LỜI NÓI ĐẦU
Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VIỆC PHÂN QUYỀN MẠNH CHO CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI
1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về đất đai
1.1.1. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về đất đai
1.1.2. Khái niệm chế độ quản lý nhà nước về đất đai
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về đất đai
1.1.4. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai
1.2. Một số vấn đề lý luận về việc phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai
1.2.1. Khái quát về phân cấp - phân quyền trong quản lý hành chính nhà nước
1.2.2. Cơ sở lý luận của việc xác lập mối quan hệ quyền lực nhà nước giữa chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương
1.2.3. Phân quyền trong quản lý nhà nước về đất đai
Chương II: VẤN ĐỀ PHÂN QUYỀN MẠNH CHO CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
2.1. Sự phân quyền trong hoạt động quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
2.2. Sự phân quyền trong hoạt động giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
2.2.1. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất của Chính phủ
2.2.2. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
2.2.3. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
2.2.4. Thẩm quyền cho thuê đất của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
2.3. Sự phân quyền trong hoạt động thu hồi đất
2.4. Sự phân quyền trong hoạt động cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
2.5. Sự phân quyền trong hoạt động quản lý tài chính về đất đai và giá đất
2.6. Sự phân quyền trong hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai
Chương III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÂN QUYỀN MẠNH CHO CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai
3.2.1. Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp chính quyền địa phương trong quản lý đất đai
3.2.2. Đầu tư, hiện đại hoá công nghệ quản lý đất đai
3.2.3. Kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật đất đai của cán bộ, công chức nhà nước
3.2.4. Bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý đất đai
3.2.5. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật đất đai
3.2.6. Kiện toàn và nâng cao hiệu quả công tác quản lý đất đai của chính quyền cơ sở
3.2.7. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các quy định về phân quyền cho chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
57 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1926 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các vấn đề pháp lý về phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i địa phương. Điều này đã làm ảnh hưởng đến tiến độ đầu tư của các dự án hoặc bỏ lỡ các cơ hội thu hút đầu tư của các địa phương. Khắc phục hạn chế này, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai 2001 đã tăng cường thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Theo khoản 2, điều 23 - Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai: Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất không phải là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp cho các đối tượng sau:
- Tổ chức sử dụng đất.
- Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tại nội thành và nội thị xã.
Theo Khoản 1, Điều 24: Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất để sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối cho các tổ chức kinh tế sử dụng đất.
Như vậy, căn cứ để xác định thẩm quyền giao đất, cho thuê đất của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là đối tượng sử dụng đất chứ không phải diện tích đất được giao. Việc xác định căn cứ giao đất như vậy là phù hợp với thực tế quản lý và sử dụng đất đai.
Đặc biệt, theo điều 80 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đất đai 2001 thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh sẽ còn có thẩm quyền quyết định cho thuê đất cho các trường hợp sau:
- Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác có chức năng ngoại giao của nước ngoài tại Việt Nam.
- Cơ quan đại diện các tổ chức của Liên hợp quốc; cơ quan, tổ chức liên Chính phủ; cơ quan đại diện của tổ chức liên Chính phủ tại Việt Nam.
Quy định trên đã hợp pháp hoá thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đối với việc cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất mà trước đó thuộc thẩm quyền của Chính phủ.
Một trong những vấn đề lần đầu tiên được luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai 2001 đề cập là quy định thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Quy định này ra đời dựa trên nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất nhằm chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi để hình thành một nền sản xuất hàng hoá ở nước ta. Vấn đề này được quy định như sau:
- Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định chuyển mục đích sử dụng đất cho các hộ gia đình, tổ chức kinh tế, cá nhân sử dụng đất ở nội thành, nội thị xã chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất làm muối, đất ở, đất chuyên dùng sang sử dụng vào mục đích khác.
- Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định chuyển mục đích sử dụng đất cho các tổ chức kinh tế sử dụng đất chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp trồng lúa nước sang nuôi trồng thuỷ sản, trồng cây lâu năm hoặc chuyển từ đất trồng cây lâu năm sang trồng cây hàng năm.
Mặc dù luật đất đai sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai 2001 đã có những quy định mới nhằm phân quyền cho Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất song mới chỉ dừng lại ở việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất ở một số nhóm đối tượng sử dụng đất là tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân. Vấn đề này tiếp tục được thực hiện mạnh mẽ trong luật đất đai 2003. Theo đó, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh không chỉ có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân mà còn có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức tôn giáo, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt nam định cư ở nước ngoài. Cụ thể tại Điều 37 Luật đất đai 2003: “Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức; giao đất đối với các cơ sở tôn giáo; giao đất, cho thuê đất, đối với người Việt nam định cư ở nước ngoài; cho thuê đất đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài”. Quy định này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chủ động thực hiện việc giao đất, phục vụ kịp thời cho việc triển khai các dự án đầu tư trên phạm vi lãnh thổ mình quản lý. Thời gian qua, Nhà nước đã thử nghiệm trao thẩm quyền giao đất, đền bù giải phóng mặt bằng cho việc thực hiện dự án trọng điểm quốc gia xây dựng đường Hồ Chí Minh cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh địa phương thực hiện đem lại hiệu quả tốt đã chứng minh tính đúng đắn của chủ trương này.
2.2.3. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Không chỉ Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh mà Uỷ ban nhân dân cấp huyện cũng được Nhà nước trao thẩm quyền thực hiện quyền định đoạt đất đai của chủ sở hữu thông qua việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất.
Khoản 2 - Điều 24 luật đất đai 1993 quy định về thẩm quyền giao đất để sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp của cấp huyện. Theo đó, “Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giao đất cho hộ gia đình.”. Như vậy, Uỷ ban nhân dân cấp huyện chỉ giới hạn giao đất cho cá nhân hộ gia đình sử dụng vào mục đích nông lâm nghiệp. Sự phân cấp thẩm quyền giao đất, cho thuê đất được tiến hành mạnh mẽ khi luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai 2001 ra đời.
