Qua 8 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho việc phát
triển ngành tài chính ngân hàng nói riêng, nền kinhtế nói chung. TTCK trở thành
kênh huy động vốn hiệu quả của doanh nghiệp và của nền kinh tế thông qua việc phát
hành cổ phiếu. Qua TTCK, các DN huy động được nguồnvốn khổng lồ trong dân
chúng, biến nguồn vốn nhàn rỗi ngắn hạn thành các khoản đầu tư dài hạn, phục vụ
cho sản xuất, kinh doanh. Hàng ngàn tỷ đồng đã đượcđưa vào sản xuất, kinh doanh,
vòng quay vốn của toàn nền kinh tế được cải thiện rõ rệt. Nhưng bên cạnh đó, TTCK
còn tiềm ẩn nhiều vấn đề cần phải giải quyết để có thể tăng trưởng bền vững, trở
thành "hàn thử biểu" của nền kinh tế. Những giải pháp nhằm tăng cung kích cầu,
hoàn thiện môi trường đầu tư cần nhanh chóng được triển khai thực hiện.
Chúng ta tin rằng, việc đánh giá đúng các kết quả đạt được, nhìn rõ những nguyên
nhân của hạn chế thiếu sót, xác định rõ mục tiêu phát triển của thị trường và hướng
giải pháp khắc phục những tồn tại sẽ thúc đẩy TTCK Việt Nam ngày một phát triển
bền vững hơn.
106 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1656 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các giải pháp thúc đẩy sự phát triển bền vững Thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
điều kiện thuận lợi cho việc đưa ra một kết quả
chính xác sau này. Do đó, công ty phải có khả năng tiếp cận được nguồn thông tin
đáng tin cậy về nhà phát hành dưới mọi hình thức, trực tiếp hoặc gián tiếp, chính thức
hoặc không chính thức.
Uy tín đối với thị trường
Cũng như bất kỳ một công ty nào, công định mức tín nhiệm cũng cần phải tạo dựng
được uy tín đối với thị trường, để kết quả định mức tín nhiệm- sản phẩm mà cty cung
cấp, được "người tiêu dùng"- chính là công chúng đầu tư, sử dụng.
3.3.6 Phương pháp đánh giá hệ số tín nhiệm
Tùy theo từng tổ chức, mà phương pháp đánh giá hệ số tín nhiệm có khác nhau đôi
chút. Tuy vậy về cơ bản chúng khá giống nhau. Theo đó, công ty đối tương sẽ được
đánh giá từ quốc gia, môi trường, đến ngành kinh doanh mà nó đang hoạt động. Sau
đó, các thông số có tính cách định tính chẳng hạn chất lượng, kỹ năng của ban quản
lý, chiến lược marketing, chính sách quản lý…cũng sẽ được xem xét. Kế đó, và cũng
80
rất quan trọng là tất cả các chỉ số chính phản ánh tình hình tài chính sẽ được đưa ra
phân tích, đánh giá. Tổng hợp lại những yếu tố trên, tổ chức đánh giá tín nhiệm sẽ
xếp hạng các trái phiếu theo các mức khác nhau đã định sẵn và ký hiệu bằng các chữ
cái đầu tiên; theo bảng sau:
Bảng 4: Các hạn mức của hệ số tín nhiệm đối với công cụ nợ dài hạn
Chỉ số Tín
nhiệm
theo S&P
Chỉ số Tín
Nhiệm
theo Moody’s
Diễn giải Phân loại
AAA Aaa
Chất luợng cao nhất, ổn
định, độ rủi ro thấp nhất
AA Aa
Chất lượng cao, rủi ro
thấp, Độ rủi ro chỉ cao
hơn hạng AAA một bậc.
A A
Chất lượng khá, tuy vậy
có thể bị ảnh huỡng bởi
tình hình kinh tế.
BBB Baa
Chất lượng trung bình, an
toàn trong thời gian hiện
tại, tuy vậy có ẩn chứa
một số yếu tố rủi ro.
Trái phiếu có
thể đầu tư
BB Ba
Chất lượng trung bình
thấp, có thế gặp khó khăn
trong việc trả nợ, bị ảnh
hưởng đối với sự thay đổi
của tình hình kinh tế.
Trái phiếu có
độ rủi ro cao
B B
Chất lượng thấp, rủi ro
cao, có nguy cơ không
thanh toán đúng hạn
CCC Caa
Rủi ro cao, chỉ có khả
năng trả nợ nếu tình hình
kinh tế khả quan.
CC Ca
Rủi ro rất cao, rất gần phá
sản,
C C
Rủi ro rất cao, khó có khả
năng thực hiện thanh toán
các nghĩa vụ nợ
D
Xếp hạng thấp nhất, đã
phá sản hay hầu như sẽ
phá sản
NR NR Không đánh giá
Trái phiếu
không nên đầu
tư
Nguồn: www.saga.vn
81
Đối với chỉ số Moody’s, ngoài những xếp hạng cơ bản trên, hệ số 1, 2, 3 còn dùng để
chia nhỏ một xếp hạng cơ bản ra làm 3 loại, trong đó 1 là cao nhất trong hạng đó, 2 là
trung bình, 3 là thấp nhất, ví dụ: Aa1, Aa2, Aa3.
Còn đối với chỉ số S&P, + hay – được dùng để chia nhỏ xếp hạng. trong đó + là cao
nhất trong hạng đó, không dấu là trung bình, - là thấp nhất; ví dụ: AA+, AA, AA-
Dùng chỉ số Z để ước tính hệ số Tín Nhiệm
Chỉ số Z (Z score) là công cụ được cả hai giới học thuật và thực hành, công nhận và
xử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Chỉ số này được phát minh bởi Giáo Sư Edward
I. Altman, trường kinh doanh Leonard N. Stern, thuộc trường Đại Học New York,
dựa vào việc nghiên cứu khá công phu trên số luợng nhiều công ty khác nhau tại Mỹ.
Mặc dù chỉ số Z này được phát minh tại Mỹ, nhưng hầu hết các nuớc, kể cả các nước,
vẫn có thể sử dụng với độ tin cậy khá cao.
Z’’ = 6.56X1 + 3.26X2 + 6.72X3 + 1.05X4
Trong đó
X1 = Tỷ số Vốn Lưu Động trên Tổng Tài Sản
X2 = Tỷ số Lợi Nhuận Giữ Lại trên Tổng Tài Sản
X3 = Tỷ Số Lợi Nhuận Trước Lãi Vay và Thuế trên Tổng Tài sản
X4 = Giá Trị Thị Trường của Vốn Chủ Sỡ Hữu trên Giá trị sổ sách của Tổng Nợ
Nếu Z’’ > 2.6 Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ
phá sản
Nếu 1.1 < Z’’ < 2.6 Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có nguy
cơ phá sản
Nếu Z’’ <1.1 Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ phá
sản cao.
Ngoài tác dụng cảnh báo dấu hiệu phá sản, Giáo Sư Esward I. Altman đã phát minh
tiếp hệ số Z’’ điều chỉnh. Chỉ số này bằng với chỉ số Z’’+3.25 (các vùng cảnh báo
phá sản vì thế cũng được tăng lên 3.25). Ông đã nghiên cứu trên 700 công ty và tìm
82
ra sự tương đồng giữa chỉ số Z’’ điều chỉnh này với hệ số tín nhiệm S&P. Công thức
Z’’ điều chỉnh được xác định như sau:
Z’’ = 3,25 + 6,56X1 + 3,26X2 + 6,72X3 + 1,05X4
Sự tương đồng giữ chỉ số Z’’ điều chỉnh và xếp hạng S&P của công ty đựơc trình bày
trong bảng sau. Trong đó cột 3, định mức tín nhiệm Moody’s được đưa vào theo sự
tương đồng với định mức tín nhiệm S&P.
