn: “Báo cáo tổng kết công tác năm 2004 và phương hướng nhiệm vụ năm 2005” của Ban Tuyên truyền hỗ trợ ĐTNT_Tổng cục thuế, Phòng Tuyên truyền hỗ trợ_Cục thuế Hà Nội, Phòng Tuyên truyền hỗ trợ_Cục thuế Quảng Ninh)
2.2.2 Dịch vụ HTĐTNT tư:
Trong thời gian qua, dịch vụ HTĐTNT tư đã bắt đầu hình thành và phát triển. Các cơ sở cung cấp dịch vụ HTĐTNT tồn tại dưới các hình thức như Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty tư nhân hoặc Trung tâm tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp. Các cơ sở này xuất hiện ngày càng nhiều, đặc biệt là ở các thành phố lớn. Tuy nhiên số lượng hiện nay là bao nhiêu thì chưa ban ngành nào thống kê được.
Các dịch vụ HTĐTNT do khu vực tư cung cấp rất đa dạng. Ngoài giải đáp thắc mắc, tư vấn về chính sách thuế, chính sách tài chính, hướng dẫn cách lập hoá đơn, chứng từ họ còn có thể làm công việc lập Bảng cân đối kế toán, Báo cáo thuế, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh…Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, là đối tượng sử dụng dịch vụ HTĐTNT của khu vực tư nhiều nhất. Các doanh nghiệp này không cần bộ máy kế toán hoàn chỉnh, số lượng chứng từ phát sinh không nhiều nhưng hàng tháng họ vấn phải kê khai thuế giá trị gia tăng, kết thúc năm tài chính phải lập các báo cáo kế toán, các báo cáo thuế…Vì vậy họ thuê các công ty khác làm công việc đó vừa tiết kiệm được chi phí so với việc họ tự làm vừa tăng khả năng thực hiện đúng luật thuế, luật kế toán. Như vậy, dịch vụ HTĐTNT tư cũng góp phần vào việc giúp các ĐTNT thực hiện tốt hơn nghĩa vụ thuế với Nhà nước.
2.2.3 Đánh giá chung về dịch vụ HTĐTNT trong thời gian qua:
2.2.3.1 Những kết quả đã đạt được:
Quá trình áp dụng dịch vụ HTĐTNT ở nước ta trong thời gian qua đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ.
Hoạt động HTĐTNT ngày càng được mở rộng: Từ chỗ chỉ là những hoạt động đơn lẻ, chưa có kế hoạch đến thí điểm công tác tuyên truyền, hỗ trợ tổ chức và cá nhân nộp thuế ở 5 Cục thuế vào cuối năm 2001 và hiện nay đã được mở rộng, thống nhất trên 64 tỉnh thành. Quả thật, dịch vụ HTĐTNT đã có những bước phát triển vượt bậc. Các hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT được tổ chức ngày càng thường xuyên, bằng tất cả các hình thức, trên phạm vi rộng. Có thể minh chứng bằng bảng tổng kết về công tác tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT của Cục thuế Quảng Ninh trong năm 2002 và 2004.
Bảng 2: Tổng kết công tác HTĐTNT của Cục thuế Quảng Ninh
Hình thức
Năm 2002
Năm 2004
Hướng dẫn qua điện thoại (cuộc)
342
5346
Hướng dẫn tại cơ quan thuế (lượt)
44
3124
Hướng dẫn bằng văn bản
0
70
(Nguồn: “Báo cáo tổng kết công tác tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT” năm 2002 và 2004 của Phòng Tuyên truyền hỗ trợ ĐTNT_Cục thuế Quảng Ninh)
Hiệu quả quản lý thuế nâng cao rõ rệt: Dịch vụ HTĐTNT trong thời gian qua đã được nâng cao về chất lượng và đa dạng hoá hình thức nên đã tác động tích cực đến tất cả các ĐTNT và các tầng lớp dân cư. Từ đó, ý thức chấp hành chính sách thuế của ĐTNT cũng dần được tăng lên, tính tự giác của ĐTNT trong việc kê khai, nộp thuế đã có nhiều chuyển biến tốt. Tại Cục thuế TP Hồ Chí Minh, tỷ lệ doanh nghiệp nộp tờ khai đúng hạn năm 1999 là 75%, năm 2001 là 90%, năm 2003 là 95%. Đồng thời, việc cung cấp thông tin đầy đủ, hướng dẫn chu đáo cho ĐTNT đã làm giảm dần những sai phạm không cố ý trong thực hiện nghĩa vụ thuế của ĐTNT. Thống kê tỷ lệ sai sót về số học trên các tờ khai thuế tại cục thuế TP Hồ Chí Minh chỉ còn 0,3%. Số doanh nghiệp và cá nhân nộp thuế vào Ngân sách Nhà nước ngày càng đầy đủ, giảm hẳn tình trạng nợ đọng thuế. Việc ĐTNT chấp hành tốt nghĩa vụ thuế đã giúp cơ quan thuế tiết kiệm được chi phí hành thu, đồng thời tăng cường chất lượng, hiệu quả của công tác quản lý. Kết quả này đóng góp không nhỏ trong việc thực hiện nhiệm vụ thu của ngành, củng cố nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Thay đổi cách nhìn của ĐTNT về thuế: Qua hàng loạt các hoạt động tuyên truyền về thuế, ĐTNT đã hiểu rõ hơn trách nhiệm của người kinh doanh trong thực hiện nghĩa vụ thuế, trong kê khai và nộp thuế. Đồng thời, quan điểm, thái độ của họ về cơ quan thuế cũng được thay đổi theo chiều hướng tích cực. ĐTNT không còn thái độ đối phó với cơ quan thuế như trước, thay vào đó là tinh thần hợp tác, giúp đỡ.
Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về thuế: Qua theo dõi thấy được công tác tuyên truyền chính sách thuế đã gây được sự chú ý của công chúng. Mọi người dân đều đồng tình, ủng hộ với cách làm hiện nay của ngành thuế. Người dân đã dần dần hiểu chính sách thuế, ý thức được trách nhiệm của mình, đặc biệt là tầng lớp học sinh, sinh viên, thanh niên-những người chủ tương lai của đất nước. Đó là cơ sở để mọi công dân thực hiện tốt nghĩa vụ thuế.
