LỜI MỞ ĐẦU
Khi chính sách mở cửa bắt đầu từ năm 1986, quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam ngày càng phát triển, đặc biệt khi Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) chúng ta phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, không những đối với các DN mà với cả những cá nhân có nguồn vốn hạn hẹp. Điều đó đòi hỏi các DN cũng như những cá nhân phải luôn tìm cách hoàn thiện mình hơn nữa nếu không muốn bị đào thải trước sự lớn mạnh của các công ty nước ngoài đang hoạt động trong nước. Tuy nhiên, đây không phải là một vấn đề dễ thực hiện, nếu chỉ dựa vào nguồn vốn sẵn có của mình thì các DN cũng như những cá nhân không phải là đối thủ của các công ty đó. Vì thế cần phải mở rộng quan hệ hợp tác với NH và các tổ chức tín dụng khác để đáp ứng nhu cầu về vốn cho các DN cũng như những cá nhân. NH có một vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, thúc đẩy quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn trong xã hội.
Từ trước đến nay khi quan hệ mua bán với nhau các DN trong và ngoài nước thường sử dụng các hình thức thanh toán như: Chuyển tiền, Nhờ thu, TDCT. Nếu như hai phương thức đầu đều bất lợi cho một bên là bên mua hoặc bên bán, NH chỉ là trung gian và không bị ràng buộc trách nhiệm phải thanh toán thì bên cạnh đó phương thức TDCT có mặt như là một giải pháp đảm bảo quyền lợi cho tất cả các bên tham gia. Nhờ có những ưu điểm như vậy nên phương thức này được ưa chuộng hơn hẳn. Nhưng cái gì cũng có hai mặt của nó, TDCT tỏ ra rất ưu việt, thế nhưng nó vẫn không tránh được rủi ro cho các bên tham gia một cách tuyệt đối mà chỉ giảm thiểu phần nào đáng kể. Các DN Việt Nam bước chân vào thị trường thế giới còn nhiều mới lạ, kinh nghiệm còn non trẻ thế nên các NH và các DN XNK đã gặp rất nhiều khó khăn và rủi ro trong việc thanh toán bằng phương thức TDCT. Do đó việc thực hiện, hoàn thiện và phát triển công tác TTQT cụ thể là nghiên cứu phòng chống rủi ro trong thanh toán TDCT là một trong những mối quan tâm thường xuyên của NH.
Trong những năm qua hoạt động TTQT và kinh doanh ngoại tệ của NHNo&PTNT(CN6) ngày càng phát triển. Vì thế trong thời gian thực tập tại NHNo&PTNT(CN6), đa phần khách hàng của Chi nhánh đều là NK với hoạt động thanh toán chủ yếu bằng phương thức TDCT, trên những cơ sở kiến thức đã học và qua nghiên cứu tài liệu em đã chọn đề tài cho mình như sau: “Các rủi ro thường gặp, giải pháp hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức Tín dụng chứng từ tại NHNo&PTNT(CN6)”. Đề tài tập trung nghiên cứu, giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động thanh toán hàng NK bằng phương thức TDCT tại NHNo&PTNT(CN6). Trên cơ sở phân tích lý luận theo phương pháp luận khoa học logic về thực tiễn rủi ro trong thanh toán TDCT, đề tài đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong phương thức thanh toán TDCT tại NHNo&PTNT(CN6).
Mục tiêu đề tài: tìm hiểu về phương thức TDCT, đồng thời tìm ra những rủi ro và những biện pháp đề phòng rủi ro, nhằm tối thiểu hóa những thiệt hại do rủi ro TDCT gây ra. Từ đó đề ra những giải pháp và kiến nghị góp phần khắc phục và phòng ngừa rủi ro để có thể nâng cao hơn nữa hiệu quả trong hoạt động TDCT.
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: Tìm hiểu về hoạt động TDCT tại NHNo&PTNT(CN6), tập trung đi sâu tìm hiểu quá trình thanh toán TDCT, những rủi ro phát sinh, đánh giá về hoạt động TDCT của NH từ 2007 - 2009 qua các số liệu thu thập được tại NH. Qua đó có thể đưa ra được những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và hạn chế rủi ro tại NH.
Phương pháp nghiên cứu: Thu thập số liệu nguồn từ NHNo&PTNT(CN6) đồng thời kết hợp với các phương pháp:
+ Phương pháp phân tích tỷ trọng, số tuyệt đối, số tương đối.
+ Phương pháp phân tích đánh giá số liệu thực tế tại Chi nhánh.
+ Phương pháp thống kê tổng hợp số liệu giữa các năm.
+ Ngoài ra còn dùng các biểu đồ minh họa để cho việc phân tích rõ ràng hơn.
Nội dung đề tài gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về thanh toán quốc tế và phương thức Tín dụng chứng từ.Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức Tín dụng chứng từ tại NHNo&PTNT(CN6).Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức thanh toán Tín dụng chứng từ tại NHNo&PTNT(CN6).
Tuy nhiên do có nhiều hạn chế về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn nên chuyên đề này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý từ phía thầy cô, NHNo&PTNT(CN6), các bạn bè để bài viết được hoàn thiện hơn.
60 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1571 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các rủi ro thường gặp, giải pháp hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh 6, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịnh, và chuyển cho khách hàng L/C bằng fax để kiểm tra sau khi phát hành xong, tạo thuận lợi và an toàn cho nhà NK khi thực hiện theo đúng yêu cầu về thời gian thanh toán đã thỏa thuận trong Hợp đồng ngoại thương, góp phần hỗ trợ cho việc kinh doanh của DN được diễn ra liền mạch thuận lợi, không bị gián đoạn, tiết kiệm được thời gian. Uy tín của NH cũng ngày một được nâng cao trong việc nỗ lực không ngừng rút ngắn thời gian phát hành L/C nhằm phục vụ khách hàng tốt nhất trong khả năng có thể. Bên cạnh những ưu điểm như trên tuy nhiên, đôi khi có tình trạng NH phát hành hơi chậm hơn so với bình thường do nguyên nhân từ phía khách hàng là: bộ hồ sơ của khách hàng không đầy đủ phải chờ bổ sung (chuẩn bị thiếu, …) các loại giấy tờ của khách hàng không khớp với nhau cho nên khách hàng phải tốn thời gian cho việc lên NH bổ sung, sửa chữa hồ sơ cho hoàn chỉnh theo đúng yêu cầu của quy trình mà thanh toán viên đã hướng dẫn. Ví dụ: trong đơn đề nghị mở Thư tín dụng và Hợp đồng thì phát hiện sai tên người thụ hưởng. Bởi vì đây là Hợp đồng ký tay ba nên người thụ hưởng trong Thư tín dụng không phải là người bán ký kết Hợp đồng và Hợp đồng không thể hiện NH chuyển nhượng. Lúc này việc mở L/C sẽ bị chậm lại và kéo theo việc giao hàng của nhà XK cũng chậm ảnh hưởng không nhỏ tới nhu cầu cần hàng (hay nguyên vật liệu) để bán (hay sản xuất) của nhà NK. Cũng có trường hợp khách hàng của NH (công ty Cổ phần Intimex) không nhận được BCT để đi nhận hàng mặc dù hàng đã nằm chờ ngoài Cảng và BCT cũng vừa đến Chi nhánh nguyên nhân là do khách hàng không thương lượng rõ với đối tác nước ngoài (nhà XK cũng không nắm rõ quy trình thanh toán) về quy trình đường đi của BCT và một phần do nôn nóng hàng nằm ngoài Cảng tốn chi phí nên hối thúc nhà XK gởi BCT sớm. Mặc dù BCT đã đến NHNo&PTNT(CN6) nhưng không thể giao cho khách hàng được vì nhà XK đã chuyển thẳng BCT đến NH mở L/C mà không thông qua NH thông báo, không có tờ điện đòi tiền của NH thông báo gởi cho NH mở L/C. Lúc này có hai trường hợp xử lý một là gởi trả BCT về nhà XK gởi cho NH thông báo tốn nhiều thời gian và chi phí, hai là chuyển sang phương thức thanh toán khác.
=> Nên cần đưa ra giải pháp để tạo sự liên kết trực tuyến giữa NH và khách hàng, đỡ tốn thời gian và chi phí cho hai bên.
