Luận văn Các vấn đề về quốc tịch

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Quốc tịch là một phạm trù chính trị-pháp lý thể hiện mối quan hệ gắn bó, bền vững về chính trị và pháp lý giữ nhà nước và cá nhân. Làm căn cứ pháp lý duy nhất để xác định công dân của một nước và trên cơ sở đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa nhà nước và công dân. Nói cách khác, về phương diện quốc tế, quốc tịch là dấu hiệu để phân biệt công dân của nước này với công dân nước khác. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về quốc tịch là một yêu cầu cấp thiết. Chính vì vậy, quốc gia nào cũng xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về các vấn đề quốc tịch của quốc gia mình. Xuất phát từ mục đích, lợi ích, tính chất giai cấp mà pháp luật của các nước quy định về quốc tịch khác nhau. Việc nhà nước ban hành pháp luật về quốc tịch là biểu hiện cụ thể của chính quyền quốc gia, mang ý nghĩa chính trị- xã hội to lớn cả về mặt đối nội và đối ngoại. 2. Mục đích nghiên cứu: Trong thực tế, hiện nay xã hội ngày càng phát triển dẫn đến có nhiều trường hợp phát sinh mà luật quốc tịch 1998 không thể quy định hết. Chính vì vậy, đã gây nhiều khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước trong việc áp dụng luật quốc tịch. Do đó, mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm tìm hiểu những quy định của luật quốc tịch cũng như những phát sinh trong thực tiễn áp dụng luật. Từ đó, giúp cho bản thân cũng như mọi đối tượng trong xã hội nhận thức một cách tương đối đầy đủ về các vấn đề về quốc tịch. Qua đó, đề xuất mốt số giải pháp nhằm từng bước hoàn thiện các quy định của luật quốc tịch để tháo gở những khó khăn trong việc áp dụng luật quốc tịch. 3. Phương pháp nghiên cứu: Bằng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là so sánh, tổng hợp, đối chiếu, phân tích luật viết. Từ đó cho chúng ta có thể hiểu hơn những quy định của luật quốc tịch, cũng như những khó khăn khi áp dụng trong thực tế, bên cạnh đó đề ra những giải pháp để hoàn thiện luật quốc tịch. 4. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các vấn đề về quốc tịch như: hưởng quốc tịch, mất quốc tịch, điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam Đồng thời cũng đề xuất một số giải pháp hoàn thiện luật quốc tịch. 5. Kết cấu đề tài : Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về quốc tịch. Chương 2: Một số chế định cơ bản của quốc tịch. Chương 3: Thực trạng áp dụng luật quốc tịch và một số giải pháp hoàn thiện.

pdf46 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2831 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các vấn đề về quốc tịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệc xin thôi quốc tịch làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam. - Cán bộ, công chức và người đang phục vụ trong các lực lượng vũ trang nhân dân không được thôi quốc tịch Việt Nam. Với các quy định trên là nhằm ngăn ngừa tình trạng lợi dụng việc thôi quốc tịch làm phương hại đến lợi ích quốc gia, chống phá Việt Nam hay để không thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước hay đối với công dân. Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 26 Thủ tục xin thôi quốc tịch Việt Nam: Thủ tục gồm 04 bộ hồ sơ, (người đang ở nước ngoài 03 bộ ) - Đơn của người xin thôi quốc tịch: Đối với cá nhân (mẫu TP/QT-1999-C.1a); đối với gia đình (mẫu TP/QT-1999-C1.b) - Bản khai lý lịch ( mẫu TP/QT-1999-C1.b) - Bản sao giấy tờ tùy thân, hộ chiếu hoặc giấy tờ chứng minh đương sự đang có quốc tịch nước ngoài (đối với người đang có quốc tịch ngoài); Giấy xác nhận hoặc bảo đảm về việc người đó sẽ được nhập quốc tịch nước ngoài (đối với người đang xin nhập quốc tịch nước ngoài), trừ khi pháp luật nước đó không quy định về việc cấp giấy này. - Giấy xác nhận không nợ thuế nhà nước do Cục thuế, nơi đương sự thường trú cấp.. - Giấy xác nhận đối với những người trước đây là công chức, lực lượng vũ trang đã nghỉ hưu chưa quá 5 năm về tình trạng không gây phương hại đến lợi ích quốc gia khi thôi quốc tịch. - Phiếu lý lịch tư pháp do Sở Tư pháp cấp. - Giấy xác nhận của Sở Giáo dục về việc đã bồi hoàn kinh phí Nhà nước, kể cả kinh phí do nước ngoài tài trợ. - Nếu là người đang ở nước ngoài thì giấy xác nhận đã hoàn trả kinh phí Nhà nước do cơ quan ngoại giao, lãnh sự Việt Nam nơi cư trú của đương sự cấp. - Thời gian giải quyết: thời gian 60 ngày, đối với những trường hợp không phải thẩm tra về nhân thân thì thời hạn là 30 ngày. - Lệ phí: 2.000.000 VND/01 trường hợp. Nhưng trường hợp trong hồ sơ thôi quốc