2.2.3.2 Những vấn đề còn tồn tại:
Tuy nhiên những kết quả đạt được khi áp dụng dịch vụ HTĐTNT trong thời gian qua còn rất khiêm tốn so với mục tiêu, yêu cầu đặt ra cho công tác này, chưa đáp ứng được cải cách trong quản lý theo hướng hiện đại hoá. Cụ thể:
Hiệu quả công tác HTĐTNT chưa được như mong muốn của ngành thuế: Cho đến nay, hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT của cơ quan thuế đã tiến hành được 3 năm, tuy nhiên vẫn còn nhiều ĐTNT, tổ chức kinh tế xã hội, thậm chí cả các cơ quan quản lý Nhà nước cũng chưa hiểu sâu sắc bản chất tốt đẹp của công tác thuế, quyền hạn và trách nhiệm phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế với ngân sách Nhà nước. Do đó, ý thức tuân thủ tự giác của ĐTNT chưa thật cao. Biểu hiện ở một số doanh nghiệp, hộ kinh doanh thực tế có kinh doanh nhưng chưa kê khai, nộp thuế; một số doanh nghiệp có kê khai nhưng kê khai không đúng hoặc nộp không đủ số thuế phải nộp. Thậm chí còn một bộ phận doanh nghiệp trốn thuế, lậu thuế gây thất thoát cho ngân sách Nhà nước. Về phía các cơ quan, tổ chức khác chưa lên án kịp thời, mạnh mẽ các hành vi vi phạm thuế, chưa hỗ trợ tích cực với cơ quan thuế để cung cấp thông tin và phối hợp thu thuế.
Chất lượng công tác HTĐTNT chưa đáp ứng được yêu cầu của ĐTNT: Hiện nay, công tác tập huấn cho ĐTNT thông qua tổ chức hội nghị chưa được tiến hành thường xuyên, đặc biệt là ở các tỉnh lẻ, vì phải chờ cho đủ một số lượng nhất định ĐTNT. Vì vậy, việc phổ biến chính sách thuế ít nhiều không đảm bảo được yêu cầu kịp thời. Mặt khác, qua thăm dò thì có tới 40% ĐTNT được hỏi muốn được hướng dẫn trực tiếp tại cơ sở của mình nhưng thực tế hình thức hỗ trợ này được sử dụng rất hạn chế. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất và phương tiện được trang bị cho hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ còn nghèo nàn, chật chội. Nhiều dịch vụ hỗ trợ cần thiết khác như hệ thống điện thoại trả lời tự động, thư điện tử…chưa được ứng dụng. Các trang web cung cấp văn bản, thông tin về thuế có rất ít. Vì vậy, việc tìm kiếm, tra cứu chưa được thuận tiện.
Hoạt động HTĐTNT chưa tập trung về một đầu mối. Tại nhiều Cục thuế, mặc dù đã thành lập Phòng Tuyên truyền và hỗ trợ ĐTNT nhưng vẫn có hiện tượng việc hướng dẫn, tư vấn được thực hiện rải rác ở các phòng khác. Do đó, việc hướng dẫn ĐTNT thực hiện các quy định trong chính sách thuế chưa được thống nhất, chưa mang tính tổng hợp cao. Mặt khác, còn làm giảm tính chuyên môn hoá dẫn tới giảm hiệu quả hoạt động của các phòng.
Xin đơn cử tình hình tại Cục thuế Quảng Ninh để minh chứng.
Bảng 3: Công tác HTĐTNT tại Cục thuế Quảng Ninh quý I/2004
Tên đơn vị
(phòng)
Tư vấn tại
cơ quan thuế
Tư vấn qua
điện thoại
Trả lời
bằng văn bản
Tập huấn
(buổi)
TT-HT ĐTNT
35
105
16
2
Dự toán-tổng hợp
0
44
21
0
Quản lý ấn chỉ
17
20
38
1
Thuế trước bạ
0
14
0
0
Quản lý DN số 1
138
457
3
0
Quản lý DN số 2
880
1456
7
0
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT quý I/2004 của Cục thuế Quảng Ninh)
Còn tồn tại những hạn chế trên là do một số nguyên nhân sau:
Một là, dịch vụ HTĐTNT chưa được đầu tư theo chiều sâu. Các hình thức tuyên truyền qua phương tiện thông tin đại chúng còn đơn điệu, cứng nhắc, chưa gây được ấn tượng, thu hút công chúng, còn nặng về phổ biến các quy định của chính sách thuế mới. Nội dung tuyên truyền chưa đi vào chiều sâu, chưa giải thích rõ đạo lý vì sao phải nộp thuế. Do đó, các tổ chức, cá nhân chưa coi tiền thuế là lợi ích thiết thực của mình. Hơn nữa, việc tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền về thuế chưa có kế hoạch cụ thể, chưa thường xuyên, liên tục. Các tài liệu tuyên truyền còn thiếu lại chưa thống nhất nên việc trả lời cho ĐTNT của cán bộ hỗ trợ hiện nay chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của cán bộ.
Hai là, dịch vụ HTĐTNT của khu vực tư chưa được chú trọng phát triển. Hiện nay, dịch vụ HTĐTNT của cơ quan thuế đã có những bước phát triển nhất định. Tuy nhiên, dịch vụ HTĐTNT của khu vực tư lại chưa được quan tâm đúng mức. Điều này có thể bắt nguồn từ việc chúng ta chưa nhận thấy được sự cần thiết và lợi ích của dịch vụ HTĐTNT tư. Hiện nay, số công chức trong ngành thuế khoảng 40000 người, trong đó có 2200 cán bộ làm công tác tuyên truyền-hỗ trợ ĐTNT. Trong khi đó trên phạm vi cả nước có hơn 1,5 triệu ĐTNT. Công việc của cán bộ thuế là phải kiểm tra việc kê khai, tính thuế; phổ biến, hướng dẫn chính sách thuế…Với tương quan về số lượng ĐTNT và số lượng cán bộ thuế thì khối lượng công việc là quá nhiều, khó lòng đảm bảo chất lượng được. Nếu dịch vụ HTĐTNT tư phát triển đến mức độ đáng tin cậy thì sẽ có nhiều ĐTNT tìm đến để được tư vấn, hướng dẫn. Vì vậy sẽ làm giảm áp lực công việc cho cơ quan thuế. Mặt khác, trong tương lai không xa, phạm vi áp dụng thuế thu nhập cá nhân sẽ mở rộng (do thu nhập bình quân đầu người tăng, khởi điểm tính thuế và thuế suất giảm). Do đó, số lượng ĐTNT sẽ tăng lên rất nhiều. Theo kinh nghiệm của các nước khác, sẽ có rất ít người tự kê khai và tính thuế, họ sẽ để cho chuyên gia tư vấn thuế làm việc này. Vì những người có thu nhập cao thì việc bỏ thời gian, chi phí cơ hội để tự kê khai và tính thuế đúng còn lớn hơn chi phí bằng tiền cho dịch vụ tư vấn thuế. Bởi vây, trong tương lai gần, nhu cầu về dịch vụ tư vấn thuế tư sẽ rất lớn. Từ một số lý do cơ bản trên có thể thấy yêu cầu đặt ra cho ngành thuế là phải có giải pháp để thúc đẩy dịch vụ HTĐTNT tư phát triển đúng hướng.