- Từ phía NH:
Đội ngũ cán bộ làm công tác Kinh doanh ngoại hối tại Chi nhánh chưa đảm bảo về số lượng tuy rất giỏi nhưng cũng rất trẻ nên về kinh nghiệm xử lý nghiệp vụ và các tình huống xảy ra đối với khách hàng tuy vẫn thực hiện rất tốt nhưng tất nhiên sẽ không bằng những NH có nhiều cán bộ lâu năm và sự chuyên nghiệp của các NH nước ngoài. Nhận thức và việc áp dụng các văn bản quốc tế của mỗi cán bộ mỗi NH và các thành phần liên quan trong XNK còn rất khác nhau. Ví dụ như: trong L/C do NH phát hành phần chứng từ yêu cầu chỉ ghi giấy Chứng nhận xuất xứ do người thụ hưởng phát hàng mà không yêu cầu hình thức hay số bản phát hành…Giấy chứng nhận xuất xứ có thể viết tay vì trong UCP600 và ISBP681 không có điều khoản quy định. Khi NH mở và NH thông báo L/C đều chấp nhận nhưng khi trình để nhận hàng thì Hải quan không chấp nhận vì theo công văn hướng dẫn 1690 của Tổng cục Hải quan không chấp nhận giấy Chứng nhận xuất xứ viết tay. Nếu khách hàng mới lần đầu NK chưa có kinh nghiệm thỏa thuận với nhà XK, BCT được NH thông báo kiểm tra xong gởi cho NH mở và BCT hoàn toàn hợp lệ, thanh toán viên áp dụng theo quy tắc trong các văn bản của NH mà làm thì vô tình sẽ không giúp được khách hàng của mình. Khi ấy khách hàng phải tốn kém chi phí và phiền phức cho việc không nhận được hàng. Lúc này trách nhiệm thuộc về ai tất nhiên là không thuộc về NH vì NH đã làm đúng theo quy định nhưng tất nhiên sẽ để lại sự không hài lòng cho khách hàng mặc dù không phải lỗi của NH.
Trong trường hợp hàng đến trước BCT thì NH phát hành hay được yêu cầu chấp nhận thanh toán cho người thụ hưởng mà chưa nhìn thấy BCT tuy có sự cam kết của khách hàng nhưng NH cũng có thể sẽ gặp rủi ro: NH phải thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng theo qui định của L/C khi nhà NK mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản do kinh doanh thua lỗ không thể lường trước được, NH không thể thu hồi hoàn toàn vốn lại từ phía người mua.
2.3.3. Rủi ro 3: Rủi ro về pháp lý, chính trị - xã hội (bất khả kháng)
Nền kinh tế nước ta có hệ thống pháp luật, các chính sách kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh và ổn định thường xuyên được sửa đổi bổ sung gây khó khăn cho các bên tham gia thanh toán TDCT. Phương thức TDCT ở nhiều quốc gia khác nhau và tham gia vào nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau nên chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của môi trường chính trị - xã hội (thay đổi đột ngột về thuế XNK, hạn ngạch, năm nay cho phép NK thì đến năm sau lại không được phép NK nữa trong khi các DN đã ký Hợp đồng NK với nước ngoài làm họ rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan…., cơ chế ngoại hối (hạn chế ngoại hối), luật XNK, các cuộc nổi loạn, biểu tình, …những rủi ro bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn) của các quốc gia. Một sự biến động dù là nhỏ về chính trị - xã hội của một quốc gia cũng sẽ ảnh hưởng tới sự vận động của tự do thương mại, đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN…từ đó ảnh hưởng tới quá trình thanh toán. Ví dụ: trong quá trình mua bán hàng hóa thì nhà NK đã mua bảo hiểm cho lô hàng theo điều kiện loại C. Trong quá trình vận chuyển trên biển hàng bị sét đánh trúng hoặc bom do chiến tranh rơi trúng hư hỏng toàn bộ lúc này bảo hiểm sẽ không đền bù vì không thuộc phạm vi bảo hiểm của loại C. Vì hàng đã được giao nên nhà XK gởi BCT để thanh toán, BCT hoàn toàn phù hợp nên NH mở phải yêu cầu công ty NK nộp tiền để thanh toán cho dù khách hàng của mình không nhận được hàng hóa. Công ty NK phải có trách nhiệm thanh toán vì trong yêu cầu mở Thư tín dụng nhà NK đã đồng ý rằng: “Chuyển đủ số tiền theo giá trị L/C đến NH ngay sau khi nhận được thông báo của NH về việc chuyển tiền vào NH để thanh toán L/C”. Nếu như nhà NK có tiền để thanh toán thì rủi ro chỉ do nhà NK gánh, nhưng nếu nhà NK không có khả năng thanh toán thì rủi ro cả cho NH. Tuy NH luôn có các biện pháp để khách hàng thanh toán như các cam kết từ phía khách hàng hay thế chấp về tài sản, nhưng với việc dùng tiền của NH để thanh toán sau đó mới lấy lại từ từ thì doanh thu từ các hoạt động khác sẽ giảm do bị giam vốn.
Hoạt động kinh doanh TTQT nói chung và TDCT nói riêng của Chi nhánh dựa trên cơ sở là khung pháp lý của NHNo&PTNT Việt Nam, về cơ bản NHNo&PTNT Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống các cơ chế, chính sách liên quan tới hoạt động này. Tuy nhiên một số văn bản đã lỗi thời chưa theo kịp tình hình thực tế của hoạt động nghiệp vụ phát sinh tại các Chi nhánh, gây khó khăn cho Chi nhánh. Ví dụ như trong thời gian gần đây các văn bản của NHNo Việt Nam hướng dẫn và cho phép sử dụng các công cụ phái sinh trong kinh doanh ngoại tệ (như nghiệp vụ mua bán ngoại tệ qua đồng thứ 3, SWAP hay FUTURE để quản trị rủi ro cho khách hàng và NH) đều ban hành rất chậm đến khi ra đời thì NH Nhà nước lại đưa ra văn bản cấm không cho phép làm.
2.3.4. Rủi ro 4: Rủi ro về sản phẩm, dịch vụ
Hiện nay Chi nhánh chủ yếu thực hiện mở Thư tín dụng trả ngay và trả chậm. Các loại Thư tín dụng khác hầu như không có sử dụng mặc dù nó rất hữu ích cho những nhu cầu khác nhau của từng DN. Do đó vẫn chưa khai thác hết tiềm năng của phương thức TDCT. Lãi suất, phí dịch vụ cũng ảnh hưởng tới hoạt động của Chi nhánh, tại Chi nhánh chưa có bộ phận tập hợp, nghiên cứu tổng thể các chính sách của các tổ chức tài chính khác đưa đến phí dịch vụ hiện nay có dịch vụ thì phí quá cao, có dịch vụ thì phí quá thấp so với mặt bằng chung trên địa bàn. Và mới đây NHNo đã điều chỉnh tăng biểu phí một số khâu điều này làm cho NH khó mà cạnh tranh với các NH khác đang tìm cách giảm phí để thu hút khách hàng. Ví dụ: theo biểu phí tải về từ trang web www.agribank.com thì phí mở L/C và phí hủy L/C vào ngày 25/7/2010 đã tăng 5 USD so với ngày 27/5/2010. Đây là một điểm yếu đối với các NH khác, các NH khác có thể lợi dụng điểm yếu này để cạnh tranh với NH.
Mức ký quỹ mở L/C khá cao, giao động từ >10% đến 100% giá trị L/C với khách hàng mới lần đầu tiên đến giao dịch với NH, khiến cho mức độ cạnh tranh giảm sút và không thu hút được nhiều khách hàng mới do khách hàng có tâm lý không muốn đồng vốn của mình bị ứ đọng.
Giao BCT được thực hiện sau khi khách hàng thanh toán cho nên tạo được an toàn và lợi thế hơn cho NH, gây thế bị đọng cho nhà NK và để nhận BCT thì khách hàng phải đến NH lại tốn thêm thời gian và chi phí của khách hàng.
Tuy việc thanh toán phí được thực hiện theo từng giai đoạn rõ ràng cho khách hàng dễ hiểu và thuận tiện cho việc kiểm toán về sau nhưng việc thu phí nhiều lần sẽ là tốn thêm chi phí tạo tâm lý ngán ngẫm cho khách hàng
=> Tất cả những điều trên đều dẫn đến rủi ro chung là khách hàng sẽ tìm NH khác để mở L/C (tâm lý chung nơi nào cho lợi hơn về chi phí hay chất lượng dịch vụ hoặc cả hai thì khách hàng sẽ tìm tới nơi đó), NH dễ mất khách hàng hiện tại, khó thu hút khách hàng mới dẫn đến giảm doanh thu.