Bảng 5: Các hạn mức của hệ số tín nhiệm dựa trên hệ số Z
Z’’ điều
chỉnh
Định Mức
Tín Nhiệm
S&P
Định Mức
Tín Nhiệm
Moody’s
> 8,15 AAA Aaa
7,60 – 8,15 AA+ Aa1
7,30 – 7,60 AA Aa2
7,00 – 7,30 AA- Aa3
6,85 – 7,00 A+ A1
6,65 – 6,85 A A2
6,40 – 6,65 A- A3
6,25 – 6,40 BBB+ Baa1
Doanh nghiệp nằm trong
vùng an toàn, chưa có
nguy cơ phá sản
5,85 – 6,25 BBB Baa2
5,65 – 5,85 BBB- Baa3
Trái phiếu có
thể đầu tư
5,25 – 5,65 BB+ Ba1
4,95 – 5,25 BB Ba2
4,75 – 4,95 BB- Ba3
Trái phiếu có
độ rủi ro cao
4,50 – 4,75 B+ B1
Doanh nghiệp nằm trong
vùng cảnh báo, có thể có
nguy cơ phá sản
4,15 – 4,50 B B2
3,75 – 4,15 B- B3
3,20 – 3,75 CCC+ Caa1
2,50 – 3,20 CCC Caa2
1,75 – 2,50 CCC- Caa3
Doanh nghiệp nằm trong
vùng nguy hiểm, nguy cơ
phá sản cao.
0 – 1,75 D
Trái phiếu
không nên
đầu tư
Nguồn: www.saga.vn
Sự tương đồng giữa chỉ số Z’’ điều chỉnh và hệ số tín nhiệm S&P là khá cao, nhưng
không có nghĩa là tuyệt đối. Trong bài viết của mình, giáo sư Altman cũng trình bày
một sự lệch chuẩn nằm trong khoản cho phép của hai chỉ số trên. Một điều nữa chúng
ta cần phải chú ý là chỉ số Z’’ điều chỉnh mặc dù được dùng khá tốt ở các thị trường
83
khác, cũng nên được nghiên cứu để điều chỉnh theo môi trường Việt Nam. Mặc dù
ghi chú hai điểm trên, theo người viết, việc tạm ước tính hệ số tín nhiệm bằng chỉ số
Z’’ là đáng tin cậy và có thể dùng được. Nó có thể giúp giúp công ty và người đầu tư
nhận định cơ bản về tình hình tài chính và khả năng thanh toán nợ của công ty.
3.4. Các giải pháp bổ trợ cho sự pháp triển bền vững của TTCK Việt Nam
3.4.1. Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các loại hàng hoá để đáp ứng nhu cầu
của thị trường
3.4.1.1 Nâng cao hiệu quả phát hành cổ phiếu doanh nghiệp trên TTCK
TTCK là định chế bậc cao trong nền kinh tế thị trường, nó đồng thời vừa là thước đo
vừa là công cụ phát triển nền kinh tế cả ở cấp vĩ mô lẫn vi mô. Việc mua cổ phiếu
của DN được phát hành trên TTCK đồng nghĩa với việc NĐT bỏ phiếu lựa chọn các
DN có triển vọng phát triển tốt. Hành động này mang lại nhiều lợi ích cho nhiều bên.
Tuy nhiên, hiệu quả việc phát hành cổ phiếu của DN không chỉ phụ thuộc vào một
phía mà phụ thuộc và tất cả các đối tượng tham gia
Thứ nhất, về phía cơ quan quản lý cấp phép hồ sơ phát hành
Cần tăng cường hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp lý có liên quan đến nội
dung, quy trình thủ tục, điều kiện cấp phép hồ sơ phát hành của doanh nghiệp
và cả quy định mức phạt, chế tài các vi phạm có liên quan đến phát hành cổ
phiếu doanh nghiệp (như cần nâng mức phạt tiền cao hơn 70 triệu đồng như
hiện hành).
Nâng cao trình độ chuyên môn, tinh thần trách nhiệm và năng lực thẩm tra,
thẩm định, cũng như hệ thống thông tin quản lý nhà nước, quản lý doanh
nghiệp liên ngành, đa ngành và chuyên ngành cần thiết phục vụ xây dựng,
triển khai và giám sát thực hiện các phương án phát hành cổ phiếu DN…
Tăng cường phối hợp với các đơn vị hữu quan, như Ban đổi mới sắp xếp
DNNN, các SGDCK và TTGDCK, các cơ quan thanh tra, giám sát, điều tra và
tư pháp… để nâng cao chất lượng các hồ sơ phát hành; tăng cường ngăn chặn,
xử lý kịp thời và hiệu quả các sai phạm liên quan đến cấp phép hồ sơ và thực
hiện các phương án phát hành cổ phiếu DN.
84
Thứ hai, về phía đơn vị tư vấn phát hành
Nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp cho các cán bộ của đơn
vị mình.
Tuân thủ nghiêm túc, đầy đủ các quy định pháp luật trong khi tác nghiệp.
Chủ động và độc lập hơn trong tư vấn các nội dung, vấn đề liên quan đến
phương án phát hành cổ phiếu của DN trên cơ sở nắm chắc, bám sát diễn biến
thị trường, các thông tin về DN và các quy định pháp lý có liên quan; cải thiện
cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ hoạt động của mình.
Thứ ba, về phía tổ chức phát hành
Không coi phát hành cổ phiếu là mục đích tự thân hoặc là cơ hội đầu cơ kinh
doanh cổ phiếu của DN, nhất là phát hành cổ phiếu bổ sung, cổ phiếu thưởng
mà phải gắn với kế hoạch SXKD rõ ràng, cụ thể, khả thi.
Thu thập thông tin đầy đủ về các vấn đề có liên quan tới xây dựng, triển khai,
giám sát thực hiện phương án phát hành cổ phiếu.
Thành lập bộ phận chuyên trách xây dựng phương án phát hành cổ phiếu gồm
các cơ quan tư vấn và cán bộ có trách nhiệm, trình độ chuyên môn và đạo đức
tốt.
Chủ động phòng ngừa, đối phó với các vi phạm từ nội bộ hoặc từ đơn vị tư
vấn trong xây dựng, triển khai phương án phát hành cổ phiếu.
Thứ tư, về phía các nhà đầu tư trên TTCK
Các NĐT cần tỉnh táo, thận trọng và có kiến thức hơn trong tiếp cận, phân tích thông
tin và thông qua các quyết định đầu tư của mình liên quan đến phương án phát hành
cổ phiếu của DN, để biết tự bảo vệ và phòng tránh những rủi ro trong đầu tư CK do
thiếu kiến thức về CK và TTCK.
3.4.1.2. Triển khai giao dịch ký quỹ và nghiệp vụ bán khống trên TTCK
TTCK Việt Nam hiện nay đang trải qua giai đoạn suy giảm liên tục. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến sự sụt giảm này, trong đó nguyên nhân hay được nhắc đến là áp lực
85
giải tỏa CK do NĐT đã cầm cố để vay tiền kinh doanh CK từ các NHTM. Sự sụt
giảm nghiêm trọng của thị trường cho thấy bản chất rủi ro cũng như tính chất tự phát,
thiếu kiểm soát của hoạt động này trên thị trường. Thực ra, mọi vấn đề đều có tính
hai mặt. Cũng có quan điểm cho rằng chính các hoạt động vay và cho vay CK để
thực hiện giao dịch ký quỹ cần phải được khuyến khích để thúc đẩy tính thanh khoản
của TTCK, khuyến khích các NĐT tham gia vào thị trường. Điều quan trọng là phải
kiểm soát chặt chẽ để phòng ngừa rủi ro và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Tuy
nhiên, pháp luật CK của Việt Nam hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể về việc cho
phép CTCK triển khai các dịch vụ về giao dịch ký quỹ. Mặc dù Khoản 9, Điều 71
Luật Chứng khoán đã có quy định theo hướng mở: "công ty chứng khoán thực hiện
việc bán hoặc cho khách hàng bán chứng khoán khi không sở hữu chứng khoán và
cho khách hàng vay chứng khoán để bán theo quy định của Bộ Tài chính", tuy nhiên,
cho đến nay, vẫn chưa có hướng dẫn nào của Bộ Tài chính được ban hành.
Giao dịch ký quỹ là giao dịch mua hoặc bán CK trong đó người mua hoặc người bán
chỉ có một phần tiền hoặc CK cần thiết, phần còn lại vay từ CTCK hoặc các tổ chức
tài chính CK khác. Điều đó có nghĩa là các tổ chức này đã cấp tín dụng cho khách
hàng, giúp khách hàng thanh toán giao dịch. Có hai loại giao dịch ký quỹ cơ bản là
giao dịch vay mua CK và bán khống. Trong giao dịch vay mua CK, NĐT chỉ thanh
toán một phần tiền mua, phần còn lại do CTCK trả. Thực chất là CTCK cho khách
hàng vay và nhận chính số CK đã mua được làm tài sản thế chấp cho khoản vay. Còn
bán khống là việc bán CK mà mình không sở hữu vào thời điểm giao dịch. Để thực
hiện giao dịch này, NĐT phải vay CK để giao trong ngày thanh toán. Như vậy, xét ở
một khía cạnh nhất định, giao dịch bán khống có thể làm tăng giá CK, bởi vì nhà đầu
tư sau đó phải mua lại CK để bù vào số CK đã đi vay từ CTCK, khiến giá CK có thể
tăng lên ở mức độ nhất định.