Ba là, đội ngũ cán bộ thuế làm công tác tuyên truyền-hỗ trợ ĐTNT chưa đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, chỉ có 2200 cán bộ, chiếm 5% tổng số cán bộ thuế làm công tác này. Trong khi đó, nhu cầu phải là 20% tổng số cán bộ. Do thiếu hụt về lực lượng nên các cán bộ thuế không thể đảm đương tất cả các công việc của bộ phận tuyên truyền-hỗ trợ. Mặt khác, lý do này còn gây áp lực cho các cán bộ tuyên truyền-hỗ trợ, họ phải làm việc căng thẳng, từ đó làm giảm hiệu quả công việc. Bên cạnh đó, việc đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp cho các cán bộ này chưa được tổ chức thường xuyên cũng là nguyên nhân làm giảm chất lượng cán bộ. Khi cán bộ tuyên truyền-hỗ trợ không đảm bảo yêu cầu về số lượng, chất lượng tất yếu sẽ dẫn đến hiệu quả công tác HTĐTNT không cao.
Bốn là, hệ thống pháp luật thuế còn một số vấn để bất cập. Pháp luật thuế chưa thực sự bao quát hết tất cả các vấn đề liên quan đến thuế, vẫn còn tồn tại tình huống chưa được đề cập trong pháp luật. Một số điểm quy định chưa rõ ràng, làm nảy sinh vài cách hiểu khác nhau. Có sự không thống nhất giữa một số thông tư với nghị định, luật giữa luật thuế với nhau. Vì vậy, rất khó cho cán bộ thuế khi trả lời vướng mắc của ĐTNT. Điều này dẫn đến tình trạng phải trả lời cho ĐTNT bằng công văn riêng của Tổng cục thuế hoặc cùng một vấn đề nhưng các Cục thuế lại xử lý không thống nhất.
Năm là, dịch vụ HTĐTNT vừa mới qua giai đoạn thí điểm nên sử dụng dịch vụ này chưa thành thói quen của ĐTNT. Có thể họ e ngại khi tìm đến cơ quan thuế, không tin tưởng ở chất lượng các trung tâm tư vấn của tư nhân. Mặt khác, cung cấp dịch vụ HTĐTNT cũng là công tác mới mẻ của cơ quan thuế, công việc này đang được vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Chính vì vậy nên hoạt động HTĐTNT chưa thể thu được kết quả cao ngay được.
2.3 Một số kinh nghiệm nước ngoài về dịch vụ HTĐTNT:
2.3.1 Kinh nghiệm của Nhật Bản:
Nhật Bản là một trong những nước đã đạt trình độ cao trong lĩnh vực quản lý thuế. Nhật Bản đã áp dụng cơ chế ĐTNT tự kê khai, tự nộp thuế từ năm 1947 và đã thu được hiệu quả tốt. Có được kết quả này là nhờ Nhật Bản đã có quan điểm đúng đắn ngay từ ngày đầu áp dụng, đó là phải nâng cao trình độ tự kê khai của các doanh nghiệp kết hợp với điều tra của cơ quan thuế. Từ quan điểm đó, 4 nội dung được coi là trụ cột trong quản lý thuế là tuyên truyền, tư vấn, hướng dẫn, điều tra.
Về công tác tuyên truyền: Tuyên truyền về thuế được thực hiện bởi sự kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan thuế và cơ quan truyền thông. Các thông tin về thuế đều được phổ biến rộng rãi đến mọi người dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng: các chương trình truyền hình, truyền thanh, quảng cáo trên đài, báo, tạp chí hoặc trên các trang web. Hằng năm, Chính phủ Nhật Bản phát động phong trào tìm hiểu thuế trên cả nước bằng “Tuần lễ tìm hiểu thuế” từ ngày 11 đến ngày 17 tháng 11. Không chỉ có vậy, Nhật còn thực hiện giáo dục về thuế cho các em học sinh từ rất sớm. Cơ quan thuế cùng với nhà trường đã tổ chức nhiều hoạt động như tổ chức thi tìm hiểu và tuyển chọn các bài viết về thuế để dạy cho trẻ em hiểu ý nghĩa và vai trò của thuế, từ đó giáo dục nghĩa vụ phải kê khai và đóng thuế của người dân.
Về công tác tư vấn thuế: Nhật Bản đã xây dựng một mạng lưới tư vấn thuế trên toàn quốc. Ngành thuế bố trí các phòng tư vấn với khoảng trên 600 chuyên gia tại tất cả các Sở thuế và Văn phòng thuế lớn trên toàn quốc. Cùng với các phòng tư vấn là các trạm phục vụ tại tất cả 51 thành phố. Việc tư vấn có thể thực hiện bằng nhiều hình thức như: giải thích trực tiếp, trả lời qua điện thoại, fax, tóm tắt các câu hỏi thường gặp đưa lên trang web…
Về công tác hướng dẫn: Công tác hướng dẫn gồm có hướng dẫn cá biệt (hướng dẫn riêng cho một ĐTNT) và hướng dẫn tập thể (hướng dẫn chung cho nhiều đối tượng). Đối tượng của hướng dẫn tập thể thường cùng mắc các lỗi sai giống nhau, hoặc cùng kinh doanh trong một khu phố họăc trong cùng một ngành nghề…Các đoàn thể tư nhân phối hợp cùng với ngành thuế để tổ chức các buổi hướng dẫn. Việc phối hợp này vừa tận dụng được nhân lực, kinh nghiệm vừa giảm khó khăn cho cơ quan thuế.
Về công tác điều tra: Điều tra để đảm bảo cho việc kê khai, tính thuế, nộp thuế đầy đủ và chính xác. Tuỳ theo từng thời kỳ và điều kiện kinh tế xã hội khác nhau mà việc áp dụng cơ chế điều tra của Nhật Bản cũng khác nhau, chuyển dần từ điều tra số lượng sang điều tra chất lượng doanh nghiệp.
2.3.2 Kinh nghiệm của Vương quốc Anh:
Vương quốc Anh áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp từ năm 1996. Đến nay, việc áp dụng cơ chế này đã thu được kết quả rất tốt. Công tác tuyên truyền hỗ trợ ĐTNT đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong các nỗ lực để đảm bảo sự thành công của tự khai, tự nộp.
Phân bổ nguồn nhân lực:
Tuyên truyền hỗ trợ ĐTNT được coi là nhiệm vụ cơ quan thuế, nên số cán bộ làm công tác này rất lớn, khoảng 24500 cán bộ, chiếm 28% số cán bộ toàn ngành thuế và bằng 55% số cán bộ của các Cục thuế và Chi cục thuế. Tuy nhiên, tỷ lệ cán bộ thực hiện công tác này đang thay đổi theo xu hướng ngày càng giảm do việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật như điện thoại, internet…
Cơ sở vật chất để thực hiện công tác hỗ trợ:
Các phòng tiếp xúc hỗ trợ ĐTNT của cơ quan thuế Anh thường được bố trí gần ngay phía cửa ra vào, rất thuận tiện cho người nộp thuế. Các phòng được bố trí trong một không gian rộng có nơi đón tiếp khách hàng, có giá để tài liệu hướng dẫn và các tờ khai về nhiều lĩnh vực, nhiều vấn đề và bằng nhiều ngôn ngữ. Các phòng này còn trang bị một số máy tính nối mạng để người nộp thuế có thể truy cập tìm hiểu chính sách thuế. Tính đến cuối tháng 8/2004, toàn ngành thuế nước Anh với 76600 công chức nhưng được trang bị đến 90000 máy tính cá nhân và 3500 máy in, 750 máy chủ để làm công tác hỗ trợ ĐTNT.
