Luận văn Các giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng thưong mại

Trong những năm qua, với việc thực hiện chính sách - đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước, nhờ đó nước ta bước đầu có sự phát triển khởi sắc và đã đạt đợc một số thành tựu nhất định trên mọi lĩnh vực đời sống - kinh tế - chính trị - xã hội. Để phù hợp với nhu cầu đổi mới, phát triển đất nước, toàn bộ hệ thống Ngân hàng nước ta nói chung và các Ngân hàng thương mại nói riêng cần phải có sự đổi mới trong công tác tổ chức, quản lý và hoạt động kinh doanh. Thực tiễn đã cho thấy rằng, muốn vươn lên để khẳng định vai trò vị trí của mình trong hệ thống Ngân hàng thương mại quốc doanh, các Ngân hàng thương mại đã và đang phấn đấu vượt những khó khăn, thử thách trước sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Như chúng ta đã biết sự ra đời, tồn tại và phát triển của Ngân hàng luôn gắn liền với bối cảnh lịch sử, thực trạng của mỗi quốc gia nhất định. Do đó trong cơ chế thị trường, các Ngân hàng thương mại là những Doanh nghiệp đặc biệt vì tài sản trong kinh doanh của các Ngân hàng thương mại đều phụ thuộc vào khách hàng. Vì thế rủi ro của khách hàng cũng là sự rủi ro của các Ngân hàng. Bởi vậy, để có thể tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường của nền kinh tế nước ta hiện nay, các Ngân hàng thương mại cần phải có các chủ trương, biện pháp đúng đắn nhằm tránh né đề phòng và hạn chế tới mức tối đa những trường hợp rủi ro xẩy ra. Đặc biệt là rủi ro tín dụng vì các Ngân hàng thương mại hiện nay hoạt động tín dụng là chủ yếu và sự rủi ro tín dụng luôn chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Hơn nữa rủi ro trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng hết sức đa dạng, phức tạp và xuất phát tờ nhiều nguyên nhân, nó luôn là người bạn đồng hành trong kinh doanh của Ngân hàng. Vì sự rủi ro đó là một trong những nguyên nhân làm cho các Ngân hàng phải thu hẹp phạm vi hoạt động kinh doanh và thậm chí có thể dẫn đến phá sản. Nhằm hạn chế những thiệt hại do rủi ro gây ra, các nhà quản lý Ngân hàng cần quan tâm đến việc nghiên cứu, đánh giá những nguyên nhân dẫn đến rủi ro nói chung và nguyên nhân xẩy ra tín dụng nói riêng. Vì sự quan tâm đúng mức đến vấn đề này, nó thể hiện ý nghĩa thiết thực to lớn và lâu dài đối với kinh doanh Ngân hàng. Bởi lẽ trên cơ sở tìm ra số giải pháp nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro đã và đang có thể xẩy ra. Có nghĩa là tạo rào cản đối với các rủi ro.

doc75 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1664 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng thưong mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gắn hạn mà cả tín dụng trung, dài hạn nên khả năng rủi ro tín dụng Ngân hàng sẽ xảy ra gây tổn thất lớn cho ngành Ngân hàng. Do đó trong quá trình hoạt động, các nhà kinh doanh tiền tệ luôn phải tìm cách đề phòng né tránh và hạn chế tới mức tối đa sự xuất hiện rủi ro. Trong cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, Ngân hàng độc quyền, rủi ro tín dụng ít được đề cập. Khi tín dụng xảy ra thì nhà nước thường sử dụng các biện pháp hành chính để ngăn chặn như phát hành thêm tiền, không cho các doanh nghiệp, cá nhân rút tiền mặt... Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hiện tượng mất khả năng thanh toán, phá sản ở daonh nghiệp này, cá nhân kia là bình thường, cho vay không thu hồi được nợ người gửi tiền rút ồ ạt khỏi Ngân hàng. Các Ngân hàng kinh doanh thua lỗ, mất khả năng thanh toán thậm chí phá sản là hiện tượng tất yếu và có nhiều khả năng xảy ra. Như vậy khi cho vay số nợ có được trả trong tương lai hay không điều đó khó có thể nói biết trước được, nghĩa là rủi ro đang chờ đón. Vậy rủi ro tín dụng chính là sự xuất hiện các biến cố, không bình thường bằng quan hệ tín dụng, gây hậu quả xấu đến hoạt động của Ngân hàng. Những biến cố bằng rủi ro bằng tín dụng bao gồm: - Cho vay không thu hồi được nợ, lãi. - Thiếu vốn chi trả cho khách hàng. Rủi ro tín dụng nhiều hay ít phụ thuộc vào năng lực quản lý và chất lượng hoạt động của Ngân hàng. Rủi ro tín dụng tác động trực tiếp đến kết quả tài chính của Ngân hàng theo các mức độ: Lợi nhuận giảm thấp, lỗ, mất khả năng thanh toán và dẫn đến phá sản, đến lượt mình rủi ro của từng Ngân hàng tác động đến các Ngân hàng khác, đến khách hàng và đến toàn bộ nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường các Ngân hàng thương mại đã trở thành các Ngân hàng đa năng nhưng hoạt động tín dụng vẫn là chủ yếu, tạo ra thu nhập chính cho Ngân hàng và do đó rủi ro trong kinh doanh tín dụng cũng rất lớn và đa dạng. Việc Ngân hàng thương mại thường xuyên rủi ro trong hoạt động tín dụng là điều không thể tránh khỏi. Rủi ro tín dụng xuất phát từ bản thân quan hệ tín dụng và các yếu tố cấu thành nên mối quan hệ tín dụng được Ngân hàng với tư cách là người sử hữu trao cho người vay với tư cách là người sử dụng một số tiền tệ nhất định trên nguyên tắc là hoàn trả đúng thời hạn cả gốc và lãi. Trong tất cả các mối quan hệ tín dụng, yếu tố thời gian luôn được coi trọng. Theo hợp đồng tín dụng các khoản vốn cho vay ra luôn được quy định rõ ràng và mang tính pháp lệnh, mối quan hệ tín dụng không thể tồn tại được nếu thiếu yếu tố thời gian. Mặt khác ta có thể thấy rõ tính thời gian trong sự tách rời giữa cho vay và thu nợ. Thông thường khoảng thời gian lưu hành tín dụng phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong môi trường cạnh tranh đầy biến động, yếu tố thời gian luôn chứa đựng nhiều rủi ro. Trong điều kiện dự toán, dự báo thị trường trong tương lai chỉ mang tính tương đối. Các doanh nghiệp và Ngân hàng không thể lường hết những biến động trong tương lai. Do đó thời hạn tín dụng cần được biểu hiện lòng tin giữa Ngân hàng và khách hàng. Lòng tin của khách hàng đó là hiệu quả do đầu tư vốn bằng vốn vay Ngân hàng mang lại và lòng tin của Ngân hàng là khả năng tác nghiệp của khách hàng. Rủi ro được xác định như thời gian trả nợ mà Ngân hàng chưa thu hồi vốn và lãi. Rủi ro trong kinh doanh tín dụng thực chất là khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi song đối với Ngân hàng, trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, mục tiêu quan trọng nhất là phải bảo đảm an toàn vốn và có lợi nhuận, do đó có thể dự đoán, dự báo được rủi ro, tìm các giải pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro đảm bảo kinh doanh có hiệu quả thì trước tiên chúng ta cần phải đi sâu phân tích tìm ra các nguyên nhân gây nên rủi ro trong kinh doanh tín dụng. b. Các nguyên nhân gây nên rủi ro. Nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng trong nền kinh tế thị trường thì có rất nhiều và tuỳ thuộc vào từng loại hình. Song nhìn chung nổi lên có các nguyên nhân sau: + Những nguyên nhân chung: - Đó là