2.3.5. Rủi ro 5: Rủi ro về công nghệ, cơ sở vật chất
Công nghệ phục vụ cho chế độ báo cáo thống kê chưa hoàn thiện về cơ bản vẫn phải gởi văn bản đi, rất thủ công và mất thời gian, nhân sự phòng Kinh doanh ngoại hối rất mỏng nhưng hiện nay mỗi sáng nhân viên đều phải dành ra 2 tiếng để báo cáo cho NHNo Việt Nam và NH Nhà nước (lấy số liệu, ký đầy đủ 3 chữ ký và sau đó fax về trụ sở chính) gây mất thời gian và lãng phí. Vì sử dụng đa phần trên máy tính và mạng SWIFT nên lệ thuộc hoàn toàn vào công nghệ, ngành điện và viễn thông, vẫn xảy ra tình trạng treo hệ thống làm mất nhiều thời gian dẫn đến công tác thực hiện của các thanh toán viên bị chậm trễ, có thể phải nhập làm lại từ đầu, mất thời gian chờ đợi của khách hàng.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị và giờ làm việc. Mặc dù NHNo&PTNT(CN6) có điều kiện và tiện nghi khá tốt. Tuy nhiên, diện tích phòng làm việc nhỏ (Các tủ chứa hồ sơ hiện nay đã kín. Nếu xảy ra hỏa hoạn thì sẽ ảnh hưởng đến hồ sơ và dữ liệu của NH), hơn nữa cũng ảnh hưởng tới điều kiện làm việc của cán bộ NH. Mặt khác, trang thiết bị của NH khá hiện đại song vẫn còn nhiều hạn chế, điều này làm chậm tiến trình giao dịch với khách hàng (chưa có máy photo tại phòng Kinh doanh ngoại hối sử dụng chung với phòng Tín dụng). Về giờ làm việc: trong khi các NH nước ngoài mở cửa làm việc đến 18h thì NH đóng cửa vào lúc 16h30. Điều này làm hạn chế lượng khách hàng đến giao dịch với NH.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương 2 giới thiệu một cách tổng quát về NHNo&PTNT(CN6), hoạt động vận dụng phương thức TDCT tại NHNo&PTNT(CN6). Qua đó có thể thấy được phương thức TDCT đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động TTQT tại NHNo&PTNT(CN6), nhưng cũng không kém nhiều rủi ro.
Bên cạnh những đóng góp của phương thức TDCT, những ưu điểm mà Chi nhánh đang có được như:
Linh động về mức ký quỹ giữa các khách hàng. Mức ký quỹ của khách hàng từ 0-100% giá trị thanh toán, các mức ký quỹ phổ biến như sau:
+ Khách hàng không phải ký quỹ mở L/C khi có tiền gởi lớn tại NH, hoạt động kinh doanh ổn định, có sự tín nhiệm trong thanh toán.
+ Khách hàng ký quỹ từ 10% trị giá L/C là phổ biến nhất.
+ Khách hàng ký quỹ dao động từ khoảng >10% đến 100% trị giá L/C khi mới lần đầu đến giao dịch tại Chi nhánh.
Agribank là một trong số NH có quan hệ NH đại lý lớn nhất Việt Nam, hiện có hơn 2.300 Chi nhánh và phòng giao dịch nối mạng trực tuyến, trên 1000 NH đại lý tại 96 quốc gia và vùng lãnh thổ. Là thành viên Hiệp hội tín dụng Nông nghiệp Nông thôn Châu Á Thái Bình Dương (APRACA), hiệp hôi Tín dụng Nông nghiệp quốc tế (CICA) và Hiệp hội NH Châu Á (ABA); đã đăng cai tổ chức nhiều hội nghị quốc tế lớn như hội nghị FAO năm 1991, hội nghị APARACA năm 1996 và năm 2004, hội nghị tín dụng nông nghiệp quốc tế CICA năm 2001, có quan hệ với những NH lớn như là: NH Công Thương, NH Ngoại Thương… Do đó là một Chi nhánh cấp 1 trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam sẽ đảm bảo an toàn và nhanh chóng trong việc thanh toán. Thêm một phát triển vượt bật nữa là ngày 28/6/2010, NHNo&PTNT Việt Nam khai trương Chi nhánh đầu tiên tại Thủ đô Phnômpênh, Vương quốc Campuchia. Đây là dấu mốc quan trọng đánh dấu việc Agribank mở rộng mạng lưới hoạt động ra nước ngoài, là cầu nối thị trường tài chính - tiền tệ Việt Nam - Campuchia, đáp ứng nhu cầu tài chính - tiền tệ cho Việt Nam và Campuchia có quan hệ thương mại và đầu tư.
Có chế độ tài trợ và cho vay thanh toán: nếu phương án sản xuất kinh doanh của DN là hiệu quả thì NH sẽ cho DN vay để thanh toán L/C.
Tạo điều kiện tốt nhất cho nhà NK nhận hàng để tránh trường hợp lưu kho tốn thêm chi phí, giảm bớt lo âu và gánh nặng cho khách hàng.
Việc thanh toán phí được thể hiện theo từng giai đoạn rõ ràng cho khách hàng dể hiểu và thuận tiện cho việc kiểm toán về sau.
Bên cạnh các ưu điểm thì ta cũng phải nhìn nhận đến những rủi ro thường trực có thể xảy ra bất cứ lúc nào không những ảnh hưởng đến người mua, người bán và cả đến các NH tham gia. Vấn đề là làm thế nào để hạn chế được những tồn tại có thể dẫn đến rủi ro có thể xảy ra cho NH và các NHTM nói chung. Chương 3 sẽ giới thiệu các biện pháp mà Chi nhánh có thể áp dụng để phòng ngừa tối đa các rủi ro có thể xảy ra và nâng cao hiệu quả của phương thức TDCT.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HẠN CHẾ VÀ PHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN HÀNG NHẬP KHẨU BẰNG PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI NHNo&PTNT(CN6)
3.1. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ VÀ PHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN HÀNG NHẬP KHẨU BẰNG PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI NHNo&PTNT(CN6)
3.1.1. Giải pháp 1: Áp dụng thương mại điện tử (TMĐT) vào công tác thanh toán TDCT
Đây là giải pháp nhằm giải quyết rủi ro 2, 5 đã nêu ra ở thực trạng: đôi khi thời gian phát hành L/C còn chậm do nhiều nguyên nhân khách quan từ phía khách hàng lẫn nguyên nhân chủ quan từ phía cán bộ NH, công nghệ bảo quản hồ sơ chưa hiện đại và đảm bảo được an toàn như đã được nêu ở những rủi ro.
3.1.1.1. Mục tiêu của giải pháp
Mặc dù thời hạn phát hành L/C tại Agribank được đánh giá là khá nhanh. NH cũng đã quy định thời gian cụ thể là trong vòng 1 ngày làm việc kể từ khi nhận đơn xin mở L/C là khách hàng có thể có được L/C như mình mong muốn. Tuy nhiên không phải lúc nào mọi việc cũng được thực hiện một cách suông sẻ nhất là nghiệp vụ của các DN Việt Nam vẫn còn yếu kém, các công đoạn thực hiện việc mở L/C thực hiện dựa vào yếu tố con người rất nhiều mà khả năng con người rất có giới hạn không thể tránh khỏi sai sót. Áp dụng TMĐT vào việc mở L/C sẽ giúp cho công tác này trở nên nhanh chóng, thuận lợi hơn cho khách hàng trong việc theo dõi kiểm tra nội dung L/C mà không phải đến NH nhiều lần, tiết kiệm thời gian và chi phí nhất là các chi phí về văn phòng phẩm và lộ phí, dữ liệu lưu trữ và truyền đi cũng nhanh và an toàn.
3.1.1.2. Cách thức thực hiện giải pháp
Với giải pháp này, NH sẽ tiến hành nhận hồ sơ và mở L/C thông qua mạng Internet. Để tránh cho khách hàng khỏi phải đi lại nhiều lần tốn thời gian và chi phí thì NH sẽ thành lập một chuyên mục riêng để hướng dẫn cách thức tham gia mở hồ sơ L/C qua mạng, tránh cho DN mắc phải các hạn chế và rủi ro về kỹ thuật nghiệp vụ của mình. Xây dựng hệ thống các mẫu biểu đơn xin mở L/C trên trang web của mình (đơn xin mở L/C, đơn xin mua ngoại tệ). Khách hàng có thể lấy xuống và điền trực tiếp lên hồ sơ. Đồng thời cũng xây dựng một hộp thư chuyên tiếp nhận đơn xin mở L/C cho từng Chi nhánh trên trang web của NH, khách hàng sẽ không bị ức chế về tâm lý, thời gian khoảng cách địa lý khi không cần phải đến NH mà thực hiện ngay tại cơ quan nơi đã rất quen thuộc và có nhiều đồng nghiệp hỗ trợ.
Để có thể nộp một hồ sơ phát hành L/C qua mạng, trước tiên, khách hàng phải có tài khoản tại Agribank tại Chi nhánh mở L/C và đăng ký mở tài khoản giao dịch qua mạng với Chi nhánh. Sau đó, NH sẽ cung cấp cho khách hàng một tài khoản giao dịch qua mạng với mã số do khách hàng tự chọn. Tài khoản này cho phép khách hàng có thể kiểm tra tài khoản tiền gửi của mình trên mạng và tiến hành chuyển khoản sang tài khoản ký quỹ để tiến hành mở L/C.