Các hoạt động hỗ trợ:
Để tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT, cơ quan thuế Anh đã tiến hành nhiều hình thức dịch vụ phong phú với phương châm phục vụ khách hành tốt nhất:
- Hiện nay, giờ làm việc của các phòng hỗ trợ được bắt đầu lúc 8h30 đến 21h các ngày từ thứ 2 đến thứ 6, một số nơi còn phục vụ cả sáng thứ 7. Trong tương lai, để tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế, Chính phủ Anh mong muốn cơ quan thuế có thể mở cửa tiếp khách hàng tại các trung tâm hỗ trợ cả 7 ngày trong tuần và 24 giờ trong ngày.
- Hệ thống điện thoại hỗ trợ trả lời khoảng 1 triệu cuộc gọi/năm. Mạng điện thoại trả lời hoạt động từ 8 giờ sáng đến 10 giờ tối hằng ngày (trừ lễ giáng sinh, năm mới và ngày bán hàng hạ giá).
- Tiến hành các chiến dịch tuyên truyền toàn quốc đối với các đối tượng nhận được tờ khai nhằm nâng cao ý thức trong việc nộp tờ khai đúng hạn. Các chiến dịch tuyên truyền được thực hiện thông qua các phương tiện phát thanh, truyền hình và internet.
Đánh giá kết quả thực hiện:
Để đảm bảo thực hiện kế hoạch tuyên truyền hỗ trợ được tốt, Cơ quan thu nội địa Vương quốc Anh đã tổ chức một hệ thống theo dõi hàng năm, hàng tháng; tổ chức công tác thanh tra nội bộ. Cơ quan thuế cũng đã xây dựng hệ thống tiêu chí để đánh giá kết quả thực hiện, ví dụ: 80% số công văn hỏi phải được giải quyết trong 15 ngày hoặc 85% số người đến đề nghị tư vấn chỉ phải chờ trong vòng 30 phút, 90% các cuộc điện thoại được trả lời sau 20 giây.
2.3.3 Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Để thực hiện tốt công tác HTĐTNT, Tổng cục thuế Trung Quốc đã chú ý chấn chỉnh bộ phận làm công tác này từ trung ương đến cơ sở, chú ý đến năng lực của các cán bộ tuyên truyền, tư vấn, hướng dẫn. Kinh nghiệm của Trung Quốc trong thực hiện công tác này là:
Quan tâm đến việc xây dựng cơ sở vật chất đáp ứng đủ yêu cầu của công việc tuyên truyền.
Trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến chính sách thuế, cung cấp các dịch vụ tư vấn cho ĐTNT của cơ quan thuế được quy định rõ trong Luật quản lý thu thuế. ĐTNT có quyền đến cơ quan thuế tìm hiểu pháp luật thuế, tìm hiểu quy trình nộp thuế.
Hằng năm có nguồn kinh phí đáng kể cho hoạt động tuyên truyền. Kế hoạch tuyên truyền được xây dựng cho phù hợp với từng đối tượng như: cán bộ Nhà nước, ĐTNT, các tầng lớp dân cư, học sinh, sinh viên…Đặc biệt chú trọng giáo dục nghĩa vụ thuế ngay từ lứa tuổi còn nhỏ qua sách báo, truyện tranh, phim hoạt hình…
Công tác tuyên truyền được thực hiện ở những mức độ và hình thức khác nhau trong từng giai đoạn. Nó được đặc biệt coi trọng khi có các Luật thuế mới được ban hành.
2.3.4 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:
Từ việc nghiên cứu quá trình áp dụng dịch vụ HTĐTNT của nước ngoài, chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam:
Thứ nhất, ngành thuế cần đầu tư tài chính nhiều hơn cho hoạt động tuyên truyền-hỗ trợ. Bổ sung nguồn tài chính để tăng cường cơ sở vật chất (phòng, bàn ghế… để tiếp ĐTNT), trang thiết bị (máy điện thoại, máy fax, máy vi tính…), ứng dụng khoa học công nghệ (trang web, hệ thống điện thoại trả lời tự động…) cho công tác tuyên truyền-hỗ trợ.
Thứ hai, cán bộ thuế làm công tác tuyên truyền-hỗ trợ phải chiếm tỷ lệ tương đối trong tổng số cán bộ của ngành thuế và có đủ năng lực để đảm đương công việc.
Thứ ba, thực hiện công tác tuyên truyền theo cả chiều rộng và chiều sâu: Tuyên truyền về thuế phải trở thành một hoạt động thường xuyên, liên tục trên phạm vi cả nước. Nội dung tuyên truyền không chỉ là chính sách thuế mà còn là ý nghĩa, bản chất của thuế.
Thứ tư, phải làm tốt cả hướng dẫn tập thể và hướng dẫn cá biệt. Trước khi tiến hành hướng dẫn tập thể phải phân chia đối tượng hướng dẫn theo nhóm mục tiêu như: ngành nghề, qui mô, địa bàn, thời gian hoạt động sản xuất kinh doanh…Từ đó, xây dựng nội dung hướng dẫn, bố trí cán bộ thuế và cán bộ kế toán cho thích hợp.
Thứ năm, đối với mỗi nhóm đối tượng: ĐTNT, tổ chức, cá nhân, học sinh-sinh viên, thiếu nhi… thì phải có cách thức, nội dung tuyên truyền thích hợp.
Thứ sáu, mạng lưới hướng dẫn, tư vấn của ngành thuế phải có mặt rộng khắp trên cả nước, thời gian hoạt động nhiều hơn.
Thứ bảy, cơ quan thuế phải xây dựng hệ thống các tiêu chí để đánh giá chất lượng của công tác tư vấn, hướng dẫn.
Thứ tám, có biện pháp thúc đẩy khu vực tư cung cấp dịch vụ HTĐTNT. Nói cách khác chính là phát triển bộ phận tư vấn thuế độc lập, không nằm trong ngành thuế.
Từ việc đánh giá thực trạng dịch vụ HTĐTNT hiện nay của Việt Nam và nghiên cứu kinh nghiệm trong hoạt động HTĐTNT ở một số nước trong chương 2, chương 3 sẽ đưa ra các giải pháp để hoàn thiện và phát triển dịch vụ HTĐTNT ở Việt Nam.