Thực tế, việc cho phép thực hiện các giao dịch ký quỹ đã phổ biến ở hầu hết các
TTCK phát triển với mục đích thúc đẩy giao dịch thị trường và khuyến khích sự tham
gia của nhà đầu tư. Để có thể thực hiện được các giao dịch ký quỹ, vấn đề cơ bản là
phải thừa nhận hoạt động vay và cho vay CK. Cho vay và vay CK là hình thức bù
đắp lượng thiếu hụt tại thời điểm thanh toán. Trên thế giới, hoạt động vay và cho vay
86
CK đã phát triển hết sức mạnh mẽ trong thời gian gần đây và góp phần rất lớn vào sự
phát triển chung của các TTCK các nước. Hoạt động này không chỉ dừng lại ở việc
tài trợ CK và tiền để thực hiện các giao dịch ký quỹ, mà còn phục vụ cho nhiều mục
đích khác như: vay CK khi có nhu cầu phải giao CK mà họ chưa mua để thực hiện
hợp đồng phái sinh (ví dụ quyền mua), dùng CK làm tài sản cầm cố, hoặc làm đảm
bảo cho một giao dịch vay CK khác, khắc phục sự cố mất khả năng thanh toán trong
hệ thống thanh toán CK.
Hiện nay đang có hai xu hướng chính tại các TTCK trên thế giới trong việc thành lập
các tổ chức thực hiện các nghiệp vụ vay và cho vay CK. Đối với một số quốc gia và
vùng lãnh thổ (như: Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản...) cơ quan quản lý TTCK thiết
lập hệ thống các Công ty Tài chính Chứng khoán với mục đích chuyên biệt để thực
hiện các nghiệp vụ vay và cho vay CK nhằm triển khai các chính sách phát triển thị
trường.
Đặc thù của hệ thống các Công ty Tài chính Chứng khoán tại các nước này là không
đặt ra mục tiêu kinh doanh mà chủ yếu nhằm mục tiêu bình ổn giá cả và phát triển
TTCK thông qua việc hỗ trợ các giao dịch CK. Việc thành lập các Công ty Tài chính
Chứng khoán theo mô hình này đáp ứng được nhu cầu thúc đẩy hoạt động giao dịch
của thị trường, song vẫn đảm bảo khả năng quản lý chặt chẽ để giảm thiểu khả năng
rủi ro, đặc biệt là với các thị trường mới thành lập do vay và cho vay CK về bản chất
là các giao dịch phức tạp và ẩn chứa nhiều rủi ro nếu hệ thống quản lý thị trường
không đủ hiệu quả.
Đối với một số nước (như Mỹ) không có các tổ chức chuyên doanh lĩnh vực tài chính
CK mà rất nhiều tổ chức tài chính như NHTM, nhà môi giới CK... được phép tham
gia vào hoạt động này như là một trong các nghiệp vụ kinh doanh.
Cho dù thực hiện theo mô hình nào thì hoạt động này đều có một điểm chung là: vì
đây là các hoạt động giao dịch phức tạp và ẩn chứa nhiều rủi ro nên thường chịu sự
điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật và thường bị hạn chế đối với các TTCK mới thành
lập. Ví dụ, tại Trung Quốc, dù TTCK đã hình thành từ lâu nhưng mãi đến ngày
1/8/2006, Ủy ban Giám quản Chứng khoán Trung Quốc mới thông qua quy chế cho
87
phép thực hiện giao dịch ký quỹ và bán khống thông qua các CTCK và trong giai
đoạn đầu, hoạt động kinh doanh này chỉ được thực hiện tại một số CTCK nhất định.
Đó cũng là lý do khiến giao dịch vay và cho vay CK chưa được công nhận chính thức
ở Việt Nam trong thời gian qua. Giao dịch vay và cho vay CK chỉ mới được thừa
nhận một cách rất hạn chế dưới hình thức hỗ trợ chứng khoán cho các giao dịch tạm
thời mất khả năng thanh toán của các thành viên (nhằm khắc phục lỗi giao dịch do
thành viên gây ra, ví dụ nhập nhầm lệnh mua thành lệnh bán, dẫn đến hậu quả không
có CK để giao) hoặc sử dụng CK vào mục đích cầm cố để vay tiền của các tổ chức
tín dụng nhằm tiếp tục đầu tư vào CK. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thị
trường, tính thanh khoản của thị trường ngày một nâng cao, trình độ và năng lực của
các NĐT CK ngày càng hoàn thiện, cần nghiên cứu cho phép áp dụng các giao dịch
loại này như một biện pháp khuyến khích giao dịch, thực hiện thông lệ và tiêu chuẩn
giao dịch quốc tế.
Trong trường hợp của Việt Nam, với đặc thù TTCK còn rất non trẻ, trước mắt có thể
nghiên cứu để triển khai hoạt động vay và cho vay CK theo mô hình thành lập Công
ty Tài chính Chứng khoán như là một cơ quan thực hiện chính sách thị trường chứ
không phải vì mục tiêu lợi nhuận (giống như Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan).
Mục tiêu của việc thành lập Công ty Tài chính Chứng khoán thể hiện ở việc thúc đẩy
các hoạt động giao dịch CK, bình ổn thị trường, tăng tính thanh khoản cho TTCK.
Do đó, Chính phủ phải đóng vai trò quyết định trong việc thành lập Công ty Tài
chính Chứng khoán Việt Nam, trong đó có sự cân nhắc các điều kiện thực tế của nền
kinh tế và TTCK.
Trong thời gian đầu, do Chính phủ phải đóng vai trò chủ chốt trong việc quản lý và
điều tiết hoạt động tài chính CK, mô hình phù hợp là công ty sở hữu Nhà nước hoặc
Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối. Ngoài ra, cần thiết phải hình thành một hành
lang pháp lý cho hoạt động vay và cho vay chứng khoán, bao gồm các quy chế về
hoạt động vay và cho vay CK và bổ sung các quy định tại các văn bản pháp luật liên
quan (Quy chế về đăng ký, lưu ký, thanh toán bù trừ chứng khoán), trong đó những
nội dung chính cần phải đề cập bao gồm:
88
Một là, chủ thể tham gia giao dịch vay và cho vay CK: bao gồm tổ chức thanh
toán trung tâm là TTLKCK, thực hiện vai trò là đối tác trung tâm điều phối
hoạt động hạch toán, chuyển khoản chứng khoán vay, tài sản bảo đảm, thực
hiện thanh toán cho các thành viên là các CTCK (G30 khuyến nghị rằng vai
trò của công ty thanh toán bù trừ hoặc TTLKCK chỉ nên là người hỗ trợ chứ
không nên cho vay từ tài khoản của riêng mình để tránh rủi ro và duy trì tính
khách quan và trong sạch của thị trường. Như vậy, TTLKCK chỉ đơn thuần
làm trung gian cho các giao dịch trong hệ thống trên cơ sở ghi sổ). Bên vay và
cho vay là các NĐT, các CTCK, quỹ đầu tư CK, các tổ chức tín dụng,
NHTM... Bên đối tác trung gian là Công ty Tài chính Chứng khoán được
UBCKNN cấp phép thực hiện hoạt động vay và cho vay CK.
Hai là, CK được phép vay và cho vay chỉ nên hạn chế ở những CK niêm yết
tại TTGDCK, SGDCK. Ngoài ra, CK phải đáp ứng được các điều kiện là
không thuộc diện CK đang bị kiểm soát hoặc bị cấm giao dịch.
Ba là, tài sản bảo đảm được sử dụng trong giao dịch vay và cho vay CK là các
CK niêm yết trên TTGDCK, SGDCK hoặc là tiền mặt. Nếu CK được sử dụng
làm tài sản bảo đảm, các CK này cũng phải đáp ứng được các điều kiện như
CK được phép vay và cho vay. Tài sản bảo đảm thường được định giá thấp
hơn giá trị thực tế được xác định vào thời điểm thực hiện giao dịch.