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai 2001 đã phân định cụ thể thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Theo đó, thẩm quyền giao đất, cho thuê đất của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh không chỉ bó hẹp ở trường hợp cho hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu sử dụng vào mục đích nông lâm nghiệp mà được mở rộng cho các trường hợp hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu sử dụng vào mục đích khác.
Một điểm cần chú ý, trong các quy định của luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai 2001 là quy định thẩm quyền giao đất, cho thuê đất của Uỷ ban nhân dân quận. Trước đây, theo quy định của luật đất đai 1993, Uỷ ban nhân dân quận không có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất. Đến khi luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai 2001 ra đời đã bổ sung quy định cho phép Uỷ ban nhân dân quận có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng vào mục đích nông lâm nghiệp, làm muối. Sở dĩ pháp luật đất đai bổ sung thẩm quyền giao đất, cho thuê đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng vào mục đích nông nghiệp của Uỷ ban nhân dân quận là xuất phát từ tình hình thực tế quá trình “đô thị hoá” đang diễn ra nhanh chóng tại các đô thị lớn ở nước ta. Nhiều quận mới được hình thành từ những khu vực vùng ven của những thành phố lớn. Do đó, ở các quận mới được hình thành vẫn còn tồn tại một bộ phận lớn người sản xuất nông nghiệp và còn nhiều diện tích đất nông nghiệp. Việc chuyển đổi mục đích sản xuất này phải diễn ra trong nhiều năm phụ thuộc vào quá trình phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, nếu không quy định cho Uỷ ban nhân dân quận có thẩm quyền giao đất để sử dụng vào mục đích nông nghiệp thì sẽ gây xáo trộn đến việc sản xuất của người dân và gây ách tắc trong quản lý đất đai.
Không chỉ quy định cho Uỷ ban nhân dân quận có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp, luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai 2001 còn cho phép Uỷ ban nhân dân quận có thẩm quyền cho hộ gia đình, cá nhân chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp trồng lúa nước sang nuôi trồng thuỷ sản, trồng cây lâu năm hoặc chuyển từ đất nông nghiệp trồng cây lâu năm sang trồng cây hàng năm.
Tuy vậy, thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất của Uỷ ban nhân dân quận chưa triệt để, chỉ ở mức độ nhất định. Mặc dù quận là cấp hành chính tương đương huyện nhưng do tính chất là đơn vị hành chính trong đô thị nên phần lớn thẩm quyền thuộc về Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Việc phân cấp thẩm quyền giao đất, cho thuê đất tiếp tục được hoàn thiện bằng quy định của luật đất đai 2003: “Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân, giao đất đối với cộng đồng dân cư” (Khoản2, Điều 37).
2.2.4. Thẩm quyền cho thuê đất của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở trực tiếp quản lý đất đai. Do đó, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn là người nắm rõ hiện trạng sử dụng đất và những biến động đất đai của địa phương mình. Mặc dù là một cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đất đai nhưng Uỷ ban nhân dân cấp xã không có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất.
Luật đất đai 1993 không quy định cho Uỷ ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất. Tuy nhiên, khi Nghị định 64/CP được ban hành quy định cho mỗi xã được để lại một tỷ lệ đất không quá 5% tổng diện tích đất nông nghiệp của toàn xã để sử dụng cho mục đích công ích của địa phương thì nảy sinh một vấn đề là nếu địa phương chưa có nhu cầu sử dụng diện tích đất này vào mục đích công ích thì hộ gia đình, cá nhân có được phép thuê để sản xuất nông nghiệp không? Để trả lời câu hỏi này, luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai 2001 và luật đất đai 2003 đã hợp pháp hoá quyền cho thuê đất công ích của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Như vậy, chúng ta thấy rằng, sự phân cấp thẩm quyền cho thuê đất công ích của Uỷ ban nhân dân cấp xã được thực hiện thông qua một quá trình phát triển xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn. Từ chỗ, Uỷ ban nhân dân cấp xã không có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất trong luật đất đai 1993 đến việc quy định cho Uỷ ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền cho thuê đất công ích để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp của luật đất đai 2003.
Như vậy, qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung luật đất đai thì vấn đề giao đất, cho thuê đất được quan tâm và là trọng điểm của các lần sửa đổi, bổ sung. Mỗi lần sửa đổi là một bước tăng cường phân cấp mạnh cho Uỷ ban nhân dân các cấp địa phương trong việc giao đất, cho thuê đất để địa phương chủ động triển khai các dự án đầu tư, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất. Cho đến luật đất đai 2003 được coi là toàn diện nhất về phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Nhà nước cũng quan tâm đúng mức hơn đối với chính quyền cơ sở xã, phường, thị trấn khi giao cho cấp này thẩm quyền cho thuê đất công ích. Qua đây, chúng ta thấy được xu hướng mở rộng quyền năng cho chính quyền địa phương trong cả nước. Điều này tạo sự chủ động, sáng tạo của các cấp chính quyền địa phương, thu hút đầu tư trên đất mà không làm mất đi quỹ đất, đưa công tác quản lý đất đai sát với thực tế và điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của địa phương. Hơn nữa, việc mở rộng quyền năng cho các cấp chính quyền địa phương không làm mất đi vai trò quản lý thống nhất của Chính phủ mà sẽ được thực hiện thông qua việc kiểm tra, chỉ đạo và giám sát chung.
2.3. Sự phân quyền trong hoạt động thu hồi đất.
Cùng với giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất là một biện pháp để Nhà nước - đại diện chủ sở hữu - thực hiện quyền định đoạt đất đai. Theo Luật đất đai 2003: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của pháp luật”.