Chương 3
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ HTĐTNT TRONG
ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY CỦA VIỆT NAM
3.1 Yêu cầu, mục tiêu của việc phát triển dịch vụ HTĐTNT trong thời gian tới:
Trong thời gian qua, dịch vụ HTĐTNT ở cả khu vực công và khu vực tư đều có những bước phát triển nhất định. Tuy nhiên, để pháp luật thuế đi vào cuộc sống, mọi đối tượng nộp thuế đều thực hiện tốt nghĩa vụ thuế của mình thì công tác HTĐTNT phải được thực hiện một cách có hiệu quả hơn nữa. Trong thời gian tới, để có hiệu quả cao nhất và phù hợp với quá trình phát triển kinh tế, xã hội đất nước thì công tác HTĐTNT phải đáp ứng những yêu cấu và mục tiêu nhất định.
3.1.1 Yêu cầu phát triển dịch vụ HTĐTNT:
3.1.1.1 Đáp ứng yêu cầu của chương trình cải cách quản lý thuế:
Mục tiêu của cải cách quản lý thuế đến năm 2010 là: Đổi mới và từng bước hiện đại hoá công tác quản lý thuế, nâng cao hiệu quả và hiệu lực của ngành thuế trong việc thực hiện quản lý thuế, thực thi pháp luật thuế, trên cơ sở ngày càng nâng cao ý thức trách nhiệm và tính tự giác của mọi tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện chính sách thuế, giảm bớt thủ tục hành chính gây phiền hà đối với người nộp thuế, để tiến tới áp dụng đầy đủ quy trình tự tính, tự khai, tự nộp.
Để đạt được mục tiêu trên thì công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế và hỗ trợ, tư vấn ĐTNT phải tăng cường cả về năng lực (tăng số lượng và trình độ cán bộ) và phương tiện kỹ thuật hiện đại với nhiều hình thức phong phú.
Trước hết, công tác tuyên truyền và hướng dẫn, tư vấn cho người nộp thuế phải được mở rộng và nâng cao chất lượng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống giáo dục. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế để ĐTNT nâng cao ý thức tự giác, chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ nộp thuế và ngân sách Nhà nước. Hướng dẫn, tư vấn kịp thời, đầy đủ để các ĐTNT nắm được nội dung và thực hiện chính sách thuế, các thủ tục kê khai, tính thuế, xin miễn, giảm thuế… theo đúng pháp luật.
Khuyến khích mở rộng và tạo điều kiện phát triển các hoạt động tư vấn thuế, các dịch vụ kế toán thuế. Các hoạt động này có thể do các tổ chức của Nhà nước hoặc của tư nhân thực hiện. Mục đích là phục vụ kịp thời các nhu cầu tư vấn về thuế của ĐTNT. Đồng thời hướng dẫn ĐTNT thực hiện tốt công tác kế toán, quản lý hoá đơn, chứng từ để hạch toán đúng kết quả kinh doanh, xác định đúng nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Từ đó mở rộng diện nộp thuế theo hình thức tự kê khai tự nộp, thu hẹp dần diện nộp thuế theo thông báo.
Công tác HTĐTNT phải thúc đẩy quá trình cải cách hành chính thuế, thực hiện có hiệu quả cơ chế quản lý mới: ĐTNT tự kê khai, tự nộp thuế vào ngân sách Nhà nước. Có yêu cầu này là do một trong những điều kiện để thực hiện được cơ chế quản lý mới là ĐTNT phải hiểu nghĩa vụ thuế của mình. Họ phải nhận được thông tin một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời về chính sách thuế, các thủ tục về thuế…Họ cần được tạo điều kiện để dễ dàng tiếp cận với dịch vụ tư vấn, giải đáp về thuế và kế toán. Đó là nhiệm vụ của công tác HTĐTNT.
3.1.1.2 Đảm bảo cho ĐTNT hiểu rõ pháp luật thuế và các nghĩa vụ phải làm đồng thời nâng cao nhận thức của toàn xã hội về thuế:
Trong thời gian qua, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế cho toàn dân và công tác hỗ trợ cho ĐTNT đã được ngành thuế từ trung ương đến địa phương chú trọng một bước. Tuy nhiên, để pháp luật đi vào cuộc sống, thì công tác tuyên truyền phải được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục, có quy mô, có hệ thống hơn nữa, nhằm đảm bảo các yêu cầu sau:
Thứ nhất, tuyên truyền cho ĐTNT hiểu đúng và làm đúng quy định của Luật thuế.
Thứ hai, làm cho toàn dân nhận thức đầy đủ về bản chất tốt đẹp của thuế, ý nghĩa của việc nộp thuế, tác dụng tiền nộp thuế đối với lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng trong đó có quyền được thụ hưởng của mỗi tổ chức, mỗi cá nhân. Từ đó, mọi người tự giác tìm hiểu pháp luật thuế và tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế. Mọi tổ chức, cơ quan đoàn thể, từng thành viên trong xã hội có trách nhiệm giám sát việc thực thi chính sách thuế của đối tượng khác.
Thứ ba, làm cho mọi người dân đều có ý thức giải thích, vận động thành viên trong gia đình và những người xung quanh cùng chấp hành pháp luật thuế.
3.1.1.3 Yêu cầu về cán bộ làm công tác HTĐTNT:
HTĐTNT không đơn thuần như thực hiện nghiệp vụ thuế mà còn phải tiếp xúc với công luận, với nhiều loại ĐTNT. Do đó, cán bộ làm công tác tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT không chỉ nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ mà còn đáp ứng những tiêu chuẩn về đạo đức, tác phong, cách giao tiếp ứng xử…
Trước hết, về chuyên môn nghiệp vụ: cán bộ thuế cần nắm vững các kiến thức thuế nói chung và nội dung từng sắc thuế nói riêng; nắm vững các quy trình, thủ tục đăng ký, kê khai, nộp thuế; kiến thức về kế toán, đặc biệt là kế toán thuế. Bên cạnh đó, người cán bộ thuế cũng cần phải biết các kiến thức cơ bản về kinh tế tài chính, về pháp luật có liên quan. Hơn nữa, trong thời đại phát triển của công nghệ và hội nhập quốc tế thì cán bộ thuế còn phải sử dụng thành thạo các phương tiện làm việc hiện đại như máy vi tính, internet…để nâng cao hiệu quả công việc, phải có trình độ ngoại ngữ tốt để nghiên cứu tài liệu và giao tiếp với đối tượng là người nước ngoài.
Cùng với kiến thức thì đạo đức, tác phong, thái độ cũng đóng vai trò quan trọng đối với cán bộ làm công tác tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT. Cán bộ thuế phải có quan điểm đúng đắn về mối quan hệ giữa bản thân mình và người nộp thuế, không được coi ĐTNT là đối tượng bị quản lý mà phải coi ĐTNT như khách hàng. Từ đó mà có tác phong lịch thiệp, thái độ đúng mực, hướng dẫn tận tình, chu đáo.
3.1.2 Mục tiêu phát triển dịch vụ HTĐTNT trong thời gian tới:
Ngành thuế đã xác định công tác HTĐTNT trong thời gian tới phải đạt được các tiêu chuẩn sau:
Thứ nhất, thực hiện quy trình tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT thống nhất từ trung ương đến địa phương, đạt hiệu quả cao.