tịch kèm theo con của đương sự là trẻ chưa thành niên (thôi quốc tịch Việt Nam cùng với cha mẹ), thì cần kèm theo văn bản đồng ý cho con thôi quốc tịch Việt Nam. Nếu đứa trẻ từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được sự đồng ý bằng văn bản của trẻ đó. Những đối tượng thuộc diện được miễn xác minh nhân thân nói trên cần phải nộp thêm các giấy tờ để chứng minh. Để tiện xác minh và đảm bảo chính xác về nhân thân, họ tên trong đơn, lý lịch trích ngang... phải là tên ghi chính xác trên giấy khai sinh; nếu đã làm thủ tục thay đổi tên thì đó là tên theo quyết định cho thay đổi họ tên của Chủ tịch UBND cấp tỉnh nơi người đó cư trú trước khi xuất cảnh. Họ tên phải ghi bằng tiếng Việt. Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 27 2.2.3 Mất quốc tịch do bị tước quốc tịch. Tước quốc tịch là việc mất quốc tịch của một cá nhân trên cơ sở quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam, theo các điều kiện mà pháp luật quốc tịch của Việt Nam quy định. Do đó, việc tước quốc tịch không phụ thộc vào ý chí của người bị tước quốc tịch mà do ý chí của nhà nước tước quốc tịch. Việc mà, một nhà nước tước quốc tịch của một cá nhân nào đó là trên cơ sở đảm bảo an ninh quốc gia, quyền con người… Việc tước quốc tịch Việt Nam của một cá nhân nào đó được coi là biện pháp chế tài nghiêm khắc về mặt hành chính áp dụng đối với trường hợp công dân đó có hành động gây phương hại đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hoặc đến uy tín của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhưng không phải công dân Việt Nam nào có hành động như trên đều bị tước quốc tịch mà chỉ một số trường hợp được luật quy định. Theo Điều 25 luật quốc tịch Việt Nam 1998 và Điều 18 của NĐ104/1998 NĐ-CP ngày 31/12/1998 của chính phủ quy định có hai trường hợp có thể bị tước quốc tịch Việt Nam. Thứ nhất: Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài có thể bị tước quốc tịch Việt Nam, nếu có hành động gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hoặc đến uy tín của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thứ hai: Người đã nhập quốc tịch Việt Nam theo Điều 20 luật quốc tịch Việt Nam 1998, dù cư trú trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam, nếu có hành động phương hại đến nền độc lập dân tộc, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, với quy định trên thì một công dân Việt Nam sẽ bị tước quốc tịch khi vi phạm một trong hai trường hợp được luật quy định nêu trên. Nhưng trên thực tế, vấn đề này luôn được xem xét một cách thận trọng, nhất là việc tước quốc tịch của công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài (tức là tước quốc tịch gốc) nhà nước Việt Nam luôn chọn nhiều giải pháp khác nhau đối với việc tước quốc tịch gốc. Đối với việc tước quốc tịch gốc: Chỉ xem xét đối với những trường hợp công dân Việt Nam đã nhập quốc tịch nước ngoài (mang hai quốc tịch) và người đó có hành vi gây phương hại đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam hoặc uy tín của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với mức độ nghiêm trọng, còn những trường hợp còn lại gần như là không xem xét mà lựa chọn giải pháp khác áp dụng. Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 28 Đối với việc tước quốc tịch đối với người nước ngoài đã nhập quốc tịch Việt Nam. Việc xem xét tước quốc tịch được đặt ra với người nào có hành vi gây phương hại đến độc lập, uy tín quốc gia Việt Nam hoặc lợi dụng việc nhập quốc tịch Việt Nam nhằm mục đích gây thiệt hại cho nền an ninh quốc phòng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2.2.4 Mất quốc tịch theo điều ước quốc tế. Mất quốc tịch trong trường hợp này không phụ thuộc vào ý chí của người bị mất quốc tịch mà theo ý chí giữa các quốc gia tham gia ký kết điều ước quốc tế. Đây là những trường hợp mà theo điều ước quốc tế thì một bộ phận dân cư của Việt Nam sẽ được chuyển sang cho một nhà nước khác quản lý theo các hiệp định biên giới giữa Việt Nam và các nước3. Như vậy, thì theo điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết chuyển một bộ phận dân cư của nước mình cho nước khác quản lý thì bộ phận dân cư này sẽ mất quốc tịch Việt Nam 3 Th S Cao Nhất Linh tập bài giảng luật Công pháp quốc tế Khoa Luật Trường ĐHCT 2007 Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 29 CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG LUẬT QUỐC TỊCH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN Từ khi luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 ra đời, có hiệu lực và đi vào áp dụng trong