Bốn là , theo thông lệ quốc tế cần quy định rõ giao dịch vay và cho vay chứng
khoán phải thực hiện trên cơ sở Hợp đồng mẫu và phải làm thành văn bản,
trong đó bao gồm các nội dung chính về:
- Tư cách các bên tham gia giao dịch
- Quyền sở hữu đối với CK và tài sản bảo đảm
- Loại tài sản bảo đảm, tỷ lệ tài sản bảo đảm được chấp thuận
- Những thỏa thuận về việc giao tài sản bảo đảm và duy trì một tỷ lệ tài sản
bảo đảm phù hợp khi việc định giá theo giá thị trường có biến động lớn.
- Các quy định cụ thể hóa quyền của các bên đối tác về việc thay thế tài sản
bảo đảm (nếu có).
89
- Cách xử lý số cổ tức được thanh toán và các quyền khác liên quan tới CK
vay và tài sản đảm bảo, trong đó bao gồm cả thời điểm thực hiện thanh
toán.
- Các thỏa thuận về việc xử lý những sự kiện phát sinh liên quan đến quyền
đối với công ty.
- Các bước thu hồi chứng khoán và cách xử lý nếu CK đó không được giao.
- Trường hợp mất khả năng thanh toán, quyền và trách nhiệm sau đó của các
bên đối tác.
- Khiếu nại giữa các bên trong trường hợp mất khả năng thanh toán...
Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy việc áp dụng Hợp đồng mẫu (đã được kiểm soát)
là phương án có thể giảm thiểu rủi ro và là đảm bảo chắc chắn về mặt pháp lý cho các
bên trong trường hợp có sự xung đột pháp luật với các văn bản pháp lý khác có liên
quan (ví dụ như các quy định của luật dân sự về vấn đề vay tài sản).
3.4.1.3. Cải tiến và đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa DNNN
Lợi ích của việc CPH DNNN
Những DN mà nhà nước chiếm đến 99% vốn điều lệ đã không còn là DN một
chủ sở hữu mà đã trở thành một CTCP có nhiều cổ đông tham gia (nếu có
chính sách bán rộng rãi cổ phần cho người lao động và NĐT bên ngoài tham
gia). Khi đã trở thành công ty đại chúng thì DN phải có nghĩa vụ thường
xuyên công bố thông tin, như vậy tính minh bạch trong quản trị DN đã được
cải thiện.
Đã là CTCP thì DN tạo được cơ chế trả luơng và thu nhập theo cơ chế thị
trường, mà không hề bị ràng buộc theo cơ chế bảng lương được ấn định từ cơ
chế nhà nước – đây là một động lực để phát triển DN.
Ban lãnh đạo DN phải chịu một sức ép lớn hơn trước rất nhiều là phải tạo lợi
nhuận cho DN nhằm đủ nguồn để trả cổ tức tiền mặt cho cổ đông theo mặt
bằng chung của thị trường.
90
Hiện nay có 1 tình trạng phổ biến trong các Tổng công ty nhà nước là không
chú trọng đến việc đạt được 1 tỷ suất lợi nhuận bình quân như các DNNN đã
CPH, họ không chú trọng hoặc không có khả năng làm cho lợi nhuận của bộ
phận văn phòng tổng công ty cao, mà chỉ cần có ít lợi nhuận. Việc chuyển các
Tổng công ty nhà nước thành CTCP sẽ làm bộc lộ nhân sự yếu kém để cơ
quan chủ quản có điều kiện thay thế nhân sự, đồng thời làm tăng hiệu quả hoạt
động của các Tổng công ty nhà nước và tập đoàn kinh tế nhà nuớc.
Khi đã trở thành CTCP sẽ mở ra nhiều hình thức huy động vốn mới như phát
hành cổ phiếu, trả cổ phiếu bằng cổ tức….Đây là những tiền đề quan trọng để
tăng cường khả năng tài chính của công ty mẹ.
Thực tiễn về cổ phần hoá DNNN trong 15 năm qua đã chỉ ra rằng :
- Có 1 số DNNN kinh doanh liên tục thua lỗ, đến khi cổ phần hoá thì gặp
tình trạng khó bán cổ phần, cổ phần nhà nước chiếm trên 90% vốn điều lệ,
nhưng chỉ sau một thời gian ngắn đa phần đối tượng này kinh doanh hiệu
quả và từ đó làm nền tảng cho việc bán bớt hoặc bán hết cổ phần nhà nước.
- Có những DNNN kinh doanh hiệu quả, khi CPH huy động vốn lớn trong
bối cảnh chưa có TTCK hoặc TTCK bị khủng hoảng ( giai đoạn 2001 –
2003), khi chuyển thành CTCP thì nhà nước nắm cổ phần đa số tuyệt đối,
nhưng cũng chỉ 1 thời gian ngắn sau CPH, những DN đó đã tái cơ cấu
được cổ phần nhà nước.
Cần xác định mục tiêu ưu tiên của cổ phần hoá DNNN trong giai đoạn hiện nay
Theo chính sách cổ phần hoá hiện hành thì chúng ta đưa ra nhiều mục tiêu cổ
phần hoá DNNN như: Thay đổi cơ chế quản lý, huy động vốn, tìm kiếm đối
tác chiến lược, tạo hàng hoá cho TTCK….Đặt ra những mục tiêu này là hoàn
toàn đúng đắn nhưng trong bối cảnh của TTCK hiện nay thì khi cổ phần hoá
các DNNN, chúng ta không thể cùng 1 lúc đạt được ngay các mục tiêu này.
Nếu chúng ta chỉ đặt mục tiêu ưu tiên là hoàn thành thủ tục chuyển đổi công ty
nhà nước thành CTCP mà nhà nước tạm thời nắm cổ phần đa số (có thể trên
91
95% vốn điều lệ đối với những tập đoàn kinh tế lớn ) thì những mục tiêu quan
trọng khác sẽ được giải quyết nhanh sau 1 thời gian ngắn của hậu CPH.
Để đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN mà không làm ảnh hưởng đến sự ổn định
của TTCK thì :
- Tạm thời chấp nhận cổ phần đa số của nhà nước, có thể lên tới 95% vốn
điều lệ.
- IPO một lượng nhỏ cổ phiếu, số lượng phát hành không quá 50 tỷ đồng
theo mệnh giá.
Giải quyết vấn đề bán cổ phần cho đối tác chiến lược :
- Vấn đề đảm bảo tốc độ cổ phần hoá DNNN phải là ưu tiên số một.
- Đàm phán, lựa chọn đối tác chiến lược mất rất nhiều thời gian (từ 6 tháng
đến 1 năm, thậm chí 2 năm, 3 năm), vì vậy không nên đặt vấn đề là đàm
phàn lựa chọn xong đối tác chiến lược thì mới thực hiện IPO.
- Các cơ quan chỉ đạo CPH nêu ưu tiên tốc độ hoàn thành thủ tục chuyển
thành CTCP, còn đối tác chiến lược có thể thực hiện sau CPH là tốt nhất.
Những giải pháp này hoàn toàn phù hợp với qui định hiện hành, với phương pháp
này chúng ta hoàn toàn có thể đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN mà vẫn đảm bảo
kiểm soát nguồn cung, đồng thời sẽ tạo 1 lượng hàng hoá có giá trị gia tăng lớn cho
nhà nước trong việc bán bớt cổ phần nhà nước khi điều kiện cho phép.
Thay đổi cơ chế quản trị doanh nghiệp cho đối tượng mà nhà nước cần nắm giữ
100% vốn điều lệ
Các văn bản hiện hành về công ty nhà nước đã qui định 1 số đối tượng DN
không CPH hoặc chưa CPH, tuy nhiên vấn đề đặt ra là làm cách nào để nâng
cao quản trị DN tại các DN này nhằm bảo toàn và phát triển nguồn vốn nhà
nước?
Cần phân loại đối tượng DN này :
92
- Những DNNN do vấn đề bí mật về an ninh quốc phòng mà không thể công
bố thông tin ra công chúng thì được xác định là DN mà nhà nước cần nắm
giữ 100% vốn điều lệ.
- Những đối tượng DN còn lại chưa thể CPH hay không CPH do được xác
định là những DN quan trọng thì nên chuyển sang hình thức CTCP mà nhà
nước nắm giữ trên 90% vốn điều lệ. Việc chuyển đổi này chỉ có lợi cho
nhà nước mà thôi.