Sau khi điền những thông tin cần thiết vào các mẫu đơn xin phát hành L/C, khách hàng sẽ gửi kèm Hợp đồng ngoại thương của mình, giấy phép kinh doanh (đối với khách hàng mới), đơn đề nghị mua ngoại tệ, chứng Thư bảo hiểm (nếu có), và các giấy tờ cần thiết vào hộp thư nhận đơn xin mở L/C nói trên theo Chi nhánh mà mình có mở tài khoản. Cán bộ thanh toán tại Chi nhánh đó sẽ tiến hành kiểm tra hồ sơ của khách hàng, và sẽ thông báo một cách nhanh chóng qua mail cho khách hàng về tính hợp lệ, bất hợp lệ, cần chỉnh sửa những vấn đề gì, khoảng thời gian phải nộp bộ hồ sơ gốc ngay sau khi bộ hồ sơ gửi qua email là hợp lệ và thông báo cho khách hàng phải nộp số tiền ký quỹ theo giá trị L/C được mở vào tài khoản ký quỹ mà NH đã tạo sẵn cho khách hàng (nếu hồ sơ đã hợp lệ). Theo đó, khách hàng sẽ tiến hành chuyển khoản từ tài khoản của mình sang tài khoản ký quỹ mà NH cung cấp với những phương pháp đơn giản trên máy tính. Ngay sau khi kiểm tra nhanh trên mạng thấy tài khoản ký quỹ đã được khách hàng chuyển khoản vào, cán bộ thanh toán sẽ lập tức tiến hành lập L/C. Sau khi L/C được lập, NH sẽ gửi mail lại thông báo cho khách hàng, đồng thời gọi điện đến để xác nhận khách hàng đã nhận được L/C. Sau khi khách hàng đã đồng ý với nội dung L/C, NH sẽ tiến hành thực hiện tiếp theo các bước sau đó.
Điều kiện thực hiện mở L/C qua mạng
Do đây là một phương pháp khá mới, và chỉ thực hiện thông qua mạng, hạn chế sự đi lại của khách hàng, do đó nó đòi hỏi những điều kiện từ nội lực phía NH lẫn sự thông thạo về thương mại điện tử của khách hàng.
- Phía Ngân hàng:
+ Về mặt pháp lý: mỗi một quốc gia, TMĐT chỉ có thể tiến hành khi tính pháp lý của nó được thừa nhận (biểu hiện cụ thể bằng sự thừa nhận pháp lý giá trị của các giao dịch điện tử, chữ ký điện tử, chữ ký số hóa, các thanh toán điện tử, các dữ liệu có xuất xứ từ các cơ quan nhà nước, sở hữu trí tuệ hàm chứa trong thông tin trên Website, bí mật đời tư, và bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin chống tội phạm xâm nhập), có các cơ quan xác thực hoặc chứng nhận chữ ký điện tử, ... Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động TMĐT ở Việt Nam ra đời khá muộn so với nhiều nước trên thế giới. Cuối 2005, Việt Nam mới có “Luật Giao dịch điện tử” và năm 2006 mới ra đời Nghị định hướng dẫn thi hành luật này.
Tới đầu năm 2007, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 27/2007/NĐ-CP ngày 23/02/2007 “Về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính”, số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007 “Quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số”, số 35/2007/NĐ-CP ngày 08/03/2007 “Về giao dịch điện tử trong hoạt động NH”.
Trên bình diện quốc tế, vấn đề môi trường pháp lý còn phức tạp hơn nữa, vì các trao đổi là xuyên quốc gia, đòi hỏi phải có sự hài hòa giữa các hệ thống pháp luật và hệ thống chính trị khác nhau. NH cần xem xét, sửa đổi các văn bản hiện tại, bổ sung những văn bản mới, phổ biến rộng rãi trong NH những nghị định, quyết định có liên quan đến vấn đề TMĐT và bảo mật thông tin, chứng thực chữ ký điện tử…
+ Về nhân lực: hoạt động thương mại, theo đúng nghĩa của chữ "thương mại" trong "thương mại điện tử", liên quan tới mọi người, từ người tiêu dùng đến DN, phân phối, Chính phủ, các nhà công nghệ,… nên việc áp dụng TMĐT tất yếu đòi hỏi đa số con người phải có kỹ năng thực tế ứng dụng công nghệ thông tin một cách có hiệu quả, có thói quen làm việc trên máy tính, trên mạng máy tính, và cần phải có một đội ngũ chuyên gia thông tin đủ mạnh.
Trong đó NH cần có sự đầu tư đẩy mạnh công tác đào tạo các cán bộ vững chuyên môn về TMĐT, hiểu sâu sắc về các kiến thức công nghệ NH điện tử, e - UCP (phụ lục 4), thành thạo các kỹ năng sử dụng máy tính, nhanh nhẹn trong kiểm tra hồ sơ qua mạng, nhất là việc bố trí nhân viên thực hiện có thể làm việc liên tục trong ngày (giống như việc trực tổng đài của các nhà mạng) để cập nhật thông tin liên tục của khách hàng đăng ký mở L/C qua mạng. Điều này là một cuộc cải cách lớn đối với nhân viên NH vì trước giờ đã suy nghĩ theo thông lệ là làm việc theo giờ hành chính (nhất là đối với các NH nhà nước).
+ Về công nghệ: xây dựng một hệ thống hộp thư tiếp nhận hồ sơ mở L/C trên trang web theo từng Chi nhánh, xây dựng một hệ thống phần mềm để quản lý, đảm bảo lưu trữ toàn bộ thông tin khách hàng cũng như hồ sơ khách hàng một cách tiện dụng, có hệ thống thông báo ngay khi khách hàng đã nộp hồ sơ xin mở L/C, và sau đó toàn bộ thông tin khách hàng sẽ được hiển thị ngay trên màn hình vi tính của cán bộ thanh toán. Bên cạnh đó, cũng cần chú trọng đến việc xây dựng một mạng lưới quản lý hệ thống thông tin dữ liệu của NH an toàn. Chọn lựa đúng những nhà cung cấp dịch vụ TMĐT uy tín nhằm đảm bảo cho công tác bảo mật, bảo vệ chống sự xâm nhập của hacker, xác thực chữ ký điện tử, xuất trình chứng từ điện tử, kiểm tra chứng từ điện tử… Và để xuất trình chứng từ điện tử không chỉ các NH mà cả các DN khác như Vận tải, Bảo hiểm, các cơ quan Kiểm định hàng hóa, các cơ quan cấp Chứng nhận xuất xứ, cơ quan Hải quan phải có mạng máy tính và phần mềm với các mẫu chứng từ được thiết kế chuẩn cho các giao dịch, có khả năng kết nối tương thích với hệ thống của nhau.
+ Quản trị rủi ro cho công tác TMĐT: cần xây dựng một hệ thống an toàn và tiện lợi cho khách hàng trong giao dịch, triển khai hệ thống bảo mật cục bộ, nâng cao ý thức và trách nhiệm của nhân viên quản lý dữ liệu nhằm đảm bảo cho khách hàng giao dịch an toàn bằng mật khẩu và có thể thay đổi mật khẩu theo một quy trình chặt chẽ, tránh tình trạng bị đánh cắp thông tin của khách hàng.
- Phía khách hàng:
Khách hàng phải có một hộp thư điện tử để có thể trao đổi với NH, khách hàng cũng cần có một sự hiểu biết nhất định đối với các thao tác điện tử máy tính, đọc kỹ những hướng dẫn, quy định để có thể mở được L/C một cách dễ dàng mà không nhất thiết phải đến NH nhiều lần.
HIỆN TẠI
CẢI TIẾN
DỰ KIẾN HIỆU QUẢ
- Đến NH để được cung cấp đơn xin mở L/C, đơn xin mua ngoại tệ.
- Nộp hồ sơ tại NH
- Hồ sơ có sai sót NH phải gọi điện thoại thông báo, DN sửa xong phải lên lại NH bổ sung.
- DN ở thế bị động.
- Tiếp nhận hồ sơ bằng giấy, sao lưu hồ sơ, nhập dữ liệu vào máy tính, trình ký nhiều lần.
=> Tạo tâm lý ngán ngẫm, không thoải mái, chứa nhiều rủi ro do sai phạm trong nghiệp vụ tốn nhiều thời gian, chi phí và công sức của DN
- Có thể tải trực tiếp từ trang Web của NH.
- Tiến hành nộp hồ sơ qua mạng.
- Thông báo nhanh chóng qua email và nhận hồ sơ bổ sung cũng qua email.
- Thông báo thời gian nộp hồ sơ gốc khi hồ sơ gởi qua email là hợp lệ.
- Sử dụng hồ sơ hợp lệ của khách hàng với hệ thống kiểm soát, phân loại, sắp xếp và theo dõi hoàn toàn trên tập tin.
- Không cần đến NH, có thể lấy về và điền trực tiếp lên hồ sơ tại bất cứ nơi đâu.
- DN ở thế chủ động, có trách nhiệm hơn và kỹ càng hơn trong việc lập hồ sơ.
- Hoàn thiện dần quy trình tiếp cận công nghệ toàn cầu, bỏ bớt thủ tục hành chính rườm rà.