Thu hồi đất được đề cập trong luật đất đai 1993 bằng các quy định về các trường hợp thu hồi đất, thẩm quyền thu hồi đất và nguyên tắc khi thu hồi đất. Tuy nhiên luật đất đai 1993 quy định như vậy là chưa đầy đủ và thiếu các quy định cụ thể về việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Trên thực tế, người có đất bị thu hồi được đền bù thiệt hại nhưng lại không có quy định nào đề cập cụ thể để giải quyết hậu quả pháp lý của việc thu hồi đất như: giá đất để tính đền bù thiệt hại, giải quyết vấn đề tái định cư, đời sống việc làm cho người có đất bị thu hồi, xử lý các trường hợp cố tình không thực hiện quyết định thu hồi đất. Hạn chế này đã làm chậm chễ việc giải phóng mặt bằng khi thực hịên các dự án đầu tư, phát sinh nhiều khiếu kiện từ phía người dân. Mặt khác, tại một số địa phương, cộng đồng dân cư khi xây dựng các công trình phục vụ lợi ích chung của cộng đồng đã sử dụng đất của một số hộ gia đình, cá nhân nhưng pháp luật lại không có quy định để xác định đền bù cho các đối tượng này như thế nào. Khắc phục hạn chế này, luật đất đai sửa đổi năm 2001 đã xác lập nguyên tắc trong việc đền bù khi Nhà nước thu hồi đất như sau:
- Người sử dụng đất được bồi thường hoặc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
- Nhà nước có chính sách để ổn định đời sống cho người có đất bị thu hồi. Trong trường hợp thu hồi đất phải chuyển chỗ ở thì được mua nhà của Nhà nước hoặc được giao đất có thu tiền sử dụng đất để làm nhà ở.
- Trường hợp cộng đồng dân cư xây dựng các công trình phục vụ lợi ích công cộng của cộng đồng theo quy hoạch bằng nguồn vốn do nhân dân đóng góp hoặc Nhà nước có hỗ trợ thì việc bồi thường hoặc hỗ trợ cho người có đất để sử dụng xây dựng công trình công cộng do cộng đồng dân cư và người có đất tự thoả thuận.
Không chỉ xác lập các nguyên tắc giải quyết việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, pháp luật đất đai còn quy định rõ thẩm quyền thu hồi đất của các cơ quan quản lý nhà nước. Thẩm quyền thu hồi đất được pháp luật đất đai xác lập theo hướng ngày càng đề cao vị trí và trách nhiệm của chính quyền địa phương. Cụ thể là thẩm quyền thu hồi đất được xác lập dựa trên nguyên tắc “Cơ quan nào có thẩm quyền quyết định giao đất nào thì có thẩm quyền thu hồi đất đó”.
Như phần trên đã phân tích, quan điểm phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương trong việc giao đất, cho thuê đất là để giảm bớt cho Chính phủ không phải giải quyết các công việc mang tính chất sự vụ, tập trung vào công tác chỉ đạo, điều hành quản lý đất đai ở tầm vĩ mô. Vì vậy, thẩm quyền thu hồi đất được pháp luật đất đai giao cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện trên cơ sở các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất do Chính phủ quy định.
Thu hồi đất là một nội dung không kém phần quan trọng trong quản lý Nhà nước về đất đai nên cần có một chính sách nhất quán trong việc bồi thường hỗ trợ khi Nhà nước quyết định thu hồi đất của các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân. Hơn nữa, cần phân định cơ chế thẩm quyền rõ ràng vừa nâng cao tính chủ động của các cấp chính quyền địa phương vừa đảm bảo thực thi các chính sách kinh tế của Nhà nước. Từ đó cũng góp phần hạn chế những khiếu kiện, khiếu nại, tranh chấp phát sinh trong nội bộ nhân dân và giữa những người sử dụng đất với Nhà nước.
2.4. Sự phân quyền trong hoạt động cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý xác nhận mối quan hệ hợp pháp giữa Nhà nước và người sử dụng đất. Quá trình tổ chức thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là quá trình xác lập căn cứ pháp lý để giải quyết đầy đủ mọi quan hệ về đất đai.
Pháp luật quy định cụ thể những đối tượng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các cơ quan Nhà nước. Sự tuân thủ những quy định của pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vừa đảm bảo tính thống nhất, vừa đảm bảo các quyết định quản lý trong quá trình quản lý đất đai. Đồng thời sẽ tạo ra sự thông thoáng tích cực đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Về mặt pháp lý, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là cơ sở pháp lý để Nhà nước - đại diện chủ sở hữu đất đai - công nhận và bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Với ý nghĩa đó, luật đất đai 2003 quan niệm: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giấy chứng nhận do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp cho người sử dụng đất để bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của người đó”.
Theo luật đất đai 1993 thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao đất nào thì có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó. Trong trường hợp Chính phủ giao đất thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Như vậy, theo quy định của luật đất đai 1993 thì cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Tiếp đó nhằm cụ thể hoá thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của luật đất đai 1993, luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai 2001 đã quy định các đối tượng thuộc thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Uỷ ban nhân dân cấp huyện như sau:
- Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức sử dụng đất và những đối tượng được Chính phủ giao đất.
- Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thành phố, thị xã thuộc tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân.
Quy định trên của luật đất đai 2001 đã được thi hành trong thực tế nhưng nó không còn phù hợp với Nghị quyết của Quốc hội về cải cách thủ tục hành chính về đất đai và phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trách nhiệm và quyền hạn quản lý đất đai. Do đó, luật đất đai 2003 ra đời đã quán triệt sâu sắc định hướng này và có các quy định sửa đổi, bổ sung về thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo đó, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Quy định này cho thấy tính cụ thể và rõ ràng trong việc xác định thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đối tượng được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Uỷ ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất.
Bên cạnh việc quy định cụ thể và rõ ràng thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, luật đất đai 2003 còn đề cập đến việc uỷ quyền trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vấn đề uỷ quyền trong cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được đề cập đến khi xây dựng luật đất đai 1993. Tuy nhiên, do quan điểm cho rằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một biện pháp quan trọng để thể hiện quyền định đoạt đất đai của Nhà nước - đại diện chủ sở hữu - nên phải do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Uỷ ban nhân dân cấp huyện (cơ quan được Nhà nước trao quyền để định đoạt đất đai) thực hiện nên không thể đặt ra vấn đề uỷ quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Song thực tiễn cho thấy tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực hiện rất chậm và còn nhiều thủ tục hành chính phiền hà gây trở ngại nên chưa đáp ứng được yêu cầu của quản lý đất đai và đòi hỏi của thực tiễn nếu không cải cách mạnh mẽ các thủ tục hành chính và không thực hiện việc uỷ quyền trong cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hơn nữa, uỷ quyền trong cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ nhằm đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chứ không làm ảnh hưởng đến quyền định đoạt đất đai của Nhà nước. Bởi lẽ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một biện pháp để Nhà nước bảo hộ quyền của người sử dụng đất chứ không làm thay đổi hay chấm dứt tư cách của người sử dụng đất. Do đó, căn cứ trên quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các cơ quan chuyên môn chỉ tiến hành các thủ tục để công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho người sử dụng đất.