Thứ hai, xây dựng mạng lưới thông tin, tuyên truyền thuế sâu rộng trên toàn quốc, xây dựng chương trình giải đáp chính sách thuế như mạng điện thoại trả lời tự động để phục vụ miễn phí cho mọi ĐTNT và tầng lớp dân cư.
Thứ ba, xây dựng các chuyên mục ổn định của ngành thuế trên đài truyền hình, đài phát thanh hàng tuần, hàng tháng như các ngành quân đội, công an, giao thông vận tải…Từng bước đưa nội dung chương trình giáo dục pháp luật thuế vào chương trình học của học sinh từ cấp cơ sở.
Thứ tư, đẩy mạnh các hoạt động tư vấn thuế, cung cấp dịch vụ về thuế, kế toán, kiểm toán, đại lý thuế của khu vực tư.
Thứ năm, đến năm 2007, tất cả các ĐTNT đều có khả năng tự kê khai, tự nộp thuế. Năm 2010 đại bộ phận dân chúng hiểu được các luật thuế cơ bản và thực hiện tốt nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước.
3.2 Một số giải pháp phát triển dịch vụ HTĐTNT:
3.2.1 Xác định kế hoạch tuyên truyền, hỗ trợ trong từng giai đoạn:
Công tác tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT cũng như tất cả các công việc khác, muốn thu được hiệu quả cao nhất thì ngành thuế phải có kế hoạch cụ thể, chi tiết, khoa học, thiết thực cho từng giai đoạn nhất định.
Khách thể của hoạt động tuyên truyền-hỗ trợ thuế là ĐTNT và các tầng lớp dân cư. Vì vậy, khi xây dựng kế hoạch tuyên truyền-hỗ trợ thì phải bắt nguồn từ đặc điểm, nhu cầu của các đối tượng. Nội dung, hình thức, thời điểm tuyên truyền, hỗ trợ phải phù hợp với từng nhóm.
Có thể phân loại ĐTNT theo mức độ tuân thủ chính sách thuế để xác định được mức độ trọng tâm của từng hoạt động HTĐTNT đối với từng nhóm:
- Đối với các đối tượng thường xuyên chấp hành tốt, ví dụ: doanh nghiệp Nhà nước, các công ty lớn…: chú trọng tư vấn hơn là tuyên truyền, hỗ trợ, vì họ đã có ý thức và thực hiện tốt nghĩa vụ thuế của mình.
- Đối với nhóm đối tượng vi phạm pháp luật thuế do vô ý: đặt trọng tâm vào hoạt động hướng dẫn, để giúp họ biết cách thực hiện đúng chính sách thuế.
- Đối với nhóm đối tượng vi phạm pháp luật thuế do cố ý: trước hết phải tuyên truyền cho họ hiểu chức năng, ý nghĩa, bản chất của thuế để tăng ý thức về thuế của họ, sau đó mới là các hoạt động hướng dẫn, tư vấn.
Khi quan thuế tổ chức các buổi hướng dẫn, đối thoại với doanh nghiệp thì nên phân nhóm theo ngành nghề hoặc địa bàn, vì các ĐTNT này thường có cùng lỗi sai, vướng mắc. Trên cơ sở đó, bố trí cán bộ thuế, chuyên gia kế toán cho thích hợp.
Cơ quan thuế có thể tổng hợp nhu cầu của ĐTNT bằng cách phát phiếu thăm dò thông qua các hội nghị, các cuộc tập huấn, gửi thư hoặc từ các nguồn thông tin khác (từ kinh nghiệm quản lý, thanh tra, kiểm tra…). Dựa vào đó, cơ quan thuế phân tích thông tin để lựa chọn hình thức, thời gian tuyên truyền thích hợp, thu hút sự chú ý của ĐTNT. Hình thức được lựa chọn phải phù hợp với nhiều ĐTNT và hiệu quả nhất. Ví dụ: giải thích, trả lời trên báo: nhiều người không đọc; trả lời trên internet: chi phí rẻ nhất nhưng ĐTNT ít có điều kiện truy cập…Nội dung để hướng dẫn thường là những vướng mắc mà ĐTNT hay gặp. Vấn đề chọn thời gian để tuyên truyền-hỗ trợ cũng rất quan trọng, ví dụ: cuối tháng 3 doanh nghiệp phải nộp tờ khai thuế thu nhập doanh nghiệp năm thì thời gian để hướng dẫn thuế thu nhập doanh nghiệp nên vào khoảng tháng 2…
Công tác tuyên truyền cho công chúng phải chú ý đến trình độ dân trí, mức độ quan tâm đến thuế…Ví dụ, địa phương có trình độ dân trí cao, như ở các thành phố lớn, thì có thể sử dụng hình thức tuyên truyền hiện đại (qua báo chí, internet…). Nhưng ở địa phương mà trình độ dân trí chưa cao, như miền núi, vùng sâu, vùng xa, ngành thuế nên tuyên truyền bằng cách dựng hài kịch, tiểu phẩm để diễn cho người dân xem…
Cơ quan thuế các cấp, các địa phương trên cơ sở đặc điểm của ĐTNT, của dân cư xây dựng kế hoạch tuyên truyền, hỗ trợ cho phù hợp, đồng thời cũng phù hợp với kế hoạch của cấp trên.
Đồng thời, cơ quan thuế phải phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng xây dựng kế hoạch cụ thể cho công tác tuyên truyền: cùng với đài phát thanh, đài truyền hình trung ương và địa phương xây dựng chuyên mục về thuế phát định kỳ với các nội dung: giới thiệu các chính sách, chế độ về thuế, phóng sự về hoạt động của ngành thuế, giải đáp các câu hỏi, vướng mắc về thuế…Dựng một số phim phóng sự, kịch ngắn với các nội dung tuyên truyền để phát trên đài truyền hình vào những thời điểm thích hợp. Tổ chức định kỳ các cuộc thi tìm hiểu pháp luật thuế trên một số báo, đài với từng loại đối tượng dự thi: thiếu niên, học sinh, sinh viên, các tổ chức, cá nhân kinh doanh.