- Giữ chân khách hàng cũ, thu hút khách hàng mới do trở ngại về khoảng cách địa lý đã được rút ngắn và cách làm việc chyên nghiệp tạo sự thoải mái cho người sử dụng.
- Tiết kiệm được nhiều chi phí, thời gian, thông tin khách hàng sẽ được lưu giữ một cách an toàn, bảo mật, đầy đủ, rõ ràng.
3.1.1.3. Dự kiến hiệu quả giải pháp mang lại
Ví dụ: trường hợp mở L/C thuận lợi (không tu chỉnh hay hủy bỏ): để mở một L/C khách hàng phải lên NH ít nhất là hai lần. Khoảng cách từ DN đến NH là 10 km, một lít xăng giá 16.000 VND đi được 40 km => mất 16.000 VND cho hai lần đi về giữa NH và DN để hoàn tất việc mở một L/C. Tuy đây là con số nhỏ đối với DN nhưng trong đó chưa kể là các vấn đề phát sinh trong quá trình đi đường như hao mòn tài sản (nắng, mưa…) sức khỏe bị suy giảm do hít phải khói bụi, căng thẳng do kẹt xe, tai nạn giao thông,… DN ký quỹ 570.000 VND (tỷ giá 19.000 VND/USD). Các phụ phí như: văn phòng phẩm, sao y công chứng, tốn 10.000 VND cho một bộ hồ sơ mở L/C. Tổng cộng để mở 1 L/C DN tốn ít nhất 596.000 VND. Nếu áp dụng TMĐT vào thì DN sẽ giảm được tiền lộ phí đi lại giữa NH, các phụ phí => mở 1 L/C DN tốn 570.000 VND. Số tiền DN tiết kiệm được là: 26.000 VND cùng với vô số các lợi ích vô hình khác kèm theo nhất là sự thoải mái, hài lòng của khách hàng, cho DN cảm thấy mọi việc trong tầm tay của mình và làm chủ được tình hình, làm chủ thời gian (trước đây thì lệ thuộc vào NH). Khoảng thời gian đi lại giữa NH và DN, họ có thể ở tại công ty làm rất nhiều công việc còn nếu đến NH thì các công việc đó phải bỏ dỡ giữa chừng.
3.1.2. Giải pháp 2: Thành lập bộ phận tư vấn thanh toán L/C cho khách hàng
Đây là giải pháp nhằm giải quyết rủi ro 2, 4 đã nêu ra ở thực trạng: thiếu sót của khách hàng trong công việc mở L/C, có L/C phải tu chỉnh do sự thay đổi Hợp đồng ngoại thương, quá trình thanh toán còn nhiều trường hợp cho nên công tác tư vấn cho khách hàng vô cùng cần thiết, góp phần nâng cao trình độ, nghiệp vụ của nhân viên làm nên gói sản phẩm, dịch vụ của NH thêm đa dạng.
3.1.2.1. Mục tiêu giải pháp
Đối với các ngành dịch vụ nói chung và đối với lĩnh vực NH nói riêng, một ngành nghề khá nhạy cảm khi tồn tại song song với sự tin yêu, tín nhiệm của khách hàng, thì việc biết chăm sóc khách hàng một cách chu đáo, biết quan tâm và hiểu rõ những nhu cầu của khách hàng và có một cung cách phục vụ tận tâm, nhiệt tình, chuyên nghiệp sẽ là nơi thu hút khách hàng ở lại. Hiện nay, lượng khách hàng đến giao dịch với NH ngày càng đông, nhưng phần nhiều trong số đó vẫn còn khá mịt mờ về các dịch vụ của NH cũng như những kiến thức mới, hiện đại trong ngành mà Việt Nam đang chủ trương tiếp thu học hỏi từng ngày từ quốc tế. Do đó, chăm sóc khách hàng bằng cách cung cấp cho họ những thông tin bổ ích nhất, đưa ra những lời khuyên xác đáng nhất, giải quyết tận tình những thắc mắc của họ sẽ là lợi thế hàng đầu khi muốn kéo khách hàng về cho NH.
3.1.2.2. Các thức thực hiện giải pháp
Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa NH + Bảo hiểm + công ty/dịch vụ Cảng để quy về mục tiêu chung là thực hiện bao tiêu trọn gói dịch vụ NH, mà chủ chốt vẫn là phía NH. Trước tiên NH tổ chức thành lập một bộ phận tư vấn riêng biệt, chuyên phục vụ cho khách hàng về các kiến thức thanh toán nói chung và thanh toán bằng phương thức TDCT nói riêng cho từng giai đoạn theo nhu cầu của khách hàng.
Giai đoạn: Trước khi làm thủ tục mở L/C để tiến hành thanh toán
- Tư vấn cho khách hàng về những điều khoản trong Hợp đồng ngoại thương trước khi ký kết:
+ Thông qua mối quan hệ đại lý giữa Agribank và các NH nước ngoài, NH có thể tư vấn cho khách hàng về thông tin của đối tác, của thị trường và các chính sách quản lý hoạt động thương mại tại nước XNK.
+ Tư vấn về cách lựa chọn điều kiện thương mại để tạo được ưu thế nhất định cho khách hàng, tiết kiệm chi phí, tăng giá trị gia tăng. Mặc dù điều kiện thương mại là yếu tố đầu tiên gần như quyết định hiệu quả của Hợp đồng ngoại thương, nhưng đối với các DN Việt Nam hiện nay thì việc tạo ưu thế cho mình trong việc lựa chọn điều kiện thương mại vẫn còn rất hạn chế và hầu hết các DN vẫn thường chọn điều kiện CIF cho hàng NK và điều kiện FOB cho hàng XK. Nguyên nhân là do khách hàng chưa hiểu biết nhiều về các điều kiện thương mại và còn có những suy nghĩ chưa tốt về dịch vụ Vận tải Bảo hiểm trong nước. Tư tưởng lối mòn đời cha truyền lại cho đời con. Do đó, NH cần có những tư vấn hợp lý, tạo sự an tâm cho khách hàng và lựa chọn điều kiện thương mại phù hợp để mang lại lợi ích tối đa cho khách hàng.
+ Tư vấn lựa chọn phương thức thanh toán thích hợp, tùy thuộc vào mức độ thân thiết giữa hai bên đối tác và tùy thuộc và giá trị Hợp đồng lớn hay nhỏ, và cụ thể ở đây là đối với phương thức TDCT - phương thức thanh toán an toàn nhất và chặt chẽ nhất về quy trình, đảm bảo quyền lợi tốt nhất đối với khách hàng.
+ Bên cạnh việc đa dạng hóa các dạng L/C, NH sẽ tư vấn cho khách hàng về đặc điểm, lợi ích khác nhau của các loại L/C khác nhau (chẳng hạn đối với khách hàng có quan hệ mua bán thường xuyên một loại mặt hàng đối với cùng một đối tác thì NH nên tư vấn cho khách hàng sử dụng L/C tuần hoàn để nhằm giảm thiểu chi phí mở L/C, tránh ứ đọng vốn do ký quỹ. Hay khi đối tác của nhà NK cần nguồn vốn tài trợ trước khi giao hàng, NH sẽ tư vấn cho khách hàng chọn loại L/C có điều khoản đỏ. Trong trường hợp khách hàng muốn bảo vệ quyền lợi cho mình thì L/C dự phòng sẽ bảo vệ cho họ nếu bên đối tác có vi phạm…)
+ Tư vấn lựa chọn NH thông báo, NH xác nhận cho khách hàng khi đàm phán để chọn được NH uy tín và mức phí cạnh tranh.
+ Tư vấn lựa chọn hãng tàu và nhà cung cấp bảo hiểm uy tín, giúp khách hàng mạnh dạn giành lấy quyền chọn vận tải để thu về ngoại tệ cho khách hàng DN và cho đất nước.
Giai đoạn: Trong quá trình thực hiện thanh toán theo Hợp đồng
- Trong quá trình vận chuyển hàng hóa, nếu xảy ra những rủi ro gây đến hư hỏng, mất mát hàng hóa thì NH sẽ tư vấn cho khách hàng (có trách nhiệm) tiến hành những thủ tục cần thiết để kiện đòi Bảo hiểm, bảo vệ quyền lợi tối đa nhất cho khách hàng.
- Trong thời hạn L/C còn hiệu lực, khi nhà XK gửi BCT sang là bộ BCT giả, NH sẽ tư vấn cho khách hàng biết thêm về những bất hợp lệ và hướng giải quyết để nhằm đảm bảo quyền lợi nhất đối với NH và đối với nhà NK.
- Khi xảy ra rủi ro nhà XK không cung cấp được hàng hóa theo đúng quy định của L/C, NH sẽ tư vấn cho khách hàng về các điều khoản Penalty, về mức phạt khi bên XK không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ.