2.5. sự phân quyền trong hoạt động quản lý Tài chính về đất đai và giá đất.
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của đất đai được xác định lại cho phù hợp với giá trị vốn có của nó. Đất đai được xác định là tài sản quốc gia, là nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước. Muốn quản lý đất đai có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường thì Nhà nước phải thay đổi phương thức quản lý. Nhà nước không chỉ sử dụng các biện pháp hành chính mà còn sử dụng ngày càng nhiều các biện pháp kinh tế để quản lý đất đai. Nhìn nhận đất đai dưới khía cạnh tài sản quốc gia, nguồn nhân lực để phát triển đất nước thì tất yếu phải đặt ra vấn đề tài chính về đất đai và giá đất.
Có rất nhiều tiêu chí để xác định giá đất như căn cứ vào diện tích, loại hạng đất, mục đích sử dụng, vị trí địa lý của khu đất. Nhà nước xác định giá đất để làm căn cứ tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền sử dụng khi giao đất, tính tiền cho thuê đất, tiền bồi thường thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất. Theo Điều 12- Luật đất đai 1993 thì Chính phủ qui định khung giá các loại đất theo từng vùng và theo từng thời gian. Tuy nhiên, qui định về giá đất của Luật đất đai 1993 mới dừng lại ở mức độ khái quát, chưa đề cập hết các mục đích sử dụng như thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, kê biên bất động sản. Chưa qui định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc xác định giá các loại đất. Hơn nữa, giá đất do nhà nước qui định chậm được sửa đổi bổ sung nên không phù hợp với thực tế. Điều này gây khó khăn cho các địa phương khi triển khai thực hiện và phát sinh nhiều khiếu kiện của công dân, đặc biệt là bồi thường thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất.
Để đảm bảo sự thống nhất quản lý nhà nước về giá đất, đồng thời tạo cho các địa phương chủ động trong quá trình xác định, điều chỉnh giá đất, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai 2001 đã xác định một cơ chế định giá đất phù hợp hơn. Theo đó, căn cứ vào qui định của Chính phủ về khung giá, nguyên tắc, phương pháp xác định giá các loại đất, Uỷ ban nhân dân các tỉnh qui định giá các loại đất phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương. Khi xác định khung giá đất cần quan tâm đúng mức đến mối quan hệ giữa khung giá đất do nhà nước xác định với biến động giá cả đất trên thị trường. Bởi lẽ, khi có sự chênh lệch quá lớn giữa giá đất do nhà nước xác định với giá đất trên thị trường mà không có sự điều chỉnh kịp thời thì áp dụng giá đất do nhà nước xác định để xử lý các quan hệ đất đai đặc biệt là xác định tiền bồi thường thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất.
Luật đất đai 2003 đã tiếp cận được quan điểm về phân cấp quản lý đất đai trong việc quy định về giá đất. Giá đất là một vấn đề vô cùng phức tạp, nó vừa mang tính tương đối (không xác định được giá trị thực của đất đai) vừa mang tính tuyệt đối (đất đai là vô giá). Giá đất được quyết định bởi rất nhiều yếu tố vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính phi vật chất như vị trí địa lý, hình thể, diện tích, khả năng sinh lợi, phong tục tập quán và sở thích của người sử dụng. Hơn nữa, giá đất còn hàm chứa những yếu tố “ảo” không phản ánh đúng quy luật cung cầu của thị trường, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay khi nước ta chưa hình thành thị trường bất động sản chính thức. Do vậy, việc xác định giá đất phải đảm bảo các nguyên tắc; phù hợp với thực tế, luôn có sự điều chỉnh cho phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường và phải do cơ quan có đủ trình độ chuyên môn xác định. Vì vậy, việc xác định giá đất không chỉ thuộc thẩm quyền của Chính phủ. Thực tế đã chứng minh giá đất do Chính phủ xác định không được điều chỉnh kịp thời với những biến động của thị trường đã không đem lại hiệu quả mong muốn. Chính vì vậy, việc phân định thẩm quyền định giá đất cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh của luật đất đai 2003 là hoàn toàn hợp lý. Bởi nó vừa đảm bảo cho các địa phương chủ động trong việc định giá đất và kịp thời điều chỉnh giá đất khi có những biến động lớn trên thị trường vừa đảm bảo được sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Theo đó:
- Chính phủ quy định phương pháp xác định giá đất, khung giá các loại đất cho từng vùng, theo từng thời gian, trường hợp phải điều chỉnh giá đất và việc xử lý chênh lệch giá đất liền kề giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Căn cứ vào nguyên tắc định giá đất do Chính phủ quy định, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xác định giá đất cụ thể tại địa phương mình trình Hội đồng nhân dân cùng cấp cho ý kiến trước khi quyết định (Điều 56 - Luật đất đai 2003).
Như vậy, việc phân định thẩm quyền trong việc định giá đất đã được xác định rõ trong luật đất đai 2003. Cụ thể, Chính phủ không trực tiếp định giá đất mà chỉ quy định phương pháp xác định giá đất, khung giá đất cho từng vùng, theo từng thời gian. Còn việc định giá đất cụ thể cho phù hợp với tình hình của từng địa phương thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
2.6. Sự phân quyền trong hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai.
Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai.
Tranh chấp đất đai là một nội dung của quản lý Nhà nước về đất đai. Giải quyết tranh chấp đất đai được hiểu là hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm tìm ra một giải pháp đúng đắn dựa trên các quy định của pháp luật để giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên tranh chấp.