những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai (mưa, bão, lũ, lụt, hạn hán, động đất...) hoặc như chiến tranh, hoả hoạn ảnh hưởng tới khách hàng vay vốn không trả được nợ cho Ngân hàng. - Rủi ro cũng có thể xảy ra do sự thay đổi tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, trong nước cũng như quốc tế. Do sự thay đổi đột ngột chính sách kinh tế, chế độ, luật pháp của nhà nước, hoặc thay đổi của địa phương, những sự thay đổi đó là cần thiết trong quá trình phát triển của đất nước, nhưng từng nơi, từng lúc sẽ tác động đến hoạt động tín dụng. Hơn nữa khi ở giai đoạn đầu của quá trình đổi mới, nhiều vấn đề còn đang dở dang, chưa hoàn thiên. Môi trường kinh doanh của các tổ chức tín dụng trong đó có Ngân hàng thương mại còn thiếu nhiều yếu tố như hệ thống văn bản pháp luật của nhà nước đang dần hình thành nhưng chưa đồng bộ, thậm chí có khi còn chồng chéo. Hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng chưa độc lập thực sự, đôi khi còn chịu những tác động của phương pháp quản lý bằng mệnh lệnh hành chính, làm cho tín dụng kém hiệu quả. Khi môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh chưa đầy đủ thì mức độ an toàn đặt ra cho các nhà kinh doanh là rất thấp, nhất là đối với các nhà kinh doanh tiền tệ. + Những nguyên nhân từ phía người đi vay: Nguyên nhân gây ra từ phía người đi vay nợ Ngân hàng (khách hàng của Ngân hàng) là một trong những nguyên nhân chính và cổ điển nhất gây ra rủi ro tín dụng. Nhìn chung các nguyên nhân để nắm bắt các Ngân hàng thường có kinh nghiệm để đối phó bằng cách tìm hiểu, nắm vững “tình hình sức khoẻ của khách hàng” độ tin cậy trong quá trình quan hệ mục đích sử dụng tiền vay, hiệu quả của phương án kinh doanh cụ thể cần lưu ý những nguyên nhân chính sau: - Đối với khách hàng là cá nhân: Họ vay vốn Ngân hàng chủ yếu phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt cá nhân, một phần nhỏ để kinh doanh. Nguồn trả nợ chủ yếu là các nguồn như tiền lương, thưởng, thu nhập phụ. Vì vậy những người này khi cho vay ta cần xét kỹ bởi nguyên nhân gây nên rủi ro có thể do người vay vốn bị thất nghiệp tạm thời hay lâu dài. Thu nhập của họ sẽ không có khả năng trả nợ cho Ngân hàng hoặc có thể sử dụng vốn sai mục đích như họ xin vay vốn để sản xuất kinh doanh thì lại dùng để đánh đề, chơi hụi, cho vay lấy lãi suất cao và như thế sẽ gây đến rủi ro. Cũng có thể khách hàng gặp bất trắc trong đời sống như ốm đau, bệnh tật, tai nạn, vợ chồng li dị, chủ gia đình chết mà không để lại di chúc và có sự cạnh tranh giữa những người thừa kế hợp pháp người đi vay có hành vi gian lận, lừa đảo, chiếm đoạt vốn Ngân hàng. Vì vậy khi cho vay đối tượng này tuy số tiền không lớn nhưng cần phải xem xét kỹ lưỡng qua những thông tin đáng tin cậy của anh em họ hàng, bạn bè, chính quyền vì Ngân hàng không phải là tổ chức từ thiện mà Ngân hàng đi vay để cho vay nên phải kinh doanh có hiệu quả. - Đối khách hàng là doanh nghiệp: Khác với cá nhân, doanh nghiệp có quan hệ rộng lớn trên thị trường, đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp và các mối quan hệ khác trong nền kinh tế thị trương doanh nghiệp phải hoàn toàn tự chủ về sản xuất kinh doanh trên cơ sở nhu cầu của thị trường. Quyết định của Doanh nghiệp hợp lý hay không hợp lý, kết qủa kinh doanh có hiệu quả hay không được thể hiện thông qua sự kiểm nghiệm và chấp nhận của thị trường. Khi sản phẩm sản xuất ra không phù hợp với nhu cầu của thị trường và do đó không tiêu thụ được sản phẩm sẽ ảnh hưởng lớn đến kết quả thu nhập của Doanh nghiệp, nó tác động không tốt đến quan hệ tín dụng với Ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động và thay đổi, một sự thay đổi của giá cả, số lượng, chất lượng, chủng loại, về nguồn vốn cung cấp, đối tượng cung cấp nguyên vật liệu đều có thể làm cho quá trình thực hiện kế hoạch của Doanh nghiệp bị gián đoạn hoặc không thể thực hiện được. Mỗi một sự thay đổi của thị trường về nhu cầu tiêu dùng, giá cả, bạn hàng, thị hiếu đều có thể làm cho sản phẩm của Doanh nghiệp trở nên lạc hậu, không còn phù hợp sự ngưng trệ của quá trình sản xuất ở một thời điểm nào đó, sự kém nhạy bén của Doanh nghiệp trước những biến động của thị trường đều có thể gây ra cho Doanh nghiệp những tổn thất không lường trước được. Điều đó dễ dàng đưa Doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn về tài chính, vốn kinh doanh không được bảo toàn và quá trình thu nợ của Ngân hàng không thể tiến hành bình thường, tác động xấu đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Tình hình tài chính của Doanh nghiệp: khả năng về vốn tự có, kết quả kinh doanh qua từng thời kỳ, cơ cấu vốn của Doanh nghiệp và khả năng thanh toán là cơ sở để xem xét khi cho khách hàng vay. Qua thẩm định nếu thấy tình trạng tài chính của Doanh nghiệp là yếu kém thì Ngân hàng không nên cho vay. Tuy nhiên khi xét ta cần đi sâu vào khả năng thanh toán trong tương lai khi đến kỳ hạn nợ. Doanh nghiệp đang vay ở những nơi nào kế hoạch chu chuyển vốn ra sao để đáp ứng việc kinh doanh và trả nợ, đồng thời Ngân hàng cũng phải xem xét thủ tục thanh toán tiền hàng theo phương thức nào, thời hạn thanh toán thường là bao nhiêu ngày quá trình thanh toán bằng séc mà không có tiền bảo chứng. Nếu là khách hàng quen của Ngân hàng thì độ tín nhiệm đến đâu. Mặt khác Ngân hàng phải nghiên cứu lịch sử việc chấp hành chế độ kế toán tài chính của Doanh nghiệp như thế nào để đánh giá độ trung thực của số liệu kế toán và báo cáo tài chính của Doanh nghiệp. Đối với người điều hành Doanh nghiệp thì các thuộc tính, giới tính, độ tuổi, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn năng lực tổ chức điều hành, tư cách đạo đức, kinh nghiệm điều hành, cương vị lãnh đạo đã qua… đều có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh của Doanh nghiệp, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường hiện nay, sự thành bại của Doanh nghiệp phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo Doanh nghiệp. Về trình độ quản lý của Doanh nghiệp: việc quản lý cả về tổ chức, tài chính, cơ cấu, chi phí và giá thành sản phẩm quản lý việc thực thi dự án, xu hướng quản lý năng động hay không đều ảnh hưởng đến thành công hay thất bại của Doanh nghiệp. Nó đặc biệt quan trọng đối với Doanh nghiệp mới thành lập và với dự án mới, một nguyên nhân gây rủi ro tín dụng trong giai đoạn hiện nay là do năng lực, trình độ và kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp ở trình độ thấp. Nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đang hình thành và ngày càng phát triển với tốc độ khá nhanh. Những kết quả bước đầu mang tính gợi mở bởi những khởi sắc của nền kinh tế đã chứng minh rằng: việc chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên chúng ta phải chấp nhận sự cạnh tranh bởi nó có sự tất yếu của nền kinh tế thị