Điều kiện để thực hiện giải pháp
Để thực hiện thành lập một tổ tư vấn làm việc một cách xuyên suốt tất cả các khâu của quá trình XNK, các cán bộ phải là những người có tâm huyết, hiểu biết rộng, vững nghiệp vụ. Cần có sự liên kết chặt chẽ giữa ba đơn vị độc lập: công ty/dịch vụ về Cảng, công ty Bảo Hiểm và NHNo&PTNT. Trong đó từng đơn vị với những lợi thế chuyên môn riêng của mình sẽ cùng hợp tác với nhau để hỗ trợ cho khách hàng khi sử dụng sản phẩm /dịch vụ này, chủ chốt vẫn là NH.
Công ty/dịch vụ về Cảng với lợi thế chuyên môn là những kinh nghiệm đã tích lũy được về logistics, có mạng lưới đại lý vận tải biển toàn cầu, mạng lưới kho bãi trải đều trên toàn quốc sẽ tư vấn, cung ứng cho khách hàng những dịch vụ tiện ích trong khâu vận chuyển hàng hóa từ Cảng về đến kho khách hàng, cung ứng kho lưu giữ hàng chờ tiêu thụ.
Công ty Bảo hiểm tư vấn để khách hàng tham gia những điều khoản phù hợp với tính chất hàng hóa với giá phí hợp lý nhất.
- Trước tiên, một thái độ ân cần, niềm nở, sốt sắng, một tác phong năng động, nhanh nhẹn là tư chất không thể thiếu của cán bộ tư vấn. Chính sự khéo léo, kiên nhẫn, tận tình hướng dẫn khách hàng của cán bộ sẽ mang lại cho NH những giá trị vô hình - đó chính là sự tin yêu của khách hàng.
- Cán bộ tư vấn phải có chuyên môn giỏi về thanh toán, có kiến thức rộng, tổng quát về lĩnh vực kinh doanh XNK, Vận tải, Bảo hiểm,…
3.1.2.3. Dự kiến hiệu quả giải pháp mang lại
HIỆN TẠI
CẢI TIẾN
DỰ KIẾN HIỆU QUẢ
- Chỉ thực hiện tư vấn trong nhiệm vụ thanh toán của NH thôi và chỉ tư vấn khi khách hàng có nhu cầu, phần lớn do DN làm theo cách của mình. Dẫn đến rủi ro về nghiệp vụ trong việc mở L/C như chuẩn bị thiếu giấy tờ hoặc giấy tờ không đúng yêu cầu, gặp phải rắc rối với BCT khi làm thủ tục Hải quan, đòi bồi thường Bảo hiểm…
- Thành lập bộ phận tư vấn cho toàn bộ quá trình NK của khách hàng từ khi bắt đầu đến kết thúc.
- Tạo lòng tin của khách hàng đối với NH, thấy được rằng DN không cô độc trên thương trường vì luôn có NH luôn là người đứng sau theo dõi và hỗ trợ DN. Khách hàng tìm đến giao dịch ngày càng nhiều, thu được lợi nhuận, tiếng tâm NH ngày một vang xa.
- Đây là hình thức vừa đào tạo vừa thực hành nâng cao chất lượng nhân viên có kiến thức sâu rộng, toàn diện.
- Nâng cao sự chuyên nghiệp mua bán của DN Việt Nam trên thương trường thế giới.
Ví dụ: sau khi được tư vấn trước khi mở L/C thì DN không cần lên NH nhiều lần tốn thời gian và chi phí của mình nữa mà sẽ chuẩn bị kỹ lưỡng một lần duy nhất theo sự hướng dẫn của nhân viên NH, khi nộp vào sẽ tiến hành mở L/C được ngay, hay để tránh tình trạng hàng bị lưu kho do vấn đề liên quan đến BCT thì NH cũng sẽ tư vấn các điều kiện và quy định bắt buộc của BCT, cách làm BCT hoàn hảo nhất phù hợp với mọi cơ quan Hải quan (như giấy Chứng nhận xuất xứ có thể viết tay vì UCP không quy định nhưng tốt nhất khách hàng nên nhắc nhở hay ràng buộc nhà XK không được viết tay), tránh tình trạng mất hàng do sự cố bất khả kháng xảy ra khi mua điều kiện Bảo hiểm quá ít không phù hợp với tình hình hiện tại như trong quá trình vận chuyển tàu đi qua vùng tâm bão của biển, khả năng bị sét đánh trúng là rất cao mà DN lại mua Bảo hiểm loại C thì sẽ không được Bảo hiểm khi sét đánh trúng, trắng tay số hàng mà còn phải thanh toán tiền hàng.
3.1.3. Giải pháp 3: Tiến hành trả lãi cho khoản tiền ký quỹ mở L/C
Đây là giải pháp nhằm giải quyết rủi ro 4. Mức tiền ký quỹ bắt buộc đối với các DN đã nêu ra ở thực trạng: mức ký quỹ L/C thường cao đối với những khách hàng mới giao dịch lần đầu, dù đảm bảo an toàn cho NH nhưng lại trở nên khá cao đối với khách hàng NK
3.1.3.1. Mục tiêu giải pháp
Tỷ lệ ký quỹ để mở L/C khá cao đối với những khách hàng mới giao dịch lần đầu, tuy nhiên, nếu giảm tỷ lệ này xuống thì mức độ an toàn của NH sẽ giảm xuống. Do đó, giải pháp trả lãi cho khoản tiền ký quỹ sẽ là một phương pháp xoa dịu khách hàng, đánh vào tâm lý thích nhận được lợi ích ngay cả khi mình đang giao dịch ở lĩnh vực khác. Khách hàng có thể xem đây như là một khoản đầu tư nhỏ trong thời gian ứ đọng vốn ký quỹ, một công đôi việc.
3.1.3.2. Cách thức thực hiện giải pháp
Hiện nay, tỷ lệ kí quỹ tại NH khá linh động đối với từng khách hàng, tùy thuộc vào uy tín của khách hàng, hạn mức tín dụng của khách hàng tại NH, phương án sản xuất kinh doanh, độ thanh khoản của hàng NK…mức ký quỹ có thể dao động từ 0 – 10% giá trị L/C đối với các DN có uy tín, tiền sử thanh toán đúng hẹn và có quan hệ thường xuyên với NH. Tùy thuộc vào mức độ ký quỹ mà sẽ đề ra một khung lãi suất hợp lý thấp hơn lãi suất tiền gửi NH.
3.1.3.3. Dự kiến hiệu quả giải pháp mang lại
HIỆN TẠI
CẢI TIẾN
DỰ KIẾN HIỆU QUẢ
- Khoản tiền ký quỹ là một đều bắt buộc đối với các DN khi mở L/C. Tuy nhiên đứng ở góc độ nhà NK không ai muốn đồng vốn mình bị ứ đọng hoặc cho người khác sử dụng mà không có lợi ích gì cho mình. Trong tình trạng tất cả các NH đều cung cấp các dịch vụ như nhau chính vì vậy khách hàng sẽ so sánh nơi đâu có chính sách ký quỹ thấp hơn ít bị giam vốn mình nhất mà chọn. NH hiện vẫn chưa có bước cạnh tranh về vấn đề ký quỹ.
- NH sẽ tiến hành thành lập một khung lãi suất hợp lý thấp hơn lãi suất tiền gởi NH để dựa vào đó mà tiến hành trả lãi đối với khoản tiền ký quỹ của nhà NK.
- Tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng NK khi tiến hành mở L/C tại Agribank, góp phần cạnh tranh so với các NH bạn. - Giúp thu hút thêm nhiều khách hàng về với Agribank. Ở đâu có lợi ở đó có khách hàng đầu tư. - Từ tư thế bị động của khách hàng khi phải chấp nhận việc ký quỹ theo yêu cầu của NH thì nay khách hàng sẽ thấy mình rất được NH quan tâm và chăm sóc hết mực.
Ví dụ: chúng ta sẽ tiến hành so sánh giữa NH A với NHNo&PTNT(CN6). Các điều kiện là như nhau: các quy trình thủ tục đòi hỏi, các dịch vụ kèm theo, phong cách phục vụ của thanh toán viên…Với trị giá L/C là: 39,150 USD (thời hạn hiệu lực là 12 tháng). Mức ký quỹ cả hai NH cùng đưa ra là 10% giá trị L/C tương đương 3,915 USD (tỷ giá 19.000 VND/USD). Như ta đã biết khi tiến hành ký quỹ là DN phải chấp nhận số tiền này sẽ nằm yên một chỗ thuộc quyền sở hữu tạm thời của NH, DN hết quyền tạo ra các khoản sinh lời từ nó. Đây là điều mà các DN hoàn toàn không muốn chút nào vì đối với họ nguồn vốn rất quan trọng, càng xoay vòng vốn càng nhanh càng tốt. Trong khi không ngừng nổ lực phục vụ khách hàng một cách tốt nhất NHNo&PTNT(CN6) muốn thu hút khách hàng mới và gắn bó hơn với khách hàng truyền thống nên NH áp dụng việc trả lãi cho khoản tiền ký quỹ 3,195 USD với lãi là 0.35 %/ năm (còn lãi suất tiền gởi tiết kiệm hiện hành theo USD của DN tại Agribank là 1%/năm) => DN nhận được khoản tiền lãi là: 11.1825 USD tương đương 212.467,5 VND. Tuy khoản tiền không lớn nhưng với tâm lý “có còn hơn không” có thể sử dụng để bồi dưỡng thêm cho nhân viên đi làm thủ tục hải quan của DN. Việc ký quỹ là bắt buộc ở bất kỳ NH nào nếu mở L/C tại NH A thì không có khoản tiền lãi đó.