3.2.2 Tổ chức bộ máy thực hiện dịch vụ HTĐTNT trong ngành thuế:
Thay đổi cơ cấu bộ máy tổ chức là một phần của chiến lược cải cách thuế bước 3. Theo quyết định số 218/2003/QĐ-TTg ngày 28/10/2003 của Thủ tướng Chính phủ thì cơ cấu bộ máy tổ chức ngành thuế từ Tổng cục đến các Cục thuế, Chi cục thuế đã có sự thay đổi. Cơ cấu mới này nhằm đảm bảo sự phù hợp với việc quản lý thuế trong điều kiện áp dụng cơ chế tự khai tự nộp thuế. Ngành thuế các cấp đều có bộ phận làm nhiệm vụ tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT. Đó là Ban tuyên truyền-hỗ trợ ĐTNT của Tổng cục thuế, Phòng tuyên truyền-hỗ trợ tổ chức và cá nhân nộp thuế của Cục thuế, Tổ nghiệp vụ-tuyên truyền của Chi cục thuế. Các bộ phận này có chức năng tuyên truyền chính sách thuế tới toàn dân; giải thích, hướng dẫn cho các ĐTNT thực hiện đúng luật thuế. Tuy nhiên, hiện nay cơ cấu tổ chức bộ máy này vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu trên. Theo phân tích ở chương 2, sau hơn 2 năm thực hiện dịch vụ HTĐTNT thì hoạt động tư vấn, hướng dẫn chưa tập trung ở phòng Tuyên truyền-hỗ trợ mà vẫn rải rác ở các phong chuyên quản (Phòng quản lý doanh nghiệp…). Trong thời gian tới, ngành thuế nên có sự điều chỉnh cho hợp lý hơn. Có thể áp dụng hình thức trực tuyến, tập trung cả đầu vào và đẩu ra của tư vấn, hướng dẫn về một mối, đó là Ban, Phòng, Tổ tuyên truyền-hỗ trợ ĐTNT. Tại các Phòng, Tổ, chức năng nhiệm vụ được chuyên môn hoá, mỗi cán bộ chịu trách nhiệm về một nội dung, có thể theo sắc thuế hoặc theo loại hình doanh nghiệp. Tất cả mọi thắc mắc của ĐTNT đều được đưa tới Phòng tuyên truyền-hỗ trợ ĐTNT. Thắc mắc đó thuộc nội dung trách nhiệm của cán bộ nào thì người đó sẽ phân tích, trả lời, liên hệ với các phòng, ban khác của cơ quan nếu cần thiết. Cuối cùng, sẽ hồi đáp cho ĐTNT.
3.2.3 Kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác HTĐTNT:
Trong bất kỳ hoạt động nào thì nhân tố con người đều giữ vị trí quan trọng nhất, quyết định sự thành bại của công việc. Đặc biệt hoạt động HTĐTNT là sự giao tiếp giữa cán bộ làm công tác tuyên truyền, hướng dẫn và ĐTNT nên vai trò của người cán bộ càng trở nên quan trọng. Vì vậy, yêu cầu về nhân tố con người cũng cao hơn.
Để đáp ứng yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ thì cán bộ thuế phải được đào tạo một cách cơ bản, có hệ thống. Muốn vậy, trước hết ngành thuế cần phối hợp chặt chẽ hơn với ngành giáo dục, đặc biệt là bậc đại học, để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho ngành thuế trong tương lai.
Hiện nay, chúng ta đang trong quá trình cải cách tài chính công nói chung và cải cách thuế nói riêng, vì vậy các chính sách thuế, tài chính, kế toán…đang được chỉnh lý cho phù hợp hơn. Hơn nữa, một trong những vấn đề còn tồn tại trong công tác tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT là chất lượng cán bộ thuế. Do đó, ngành thuế cần thường xuyên tiến hành tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn (cả về chính sách, chế độ thuế cũng như kỹ năng tuyên truyền, phong cách giao tiếp…) cho toàn bộ cán bộ công chức hoạt động trong lĩnh vực HTĐTNT. Cách thức thực hiện là chọn các cán bộ cơ trình độ, kỹ năng truyền đạt tốt để đào tạo thành đội ngũ tiểu giáo viên, người học trước sẽ truyền đạt cho người học sau, cùng một lúc có thể mở nhiều lớp cho nhiều người tham dự.
Để giải quyết vấn đề thiếu hụt đội ngũ cán bộ thuế làm công tác tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT, có thể ngành thuế sẽ phải điều chuyển số cán bộ, công chức hiện đang làm việc ở bộ phận khác trong nội bộ cơ quan thuế (ở Tổng cục, Cục và Chi cục) về bộ phận tuyên truyền-hỗ trợ ĐTNT theo cơ cấu chức năng, nhiệm vụ mới. Ngoài ra, ngành thuế có thể tuyển mới các sinh viên khá, giỏi mới ra trường, được đào tạo chuyên ngành tài chính-thuế hoặc chuyên ngành báo chí, tuyên truyền, có trình độ ngoại ngữ, tin học tốt.
3.2.4 Ban hành văn bản pháp luật quy định hoạt động hỗ trợ, tư vấn thuế độc lập:
Dịch vụ HTĐTNT của khu vực tư nếu được phát triển đúng hướng sẽ hỗ trợ rất nhiều cho ngành thuế, làm giảm áp lực cho cơ quan thuế và nâng cao chất lượng thực hiện nghĩa vụ thuế của các ĐTNT. Tuy nhiên, phát triển có hiệu quả dịch vụ HTĐTNT ở khu vực tư là một thách thức rất lớn.
Vấn đề đặt ra trước mắt là phải có những quy định cụ thể về những tổ chức, cá nhân có đủ năng lực để cung cấp dịch vụ tư vấn thuế. Chuyên gia tư vấn thuế là người đứng giữa cơ quan thuế và người nộp thuế, góp phần làm cho việc thực hiện nghĩa vụ thuế của ĐTNT đúng pháp luật. Tức là chuyên gia tư vấn thuế không phải đứng về phía người nộp thuế hay cơ quan thuế, mà đứng trên lập trường người trung gian độc lập, đảm bảo lợi ích chung cho cả ĐTNT và cơ quan thuế. Nhưng để được công nhận là chuyên gia tư vấn thuế, có thể hành nghề tư vấn thì phải có những điều kiện nhất định. Có thể đưa ra một giải pháp là phải có Chứng chỉ hành nghề độc lập (giống như chế độ kiểm toán viên). Về vấn đề này, Nhật Bản có phương pháp rất hiệu quả mà chúng ta có thể tham khảo. Có hai cách để có được Chứng chỉ hành nghề độc lập, một là vượt qua kỳ thi Chuyên gia tư vấn thuế, hai là được miễn thi do đã hội đủ những điều kiện nhất định. Kỳ thi Chuyên gia tư vấn thuế gồm nhiều môn, như Luật thuế, Luật kế toán…Đối với chế độ miễn thi, sẽ có 2 trường hợp: được miễn thi một số môn như Luật thuế nếu là công chức làm việc trong ngành thuế 10 năm, được miễn thi tất cả các môn nếu làm việc trong ngành thuế 23 năm. Chế độ này có rất nhiều lợi ích. Thứ nhất, có thể đảm bảo cho cán bộ thuế sau khi thôi việc vẫn có thể có việc làm với thu nhập và vị trí cao trong xã hội, tức là đảm bảo ổn định cuộc sống cho họ. Thứ hai, sau một khoảng thời gian dài làm việc trong ngành thuế, nếu không bị kỷ luật vì tham ô, vi phạm pháp luật trong thời gian tại chức, cán bộ thuế sẽ được cấp Chứng chỉ hành nghề độc lập, vì vậy chế độ này có tác dụng rất lớn trong việc duy trì và nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ và tính tuân thủ pháp luật của công chức ngành thuế.