trường. Tính cạnh tranh này không khoan nhượng giữa các thành phần kinh tế cũng như các Doanh nghiệp với nhau đã gây nên sự phá sản của một số Doanh nghiệp mà nguyên nhân cơ bản là cơ sở vật chất, trang bị của họ làm việc yếu kém, công nghệ kỹ thuật lạc hậu nên không thể sản xuất ra những sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy cho vay ta phải xem xét trực tiếp về cơ sở vật chất thực tế công nghệ kỹ thuật của Doanh nghiệp đó như thế nào để quyết định cho phù hợp. Ngoài ra hành vi giai lận, lừa đảo diễn ra trong nội bộ Doanh nghiệp có số vốn vay Ngân hàng cũng là một trong những nguyên nhân gây nên rủi ro trong hoạt động tín dụng Ngân hàng. Đứng trên góc độ Ngân hàng phân tích nguyên nhân rủi ro tín dụng có thể theo chiều hướng: Rủi ro tín dụng do các thành phần kinh tế gây ra có mức độ khác nhau. Do đó nguyên nhân rủi ro có thể được phân tích theo từng thành phần kinh tế và được giới hạn bởi hai thành phần kinh tế. Thành phần kinh tế quốc doanh và kinh doanh ngoài quốc doanh. Đối với từng Doanh nghiệp, mức độ gây nên rủi ro tín dụng cũng khác nhau. Do đó ta sẽ xem xét nguyên nhân rủi ro theo từng loại khách hàng, theo từng chất lượng quan hệ tín dụng với Ngân hàng. Để tìm ra các nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng tại Ngân hàng công thương khu vực II - Hai Bà Trưng một cách đúng đắn. Ta cần phân tích chất lượng công tác tín dụng 6 tháng đầu năm 2000 Tính đến thời điểm 30/6/2000 nợ quá hạn của khối kinh tế quốc doanh là: 7.189 triệu đồng chiếm tỷ lệ 1,6% tổng dư nợ và tập trung ở các đơn vị sau: Công ty cung ứng vật liệu xây dựng Hà Nội, công ty Hạ Long và công ty xây dựng nhà ở Hai Bà Trưng, công ty công nghệ hoá môi sinh và đã có khối lượng vốn nợ quá hạn >12 tháng lên tới 1.428 triệu đồng. Đây là con số đáng kể. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến nợ quá hạn trên. Ta hãy phân tích một số ví dụ điển hình. + Công ty cung ứng vật liệu xây dựng Hà Nội: có số nợ quá hạn tính đến ngày 30/6/2000 là 1.187 triệu đồng và trên 200 triệu đồng tiền lãi. Công ty này làm nhiệm vụ cung ứng vật liệu xây dựng. Trong năm 1999 này do giá cả vật liệu xây dựng có đột biến và thị trường có rất nhiều các công ty, các Doanh nghiệp lớn tham gia kinh doanh mặt hàng này nên đã làm ảnh hưởng tới khách hàng và làm cho hàng hoá của công ty còn ứ đọng vì vậy số vốn vấn còn nằm trong hàng hoá. Đối với các dự án vay vốn Đài loan từ những năm trước vẫn là bài toán khó giải: Các doanh nghiệp này hầu hết máy móc thiết bị nhập về không đồng bộ, chưa đảm bảo chất lượng, không phát huy hiệu quả hoặc đầu ra không ổn định, kinh nghiệm sản xuất, bạn hàng còn thiếu... nên không tránh khỏi những khó khăn trong sản xuất kinh doanh để có lãi hoàn trả đúng hạn và đầy đủ vốn vay Ngân hàng. Mặt khác có khách hàng, do lãi suất cho vay 4,5%/1năm quá thấp, trả lãi suất phạt nợ quá hạn vẫn thấp hơn lãi suất cho vay ngoại tệ hiện hành, nên khách hàng chây ỳ dẫn đến NQH của các món vay khó thu hồi. Đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nhìn vào biểu 5 ta thấy nợ quá hạn của khối này lên tới 10.785 triệu đồng tính tới thời điểm 30/6/2000. Đây thực sự là một vấn đề đáng lo ngại đối với Ngân hàng công thương khu vực II – Hai Bà Trưng. Vậy tại sao gây nên nợ quá hạn lớn như vậy? Nó do nhiều nguyên nhân mà ta phải xem xét cụ thể. Trước hết ta phải xét đến nhân tố môi trường: kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ và sôi động, cạnh tranh hoàn hảo cũng có nhưng cạnh tranh một cách không khoan nhượng để loại bỏ nhau cũng nhiều, điều đó đã làm cho không ít một số cơ sở sản xuất nhỏ, các hộ tư nhân đã bị phá sản. Bên cạnh đó là nạn lừa đảo, đánh bạc, đánh đề, vỡ hụi... những nhân tố này tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến tình hình tài chính của khách hàng và đưa đến rủi ro cho Ngân hàng. Sự tác động trực tiếp thể hiện: Chính bản thân khách hàng bị thua lỗ trong kinh doanh, dẫn đến phá sản và do đó không trả được nợ cho Ngân hàng. Sự tác động gián tiếp thể hiện: Do bạn hàng của khách có vay vốn Ngân hàng bị thua lỗ trong kinh doanh, phá sản ảnh hưởng đến việc thanh toán nợ với nhau. Điều đó dẫn tới khách hàng vay vốn Ngân hàng cũng khó khăn trong việc trả nợ cho Ngân hàng. Như vậy dưới sự tác động trực tiếp hay gián tiếp thì Ngân hàng vẫn phải gánh chịu thiệt hại. Đó cũng chính là rủi ro trong kinh doanh tín dụng Ngân hàng. Thứ hai là do giá cả thị trường biến động, giá đất tăng, giảm thất thường mà Ngân hàng cho khách hàng vay lại thế chấp bằng nhà cửa và đất đai, đến thời hạn trả nợ, khách hàng do làm ăn thua lỗ không trả được nợ cho Ngân hàng buộc Ngân hàng phải phát mại tài sản thế chấp và bán để thu hồi nhưng tại thời điểm bán giá đất lại giảm xuống quá thấp làm cho Ngân hàng khó bán tài sản đó hoặc có bán được thì số tiền không đủ bù cả gốc và lãi dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng. Ngoài ra đôi khi đánh giá tài sản thế chấp cao hơn giá thực tế, điều đó cũng gây rủi ro cho Ngân hàng. Thứ ba là do khách hàng sử dụng vốn sai mục đích dẫn đến thất thoát và gây nên hậu quả khó lường trước được. Có nhiều khách hành chủ tâm lừa đảo Ngân hàng, mượn nhà làm thế chấp cho khoản vay, vay giúp cho bà con thân thích, dùng giấy tờ giả mạo để thế chấp vay tiền Ngân hàng…những biểu hiện thiếu ý thức tuân thủ pháp luật, có biển hiện chây ỳ, thách thức pháp luật, điều đó gây hậu quả to lớn cho Ngân hàng về vốn cho vay ra bị thất thoát không thể thu hồi về được. Cán bộ tín dụng Ngân hàng đôi khi không lường trước được những tình huống này bởi vì việc kiểm tra, kiểm soát hết kinh doanh của khách hàng tư nhân là một vấn đề hết sức khó khăn. * Những nguyên nhân về phía Ngân hàng Trong quá trình cho vay, Ngân hàng có nhiều văn bản thể lệ, chế độ chính sách tín dụng quy định chưa được rõ ràng và phù hợp, chưa theo kịp và sát với thực tế đã gây nên sơ hở để khách hàng có thể lợi dụng được để chiếm đoạt vốn của Ngân hàng. Ngoài ra còn gây khó khăn trong việc thu nợ. Một trong những nguyên nhân chủ yếu về phía chủ quan của Ngân hàng gây nên rủi ro cho hoạt động tín dụng là do Ngân hàng chấp hành quy trình nghiệp vụ cho vay, bảo lãnh, thế chấp chưa được nghiêm túc. Thẩm định phương án chưa chặt chẽ, sát sao. Thủ tục hồ sơ pháp lý có những sai sót cho nên Ngân hàng đã không đánh giá một cách toàn diện và chính xác về khách hành vay vốn. Đồng thời không giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay. Sở dĩ có nguyên nhân này là vì Ngân hàng quá tin tưởng vào khách hàng nên đã coi nhẹ khâu kiểm tra, không nỗ lực tìm hiểu tình hình tài chính, khả năng thanh toán hiện tại và tương lai, nguồn thanh toán từ đâu... Hoặc do áp lực cạnh tranh, các Ngân hàng cố gắng giành giật khách hàng hoặc chạy theo lợi nhuận đơn thuần mà giảm nhẹ việc phân