3.1.4. Giải pháp 4: Không ngừng đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên
Đây là giải pháp nhằm giải quyết rủi ro 2 và làm nền tảng cho các giải pháp còn lại đã nêu. Kỹ thuật nghiệp vụ tùy thuộc vào chất lượng trình độ và kinh nghiệm làm việc của cán bộ nhân viên. Nó đánh giá chất lượng sản phẩm cho NH và cũng là nhân tố quyết định sự phát triển của NH.
3.1.4.1. Mục tiêu giải pháp
Một đội ngũ nhân viên với trình độ chuyên môn cao, năng động, tự tin, hết lòng vì công việc… sẽ là động lực thúc đẩy hoạt động kinh doanh của NH có hiệu quả, khẳng định chỗ đứng của NH trong lòng khách hàng. Tiếp thu câu nói của Lênin: “Học, học nữa, học mãi”, vì vậy công tác đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên phải luôn được chú trọng.
3.1.4.2. Cách thức thực hiện giải pháp
- Điều đầu tiên để công tác đào tạo chất lượng đội ngũ nhân viên có hiệu quả tốt nhất là chú trọng công tác tuyển dụng nhân sự. Đầu vào là một yếu tố quyết định chất lượng của đội ngũ nhân viên.
Khi tuyển dụng chú trọng và ưu tiên những nhân viên giỏi nghiệp vụ, đúng ngành nghề có kinh nghiệm lâu năm tại vị trí quản lý cần tuyển hay những sinh viên tốt nghiệp loại khá giỏi tại các trường giới thiệu cho vị trí nhân viên, sinh viên tuy không có kinh nghiệm nhưng có đầy đủ kiến thức được đào tạo ở trường cộng với nhiệt huyết tuổi trẻ với nghề và sự chân thật, chăm chỉ của thời học sinh sẽ là những ứng viên sáng giá cho công tác đào tạo (tốt nghiệp đại học chuyên ngành ngoại thương, kinh tế đối ngoại,…), đặc biệt là khả năng giao tiếp bằng tiếng anh và sử dụng máy tính để có đủ trình độ tiếp nhận công nghệ mới.
Cần thực hiện công tác quảng bá thông tin tuyển dụng lên các phương tiện thông tin đại chúng dễ tiếp cận và rộng khắp để mọi người đều biết đến và thử sức vừa tạo cơ hội cho mọi người cũng là cơ hội tìm kiếm nhân tài cho NH.
Song song đó cán bộ làm công tác TTQT phải là người vừa có tài vừa có phẩm chất đạo đức, tư cách tốt trung thực, có trách nhiệm và tâm huyết với nghề, hiểu biết rộng về xã hội, kinh tế thị trường. Tuy đầu vào có khắt khe nhưng hiệu quả mang lại sẽ tạo sự hài lòng cho những gì mà NH phải bỏ ra cho việc tìm kiếm “những viên gạch cứng” để xây nền móng vững chắc cho NH.
Chúng ta có thể lấy ví dụ thực tế về việc thực hiện tốt công tác tuyển đầu vào đó là NH Vietinbank (Thông báo tuyển dụng tháng 7/2010 – xem phụ lục 6) để có thể xây dựng cho Chi nhánh một mô hình tuyển dụng riêng của mình.
- Tiếp bước theo công tác tuyển dụng đầu vào là công tác đào tạo thực tế tại Chi nhánh nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ thực hiện công tác TTQT. Thông qua các lớp tập huấn chuyên đề về TTQT tạo điều kiện cho cán bộ học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong công tác, người đi trước hướng dẫn và kiềm cập cho người đi sau. Khi Nhà nước đưa ra các quy định mới nói chung và của ngành NH nói riêng nhất là của NHNo&PTNT Việt Nam phải tổ chức các lớp tìm hiểu và phổ biến các quy định đó. Phải xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực dài hạn cho các đối tượng cán bộ chủ chốt các kiến thức về: chuyên môn nghiệp vụ (TTQT, vận tải - bảo hiểm), kiến thức quản trị, pháp luật (đặc biệt là luật kinh tế, luật NH, các tập quán quốc tế), lý luận chính trị, đổi mới phong cách giao dịch tạo ấn tượng đẹp trong lòng khách hàng qua các khóa ngắn hạn về kỹ năng giao tiếp, nhằm xây dựng một đội ngũ lãnh đạo có đủ tài và đức để mở rộng và nắm bắt được những cơ hội kinh doanh sau đó phổ biến lại cho cán bộ trực tiếp làm công tác TTQT để tránh được các rủi ro trong TTQT.
Nếu có đều kiện rộng rãi về tài chính thì có thể mời các luật gia nghiên cứu về luật kinh tế NH để giảng dạy cho cán bộ nắm chắt để áp dụng và cập nhật kịp thời các văn bản mới ban hành.
Cần có những chế độ ưu đãi để khuyến khích việc tự học, nâng cao trình độ như: hỗ trợ 50% chi phí học anh văn và tin học nếu nhân viên học thêm ở ngoài, hoặc tài trợ 100% cho nhân viên đi học nghiệp vụ ở nước ngoài sau đó phải nộp lại chứng chỉ cho NH, hay học cao học phân nửa thời gian ở trong nước và thời gian còn lại ở nước ngoài nhưng phải cam kết phục vụ NH trong 10 năm,….
Một điều nữa không thể thiếu, nó là một phần động lực thúc đẩy sự cống hiến năng lực của từng nhân viên đó là chế độ lương, thưởng phải phù hợp. Thành lập các quỹ giữa các phòng ban để tặng quà cho nhân viên trong các ngày lễ, sinh nhật, ngày riêng của NH, tổ chức các chuyến đi du lịch, nghĩ dưỡng nâng cao sức khỏe, thoải mái tinh thần cho nhân viên). Thường xuyên kiểm tra, đánh giá tác phong, chuyên cần để chấm điểm thi đua cho từng cá nhân và tính mức lương cho hợp lý, tổ chức các cuộc thi giữa các Chi nhánh NH (các đồ án nâng cao chất lượng TTQT tại NH, tìm hiểu các văn bản luật để xử lý tình huống về nghiệp vụ TTQT nói chung và TDCT nói riêng) có chính sách khen thưởng có thể bằng vật chất hay hiện vật: tiền thưởng, danh hiệu thi đua cho cá nhân, phòng ban có biểu hiện tích cực nhiệt tình trong công việc. Đây là động lực mạnh khiến cho năng lực làm việc và học hỏi của nhân viên được nâng cao.
3.1.4.3. Dự kiến hiệu quả giải pháp mang lại
Nếu việc tuyển dụng đào tạo đúng hướng sẽ mang lại lợi ích hữu hình cho NH: đó là tăng chất lượng sản phẩm dịch vụ (nếu trước kia NH chỉ có việc làm tốt nhiệm vụ của mình là những vấn đề trong phạm vi thanh toán thì nay NH đã có đủ điều kiện và kiến thức thâm nhập để bảo vệ thêm vào các tình huống ảnh hưởng tới khách hàng của mình như Bảo hiểm, Vận tải tránh những rủi ro đáng tiếc xảy ra cho NH cũng như DN do nguyên nhân từ kỹ năng nghiệp vụ có phần hạn chế về Bảo hiểm và Vận tải. NH chứng tỏ mình luôn luôn là người bạn song hành cùng DN trên mọi nẻo đường sẵn sàng giúp đỡ khi DN cần chứng minh phương châm: “sự phồn thịnh của khách hàng là niềm tự hào của NH chúng tôi”), thái độ phục vụ, khẳng định văn hoá riêng của NH và lợi ích vô hình: cải thiện thói quen làm việc (làm việc đúng giờ giấc, làm việc một cách tận tụy và tỉ mĩ). Hiện nay số lượng giấy in và Photo còn tồn lại rất nhiều. Theo giá thị trường in hoặc Photo bằng giấy in 1 tờ là 350đ, một ngày phòng bỏ ra 3 tờ là: 1050đ, một năm 365 ngày: 373,800đ. Tuy con số này không là gì với NH nhưng nếu các nhân viên biết tiết kiệm và cẩn thận tránh sai sót trong quá trình làm việc thì số tiền đó cộng với các khoảng khác tiết kiệm được sẽ sử dụng cho công tác từ thiện góp phần nâng cao danh tiếng của NH mang mọi người đến gần lợi ích của cộng đồng nhiều hơn, cải thiện thái độ và hành vi giao dịch tạo ra môi trường làm việc tốt hơn (phải chứng tỏ là NH cần khách hàng chứ không phải khách hàng cần NH), tạo điều kiện cho nhân viên phát triển khả năng cá nhân; nâng cao hình ảnh vị thế NH trên thương trường. Đặc biệt nếu đào tạo tốt còn rút ngắn khoảng cách thời gian học hỏi, thời gian tích luỹ kinh nghiệm đối với các nhân viên mới tuyển dụng, có thể thay đổi vị trí công tác từ nhân viên lên chuyên viên lên trưởng nhóm, phó phòng... Đào tạo mang lại cho nhân viên: thoả mãn công việc hiện tại ngày một tốt hơn; tăng lòng tự hào bản thân; có cơ hội thăng tiến; có thái độ tích cực và động lực cao làm việc; và khi bạn được đào tạo bạn cảm thấy mình được quan tâm tin tưởng và đó chính là động lực để những người lao động ngày càng gắn bó hơn với NH mình, và sẵn sàng đón nhận những thử thách mới trong công việc.