Hy vọng rằng các cơ quan hoạch định chính sách về đổi mới DN nên tiếp thu giải
pháp này và mong rằng khoảng 7 năm nữa thì diện đối tượng DN mà nhà nước cần
nắm giữ 100% vốn sẽ giảm khoảng 90%.
3.4.1.4. Thành lập thị trường giao dịch phi tập trung
Sự cần thiết phải của việc thành lập thị trường giao dịch phi tập trung
Có thể mang lại lợi nhuận lớn hơn: trong lúc thị trường niêm yết tập trung có
biên độ giao dịch hẹp hơn, thì biên độ +/-20% có thể đem lại khoản lợi nhuận
lớn hơn cho NĐT (tất nhiên, khả năng tổn thất nếu thua lỗ cũng cao hơn).
Bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, đặc biệt là NĐT nhỏ lẻ: giao dịch cổ phiếu trên
thị trường phi tập trung có rất nhiều rủi ro. Các giao dịch đều mang tính tự
phát, chủ yếu dựa vào sự tin tưởng lẫn nhau và không có cơ chế quản lý chặt
chẽ. Thông thường, để có thể thực hiện mua/bán CK phải thông qua người thứ
3 đứng giữa làm trung gian. Điều này có thể dẫn tới khả năng gây ra các giao
dịch thao túng giá. Thêm vào đó, có rất nhiều cổ phiếu giả được giao dịch
nhưng không được phát hiện. Vì vậy, giao dịch cổ phiếu tập trung với cơ chế
quản lý và khung pháp lý chặt chẽ sẽ tạo sự an toàn trong giao dịch, giúp NĐT
yên tâm hơn khi đầu tư CK. Đồng thời cũng thu hút NĐT tham gia vào TTCK.
Tạo tính minh bạch cho TTCK: khi thực hiện quản lý giao dịch CK của công
ty đại chúng chưa niêm yết, việc giám sát quá trình công bố thông tin của công
ty đại chúng sẽ chặt chẽ hơn. Các công ty đại chúng bắt buộc phải thực hiện
nghĩa vụ công khai thông tin theo đúng quy định. Đó là cơ sở cho NĐT có
93
nguồn thông tin chính thức để tìm hiểu, xem xét, đánh giá một cách tương đối
chính xác tình hình hoạt động của DN trước khi quyết định đầu tư.
Kênh huy động vốn: công ty đại chúng đăng ký giao dịch CK chưa niêm yết
tại TTGDCK Hà Nội có cơ hội quảng bá hình ảnh, uy tín doanh nghiệp, tìm
kiếm đối tác… Đó là lợi thế để doanh nghiệp tiếp tục phát hành chứng khoán
huy động vốn, đồng thời có điều kiện thuận lợi hơn khi niêm yết chính thức.
Nguyên tắc chung
Chứng khoán của các công ty đại chúng chưa niêm yết trên Sở/TTGDCK sẽ được
đăng ký và lưu ký tập trung tại TTLK và giao dịch tại các CTCK. Kết quả giao dịch
sẽ được tổng hợp qua TTGDCK Hà Nội để thực hiện thanh toán bù trừ tại TTLK.
Căn cứ trên kết quả giao dịch và thanh toán bù trừ, CTCK sẽ hạch toán tăng/giảm số
lượng chứng khoán trên tài khoản của nhà đầu tư liên quan.
Theo đó, CK đăng ký giao dịch bao gồm cổ phiếu của các công ty đại chúng chưa
niêm yết và trái phiếu chuyển đổi của các công ty đại chúng. Tuy nhiên, những
chứng khoán này phải đáp ứng đủ 3 điều kiện:
Thứ nhất, là CK của công ty đại chúng chưa niêm yết hoặc bị hủy niêm yết tại
TTGDCK Hà Nội/ SGDCK TP. HCM.
Thứ hai, CK đã được đăng ký lưu ký tại TTLK.
Thứ ba, được 1 CTCK là thành viên bảo trợ (CTCK thành viên cam kết với
công ty đại chúng thực hiện các thủ tục đăng ký giao dịch chứng khoán và bảo
đảm hỗ trợ tổ chức đăng ký giao dịch trong việc thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa
vụ công bố thông tin theo quy định).
Một số quy định về giao dịch
Đơn vị giao dịch: không quy định.
Đơn vị yết giá: 100 đồng (đối với cổ phiếu) và 1 đồng (đối với trái phiếu).
Mệnh giá giao dịch: 10.000 đồng (đối với cổ phiếu); 100.000 đồng (đối với
trái phiếu).
Biên độ dao động giá: +/-20%.
94
Giá tham chiếu: TTGDCK Hà Nội tính toán và công bố giá tham chiếu theo
phương thức bình quân gia quyền.
Phương thức giao dịch: thỏa thuận thông thường (các bên tự thỏa thuận với
nhau về điều kiện giao dịch và được đại diện giao dịch của CTCK nhập thông
tin vào hệ thống đăng ký giao dịch để xác nhận các giao dịch này); thỏa thuận
điện tử (đại diện giao dịch của CTCK nhập lệnh với các điều kiện giao dịch đã
được xác định và lựa chọn lệnh đối ứng phù hợp để thực hiện giao dịch).
Thời gian thực hiện: NĐT có thể thoả thuận giao dịch với nhau bất kỳ thời
gian nào trong ngày. Tuy nhiên, thời gian yêu cầu CTCK thực hiện nhập báo
cáo kết quả giao dịch vào hệ thống là từ 10h - 12h và từ 13h -15h tất cả các
ngày làm việc.
Phí giao dịch: do CTCK quy định nhưng mức thu không vượt quá mức trần
hay thấp hơn mức sàn do Bộ Tài chính quy định.
Các báo cáo kết quả giao dịch đã nhập vào hệ thống không được phép huỷ bỏ.
Trường hợp trong phiên giao dịch, nếu phát hiện ra sai sót trong quá trình
nhập báo cáo giao dịch thì CTCK sẽ thực hiện sửa báo cáo giao dịch trên hệ
thống theo quy trình do TTGDCK Hà Nội hướng dẫn.
Lệnh chào mua/chào bán có hiệu lực tối đa trong 1 ngày giao dịch hoặc cho
đến khi được thực hiện hoặc bị huỷ bỏ. Trường hợp muốn thay đổi các thông
tin của lệnh chào mua/chào bán, CTCK thực hiện huỷ lệnh chào mua/chào bán
cũ và nhập lại lệnh mới.
Giao dịch của nhà đầu tư
Nhà đầu tư chỉ được có một tài khoản CK và chỉ được mở tại một CTCK duy
nhất. Trường hợp NĐT đã có tài khoản giao dịch CK niêm yết thì sẽ dùng
ngay tài khoản này để thực hiện giao dịch và lưu ký CK chưa niêm yết. Tài
khoản sẽ được tách biệt thành 2 tiểu khoản (CK niêm yết và CK chưa niêm
yết) để tiện việc theo dõi, giám sát.
95
Khi đặt lệnh bán, NĐT phải có đủ số lượng CK trên tài khoản chứng khoán
mở tại các CTCK được phép thực hiện giao dịch. Khi đặt lệnh mua chứng
khoán, NĐT phải ký quỹ đầy đủ 100% tiền.
3.4.2 Phát triển các định chế trung gian
3.4.2.1 Nâng cao chất lượng hoạt động tại các công ty chứng khoán
Một trong những giải pháp chiến lược để nâng cao hoạt động đầu tư, giảm thiểu rủi
ro trong đầu tư CK, tạo cầu nối cho cung cầu CK gặp nhau là phải mở rộng phát triển
qui mô và nâng cao chất lượng dịch vụ hoạt động của các tổ chức tài chính trung
gian, đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao nghiệp vụ và tính chuyên nghiệp trong
việc cung cấp dịch vụ.