tích, đánh giá khách hàng. Công tác đào tạo cán bộ Ngân hàng chưa đồng bộ, chưa đáp ứng với nhiệm vụ kinh doanh trong điều kiện mới. Trình độ cán bộ tín dụng còn hạn chế không am hiểu về ngành kinh doanh trong khi Ngân hàng không đủ thông tin về số liệu thống kê, chỉ tiêu phân tích, so sánh đánh giá vai trò vị trí của Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, khả năng hiện tại và tương lai, chu kỳ vòng đời của sản phẩm... Một số cán bộ Ngân hàng thương mại hoá kinh doanh tiền tệ, bị thoái hoá về đạo đức, một số người có hành vi cố ý làm trái, không tuân thủ, không chấp hành đúng các quy chế quản lý và cơ chế nghiệp vụ nên đã dẫn đến nhiều sai phạm trong đó có những sai phạm rất nghiêm trọng gây tổn thất lớn vốn Ngân hàng. Ngân hàng không thực hiện hoặc thực hiện không tốt các đảm bảo tín dụng, người vay không đáp ứng được các điều kiện về tài sản thế chấp, cầm cố, nhân bản sao giấy tờ về tài sản thế chấp, cầm cố hoặc cho vay mượn tài sản thế chấp, Ngân hàng không kiểm tra đầy đủ hồ sơ và hiện vật, cán bộ tín dụng và người vay thông đồng nâng giá trị tài sản thế chấp lên nhiều lần giá trị thực tế để được vay nhiều. Tuy tài sản thế chấp là tiêu chuẩn thứ yếu nhưng nó là nguồn thu nợ thứ hai khi khách hành không có khả năng thanh toán bằng nguồn thu thứ nhất. Tất cả những điều đó dễ gây đến rủi ro cho Ngân hàng. Như vậy trong nền kinh tế thị trường, do những biến động của thị trường, những nguyên nhân khác nhau của nền kinh tế tác động tới hoạt động của Doanh nghiệp và chính bản thân Ngân hàng làm nảy sinh các biến cố trong quan hệ tín dụng vận động theo hướng xấu, không có lãi cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại là điều không thể tránh khỏi hay nói cách khác: Rủi ro xảy ra là điều tất yếu khách quan trong hoạt động kinh doanh tín dụng của Ngân hàng thương mại. Rủi ro thường xuyên đưa Ngân hàng từ lớn mạnh đến chỗ kinh doanh trở nên không có hiệu quả và có thể dẫn đến phá sản. Cho nên các Ngân hàng thương mại cần phải phòng tránh rủi ro xảy ra, tuy nhiên nó là tổn thất, mất mát bất ngờ luôn gắn liền với hoạt động tín dụng mà các nhà kinh doanh tiền tệ không thể lường trước được. Loại bỏ rủi ro là điều không thể có nhưng phòng ngừa và hạn chế rủi ro thì các nhà kinh doanh tiền tệ hoàn toàn có thể làm được. Việc phòng ngừa và hạn chế tác dụng của rủi ro sẽ giúp cho Ngân hàng thương mại bảo toàn được vốn, tăng nguồn vốn, mở rộng kinh doanh và tăng thu nhập. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng cao được uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng nhờ đó mà Ngân hàng có thể đa dạng hoá các loại hình kinh doanh và đảm bảo phát huy vai trò đối với sự phát triển của nền kinh tế. Công tác chỉ đạo thẩm định trước khi cho vay còn nhiều sơ hở, kiểm tra phát hiện xử lý vi phạm đối với cán bộ tín dụng chưa kịp thời, biện pháp xử lý đối tượng sử dụng vốn sai mục đích chưa kiên quyết, triệt để. Do trình độ cán bộ tín dụng chưa đồng đều, còn bất cập trong cơ chế thị trường trong khi thực hiện nhiệm vụ có một số cán nộ tín dụng thực hiện chưa đúng quy trình, chưa tuân thủ nguyên tắc, điều kiện trong thể lệ tín dụng khi cho vay chưa thẩm định sát. Các phương án kinh doanh của khách hành vay vốn. Do vậy nợ vay không trả đúng hạn, phải chuyển nợ quá hạn. Thực tế có cán bộ tín dụng cho vay đối với nhiều đối tượng, nhiều ngành mà họ không có chuyên môn. Do đó họ không hiểu rõ đặc trưng của từng ngành sản xuất, không biết các tiêu chuẩn về sản phẩm, thời gian sản xuất. Vì vậy khi thẩm định các phương án sản xuất kinh doanh họ sẽ gặp nhiều khó khăn và không tránh khỏi sai lầm dẫn đến xác định sai vòng quay vốn, sai chu kỳ hạn nợ. Ngoài ra khi cho vay đối với những Doanh nghiệp do mình phụ trách nhiều năm hoặc với những khách hành quen biết thì cán bộ tín dụng có thể xem nhẹ công tác thẩm định, không kiểm tra sát sao tình hình sử dụng vốn vay của Doanh nghiệp mà dẫn đến tình trạng nợ quá hạn. Tất cả những điều sai lầm đó sẽ dẫn đến sự rủi ro tín dụng của Ngân hàng. Như vậy tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng công thương khu vực II Hai Bà Trưng là tương đối lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nguyên nhân gây nên nợ quá hạn cũng rất đa dạng, phức tạp. Ngoại trừ những nguyên nhân đã phân tích ở trên còn có một số nguyên nhân nữa cũng ảnh hưởng lớn đến việc gia tăng nợ quá hạn. Đó là do chính sách quản lý của nhà nước thường xuyên thay đổi, chưa đồng bộ, luật pháp chưa quy định rõ cơ quan có thẩm quyền trong việc phát mại tài sản. Chế độ thể lệ của ngành nhìn chung còn chưa kịp diễn biến của thị trường, chưa đặt người ban hành quy chế vào vị trí người trực tiếp cho vay nên còn thiếu thực tế như các điều kiện đặt ra trong thông tư 01/TT-LB của Liên bộ Ngân hàng - Tư pháp - Tài chính và quyết định 217/QĐ của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam nên rất khó cho hoạt động của Ngân hàng và khách hàng. Mặt khác hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro hoạt động còn kém hiệu quả, chậm phát hiện nên chưa giúp được cho các tổ chức tín dụng trong phòng ngừa rủi ro. Trước tình hình nợ quá hạn ngày một gia tăng, lãi chưa thu ngày càng lớn, Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng đã đưa ra nhiều biện pháp tình thế nhằm củng cố chất lượng và hiệu quả công tác tín dụng, từng bước giảm nợ quá hạn xuống mức bình quân chung của toàn hệ thống. 3. Những tồn tại rút ra từ thực tế cho vay cần tiếp tục giải quyết. + Tồn tại lớn nhất của Ngân hàng hiện nay là chưa xử lý dứt điểm được các khoản nợ quá hạn, nhất là khoản nợ khó đòi. Vấn đề này là do thực trạng của nền kinh tế trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường, một số Doanh nghiệp do năng lực quản lý và tiếp cận thị trường kém nên làm ăn không có hiệu quả, không thu hồi được vốn đầu tư và dẫn đến không có khả năng trả nợ Ngân hàng. Hệ thống luật chưa ổn định và chưa sát với tình hình thực tế cho nên một số cá nhân đã lợi dụng vào những sơ hở đó để làm ăn phi pháp, bị các đối tác nước ngoài lừa gạt dẫn đến mất khả năng thanh toán. Đầu năm 1999 30/6/2000 Nợ quá hạn/ tổng dư nợ 4,5% 4% Do việc phát mại tài sản thế chấp rất khó khăn, vì vậy một số khách hàng có nợ quá hạn tỏ ra chây ỳ... Cho nên việc phát mại tài sản thế chấp thành tiền để thu nợ gốc và lãi là một cách hết sức nan giải. + Tình hình thực tế công tác tín dụng Ngân hàng diễn ra tại chi nhánh và các chi nhánh khác đã tác động đến tâm lý cán bộ tín dụng lo lắng, sợ nợ quá hạn. Mặt khác một số cán bộ tín dụng còn chưa nắm chắc thể lệ tín dụng, sự vươn lên học tập còn yếu kém, tiếp cận thị trường chưa nhanh nhạy. Công tác kinh doanh ở các phòng giao dịch hoạt động nói chung còn kém hiệu quả. + Cán bộ làm công tác kiểm tra, kiểm soát về kiến thức nghiệp vụ còn bất cập, chưa làm