Trong giai đoạn hiện nay, tranh chấp đất đai mang nặng tính chất đặc thù. Tài sản tranh chấp không thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Vì thế, hậu quả của việc tranh chấp không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của các bên tham gia tranh chấp mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước. Cho nên, trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai, Nhà nước khuyến khích quyền tự thương lượng, hoà giải trong nội bộ nhân dân. Nếu đã xảy ra tranh chấp mà hoà giải không thành thì tuỳ theo tính chất và mức độ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai sẽ thuộc thẩm quyền của các cơ quan hành chính hoặc các cơ quan tư pháp.
Trong những năm vừa qua, Nhà nước ta thay đổi cơ chế quản lý đất đai làm cho người sử dụng đất gắn bó với đất đai, thấy được giá trị to lớn của đất. Bên cạnh đó, cơ chế quản lý đất đai này cũng làm gia tăng các tranh chấp đất đai với tính chất ngày càng phức tạp hơn. Chính vì vậy, việc giải quyết tranh chấp đất đai gặp phải không ít khó khăn, phức tạp. Nhận thức được những khó khăn này, pháp luật đất đai đã xác định rõ thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Theo đó, các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân. Các tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất và các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp thì sẽ do toà án nhân dân giải quyết.
Không chỉ dừng lại ở việc quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, pháp luật đất đai còn chú trọng tới việc phân quyền trong giải quyết tranh chấp đất đai. Luật đất đai 1993 quy định Nhà nước khuyến khích việc hoà giải các tranh chấp đất đai trong nộibộ nhân dân. Uỷ ban nhân dân cấp xã phối hợp với mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên của mặt trận hoà giải các tranh chấp đất đai. Như vậy, luật đất đai 1993 chưa xác định hoà giải tranh chấp đất đai là một nhiệm vụ bắt buộc phải thực hiện của chính quyền cơ sở hay không? Đến luật đất đai 2003 đã quy định vấn đề này cụ thể rõ ràng hơn. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hoà giải. Nếu các bên không hoà giải được thì gửi đơn đến Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có tranh chấp. Trong vòng 30 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Uỷ ban nhân dân cấp xã phối hợp với các đoàn thể quần chúng ở cơ sở hoà giải tranh chấp giữa các bên. Đây là một thủ tục bắt buộc phải tiến hành ở chính quyền cơ sở. Quy định này vừa là thẩm quyền vừa là trách nhiệm của chính quyền cơ sở trong việc giải quyết tranh chấp đất đai. Việc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hoà giải ở cơ sở sẽ làm giảm gánh nặng cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, khắc phục được việc người dân khiếu kiện vượt cấp, đồng thời tăng cường trách nhiệm của chính quyền cấp xã, phát huy vai trò của các đoàn thể quần chúng trong việc giải quyết tranh chấp đất đai.
Vấn đề phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai cho chính quyền các địa phương còn thể hiện rõ ở việc quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai chủ yếu do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện, hạn chế tối đa việc giải quyết tranh chấp đất đai của các cơ quan Trung ương, khắc phục tình trạng đơn thư khiếu nại vượt cấp, gây tốn kém thời gian công sức của người dân trong việc khiếu kiện làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội và làm cho tranh chấp đất đai không được giải quyết dứt điểm, để dây dưa kéo dài. Quan điểm về phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho các địa phương thể hiện rõ ở quy định sau:
Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Khoản 2 - Điều 50 của luật này được giải quyết như sau:
- Trường hợp chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết, quyết định của chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là quyết định cuối cùng.
- Trường hợp chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường, quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường là quyết định cuối cùng (Khoản 2 - Điều 136 - Luật đất đai 2003).
Chương III
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai.
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về phân quyền cho chính quyền địa phương trong quản lý đất đai.
Những năm vừa qua, nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong quản lý, khai thác và sử dụng đất. Việc quản lý đất đai đã từng bước đi vào nề nếp, ngày càng có hiệu quả và tiết kiệm hơn. Tuy nhiên, việc quản lý và sử dụng đất vẫn bộc lộ những hạn chế như chưa đẩy lùi các vi phạm pháp luật về thẩm quyền giao đất, cho thuê đất; việc sử dụng quỹ đất giao thông, thuỷ lợi còn nhiều bất hợp lý; tình trạng mua bán, chuyển nhượng đất đai trái phép xảy ra phổ biến. Điều này chứng tỏ công tác quản lý đất đai của nhà nước ta trong thời gian qua chưa đạt hiệu quả mong muốn. Một trong những nguyên nhân là pháp luật chưa phân cấp mạnh mẽ thẩm quyền quản lý đất đai cho các cấp chính quyền địa phương.
Mặt khác, kể từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt sau khi luật đất đai 1993 ra đời, pháp luật cho phép người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng trong thời hạn giao đất đã phá vỡ tình trạng “đóng băng” trong quản lý đất đai ở nước ta. Đồng thời làm phát sinh nhiều loại giao dịch đất đai mang tính chất dân sự, thương mại trong xã hội. Tuy vậy, phương thức quản lý đất đai của nhà nước chậm thay đổi không theo kịp với sự vận động của quan hệ đất đai. Chính phủ vẫn phải giải quyết quá nhiều các công vịêc như giao đất, cho thuê đất. Trong khi đó, Uỷ ban nhân dân các cấp lại chỉ có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất ở mức độ hạn chế về diện tích, đối tượng và mục đích sử dụng. Điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc thuê đất sản xuất kinh doanh, thậm chí làm chậm hoặc bỏ lỡ cơ hội kinh doanh phía đối tác của Việt Nam. Đây là một lý do để nhà nước thực hiện việc phân cấp quản lý cho chính quyền địa phương.
Việc phân quyền về quản lý đất đai cho chính quyền địa phương đặt trong tổng thể công cuộc cải cách thủ tục hành chính của Đảng và nhà nước ta. ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý nên nó chi phối rất lớn đến việc sử dụng đất trong xã hôi. Hiện nay, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước ta chưa đáp ứng được các đòi hỏi của công tác quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gây cản trở cho quá trình pháp triển kinh tế. Xét trong lĩnh vực quản lý đất đai của nhà nước thì vẫn còn dấu ấn của cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp không theo kịp với sự phát triển của xã hội. Vì vậy, một đòi hỏi cấp bách đặt ra hiện nay là phải cải cách mạnh mẽ, toàn diện nền hành chính quốc gia nói chung và cải cách hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai nói riêng, khắc phục những mặt yếu kém, trì trệ của bộ máy các cơ quan nhà nước và đội ngũ công chức góp phần nâng cao hiệu lực quản lý đất đai theo đúng định hướng Nghị quyết Đại hội Đảng IX: “Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá...Tiếp tục xoá bỏ các thủ tục hành chính phiền hà, nhất là ở những lĩnh vực, những khâu dễ xảy ra tham nhũng, sách nhiễu”.(Văn kiện Đại hội Đảng IX, NXB Chính trị Quốc gia 2001, trang 133, 134, 135, 136.)
Thực tiễn công tác quản lý đất đai ở nước ta hiện nay đặt ra yêu cầu phải phân quyền quản lý đất đai cho chính quyền địa phương. Luật đất đai 1993 được sửa đổi, bổ sung năm 1998 và 2001 là một trong những đạo luật quan trọng thể hiện đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước. Những kết quả đạt được là tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần ổn định chính trị xã hội. Chính sách, pháp luật đất đai đã trở thành một trong những động lực chủ yếu đưa nước ta vào nhóm những nước hàng đầu thế giới về xuất khấu nông sản và thuỷ sản. Kinh tế nông nghiệp đã thoát khỏi tình trạng tự cấp tự túc và chuyển sang sản xuất hàng hoá. Bề mặt kinh tế - xã hội nông thôn được cải thiện. Người sử dụng đất gắn bó hơn với đất đai, quyền sử dụng đất đã trở thành nguồn vốn lớn để người sử dụng đất đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Thị trường bất động sản bao gồm quyền sử dụng đất tuy còn sơ khai nhưng đã thu hút một lượng vốn đáng kể vào đầu tư hạ tầng, chỉnh trang và phát triển đô thị, cải thiện dần điều kiện về nhà ở của nhân dân. Tuy nhiên, tình hình quản lý và sử dụng đất đai còn tồn tại nhiều yếu kém. Hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, tính khả thi thấp. Việc quản lý đất đai theo quy hoạch, kế hoạch chưa trở thành ý thức trong các cơ quan nhà nước và người quản lý, sự tuỳ tiện xảy ra khá phổ biến. Tình trạng tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về việc quản lý và sử dung đất đai có xu hướng tăng. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thiếu hiệu quả. Lực lượng thanh tra đất đai vừa nông, vừa yếu lại phải tập trung giải quyết quá nhiều khiếu nại, tố cáo nên chưa thanh tra, xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật về đất đai. Bên cạnh đó, pháp luật đất đai lại chưa phân quyền quản lý đất đai “đủ mạnh” cho chính quyền địa phương để các cơ quan này hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Để khắc phục những tồn tại này, nhà nước cần tăng cường, củng cố và hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai, đồng thời mạnh dạn trao thêm nhiều quyền hạn cho các cơ quan quản lý đất đai ở địa phương. Có như vậy thì công tác quản lý đất đai trong thời gian tới mới đạt hiệu quả và góp phần vào quá trình cải cách hành chính trong lĩnh vực đất đai ở nước ta.
3.2. Một số kiến nghị trong hoàn thiện pháp luật về phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai.
3.2.1. Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp chính quyền trong quản lý nhà nước về đất đai.
Nhà nước thành lập một hệ thống cơ quan quản lý từ Trung ương đến địa phương nhằm thực hiện thống nhất quản lý đất đai trong phạm vi cả nước. Các cơ quan này hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của cấp trên và tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý vẫn còn tồn tại hiện tượng chồng chéo thẩm quyền, sự ỷ lại, trông chờ giữa các cơ quan nhà nước hoặc việc ôm đồm các công vụ của cơ quan Trung ương. Quan điểm củng cố và hoàn thiện bộ máy quản lý nói chung và quản lý đất đai nói riêng ở nước ta là kết hợp giữa việc tinh giản bộ máy hành chính nhà nước đi đôi với việc nâng cao hiệu quả quản lý đất đai trong nền kinh tế thị trường. Phân công, phân cấp rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan quản lý đất đai đảm bảo cho các cơ quan này có sự chủ động trong công việc quản lý, đồng thời có sự phối kết hợp giữa các cơ quan này với nhau để tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm thực thi có hiệu quả pháp luật đất đai.
3.2.2. Đầu tư, hiện đại hoá công nghệ quản lý đất đai.
Trong điều kiện kinh tế tri thức hiện nay thì không thể không áp dụng công nghệ hiện đại vào quản lý đất đai. Bởi lẽ, đưa công nghệ vào trong quản lý đất đai sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý đất đai. Việc trang bị hệ thống các thiết bị kỹ thuật sẽ giúp cho các công việc chuyên môn như đo đạc, điều tra, khảo sát tiến hành được nhanh chóng, thuận tiện và chính xác. Tin học hoá hệ thống quản lý đất đai sẽ đảm bảo cho nhà nước quản lý chặt chẽ đất đai trên quy mô rộng và cập nhật kịp thời những biến động của đất đai. Tuy nhiên, để làm được điều này, nhà nước cần đầu tư một nguồn kinh phí lớn đi đôi với việc đào tạo một đội ngũ chuyên môn giỏi biết sử dụng thành thạo các máy móc, trang thiết bị hiện đại. Hơn nữa, nhà nước cần đầu tư xây dựng một hệ thống tin học hoá quản lý đất đai ở các cấp phục vụ cho công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của cơ quan cấp trên nhanh chóng, kịp thời, giải quyết tốt các yêu cầu của người dân một cách thuận tiện, chính xác. Có như vậy mới đủ cơ sở để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tế cùng những biến động không ngừng của đất đai.