CTCK là một trong những định chế tài chính trung gian quan trọng tham gia hoạt
động trên TTCK. Từ khi thành lập đến nay TTCK Việt Nam đã thu hút gần 100
CTCK được thành lập. Đây cũng là thành công mà TTCK đem lại sau 8 năm đi vào
hoạt động. Tuy nhiên, khi có quá nhiều CTCK cùng hoạt động trong khi số tài khoản
của nhà đầu tư lại quá ít thì lại dẫn đến những cạnh tranh không lành mạnh để lôi kéo
khách từ các CTCK khác về công ty của mình. Bài học từ các thị trường mới nổi cho
thấy Trung Quốc trước đây có số lượng các CTCK lên đến 2.000 các công ty, nhưng
đến thời điểm sụt giảm còn 70 các công ty, hiện nay là 107 các công ty. Đài Loan
thời điểm cao nhất có 278 các công ty, sau đó sụt giảm còn 48 các công ty. Thái Lan
trước đây cũng có tới hơn 200 các CTCK, sau đó giảm xuống còn hơn 50 các công
ty.
Việc giảm số lượng các các CTCK tại các nước thường được thực hiện thông qua
việc tăng yêu cầu về mức đủ vốn của các các CTCK (đây cũng là điều kiện cơ bản và
khó nhất khi lập các CTCK). Điều này dẫn đến hàng loạt các cuộc sáp nhập, thâu
tóm, hợp nhất giữa các các công ty.
Mặt khác, theo cam kết về dịch vụ CK khi Việt Nam gia nhập WTO, vào năm 2012,
các các CTCK nước ngoài được phép thành lập văn phòng đại diện, chi nhánh, các
CTCK 100% vốn tại Việt Nam. Giới hạn số lượng các CTCK lúc này sẽ đặt các các
CTCK trong nước vào nguy cơ bị thâu tóm bởi các các công ty nước ngoài có tiềm
96
lực tài chính mạnh. Kinh doanh dịch vụ CK nhiều khả năng sẽ trở thành sân chơi do
các nhà cung cấp dịch vụ khổng lồ nước ngoài thống trị, trong khi các công ty trong
nước với kinh nghiệm còn non trẻ, tiềm lực kinh tế còn mỏng khó lòng sống sót trong
cuộc cạnh tranh sắp tới.
Chúng ta nên tập trung vào việc nâng tiêu chí thành lập các CTCK dưới góc độ nâng
cao chất lượng, như việc bắt buộc khi thành lập các CTCK mới cần phải có sự tham
gia của các định chế tài chính lớn như ngân hàng, bảo hiểm…
Trong mọi thời điểm, thiết nghĩ, vấn đề chất lượng nên được đặt lên hàng đầu, nhất là
trong tình hình thị trường hiện nay, việc tăng cường năng lực cho đội ngũ trung gian
thị trường càng là vấn đề cấp thiết.
Trong số các nghiệp vụ kinh doanh CK thì hoạt động môi giới là quan trọng nhất và
phổ biến nhất, đóng góp quan trọng cho việc tăng tính thanh khoản cho thị trường và
mở rộng qui mô giao dịch thị trường. Tuy nhiên, hoạt động môi giới của hầu hết các
CTCK trong thời gian qua chưa đáp ứng được sự mong đợi của khách hàng.
Nhu cầu được tư vấn của NĐT cá nhân rất cao. Nhất là thời điểm hiện nay, khi thị
trường không còn cảnh mua đâu, thắng đó nên NĐT rất cần có nhiều thông tin, có
người trao đổi trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Nhưng nhìn chung, những lời
tư vấn của các nhân viên môi giới còn nặng về cảm tính, không chuyên sâu về phân
tích. Hơn nữa, các quy định ràng buộc về trách nhiệm của người tư vấn hầu như
không có nên NĐT phải biết sàng lọc và xem đó như một nguồn thông tin tham khảo.
Để nâng cao chất lượng dịch vụ, thu hút nhiều hơn các NĐT tham gia và nhằm hạn
chế rủi ro cho các NĐT, các CTCK cần phát triển các hình thức tư vấn đầu tư và
nâng cao năng lực hiệu quả hoạt động tư vấn cho khách hàng:
Các CTCK phải chủ động tuyển dụng có chọn lọc một đội ngũ nhân viên tư
vấn có năng lực thực sự, có ý thức, tác phong năng động, hoạt bát, có đạo đức
nghề nghiệp tốt. Đây là một trong những vấn đề khó khăn đối với các CTCK
hiện nay khi mà vấn đề nhân sự trong lĩnh vực tài chính trở nên khan hiếm
trong thời gian qua.
97
Định kỳ, các CTCK nên tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm về nghiệp vụ
chuyên môn, để các nhân viên nghiệp vụ học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, tức là
không chỉ đào tạo theo hướng chuyên nghiệp, mà còn phải đào tạo song
phương theo hướng đào tạo và tự đào tạo. Bên cạnh đó, các CTCK cần phải tổ
chức các buổi tư vấn, thuyết trình, giải đáp những thắc mắc để nâng cao kiến
thức và kinh nghiệm cho các NĐT.
Các CTCK cũng cần có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với các nhân viên tư
vấn làm tốt chuyên môn, nhằm khuyến khích họ phát huy hơn nữa năng lực
của mình.
Đối với việc tư vấn cho các cá nhân cần phân biệt rõ thành hai loại hình khách
hàng. Đó là những người cần tư vấn sẽ phải chịu thêm một mức phí tư vấn và
những người hoàn toàn không cần tư vấn. Trong đó, đối với những người cần
tư vấn có thể xem xét việc phát triển loại hình tư vấn toàn phần.
UBCK Nhà nước cần phải hoàn thiện hệ thống đào tạo, cấp phép hành nghề tư
vấn CK và phổ biến kiến thức, nâng cao nhận thức cho công chúng đầu tư.
Xây dựng chương trình đào tạo theo sát đúng với thực tế Việt Nam có tính
chuyên sâu và riêng biệt; xây dựng đội ngũ giảng viên tốt về phẩm chất, sâu
về chuyên môn và giỏi về phương pháp sư phạm là vấn đề cần phải được quan
tâm; xây dựng quy trình đào tạo từ việc quản lý, ra đề thi, tổ chức thi, chấm
thi, cấp chứng chỉ.
Đối với các nhân viên của mình các công ty chứng khoán cần thường xuyên
kiểm tra, phát hiện những sai sót, để chắc chắn rằng nhân viên của mình thực
hiện các hành vi tư vấn đúng theo pháp luật chứng khoán và đạo đức của nhà
tư vấn. Mặt khác giữa các khách hàng và công ty chứng khoán xảy ra những
mâu thuẫn về quyền lợi do đó các cơ quan chức năng cần thanh tra kiểm tra
thường xuyên các CTCK để đảm bảo quyền lợi khách hàng luôn đặt trước
quyền lợi của công ty.
Tóm lại TTCK đóng một vai trò quan trọng trong việc huy động vốn và bổ sung các
nguồn vốn đầu tư hợp lý, thông qua TTCK các nguồn vốn trong nước và nước ngoài
98
được tập trung sử dụng cho các dự án đầu tư, mở rộng sản xuất phát triển kinh tế…
Có thể nói TTCK là một thị trường tài chính cao cấp muốn tham gia cần phải có
những kiến thức và mức am hiểu nhất định. Chính vì vậy chúng ta cần phát triển các
nghiệp vụ của CTCK đặc biệt là hoạt động tư vấn của các CTCK nhằm từng bước tạo
một nền văn hóa chứng khoán cho công chúng nhằm mục đích phát triển TTCK nói
riêng và nền kinh tế nói chung
3.4.2.2 Thành lập quỹ bình ổn TTCK
Khi TTCK Việt Nam đi xuống trong giai đoạn vừa qua, ý tưởng hình thành quỹ bình
ổn thị trường được nhìn nhận là một hướng đi tích cực.
Quỹ bình ổn TTCK là một mô hình góp vốn bằng tiền mặt từ các công ty thành viên
và các Quỹ đầu tư CK trên thị trường. Số tiền sẽ được quản lý và sử dụng bởi một
công ty được lập ra chuyên để bảo đảm lợi ích cho các NĐT trong những trường hợp
xấu. Như vậy khoản tiền này có thể được tung ra để bình ổn thị trường trong những
lúc biến động quá dữ dội, qua đó giúp các nhà đầu tư khỏi bị sốc
Tại Hàn Quốc, mô hình này đã từng xuất hiện năm 1968. Singapore, Hồng Kông, Đài
Loan cũng có mô hình quỹ bình ổn thị trường theo hình thức này. Nhật Bản đã hình
thành quỹ này từ những năm 60 của thế kỷ trước. Năm 1964, khi chỉ số Nikkei của
TTCK Nhật Bản từ đỉnh cao trên 1800 điểm rơi xuống gần 1000 điểm, nền kinh tế
Nhật Bản cũng gặp một số khó khăn tương tự nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Đó là,
TTCK lao dốc mạnh, cán cân thanh toán thâm hụt, lạm phát tăng cao. Chính phủ
Nhật Bản đã phải tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát và thành lập một công ty chứng
khoán, hoạt động như mô hình một quỹ bình ổn. Các thành viên góp vốn cho công ty
này thuộc lĩnh vực tư nhân, bao gồm các ngân hàng, các công ty môi giới chứng
khoán. Số vốn huy động được khoảng 10 tỷ Yên. Sau hơn 1 năm, TTCK Nhật đã có
phần hồi phục.