được nhiệm vụ một cách đầy đủ ở các nghiệp vụ trong chi nhánh. Chương III Những biện pháp để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro –tín dụng tại Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng - những kiến nghị và đề xuất I - Những giải pháp để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tại Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng. Sự nghiệp đổi mới và phát triển thủ đô và đất nước ngày càng khẳng định vai trò quan trọng hệ thống Ngân hàng nói chung và hoạt động của Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng nói riêng. Trong điều kiện hiện nay nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh và phát triển các dịch vụ trong nền kinh tế lớn là đòi hỏi hết sức khách quan đối với ngành Ngân hàng. Để có thể tồn tại và phát triển trong cạnh tranh, thực sự phát huy vai trò của Ngân hàng thương mại quốc doanh thì đối với Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng hiện nay thì một mặt sử dụng những biện pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro xẩy ra trong hoạt động tín dụng. Ngay từ những ngày đầu năm 2000, trước khi tình hình nợ quá hạn ngày một tăng thì giám đốc Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng đã có chủ trong đưa công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát và chấn chỉnh hoạt động Ngân hàng là nhiệm vụ trọng tâm của công tác đầu năm và cả năm 2000 nhằm thực hiện tốt chỉ thị số 14/CT-NH của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam và các biện pháp cấp bách đảm bảo chất lượng hoạt động tín dụng. Công văn số 756/CV-NH của Ngân hàng nhà nước về kế hoạch và biện pháp chấn chỉnh hoạt động Ngân hàng và công văn của Ngân hàng công thương Việt Nam về kế hoạch triển khai và biện pháp chấn chỉnh hoạt động kinh doanh trong hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam sau thanh tra. Đã thành lập đoàn thanh tra, kiểm tra Ngân hàng trong quý I. Qua đối chiếu nói chung thì Ngân hàng chưa có biểu hiện gì sai sót lớn, đặc biệt là không có việc vay khách hàng để sử dụng cá nhân làm thất thoát vốn. Phần lớn sử dụng vốn vay đều đúng mục đích. Tuy nhiên trong tín dụng còn có một số thiếu sót xẩy ra do việc sản xuất kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro, ít hiệu quả. Cán bộ tín dụng chưa thực hiện đầy đủ công tác kiểm tra, vì vậy một số khách hàng vay vốn thua lỗ, dẫn đến nợ quá hạn. Đúc rút kinh nghiệm thực tế trong những năm và việc thực hiện chế độ thể lệ tín dụng, chỉ thị, công văn của Ngân hàng cấp trên nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng công thương khu vực II Hai Bà Trưng. 1. Xây dựng chính sách tín dụng. Trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng cũng như mọi Doanh nghiệp khác để có thể tồn tại và phát triển thì phải hoạt động có hiêu quả. Song trong điều kiện thu nhập của Ngân hàng đều là từ hoạt động kinh doanh tín dụng, hiệu quảkinh doanh tín dụng của Ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng hợp lý là chính sách sách có tính đến các yếu tố tăng trưởng của nền kinh tế của ngành, diễn biến của thị trường tài chính, dự đoán được các hiện tượng kinh tế như lạm phát, biến động giá vàng, ngoại tệ... việc mở rộng tín dụng phải luôn bám sát các mục tiêu phát triển kinh tế của thủ đô, xây dựng chính sách khách hàng phù hợp với điều kiện thị trường, của khách hàng cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến mở rộng tín dụng không hợp lý dễ gây nên hậu quả nợ quá hạn tăng lên. 2. Tìm hiểu, phân tích và nhận định về khách hàng. Trong thủ tục vay vốn, Ngân hàng đã yêu cầu khách hàng phải xuất trình các giấy tờ cần thiết có liên quan đến năng lực pháp lý như giấy phép kinh doanh, quyết định thành lập của cơ quan có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng (nếu là Doanh nghiệp) hàng tháng, hàng quý khách hàng phải gửi đến các báo cáo về hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả tài chính, kế hoạch vay vốn. Trong những năm qua, cán bộ tín dụng của Ngân hàng công thương khu vực II - Hai Bà Trưng đã căn cứ vào các tài liệu khách hàng cung cấp cùng với kiểm tra thực tế để có được những thông tin cơ bản về khách hàng làm cơ sở phán quyết mức vốn vay cho khách hàng, cán bộ tín dụng có thể biết được mục đích sử dụng vốn vay, hiệu quả có thể do việc đầu tư của khách hàng tình hình tài chính của khách hàng và xem xét việc thế chấp cầm cố tài sản của khách hàng. Việc xem xét tìm hiểu khách hàng, cán bộ tín dụng chỉ dừng lại ở mức làm cơ sở để cấp tín dụng được hay không và sẽ đáp ứng nhu cầu cho khách hàng là bao nhiêu chứ chưa tính tới khi gặp khó khăn bất thường, hoạt động sản xuất kinh doanh bị ngưng trệ, dự án không phát huy được hiệu quả. Tình hình tài chính của Doanh nghiệp có khả năng đến đâu trong việc trả nợ Ngân hàng. Đây cũng là một trong những khe hở dễ rủi ro tín dụng xuất hiện, việc kiểm tra trong và sau khi cho vay của cán bộ tín dụng chưa được coi trọng đúng mức, việc phana tích hoạt động kinh doanh của khách hàng chưa thường xuyên, chưa đầy đủ trên các phương diện làm cho một số khoản vay trở nên kém hiệu quả. Để khắc phục những yếu điểm trên đây, trong đề án chấn chỉnh hoạt động tín dụng Ngân hàng đã nêu rõ các trường hợp nhất thiết phải thẩm định là: Các món vay và người vay ở ngoài địa bàn tư nhân, cá thể vay từ 50 triệu VNĐ trở lên tất cả các Doanh nghiệp (quốc doanh và ngoài quốc doanh) đều phải thẩm định lần đầu về các nguyên tắc trong điều kiện vay vốn. Từng món vay hoặc từng dự án đều phải được thẩm định đầy đủ về quy chế, cơ chế pháp luật liên quan, tính pháp lý của hồ sơ vay vốn, tìm khả thi của phương án và đặc biệt là khả năng thu hồi vốn vay, kể cả trường hợp rủi ro bất khả kháng phục hồi bằng nguồn nào? 3. Sử dụng các đảm bảo. Ngân hàng coi việc đảm bảo tín dụng là một yêu cầu cần thiết khách quan, là một nguyên tắc kinh doanh tín dụng, thực hiện thời gian qua ở Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng đã áp dụng các hình thức đảm bảo tín dụng chủ yếu là hình thức thế chấp cầm cố. Đối với cho vay kinh tế ngoài quốc doanh thì hầu hết các món vay đều được đảm bảo bằng các hình thức đảm bảo thế chấp hay cầm cố. Do việc sử dụng các đảm bảo tín dụng, Ngân hàng Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng đã mở rộng được khối lượng tín dụng cấp cho khách hàng phục vụ cho vay mục tiêu phát triển kinh tế của thủ đô và khi sử dụng các hình thức này, Ngân hàng yên tâm hơn khi cấp vốn cho khách hàng, đồng thời thúc đẩy khách hàng nâng cao trách nhiệm của mình hơn nữa trong việc sử dụng vốn vay của Ngân hàng. Việc sử dụng đảm bảo tín dụng trong cơ chế quản lý theo kế hoạch hoá trước đây chỉ là hình thức Ngân hàng thường xuyên xem xét đến các yếu tố vật tư đảm bảo trước lúc cho vay cũng như sau khi cho vay, nhưng sự đảm bảo này chỉ được tính toán trên giấy tờ. Thực chất nó chỉ giúp cho Ngân hàng đánh giá một phần khả năng tài chính cho Doanh nghiệp. Còn về mặt pháp lý, Ngân hàng không có quyền hạn nào đối với tài sản đảm bảo vốn vay. Trong cơ chế thị trường, vấn đề cho vay có tài sản đảm bảo được đặt ra một cách nghiêm túc giữa khách hàng và Ngân hàng, họ có thể lựa chọn hình thức sử dụng đảm bảo sao cho thuận tiện và có lợi cho cả hai bên và nhờ vậy nó tạo điều kiện cho việc thu nợ của Ngân hàng được thực hiện tốt hơn. Tuy nhiên việc thực hiện các đảm bảo tín dụng tại Ngân hàng công thương khu vực II - Hai Bà Trưng còn bộc lộ những thiếu sót làm cho việc đảm bảo vốn kinh doanh của Ngân hàng gặp không ít khó khăn. Việc đánh giá chất lượng và giá trị tài sản làm đảm bảo gặp khó khăn và nhiều khi chưa chính xác vì các tài sản đảm bảo rất đa dạng và nhiều loại, nhận thức khác nhau, nó có nhiều yếu tố kỹ thuật mà Ngân hàng còn thiếu kinh nghiệm để đánh giá chính xác. Thế chấp những tài sản thường khó phát mại, việc phát mại tài sản khi khách hàng kinh doanh thua lỗ thường rất khó khăn không trả được nợ thì Ngân hàng cũng chưa có biện pháp hữu hiệu để thu hồi vốn. Một mặt do khách quan là giá trị tài sản thế chấp chủ yếu là đất đai, nhà cửa mà thị trường trong thời gian qua lại xuống giá liên tục và rất khó bán để thu hồi nợ. Mặt khác,việc phát mại tài sản không đơn giản như nếp nghĩ trước đây của cán bộ tín dụng vì nó liên quan đến nhiều cơ quan chức năng mà ngay các điều trong bộ luật dân sự, trong thông tư 01/TT-LB và quyết định 217/QĐ-NH1 ngày 17/8/1996 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng chưa giải quyết thoả đáng được. 4. Phân tán rủi ro. Mục tiêu chủ yếu của Ngân hàng khi thực hiện giải pháp này là tránh tập trung vốn quá lớn cho một khách hàng. Hạn chế tác dụng của rủi ro đến hoạt động kinh doanh nói chung, kinh doanh tín dụng nói riêng. Trong quá trình cho vay, Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng đã tôn trọng và chấp hành đầy đủ quy định về mức vốn cho vay ghi cụ thể trong pháp lệnh Ngân hàng. Trong trường hợp sử dụng đảm bảo tín dụng, mức vốn vay không quá 70% giá trị tài sản thế chấp, cầm cố. Thực tế trong những năm qua Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng đã mở rộng phạm vi hoạt động và nhờ đó mà đa dạng hoá các hoạt động của Ngân hàng. Bên cạnh các biện pháp trên, Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng cũng rất chú trọng trong việc thực hiện dự trữ với mức độ thích hợp và đã đảm bảo được khả năng thanh toán, chi trả cho mọi khách hàng khi họ yêu cầu. II - Những kiến nghị và đề xuất tại Ngân hàng công thương khu vực II - Hai Bà Trưng. 1. Đối với nhà nước, chính phủ và cơ quan bộ ngành. Hoạt động kinh doanh tín dụng Ngân hàng là một dạng kinh doanh đặc biệt mang tính tổng hợp, gắn liền với các điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước. Do đó, việc tạo lập môi trường kinh tế, pháp lý đầy đủ và đồng bộ hoạt động kinh doanh Ngân hàng có ý nghĩa rất to lớn trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Thực tế trong thời gian qua do cơ chế chính sách thay đổi thường xuyên (chính sách xuất nhập khẩu, chính sách về đất đai...) làm cho môi trường kinh doanh không ổn định, ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của các Doanh nghiệp, làm đảo lộn chính sách tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Nổi cộm nhất là việc thế chấp đất đai để vay vốn Ngân hàng. Khi ban hành nghị định 18/CP ngày 31/12/1995 của chính phủ đã ảnh hưởng nhiều đến các Ngân hàng thương mại có nhận thế chấp đất. Vì vậy để đảm bảo an toàn cho các tổ chức tín dụng, cần chỉnh sửa nghị định 18/CP quy định chi tiết, thi hành pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được giao đất, thuê đất. Môi trường pháp lý cho kinh doanh tiền tệ, tín dụng Ngân hàng chưa đầy đủ, đồng bộ. Nhà nước chưa có luật về sở hữu, chưa có cơ quan nào chịu trách nhiệm cấp chứng thư sở hữu tài sản và quản lý quá trình dịch chuyển sở hữu tài sản. Nhưng điều kiện cho vay đặt ra là việc thế chấp tài sản phải có đầy đủ giấy tờ pháp lý. Pháp lệnh kế toán thống kê hiệu lực bắt buộc các Doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán thống kê kịp thời, chính xác. Trong điều kiện hiện nay, nếu các Ngân hàng thương mại không chịu thực hiện một trong các điều kiện cho vay sẽ bị xử phạt hành chính theo nghị định 18/CP ngày 24/6/1996 của Chính phủ. Vì vậy để tạo điều kiện cho Ngân hàng hoạt động theo đúng pháp luật và có hiệu quả, ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng, đề nghị nhà nước sớm hoàn thiện và ban hành các đạo luật về xử lý phát mại tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, xử lý công việc của các Doanh nghiệp thua lỗ, phá sản giải thể, đồng thời tăng cường biện pháp quản lý nhà nước đối với các Doanh nghiệp, quy định chặt chẽ các biện pháp kinh tế hành chính buộc Doanh nghiệp chấp hành đúng pháp lệnh kế toán thống kê, chế độ kiểm toán bắt buộc. Cần có biện pháp củng cố các doanh nghiệp quốc doanh bằng các biện pháp kinh tế vĩ mô, đó là các chính sách về đầu tư và việc cấp đủ vốn cần thiết phục vụ cho kinh doanh. Bởi vì hiện nay hầu hết các doanh nghiệp quốc doanh có rất ít vốn để SXKD, trong khi đó nhu cầu vốn lại quá lớn vượt quá khả năng tài chính của mình, vốn vay Ngân hàng là nguồn vốn chủ yếu tại các doanh nghiệp này. Đây là áp lực rất khó khăn cho Ngân hàng trong việc đầu tư vốn. Triển khai bộ luật dân sự về nội dung thế chấp tài sản thì liên bộ Ngân hàng, tài chính, tư pháp đã ra được thống tư liên bộ số 01/TTLB ngày 3/7/1996, nhưng hiện nay chỉ có Ngân hàng nhà nước ban hành quyết định 217/QĐ-Ngân hàng hướng dẫn cụ thể nên thực tế tại địa phương rất khó triển khai và do còn một số nội dung chưa phù hợp dẫn đến việc thực hiện tại Ngân hàng cơ sở có lúc còn vi phạm. Vậy đề nghị các bộ chỉnh sửa bổ sung nội dung thông tư 01/TTLB cho phù hợp với thực tế và có hướng dẫn cụ thể cho các ngành có liên quan bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Ngân hàng trong việc xử lý thu hồi nợ. Nhà nước cần quy định rõ chức năng của các cơ quan có thẩm quyền về việc thành lập các cơ quan bảo hiểm, giao dịch bảo đảm...