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HẠN CHẾ VÀ PHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN HÀNG NHẬP KHẨU BẰNG PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI NHNo&PTNT(CN6)
3.2.1. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay thì NH nhà nước phải đóng vai trò trung gian làm cầu nối cho sự hợp tác cũng như tạo điều kiện giao lưu học hỏi kinh nghiệm giữa các NHTM Việt Nam và NH bạn trên thế giới. Bằng cách: tham gia vào các điều ước quốc tế, diễn đàn khu vực và quốc tế …Tăng cường áp dụng các thông lệ chuẩn mực quốc tế trong hoạt động của NHTM. Cần phải thống nhất hệ thống thanh toán, sớm hình thành Trung tâm thanh toán quốc gia để nhất thể hoá phương tiện thanh toán điện tử qua NH, tăng cường sự liên kết và hợp tác các tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán. Nhờ đó mà việc thanh toán liên quốc gia sẽ được thúc đẩy, đồng thời đảm bảo an toàn trong thanh toán và tiết kiệm được chi phí. Trong đó thì hệ thống thanh toán của NH Nhà nước là trung tâm. Xây dựng một dự án đầu tư về công nghệ NH hiện đại xứng tầm với quốc tế để làm tiêu điểm chuyển giao công nghệ cho các NHTM khác. Phải vạch ra chiến lược hợp tác, phối hợp với các cơ quan pháp luật, Bộ công an và các đơn vị chức năng để đưa ra những biện pháp hiệu quả phòng tránh hoạt động lừa đảo thương mại thông qua nghiệp vụ TTQT. Xây dựng một trung tâm tư vấn, hòa giải chuyên giải quyết vấn đề tranh chấp trong thanh toán TDCT giữa NHTM Việt Nam với NH nước ngoài. Các NH khi thực hiện TTQT đều dẫn chiếu UCP600 (Phòng thương mại quốc tế ban hành). Đây là một thông lệ quốc tế.
Tóm lại, trước đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp đầy mạnh công nghiệp hoá -hiện đại hoá và đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập nền kinh tế với khu vực và quốc tế … hơn bao giờ hết, vai trò của NH nhà nước lúc này càng phải lớn mạnh nhanh chóng để quản lý và điều hành sao cho hệ thống NH Việt Nam nhất thiết phải là một tác nhân quan trọng góp phần đắc lực hơn nữa trong quá trình cạnh tranh và hợp tác trong hội nhập kinh tế toàn cầu hóa.
3.2.2. Kiến nghị với Chính phủ
Những vấn đề Chính phủ cần phải triển khai mạnh mẽ đối với hoạt động NH trong bối cảnh hội nhập là:
- Xây dựng NH Nhà nước thành NH Trung ương, đẩy nhanh tiến độ xây dựng Luật NH Trung ương, hoàn thiện hệ thống kiểm tra, giám sát đáp ứng được nhu cầu mở cửa, cải cách, hỗ trợ NHTM hoạt động an toàn trong điều kiện hội nhập.
- Hoàn thiện môi trường pháp lý, đảm bảo an toàn cho hoạt động TTQT.
- Chính phủ phải từng bước hoàn thiện cơ chế chính sách và hệ thống văn bản pháp quy để tạo môi trường pháp lý rõ ràng, thuận lợi cho việc tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động TTQT. Ban hành văn bản dưới luật quy định rõ chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước đối với việc xử lý các tranh chấp trong thanh toán.
- Chính phủ nên có những thông điệp rõ ràng về chủ trương, chính sách trong hoạt động của NH để các NHTM có định hướng hoạt động cụ thể.
- Cần có những chính sách hỗ trợ và tạo môi trường hoạt động thuận lợi và bình đẳng hơn cho các tổ chức tín dụng và các NHTM cổ phần để giảm bớt cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập. Đặc biệt là tạo điều kiện cho các NH nhỏ có điều kiện mở rộng mạng lưới, chiếm lĩnh thị trường nội địa.
3.2.3. Kiến nghị đối với Khách hàng
Phương thức thanh toán TDCT là một phương thức phổ biến và có độ an toàn cao trong thanh toán. Nhưng đây lại là một phương thức rất phức tạp về mặt thủ tục, trong khi đó nhiều DN vẫn còn hạn chế kiến thức về nghiệp vụ ngoại thương và TTQT. Sự kém hiểu biết này thường dẫn đến các vụ tranh chấp trong thương mại quốc tế làm ảnh hưởng đến uy tín của DN lẫn NH đại diện. Do đó để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán hàng NK bằng phương thức TDCT tại NH thì đòi hỏi khách hàng phải phối hợp thực hiện các vấn đề sau:
- Trước khi ký kết Hợp đồng ngoại thương đòi hỏi các DN phải tìm hiểu về thị trường, đối tác kinh doanh và phải cân nhắc, lựa chọn điều kiện thương mại có lợi nhất cho mình để có thể phòng tránh được những rủi ro cũng như gian lận, lừa đảo trong thương mại quốc tế.
- Khi viết đơn xin mở L/C phải thật chính xác và phù hợp với những quy định trong Hợp đồng. Bởi vì nếu quy định trong L/C không thống nhất với Hợp đồng thì có thể dẫn đến nhiều rủi ro, tranh chấp cho DN lẫn NH và nếu tu chỉnh sẽ mất nhiều thời gian, chi phí.
- DN cần tìm hiểu rõ ưu, nhược điểm của phương thức này để có thể đưa ra biện pháp phòng ngừa rủi ro hiệu quả. Đồng thời tham khảo ý kiến của thanh toán viên để có thể lựa chọn loại L/C có lợi nhất.
- Đặc biệt những quy định trong L/C rất khắt khe nhất là đối với BCT thanh toán, chỉ một sai sót nhỏ cũng là cơ sở để NH từ chối thanh toán. Do đó để đảm bảo độ an toàn, tiết kiệm thời gian, chi phí thì DN phải tự trang bị những kiến thức cần thiết cho mình như tìm hiểu UCP600, các điều kiện thương mại quốc tế… và làm theo chỉ dẫn của thanh toán viên.
- Phải nâng cao trình độ quản lý, kiến thức về pháp luật, kinh doanh quốc tế để thực hiện các thương vụ thành công, tránh những thiệt hại không đáng có cũng như giúp cho NH tránh được những tranh chấp với NH nước ngoài.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Qua nghiên cứu cơ sở lý luận ở chương 1 và đánh giá khả năng xảy ra rủi ro trong chương 2, chương 3 đã nêu ra một số giải pháp cho Agribank nhằm hạn chế rủi ro trong phương thức thanh toán TDCT. Bên cạnh đó, chương 3 còn đưa ra những kiến nghị ở cấp độ vĩ mô đối với Chính phủ và NH nhà nước, các giải pháp này nhằm hạn chế rủi ro xảy ra trong phương thức thanh toán bằng TDCT và nâng cao hiệu quả của phương thức này đối với các Agribank nói riêng và các NHTM nói chung. Tuy nhiên, trong thực tế Agribank phải vận dụng các giải pháp như thế nào mang lại hiệu quả nhất để vừa hạn chế được rủi ro có thể xảy ra vừa thu hút và duy trì được khách hàng. Để được như vậy là một nghệ thuật trong kinh doanh mà Agribank cần phải xem xét chứ không tuân theo các giải pháp một cách máy móc. Vì vậy, các Chi nhánh cần phải xem xét để vận dụng các giải pháp một cách linh hoạt, hợp lý tùy theo từng trường hợp cụ thể và từng đối tượng khách hàng cụ thể. Mục đích chính của việc vận dụng các giải pháp là vừa hạn chế rủi ro vừa thu hút được khách hàng cho các Chi nhánh của Agribank.