3.2.3. Kiên quyết xử lý triệt để các hành vi vi phạm pháp luật đất đai của cán bộ, công chức nhà nước.
Nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ, công chức thay mặt mình thực hiện việc quản lý đất đai. Tuy nhiên bên cạnh sự tận tâm thực hiện tốt nhiệm vụ được giao thì cũng còn một bộ phận cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật đất đai vì lợi ích riêng tư, cục bộ. Điều này đã làm giảm hiệu quả quản lý đất đai của nhà nước và gây mất lòng tin của nhân dân vào đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Việc phân cấp mạnh thẩm quyền quản lý đất đai cho chính quyền địa phương sẽ không đạt kết quả mong muốn nếu chúng ta không thực hiện một loạt các giải pháp đồng bộ mà một trong những giải pháp này là ta phát hiện kịp thời và kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật đất đai, các biểu hiện hạch sách và thiếu tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý đất đai.
Bởi vì, suy cho cùng yếu tố con người là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của các chủ trương, chính sách, pháp luật đất đai của nhà nước. Nhà nước cần kiên quyết loại bỏ những “sâu mọt” trong đội ngũ cán bộ, công chức quản lý đất đai để bảo đảm sự trong sạch của đội ngũ này. Hơn nữa, việc xử lý triệt để những hành vi vi phạm pháp luật của một bộ phận cán bộ, công chức ngành địa chính thoái hoá biến chất còn là bài học quý giá để giáo dục các cán bộ, công chức quản lý đất đai và người dân tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật đất đai, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý đất đai của nhà nước.
3.2.4. Bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý đất đai.
Vấn đề trao quyền mạnh cho các cấp chính quyền địa phương có ý nghĩa rất quan trọng vừa góp phần cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai, vừa đề cao trách nhiệm quản lý đất đai của các địa phương. Tuy nhiên, ý nghĩa này có thể trở thành hiện thực hay không lại phụ thuộc rất nhiều vào năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý đất đai, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. Đội ngũ cán bộ này chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý đất đai trong cơ chế thị trường mà nguyên nhân chủ yếu là thiếu sự bồi dưỡng, đào tạo thường xuyên nên trình độ, năng lực chuyên môn yếu kém.
Vì vậy, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ địa chính là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm đáp ứng đòi hỏi của công cuộc cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai khi mà nhà nước đã phân quyền quản lý mạnh cho chính quyền địa phương.
3.2.5. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật đất đai.
Một nguyên nhân khiến cho công tác quản lý đất đai trong thời gian qua gặp nhiều khó khăn là do nhận thức chưa đầy đủ của người dân nói chung và một bộ phận cán bộ công chức nói riêng về chính sách, pháp luật đất đai của nhà nước. Đại bộ phận người dân vẫn quan niệm rằng đất đai là của cha ông để lại nên họ có toàn quyền sử dụng, chiếm hữu. Điều này gây khó khăn trở ngại cho nhà nước trong việc thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích công cộng. Hoặc do nhận thức sai lầm về pháp luật đất đai nên vẫn còn cán bộ quản lý đất đai áp dụng không đúng pháp luật đất đai trong khi giải quyết các công việc cụ thể, thậm chí còn giải quyết theo cảm tính, tuỳ tiện hoặc vì động cơ, mục đích cá nhân. Điều này đã góp phần làm giảm hiệu lực quản lý đất đai của các cấp chính quyền địa phương, gây ra nhiều khiếu kiện từ phía người dân.
Do vậy, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính sách pháp luật đất đai cho đội ngũ cán bộ và các tầng lớp nhân dân. Nghiên cứu đưa chương trình giảng dạy pháp luật đất đai vào hệ thống giáo dục quốc dân, trước hết cần thực hiện ngay trong các trường Đảng, các trường hành chính nhằm trang bị các kiến thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý giúp họ nhận thức được mục đích và ý nghĩa của việc phân quyền quản lý đất đai cho chính quyền địa phương. Qua đó, khuyến khích họ đóng góp tích cực và có hiệu quả vào sự thành công của chủ trương này.
3.2.6. Kiện toàn và nâng cao hiệu quả của công tác quản lý đất đai của chính quyền cơ sở.
Xã, phường, thị trấn là cấp cơ sở trực tiếp giải quyết các đòi hỏi , quyền lợi của nhân dân đối với đất đai; đồng thời lãnh đạo, tổ chức, động viên nhân dân hăng hái thực hiện tốt chủ trương, chính sách pháp luật đất đai của Đảng và nhà nước. Nhận thức được vấn đề này, thời gian qua nhà nước ta đã chú trọng từng bước kiện toàn đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, tăng cường bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho đội ngũ này, đi đôi với việc ban hành các chế độ chính sách đãi ngộ vật chất, tinh thần để tạo điều kiện cho cán bộ cấp cơ sở thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Kể từ năm 2003, Luật đất đai 2003 đã xác định thẩm quyền của đội ngũ cán bộ quản lý đất đai nói chung và cán bộ địa chính cấp xã nói riêng. Họ không chỉ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai mà còn đảm nhiệm việc quản lý các tài nguyên khác và môi trường. Do vậy, để đảm bảo cho đội ngũ cán bộ này thực hiện tốt nhiệm vụ mới được giao, bên cạnh việc chú trọng đào tạo, bồi dưỡng trau dồi kiến thức, năng lực, trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, công chức quản lý cần phải kiện toàn, nâng cao hiệu quả của công tác quản lý đất đai theo một số định hướng cơ bản sau:
- Sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ cho phù hợp với trình độ, khả năng của từng người. Mặt khác, cần cải tiến nhanh, mạnh mẽ tác phong làm việc của các cơ quan quản lý đất đai theo hướng gần dân, phục vụ dân, thực hiện chế độ một cửa trong quản lý đất đai.
- Cần khẩn trương thực hiện việc tin học hoá ở tất cả các cấp nhằm đảm bảo cho mọi thông tin quản lý được công khai, minh bạch và rút ngắn đáng kể thời gian tiếp nhận, xét duyệt hồ sơ của các cơ quan quản lý đất đai.
- Công khai các quy định làm việc của cơ quan quản lý đất đai như công khai quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; quy trình xét duyệt hồ sơ xin giao đất, cho thuê đất; quy trình đăng ký sử dụng đất. Xây dựng quy chế làm việc hợp lý đi đôi với việc phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng của cán bộ quản lý đất đai.