Khi phát triển dịch vụ HTĐTNT của khu vực tư sẽ không thể tránh khỏi hiện tượng tư vấn để lách thuế, trốn thuế, lậu thuế. Do đó, Chính phủ và Bộ Tài chính, Tổng cục thuế cần nhanh chóng ban hành các quy định về tiêu chuẩn của chuyên gia tư vấn thuế; quy định về phạm vi được tư vấn, hỗ trợ; trách nhiệm của tổ chức hoặc người tư vấn, hỗ trợ; mức phí trần, các chế tài xử lý khi tư vấn trốn thuế…
3.2.5 Các giải pháp điều kiện:
Để các giải pháp trên nhanh chóng thu được kết quả tốt thì cần phải có một số điều kiện hỗ trợ như:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật thuế phải thống nhất giữa thông tư với nghị định, với luật, giữa các sắc thuế với nhau; bao quát hết tất cả các vấn đề liên quan đến thuế, dần đi vào ổn định, hạn chế sửa đổi, bổ sung.
Thứ hai, ngành thuế cần tăng kinh phí cho hoạt động tuyên truyền-hỗ trợ ĐTNT. Nguồn kinh phí này để trang bị thêm các phương tiện, công nghệ cần thiểt, hiện đại hoá cơ sở vật chất cho các đơn vị làm công tác HTĐTNT. Đồng thời, tăng kinh phí còn để chi bồi dưỡng thêm cho các cán bộ làm công tác tuyên truyền-hỗ trợ ĐTNT, khuyến khích họ làm việc nhiệt tình, có hiệu quả hơn.
Thứ tư, đảm bảo chất lượng của tài liệu được biên soạn cho công tác tuyên truyền-hỗ trợ ĐTNT. Tài liệu được biên soạn bao gồm: Hướng dẫn việc thực hiện các luật, pháp lệnh thuế, chế độ kế toán, chế độ hoá đơn chứng từ…; tổng hợp các câu hỏi thường gặp, những vướng mắc ĐTNT hay hỏi; tài liệu cho các cuộc hội thảo, hội nghị, tập huấn, tiếp xúc ĐTNT; các bài viết tuyên truyền về chính sách thuế, các chương trình trên các phương tiện thông tin đại chúng. Để đảm bảo các nội dung hướng dẫn, giải đáp cho ĐTNT theo đúng quy định tại các văn bản pháp luật và thống nhất trên toàn quốc, Tổng cục thuế có trách nhiệm biên soạn các tài liệu này để các Cục thuế sử dụng. Nội dung của tài liệu hỗ trợ phải rất chuyên sâu, chi tiết, gắn với thực tế của ĐTNT.
Thứ tư, các ĐTNT cần chủ động tìm hiểu luật thuế hơn nữa, thay vì ỷ lại sự hướng dẫn, giải đáp của cơ quan thuế.
Thứ năm, Tổng cục thuế cần sớm thiết lập hệ thống chuẩn mực trong công tác hỗ trợ ĐTNT. Mỗi hình thức hỗ trợ có các chuẩn mực riêng. Ví dụ, đối với giải đáp qua điện thoại, cán bộ thuế phải trả lời được 80% yêu cầu trong 10 phút. Đối với hướng dẫn trực tiếp tại cơ quan thuế, mục tiêu là trả lời được 85-90% yêu cầu trong vòng 20 phút. Khi ĐTNT hỏi về việc áp dụng chính sách thuế cho một vấn đề kiện tụng nào đó, phải phản hồi chi tiết cho ĐTNT trong vòng 3-4 tuần.
Thứ sáu, phát triển, mở rộng hoạt động của website ngành thuế. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các ĐTNT sử dụng internet để khai thác thông tin thì trong thời gian tới, Tổng cục thuế phải từng bước hoàn thiện website bằng tiếng Việt, tiến tới vận hành website bằng tiếng Anh, đồng thời triển khai xây dựng website của các Cục thuế.
Thứ bảy, ngành thuế phải nhanh chóng xây dựng hệ thống điện thoại trả lời tự động.
KẾT LUẬN
Hiện nay, ngành thuế đang trong quá trình cải cách quản lý thuế với mục tiêu là tạo ra môi trường quản lý thuế hiện đại, nâng cao hiệu quả quản lý thuế trên cơ sở nâng cao sự tuân thủ tự nguyệ của đối tượng nộp thuế. Dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế là một nội dung của quá trình đó. Làm thể nào để phát huy cao nhất hiệu quả của dịch vụ HTĐTNT ? Để cho dịch vụ HTĐTNT do khu vực tư cung cấp phát triển theo hướng nào? Đây là vấn đề có tính thời sự ở Việt Nam hiện nay. Qua quá trình học tập, tìm hiểu, nghiên cứu của bản thân và được sự chỉ bảo tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Liên và các cô chú trong Ban hợp tác quốc tế của Tổng cục thuế, em viết luận văn này với mong muốn được góp một số ý kiến cho quá trình phát triển dịch vụ HTĐTNT của nước ta. Tuy nhiên, đề tài này đề cập đến một vấn đề mới mẻ và phức tạp, hơn nữa do giới hạn về thời gian và trình độ nên mặc dù em đã cố gắng đi sâu giải quyết một số vấn đề cụ thể, song không thể tránh khỏi những thiếu sót, nhiều nội dung đề cập đến chưa được giải quyết trọn vẹn. Em rất mong được sự góp ý, hướng dẫn của các thày, cô giáo để hoàn thiện hơn bài luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn !
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu “Công tác tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT” (Tổng cục thuế)
2. Tài liệu “Một số vấn đề thảo luận khi thực hiện quy chế tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT” (Tổng cục thuế)
3. Tài liệu “Bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ thuế” (Bộ Tài chính)
4. Tài liệu “Đề án cải cách thuế giai đoạn 2001-2010”
5. Các báo cáo “Công tác tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT” của Tổng cục thuế và Cục thuế các tỉnh, thành phố: TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, An Giang.
6. Tài liệu “Quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp” (Tổng cục thuế)
7. Tài liệu “Báo cáo kết quả khảo sát tại Vương quốc Anh” (Tổng cục thuế)
8. Tài liệu “Tổng kết triển khai thí điểm cơ chế tự khai, tự nộp” (Cục thuế Quảng Ninh)
9. Một số công văn hướng dẫn của Tổng cục thuế về công tác tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT và cơ chế tự khai, tự nộp.
10. Tài liệu “Cơ chế tự khai, tự nộp thuế đối với thuế thu nhập ở Nhật Bản (Ông Yutaka Miyauchi_Bộ Tài chính Nhật Bản)
11. Tài liệu “Chế độ thuế vụ viên của Nhật Bản” (Ông Shigeki Morinobu, Viện nghiên cứu chính sách tổng hợp)
12. Tài liệu về công tác tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT của Trung Quốc.
13. Tạp chí Thuế Nhà nước (Số 12/2001, số 2/2004, số 4/2004)
14. Tạp chí Tài chính (Số 3/2003)
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A6.doc