Cần nhìn nhận rằng mục tiêu của Quỹ là bình ổn thị trường. Vì vậy, quỹ có tác động
ổn định thị trường trong ngắn hạn và phát triển thị trường trong dài hạn. Trong ngắn
hạn, các thành viên tham gia quỹ có thể gặp một số khó khăn khi phải hy sinh lợi ích
ngắn hạn để phục vụ mục tiêu dài hạn.
99
Tuy nhiên, cơ chế điều hành và quản trị nguồn vốn như thế nào để đảm bảo lợi ích
công bằng của các chủ thể thị trường là một điều đáng được quan tâm. Đây là một
vấn đề phức tạp và khó khăn. Mua bán như thế nào, lỗ lãi được tính toán ra sao đều là
những vấn đề khó khăn cần xem xét kỹ lưỡng và cần có sự đồng thuận giữa các thành
viên. Thêm vào đó, ở Việt Nam vẫn có tình trạng đầu cơ và thao túng nên việc vận
hành quỹ là một vấn đề rất phức tạp.
Việc hình thành quỹ dù sao vẫn rất cần sự hỗ trợ của Chính phủ và các tổ chức. Theo
đó, Nhà nước có thể trích một phần thặng dư trong quá trình cổ phần hóa các doanh
nghiệp nhà nước lớn để đóng góp vào quỹ.
Về vấn đề điều hành, chính phủ phải có đóng góp vào quỹ nhưng không nên tham gia
điều hành. Việc điều hành nên để các thành viên thị trường bầu chọn, không chỉ dựa
trên tiêu chí về số vốn mà quan trọng hơn là tiêu chí về đạo đức. Đồng thời, Chính
phủ nên đối thoại với quỹ về hoạt động của quỹ. Ngược lại, quỹ cũng có thể thỏa
thuận với Chính phủ về những điều kiện để tuân thủ các mệnh lệnh của Chính phủ,
đồng thời, yêu cầu chính phủ minh bạch công khai thông tin để phục vụ các hoạt
động.
3.4.3 Phát triển hệ thống điều hành của chính phủ
3.4.3.1 Nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giám sát của nhà nước
Chứng khoán là thị trường nhạy cảm, nơi mà lòng tin của NĐT vào sự hưng thịnh
của nền kinh tế, vào tính minh bạch của thị trường quyết định đến thành công của thị
trường. Trong thời gian qua, niềm tin của NĐT vào thị trường đang bị lung lay bởi
rất nhiều lý do, trong đó đáng kể nhất là thị trường thiếu tính minh bạch. Giao dịch
nội gián, tiết lộ thông tin nội bộ, cổ đông lớn chèn ép cổ đông nhỏ, hối lộ bằng quyền
mua cổ phiếu, ưu tiên lệnh công ty trước lệnh khách hàng… hàng loạt hành vi tuy
chưa đến mức phải tử hình nhưng đang đánh vào cái gốc của thị trường, đó là niềm
tin của nhà đầu tư. Nếu ra đi vì thua lỗ, một lúc nào đó nhà đầu tư sẽ quay lại với thị
trường, nhưng nếu mất lòng tin, họ sẽ không bao giờ trở lại.
Sự phát triển của TTCK hiện cũng đang đặt ra một số vấn đề phải quan tâm xử lý
như: giá một số cổ phiếu tăng liên tục ở mức cao; chất lượng dịch vụ của các tổ chức
100
tài chính trung gian, hoạt động tư vấn, giám sát, định giá cổ phẩn để niêm yết, chất
lượng và quản lý thông tin còn hạn chế; các quy định về quản lý, kiểm soát thị trường
đảm bảo phát triển bền vững còn thiếu và chưa đồng bộ; sự chủ động của các Bộ,
ngành chức năng cũng như sự phối hợp liên ngành để thực hiện quản lý, kiểm soát
TTCK chưa thật tốt; năng lực quản lý giám sát thị trường của UBCKNN còn yếu.
Để tiếp tục tạo điều kiện cho TTCK phát triển ổn đinh, bền vững, thực sự trở thành
một kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế; đồng thời, bảo đảm lợi ích hợp
pháp cho nhà đầu tư, góp phần hoàn thiện và phát triển đồng bộ thị trường tài chính
Việt Nam, các cơ quan chức năng cần thực hiện những vấn đề sau:
Phát triển thị trường các giao dịch chính thức, tăng cường quản lý các công ty
đại chúng theo quy định của Luật chứng khoán nhằm thu hẹp thị trường OTC.
Giám sát các hoạt động của các quỹ đầu tư CK, đặc biệt đối với các quỹ đầu
tư CK nước ngoài phải bảo đảm hoạt động theo đúng các quy định của pháp
luật về tỷ lệ cổ phiếu, công bố thông tin và các quy định hiện hành khác; đồng
thời, phát hiện, xử lý kịp thời và nghiêm khắc mọi hành vi vi phạm; chỉ cho
phép thành lập các quỹ đầu tư CK đủ điều kiện theo quy định của pháp luật;
phối hợp với Ngân hàng Nhà nước xây dựng cơ chế kiểm soát luồng tiền để
giám sát hoạt động đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt
Nam. Thực hiện đăng ký lại ngay các văn phòng đại diện của các tổ chức kinh
doanh chứng khoán theo quy định của Luật Chứng khoán.
Giám sát hoạt động giao dịch trên các SGDCK, TTGDCK; chú trọng kiểm
soát việc thực hiện quy định về công bố thông tin của các tổ chức, cá nhân
hoạt động trên TTCK; bảo đảm tuân thủ quy trình về đặt lệnh giao dịch, lưu
ký, thanh toán CK để các hoạt động này đều được thực hiện một cách công
khai, minh bạch, đúng pháp luật.
Giám sát hoạt động môi giới, tư vấn đầu tư, tư vấn định giá doanh nghiệp để
các hoạt động dịch vụ này thực sự có chất lượng, phản ảnh trung thực và là
hoạt động có độ tin cậy cao đối với các NĐT chứng khoán.
101
Tăng cường giám sát hoạt động giao dịch trên các SGDCK, TTGDCK; chú
trọng kiểm soát việc thực hiện quy định về công bố thông tin của các tổ chức,
cá nhân hoạt động trên TTCK; bảo đảm tuân thủ quy trình về đặt lệnh giao
dịch, lưu ký, thanh toán CK để các hoạt động này đều được thực hiện một
cách công khai, minh bạch, đúng pháp luật.
Nghiên cứu, ban hành cơ chế tài chính phù hợp đối với UBCK, SGDCK,
TTGDCK, TTLKCK, để có thể thu hút, khuyến khích cán bộ có năng lực và
chuyên môn làm việc tại cơ quan quản lý, giám sát TTCK.
Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh việc thông tin tuyên
truyền với nội dung và phương thức đa dạng để công chúng có hiểu biết hơn
về những lợi ích cũng như những rủi ro khi tham gia thị trường.
Tiếp tục giám sát hoạt động của các NHTM trong hoạt động repo, huy động,
cho vay, cầm cố để đầu tư CK; xây dựng, củng cố về tổ chức và áp dụng các
công cụ quản lý thích hợp để bảo đảm giám sát được luồng vốn đầu tư nước
ngoài vào TTCK trong mối liên hệ giữa TTCK và thị trường tiền tệ.
3.4.3.2 Tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK
Kinh doanh CK không phải là đánh bạc như nhiều người nghĩ. Tuy nhiên, thống kê
cả nước hiện có trên 400.000 tài khoản của nhà đầu tư tổ chức, cá nhân thì con số
NĐT có bài bản và chiến lược trên các sàn CK quả là không nhiều. Nghịch lý này
dẫn tới chuyện nhiều NĐT thiếu chuyên nghiệp lên sàn mơ đổi đời bằng được trong
phút chốc trong khi kiến thức, kinh nghiệm còn thiếu khiến cho mỗi khi chỉ số chứng
khoán sụt giảm thì họ là những người bị ảnh hưởng đầu tiên.