3.2.7. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các quy định về phân quyền cho chính quyền địa phương.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai, Luật đất đai 2003 được ban hành. Theo đó, một số lĩnh vực quản lý đất đai được phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương. Cụ thể:
- Nhà nước phân quyền giao đất, cho thuê đất cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
- Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Uỷ ban nhân dân cấp huyện được quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, tổ chức sử dụng đất và cho phép uỷ quyền cho cơ quan quản lý đất đai chuyên môn cùng cấp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Cho phép thành lập văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất tại các địa phương để làm dịch vụ công giải quyết các yêu cầu, thủ tục về đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thực hiện các thủ tục khi người dân thực hiện các giao dịch về đất đai.
- Xác định trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo về đất đai, giải quyết tranh chấp đất đai và phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật đất đai.
- Quy định thẩm quyền cho Uỷ ban nhân dân các cấp lập quy hoạch sử dụng đất đai và quy hoạch sử dụng đất chi tiết của địa phương mình.
Để đảm bảo cho các quy định này của luật đất đai 2003 đi vào cuộc sống. Nhà nước cần nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn nhằm cụ thể hoá các quy định về phân cấp quản lý đất đai của chính quyền địa phương.
KẾT LUẬN
Phân quyền quản lý cho các cấp chính quyền địa phương không còn là mới nhưng trọng tâm của các lần sửa đổi luật đất đai đều đề cập đến. Bởi vì ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn khác nhau thì những quy định của pháp luật đất đai cũng được điều chỉnh cho phù hợp. Sở dĩ như vậy là do các quan hệ xã hội biến đổi không ngừng mà những quan hệ pháp luật đất đai đặc biệt được chú ý trong thời gian qua. Đất đai là vấn đề nhạy cảm, mang những tính chất đặc thù về quản lý, khai thác và sử dụng nên phải có quy định thích hợp để tận dụng hết tiềm năng của đất. Tuy vậy, thực tế cho thấy việc quản lý đất đai gặp nhiều bất cập, hạn chế, thủ tục hành chính rườm rà, nhiều khâu, nhiều cấp. Một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng đó là do pháp luật chưa phân quyền hợp lý cho các cấp chính quyền địa phương, làm mất đi tính chủ động sáng tạo của cấp này.
Luật đất đai 2003 đã cơ bản thể hiện sự phân cấp toàn diện nhất từ trước đến nay. Điều đó được chứng tỏ bằng các quy định cụ thể trong các điều luật. Qua so sánh luật đất đai 2003 và luật đất đai các lần sửa đổi bổ sung thấy được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai. Vì vậy, khoá luận làm sáng tỏ việc phân quyền diễn ra mạnh mẽ và tìm hiểu cơ sở thực tiễn, cơ sở lý luận của chế độ quản lý đất đai ngày một toàn diện hơn.
Phân quyền mạnh cho các cấp chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai vừa góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, vừa đảm bảo cho việc sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm. Nhà nước cần đưa chính sách pháp luật đất đai vào thực tiễn cuộc sống, đến nhận thức của nhân dân để Luật đất đai 2003 thực sự trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các văn kiện đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam.
2. Giáo trình Luật đất đai , Đại học Luật Hà Nội.
3. Luật đất đai 1993; Luật sửa đổi bổ sung Luật đất đai 1998, 2001; Luật đất đai 2003.
4. Cải cách nền hành chính nhà nước - một quá trình tất yếu và liên tục- Võ Kim Sơn - Phát triển kinh tế 1999.
5. Luật khiếu nại, tố cáo một số khía cạnh liên quan đến quản lý và sử dụng đất đai .
6. Quyết định số 45/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập sở Tài nguyên môi trường.
7. Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp cơ sở - Võ Kim Sơn -Quản lý nhà nước 2000- số 8.
8. NĐ64/CP/1993 ban hành bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đĩch sản xuất nông nghiệp và NĐ85/ CP sửa đổi Nghị định trên.
9. Bàn thêm về giải pháp cải cách bộ máy nhà nước- Bùi Đức Bên - Quản lý nhà nước 2000- số 8.
10. Tăng cường cơ sở pháp lý về dân chủ trực tiếp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay- Nhà nước và pháp luật 2000- số 1.
Các vấn đề pháp lý về phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VIỆC PHÂN QUYỀN MẠNH CHO CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI
1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về đất đai
1.1.1. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về đất đai
1.1.2. Khái niệm chế độ quản lý nhà nước về đất đai
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về đất đai
1.1.4. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai
1.2. Một số vấn đề lý luận về việc phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai
1.2.1. Khái quát về phân cấp - phân quyền trong quản lý hành chính nhà nước
1.2.2. Cơ sở lý luận của việc xác lập mối quan hệ quyền lực nhà nước giữa chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương
1.2.3. Phân quyền trong quản lý nhà nước về đất đai
Chương II: VẤN ĐỀ PHÂN QUYỀN MẠNH CHO CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
2.1. Sự phân quyền trong hoạt động quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
2.2. Sự phân quyền trong hoạt động giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
2.2.1. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất của Chính phủ
2.2.2. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
2.2.3. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
2.2.4. Thẩm quyền cho thuê đất của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
2.3. Sự phân quyền trong hoạt động thu hồi đất
2.4. Sự phân quyền trong hoạt động cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
2.5. Sự phân quyền trong hoạt động quản lý tài chính về đất đai và giá đất
2.6. Sự phân quyền trong hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai
Chương III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÂN QUYỀN MẠNH CHO CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai
3.2.1. Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp chính quyền địa phương trong quản lý đất đai
3.2.2. Đầu tư, hiện đại hoá công nghệ quản lý đất đai
3.2.3. Kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật đất đai của cán bộ, công chức nhà nước
3.2.4. Bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý đất đai
3.2.5. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật đất đai
3.2.6. Kiện toàn và nâng cao hiệu quả công tác quản lý đất đai của chính quyền cơ sở
3.2.7. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các quy định về phân quyền cho chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (121).DOC