để đảm bảo xử lý một cách nhanh chóng, kịp thời trong việc thanh lý và phát mại tài sản để thu hồi nợ. Đề nghị bộ tài chính cho Ngân hàng thương mại được lập quỹ rủi ro trước khi nộp thuế để bù đắp các tổn thất trong kinh doanh hoặc cho phép các Ngân hàng thương mại được đánh giá lại chất lượng tín dụng, có nghĩa là tự bù đắp lỗ lãi trong kinh doanh trước khi nộp các khoản ngân sách để được thực sự có vai trò tự chủ tài chính. Bấy lâu nay, Ngân hàng thương mại không được quyền xử lý các khoản nợ kinh doanh tổn thất. Các nghiệp vụ kinh doanh có lãi vẫn tích đọng từ năm này qua năm khác càng ngày càng lớn hơn, phản ánh tình hình tài chính trên bản cân đối Ngân hàng thiếu lành mạnh. 2. Đối với Ngân hàng nhà nước. Thực trạng hoạt động hiện nay của Ngân hàng, do điều kiện thông tin chưa kịp thời, chưa đầy đủ và các biện pháp ngăn chặn rủi ro còn bị hạn chế. Nên chăng cần nghiên cứu loại bỏ quy định một khách hàng được vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng (thể lệ tín dụng ngắn hạn). Trường hợp nếu cần vẫn cho phép một khách hàng được vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng thì cần kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống thông tin tín dụng (CIC). Đi đôi với việc hoàn thiện quy chế tham gia cung cấp số liệu của các tổ chức tín dụng, đảm bảo kịp thời, chính xác và tin cậy. Coi đây quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức tín dụng. Khi các tổ chức tín dụng cho vay khách hàng khác địa bàn thì bắt buộc phải sử dụng thông tin của trung tâm thông tin tín dụng cung cấp. Ngân hàng nhà nước cần rà soát các văn bản chồng chéo, thiếu đồng bộ, không còn phù hợp với thực tế. Đồng thời nghiên cứu để tiến tới có thể trình nhà nước ban hàng thông tư hướng dẫn để nâng cao hiệu lực văn bản trong ngành và các cấp, nhằm đảm bảo an toàn cho các tổ chức tín dụng. Ngân hàng nhà nước cần kiến nghị chính phủ quy định rõ trách nhiệm hành chính, kinh tế, pháp lý của khách hàng trong quan hệ vay trả. Khẳng định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của người vay phải trả nợ đầy đủ các gốc lẫn lãi. Bảo vệ lợi ích và quyền lợi của người cho vay. Ngân hàng nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng thương mại ngày càng được hoạt động theo cơ chế thị trường, thực sự độc lập tự chủ trong kinh doanh. Có như vậy các Ngân hàng thương mại mới thực sự chủ động trong phòng ngừa rủi ro có thể xẩy ra. Ngân hàng nhà nước cần tăng cường công tác thanh tra kiểm soát với chất lượng cao, đưa ra những kiến nghị có sức thuyết phục giữa phòng ngừa và xử lý rủi ro. Tăng cường và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, nhằm giúp các NHTM xử lý kịp thời những tồn tại trong quá trình kinh doanh, tránh những sai sót trong việc chấp hành chế độ, quy chế về kinh doanh tiền tệ. Lấy phòng ngừa làm chính yếu giống như phòng cháy hơn chữa cháy. Phải coi trọng tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm soát trong nội bộ làm khâu hoạt động thường xuyên giúp cho Ngân hàng khắc phục được những thiếu sót kịp thời. Quản lý chặt chẽ về mặt nhà nước đối với các Ngân hàng thương mại trên tất cả các công cụ sẵn có của mình như lãi suất, hạn mức tín dụng. 3. Đối với các Ngân hàng thương mại. Trong nền kinh tế, các Ngân hàng thương mại thực hiện đa dạng hoá kết hợp với chuyên môn và duy trì quan hệ khách hàng lâu dài trên cơ sở đã qua dàng lọc, lựa chọn. Việc lựa chọn khách hàng phải chính xác, phải dựa trên cơ sở tìm hiểu, phân tích hoạt động và đánh giá toàn diện về khách hàng. Mỗi lần cho vay vốn phải xác định tính khả thi của dự án, khả năng thu hồi vốn cho vay, kể cả trong trường hợp rủi ro bất khả kháng thì thu hồi vốn bằng nguồn vốn nào. Các Ngân hàng thương mại hoạt động trong cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước. Vì vậy, để có thể nâng cao chất lượng tín dụng đồng nghĩa với việc giảm tối đa trường hợp rủi ro xẩy ra. Trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi các Ngân hàng thương mại phải thực hiện nghiêm túc chỉ thị số 14/CT-Ngân hàng của Thống đốc Ngân hàng nhà nước về các biện pháp cấp bách để đảm bảo chất lượng tín dụng. Công văn số 756/CV-NH3 của Ngân hàng nhà nước về việc chấn chỉnh hoạt động Ngân hàng. Ngày nay hệ thống pháp luật nước ta ngày càng được hoàn thiện. Vì vậy trong tín dụng Ngân hàng, nếu chỉ căn cứ vào các định chế của ngành ban hành để thực hiện thì chưa đầy đủ. Trong thực tế, thời gian qua nợ quá hạn tăng, lãi treo dâng cao, khả năng dẫn đến rủi ro vẫn thường xẩy ra là do nguyên nhân khi thẩm định dự án, vốn vay chưa xác lập các yếu tố pháp luật liên quan. Nên khó giải toả hàng hoá, tài sản thế chấp để thu hồi vốn. Để khắc phục phần nào khuyết điểm này, thì trong công tác đào tạo ngoài kiến thức chuyên môn, ta cần phải có biện pháp nâng cao kiến thức về pháp luật cho cán bộ Ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng. Mặt khác, trình độ cán bộ tín dụng hiện nay còn chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của Ngân hàng trong hiện tại và tương lai. Kinh doanh trong cơ chế thị trường, đòi hỏi cán bộ tín dụng không chỉ giỏi về chuyên môn, mà còn phải có sự thông hiểu về toàn diện và phải có đạo đức nghề nghiệp. Do đó, Ngân hàng cần có chương trình đào tạo lại cán bộ, đồng thời bản thân mỗi người phải có ý thức tự trao dồi kiến thức để nâng cao trình độ, rèn luyện tu dưỡng phẩm chất đạo đức. Đồng thời các Ngân hàng phải lựa chọn, sắp xếp, bố trí cán bộ tín dụng phù hợp với khả năng, trình độ quản lý của từng người để họ có thể phát huy được hiệu quả. Bên cạnh đó, cần tăng cường hơn nữa hoạt động kiểm soát nội bộ, thực hiện thường xuyên giám sát, kiểm tra thực hiện các quy chế và quy trình hoạt động tín dụng, để sớm phát hiện và có biện pháp kịp thời. Để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Ngân hàng cần mở rộng quan hệ tín dụng với mọi thành phần kinh tế, dẫn đến khối lượng hồ sơ rất lớn. Do vậy Ngân hàng cần phải nhanh chóng đưa chương trình quản lý hồ sơ vay vốn của khách hàng vào lưu trữ, xử lý trên hệ thống mạng vi tính. Có như vậy, mới bảo quản và cung cấp kịp thời, đầy đủ các thông tin cần thiết giúp cho các cán bộ tín dụng trong việc kiểm tra đánh giá chính xác khách hàng, để có quyết định cho vay đúng. 4. Đối với Ngân hàng công thương khu vực II - Hai Bà Trưng. * Về bộ máy tổ chức: Để phát huy khả năng về trình độ chuyên môn của từng cán bộ công nhân viên của Ngân hàng thì Ngân hàng phải có chương trình thẩm tra nghiệp vụ chuyên môn cùng với năng lực sẵn có khác nhau của mỗi người để có một tổ chức bộ máy tốt. Ngoài ra có chương trình hỗ trợ khuyến khích cán bộ học tập thường xuyên để nâng cao tay nghề, nghiệp vụ, nhất là cán bộ tín dụng. Cải tiến công tác bình xét thi đua khen thưởng một cách hợp lý và chính xác. Có chính sách cụ thể để gắn trách nhiệm và quyền lợi của cán bộ với kết quả công tác. Động viên và phát huy sức mạnh tổng hợp của tổ chức Đảng, Công đoàn và Đoàn thanh niên trong việc giáo dục bồi dưỡng tư tưởng đạo đức cách mạng và quan tâm đến cán bộ công nhân viên về cả tinh thần và vật chất. Từ đó nâng cao tình đoàn kết từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, đồng thời đòi hỏi mọi người phải có trách nhiệm và nghĩa vụ đóng góp sức mình một cách tích cực đầy đủ trách nhiệm vào sự nghiệp chung của ngành, của chi nhánh. Góp phần nâng cao uy tín đối với khách hàng trong nước cũng như phần nâng cao uy tín đối