Trong chiến lược phát triển TTCK, gắn với tiến trình cải cách đổi mới nền kinh tế
trong giai đoạn hội nhập; một nội dung khá cần thiết đang được đặt ra hiện nay là
công tác phổ cập kiến thức CK. Có thể nói, việc phổ cập kiến thức CK hiện nay chưa
được thực hiện “tận gốc” và đây cũng chính là một trong những yếu tố hạn chế sự
phát triển của TTCK
Hiện nay, công tác đào tạo và phổ cập hiện mới bó hẹp trong UBCKNN. Các hoạt
động của UBCKNN trong khâu này mới chỉ giới hạn ở việc trực tiếp mở một số khoá
102
đào tạo nghiệp vụ ngắn ngày, chủ yếu ở Hà Nội, Tp.HCM với tổng số người học còn
quá khiêm tốn, chỉ vài ngàn người.
Mặt khác, các khóa đào tạo của UBCKNN là những chứng chỉ cần thiết cho các cá
nhân muốn hoạt động môi giới CK nên phần nào bó hẹp trong một số đối tượng của
các CTCK. Các thành phần khác như NĐT, cá nhân được phổ cập chưa nhiều.
Một hạn chế lớn nhất trong công tác tuyên truyền về CK và TTCK là chưa có sự kết
hợp với các phương tiện truyền thông đại chúng. Việc đưa tin về TTCK là hoàn toàn
tự nguyện. Hiện mới chỉ có 1 tờ báo chuyên về TTCK. Một số báo và tạp chí kinh tế,
tài chính chỉ đưa tin về TTCK trong trang mục kinh tế – xã hội hoặc thị trường tài
chính nói chung.... Các cơ quan báo chí cũng chưa được giúp đỡ nhiều trong việc đào
tạo phóng viên có kiến thức về CK, chưa được hoan nghênh trong công tác tuyên
truyền về CK và TTCK, chưa có cơ hội và kinh nghiệm trong việc tiếp cận với kinh
nghiệm TTCK nước ngoài.
Do vậy, cần phải có chiến lược cụ thể để tuyên truyền phổ cập kiến thức về TTCK.
Mở rộng tuyên truyền, phổ cập kiến thức cho công chúng trên các phương tiện
thông tin đại chúng như: báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, mạng
Internet, các khóa đào tạo miễn phí, xây dựng các bản tin, các chuyên mục về
CK và TTCK,...
Tổ chức các trò chơi tìm hiểu về CK và TTCK trên các phương tiện truyền
thanh, truyền hình, báo chí, tổ chức các cuộc thi CK ảo, thi phân tích tài chính,
thi làm giám đốc tài chính, thi làm giám đốc điều hành,... cũng là biện pháp
phổ biến kiến thức cho công chúng.
Trung tâm nghiên cứu đào tạo UBCKNN cần thiết phải mở các lớp học mẫu
ngắn hạn, tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về CK và TTCK tại các
Trung tâm văn hóa quận, huyện hay Nhà văn hóa thanh niên cho các đối tượng
đang sinh hoạt tại đây để vừa có dịp vui chơi, giải trí vừa có dịp học tập bổ ích
bởi vì nhu cầu tìm hiểu và tham gia TTCK trong công chúng là rất lớn.
Các trường Đại học tiếp tục hình thành và phát triển hơn nữa bộ môn CK cũng
như đưa các môn học chuyên sâu vào chương trình để vừa phục vụ công tác
103
đào tạo tại trường vừa đáp ứng nhu cầu học hỏi nâng cao trình độ của những
người làm việc trong lĩnh vực này.
Khuyến khích tất cả giáo viên dạy về CK phải có kinh nghiệm thực tế, tham
gia đầu tư CK, tiến tới xoá bỏ việc dạy chay.
Đào tạo bài bản về chứng khoán cho tất cả phóng viên về kinh tế.
UBCKNN phối hợp đào tạo với các nước có TTCK phát triển để học hỏi kinh
nghiệm đầu tư và tiếp cận với nền văn hóa CK tiên tiến của thế giới.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trong chương này, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững
TTCK Việt Nam. Các giải pháp được đưa ra dựa trên chủ trương chính sách của
chính phủ trong việc phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm
2020. Do giới hạn của luận văn, tác giả chỉ tập trung vào hai giải pháp chính là việc
niêm yết chứng khoán ra thị trường nước ngoài và thành lập tổ chức định mức tín
nhiệm. Ngoài ra còn có các giải pháp bổ trợ cho sự phát triển bền vững của TTCK
như: nâng cao hiệu quả của việc phát hành cổ phiếu doanh nghiệp trên TTCK, đẩy
nhanh quá trình CPH, đa dạng hóa các sản phẩm trên thị trường, thành lập thị trường
giao dịch phi tập trung, nâng cao chất lượng hoạt động tại các CTCK, thành lập quỹ
bình ổn thị trường, nâng cao hiệu quả công tác giám sát của nhà nước, tuyên truyền
phổ biến kiến thức chứng khoán.
104
KẾT LUẬN
Qua 8 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho việc phát
triển ngành tài chính ngân hàng nói riêng, nền kinh tế nói chung. TTCK trở thành
kênh huy động vốn hiệu quả của doanh nghiệp và của nền kinh tế thông qua việc phát
hành cổ phiếu. Qua TTCK, các DN huy động được nguồn vốn khổng lồ trong dân
chúng, biến nguồn vốn nhàn rỗi ngắn hạn thành các khoản đầu tư dài hạn, phục vụ
cho sản xuất, kinh doanh. Hàng ngàn tỷ đồng đã được đưa vào sản xuất, kinh doanh,
vòng quay vốn của toàn nền kinh tế được cải thiện rõ rệt. Nhưng bên cạnh đó, TTCK
còn tiềm ẩn nhiều vấn đề cần phải giải quyết để có thể tăng trưởng bền vững, trở
thành "hàn thử biểu" của nền kinh tế. Những giải pháp nhằm tăng cung kích cầu,
hoàn thiện môi trường đầu tư cần nhanh chóng được triển khai thực hiện.
Chúng ta tin rằng, việc đánh giá đúng các kết quả đạt được, nhìn rõ những nguyên
nhân của hạn chế thiếu sót, xác định rõ mục tiêu phát triển của thị trường và hướng
giải pháp khắc phục những tồn tại sẽ thúc đẩy TTCK Việt Nam ngày một phát triển
bền vững hơn.
105
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Kim Yến, (2005), TTCK, Nhà xuất bản Lao động
2. Đào Lê Minh, (2002), Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và TTCK, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia.
3. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, (2006), “Luật chứng khoán”.
4. Trần Đắc Sinh, (2005), Các giải pháp để đưa doanh nghiệp tiềm năng lên
niêm yết trên TTCK, Đề tài nghiên cứu khoa học, Sở Khoa học Công nghệ
TP.HCM.
5. Trần Đắc Sinh, (2005), “Đánh giá 5 năm hoạt động của TTCK Việt Nam”, Ủy
ban chứng khoán Nhà nước, TP.HCM
6. Trần Ngọc Thơ, (2005), Tài chính doanh nghiệp hiện đại, Nhà xuất bản
Thống kê.
7. Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP.HCM, (2006), Tổng kết 5 năm TTCK
Việt Nam, NXB Phương Đông, TP.HCM.
Các trang web
1. Ủy ban chứng khoán Nhà nước www.ssc.gov.vn
2. Bộ Tài chính www.mof.gov.vn
3. Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM www.hsx.vn
4. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội www.hastc.org.vn
5. Đầu tư chứng khoán www.vir.com.vn
6. Tin nhanh chứng khoán www.tinnhanhchungkhoan.com.vn
7. Tin nhanh Việt Nam www.vnexpress.net
8. Thời báo kinh tế Việt Nam www.vneconomy.vn
9. Saga Việt Nam www.saga.vn
10. Báo Tuổi trẻ www.tuoitre.com.vn
11. Báo Vietnamnet vietnamnet.vn
12. Báo Thanh niên thanhnien.com.vn
13. Công ty CP Chứng khoán Thăng Long www.thanglongsc.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1.pdf