với khách hàng trong nước cũng như ngoài nước của Ngân hàng công thương Việt Nam. * Tiếp tục thực hiện tốt nội dung chỉ đạo công tác chấn chỉnh hoạt động Ngân hàng nhằm giải quyết nhanh dứt điểm những tồn tại trong công tác tín dụng. Phát huy vai trò hoạt động có hiệu quả của hội đồng tín dụng. Đề ra các biện pháp cụ thể cho từng món vay, những vướng mắc trong quá trình thực hiện phải được bàn bạc kỹ để tìm hướng khắc phục. Kiên quyết giảm được nợ quá hạn khó đòi, không để nợ quá hạn khó đòi phát sinh tăng lên. Chủ động tích cực lựa chọn, tìm kiếm khách hàng, những dự án có hiệu quả đủ điều kiện cho vay để đầu tư tăng dư nợ tín dụng một cách chắc chắn. * Thường xuyên chú trọng công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm phát hiện kịp thời những sai sót của mặt nghiệp vụ, đảm bảo an toàn tài sản, tránh rủi ro trong công tác tín dụng. * Nên chăng cho cán bộ tín dụng học hỏi, nghiên cứu thêm về chiều sâu của công tác thẩm tra, thẩm định các dự án của các lĩnh vực. Để thẩm định tốt cán bộ tín dụng phải hiểu tương đối về lĩnh vực đó, về kỹ thuật và công nghệ của từng dự án. kết luận Trong những năm qua, với việc thực hiện chính sách - đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước, nhờ đó nước ta bước đầu có sự phát triển khởi sắc và đã đạt đợc một số thành tựu nhất định trên mọi lĩnh vực đời sống - kinh tế - chính trị - xã hội. Để phù hợp với nhu cầu đổi mới, phát triển đất nước, toàn bộ hệ thống Ngân hàng nước ta nói chung và các Ngân hàng thương mại nói riêng cần phải có sự đổi mới trong công tác tổ chức, quản lý và hoạt động kinh doanh. Thực tiễn đã cho thấy rằng, muốn vươn lên để khẳng định vai trò vị trí của mình trong hệ thống Ngân hàng thương mại quốc doanh, các Ngân hàng thương mại đã và đang phấn đấu vượt những khó khăn, thử thách trước sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Như chúng ta đã biết sự ra đời, tồn tại và phát triển của Ngân hàng luôn gắn liền với bối cảnh lịch sử, thực trạng của mỗi quốc gia nhất định. Do đó trong cơ chế thị trường, các Ngân hàng thương mại là những Doanh nghiệp đặc biệt vì tài sản trong kinh doanh của các Ngân hàng thương mại đều phụ thuộc vào khách hàng. Vì thế rủi ro của khách hàng cũng là sự rủi ro của các Ngân hàng. Bởi vậy, để có thể tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường của nền kinh tế nước ta hiện nay, các Ngân hàng thương mại cần phải có các chủ trương, biện pháp đúng đắn nhằm tránh né đề phòng và hạn chế tới mức tối đa những trường hợp rủi ro xẩy ra. Đặc biệt là rủi ro tín dụng vì các Ngân hàng thương mại hiện nay hoạt động tín dụng là chủ yếu và sự rủi ro tín dụng luôn chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Hơn nữa rủi ro trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng hết sức đa dạng, phức tạp và xuất phát tờ nhiều nguyên nhân, nó luôn là người bạn đồng hành trong kinh doanh của Ngân hàng. Vì sự rủi ro đó là một trong những nguyên nhân làm cho các Ngân hàng phải thu hẹp phạm vi hoạt động kinh doanh và thậm chí có thể dẫn đến phá sản. Nhằm hạn chế những thiệt hại do rủi ro gây ra, các nhà quản lý Ngân hàng cần quan tâm đến việc nghiên cứu, đánh giá những nguyên nhân dẫn đến rủi ro nói chung và nguyên nhân xẩy ra tín dụng nói riêng. Vì sự quan tâm đúng mức đến vấn đề này, nó thể hiện ý nghĩa thiết thực to lớn và lâu dài đối với kinh doanh Ngân hàng. Bởi lẽ trên cơ sở tìm ra số giải pháp nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro đã và đang có thể xẩy ra. Có nghĩa là tạo rào cản đối với các rủi ro. Qua nội dung đã trình bày trong bản luận văn này chúng ta có thể rút ra một vài giải pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng Ngân hàng. Để đáp ứng nhu cầu kinh doanh tín dụng của Ngân hàng có hiệu quả kinh tế cao trong nền kinh tế thị trường hiện nay, bên cạnh việc áp dụng tổng hợp các biện pháp trong công tác quản lý nghiệp vụ Ngân hàng, đồng thời cần phải áp dụng linh hoạt các giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Vì đó là một trong những cách tốt nhất nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên khi đề cập đến sự rủi ro trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng nói chung và các Ngân hàng thương mại nói riêng thì trong nội dung của bản luận văn này tôi đã trình bày những chỉ mới đề cập đến một vài khía cạnh của toàn cảnh rủi ro trong ngành Ngân hàng. Nhưng mong rằng với những giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng thương mại đã được đề cập trong bản luận văn này, tôi tin tưởng rằng ở vào một hoàn cảnh nhất định trong thực tế hiện nay, có thể góp một phần không nhỏ trong việc hoàn thiện những giải pháp nhằm giúp cho các Ngân hàng thương mại có thể tham khảo và nghiên cứu áp dụng vào công việc kinh doanh của Ngân hàng. Vì vậy việc áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro xây ra, là một trong những tiền đề giúp cho các Ngân hàng đạt hiệu quả kt cao trong kinh doanh. Một mặt tạo điều kiện cho các Ngân hàng thu hút nhiều khách hàng, tăng trưởng số lượng tín dụng, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá Thủ đô và Đất nước. Mặt khác, đạt được mục tiêu kinh doanh tín dụng của Ngân hàng đã đặt ra và tiến tới từng bước cải thiện đời sống cán bộ, công nhân viên trong ngành. Tuy nhiên, do thời gian quá eo hẹp, nguồn tư liệu tham khảo, nghiên cứu nhằm phục vụ cho đề tài không nhiều, vả lại với tôi cũng là bước đầu làm công tác nghiên cứu khoa học, bản thân còn hạn chế kiến thức, nhận thức, với kinh nghiệm trong việc phân tích, xử lý dữ liệu cũng như nội dung và hình thức trình bày. Do vậy, trong bản luận văn này chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, tôi thiết mong được thầy, cô giáo và bạn bè đồng nghiệp đóng góp ý kiến để bản luận văn được hoàn chỉnh hơn. Nhân đây, tôi xin chân thành được bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đến thầy giáo hướng dẫn Tô Ngọc Hưng, đến Quý cơ quan Ngân hàng công thương khu vực II - Hai Bà Trưng đã giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này. Tài liệu tham khảo 1- Ngân hàng thương mại và xí nghiệp trong nền kinh tế thị trường. 2- Những vấn đề cơ bản về Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. 3- Luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng. 4- Văn kiện đại hội Đảng cộng sản Việt nam lần thứ VI, VII, VIII. 5- Tạp chí thông tin Ngân hàng 98, 99 và sáu tháng đầu năm 2000. 6- Thông tin của Ngân hàng Công thương Việt nam. 7- Hệ thống các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của Ngân hàng nhà nước và Ngân hàng Công thương Việt nam. 8- Báo cáo tổng kết của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Khu vực II Hai Bà Trưng 1998, 1999 và 6 tháng đầu năm 2000.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28201.doc
Tài liệu liên quan