thực tế đã giải quyết tương đối thỏa đáng các vấn đề quốc tịch cho công dân, đã hạn chế một phần tình trạng không quốc tịch và trường hợp hai quốc tịch của một cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam. Để đạt được điều này luật quốc tịch năm 1998 đã có những quy định tiến bộ và bổ sung so với luật quốc tịch năm 1988 để đáp ứng nhu cầu thực tế đang đặt ra. Song do hoàn cảnh, điều kiện xã hội ngày càng phát triển dẫn đến có nhiều trường hợp phát sinh mà luật quốc tịch năm 1998 không thể dự liệu và bỏ sót một số trường hợp luật chưa quy định, nên trong quá trình áp dụng luật quốc tịch năm 1998 đã gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc quản lý, giải quyết các vấn đề về quốc tịch và để lại những hậu quả chưa được giải quyết. 3.1 Tình trạng không quốc tịch. Không quốc tịch là tình trạng một người không mang quốc tịch của bất kỳ quốc gia nào. Có nghĩa là, không được quốc gia nào thừa nhận người đó là công dân của mình. Theo luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 quy định: Không quốc tịch là tình trạng một người không có quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài. 3.1.1 Nguyên nhân của tình trạng không quốc tịch. Tình trạng không quốc tịch đã đi ngược lại quyền con người là mọi người đều có quyền có quốc tịch và tình trạng này cũng đang được Việt Nam và thế giới quan tâm và tìm hướng giải quyết. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng không quốc tịch là do các nguyên nhân sau: Một cá nhân xin thôi quốc cũ nhưng chưa được nhập quốc tịch mới. Có thể nói, đây là một thực tế xuất hiện ở nước ta từ khi có việc đăng ký kết hôn với người nước ngoài. Đặc biệt là đăng ký kết hôn với công dân của Đài Loan, Hàn Quốc. Lý do là từ những cuộc kết hôn này đã dẫn đến tình trạng không quốc tịch của các cô gái Việt Nam. Do họ xin thôi quốc tịch Việt Nam để được nhập quốc tịch Trung Quốc ( Đài Loan) thì đã ly hôn hoặc chồng chết cho nên không được nhập quốc tịch Trung Quốc ( Đài Loan) cho nên những cô gái Việt Nam này rơi vào tình trạng không quốc tịch. Theo thống kê của Bộ tư pháp cho tới nay có khoảng 7000 cô gái Việt Nam đã xin thôi quốc tịch Việt Nam và có khoảng 6000 Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 30 cô gái Việt Nam được nhập quốc tịch Trung Quốc ( Đài Loan) còn lại khoảng 1000 cô gái Việt Nam ở trong tình trạng không quốc tịch. Thêm vào đó những trẻ em con lai Đài- Việt ở trong tình trạng không quốc tịch do mẹ chúng đã thôi quốc tịch Việt Nam nhưng chưa nhập quốc tịch Trung Quốc ( Đài Loan) thì đã ly hôn hoặc chồng chết và những đứa trẻ này theo mẹ về Việt Nam sinh sống. Một nguyên nhân nữa dẫn đến tình trạng không quốc tịch của một cá nhân là do có sự xung đột pháp luật giữa các quốc gia trong việc xác lập quốc tịch cho đứa trẻ mới sinh. Ví dụ như một đứa trẻ được sinh ra ở một nước A mà cha mẹ của đứa trẻ là công dân của nước B. Nhưng theo luật quốc tịch của nước A chỉ xác lập quốc tịch theo huyết thống còn theo luật quốc tịch của nước B xác lập quốc tịch theo nơi sịnh. Vậy trong trường hợp này đứa trẻ không có quốc tịch của nước A và cũng không có quốc tịch của nước B. 3.1.2 Những khó khăn của tình trạng không quốc tịch. Người không quốc tịch sẽ không được công nhận là công dân của bất kỳ quốc gia nào, cho nên địa vị pháp lý của người không quốc tịch so với công dân nước sở tại và người có quốc tịch nước ngoài có nhiều thua thiệt và họ không được bảo hộ ngoại giao, cũng như không được thực hiện quyền công dân như, quyền ứng cử, quyền bầu cử… Bên cạnh đó, gây ra những khó khăn cho việc học tập, làm việc, chăm sóc y tế, khai sinh cho con của họ. Mặt khác, tình trạng không quốc tịch của một cá nhân cũng gây ra những bất lợi cho nhà nước trong việc quản lý nơi cư trú của họ. Hiện nay, vấn đề khó khăn của Việt Nam là tình trạng không quốc tịch của các cô gái Việt Nam đã xin thôi quốc tịch Việt Nam mà chưa được nhập quốc tịch mới. Những người này phải gánh chịu những thiệt thòi không được Việt Nam bảo hộ khi giải quyết ly hôn như về con cái, chia tài sản. Một vấn đề khó khăn nữa là những đứa con lai Đài –Việt vấn đề là giải quyết việc đăng ký khai sinh, hộ khẩu cũng như thực hiện các chính sách giáo dục, y tế đối với các cháu này hiện nay còn niều khó khăn. 3.2 Tình trạng hai hay nhiều quốc tịch của một cá nhân. Hai hay nhiều quốc tịch là tình trạng pháp lý của một người cùng một lúc mang hai hay nhiều quốc tịch của hai hay nhiều quốc gia khác nhau. Theo luật quốc tịch Việt Nam, tình trạng một người mà trên thực tế có hai hay nhiều quốc tịch thì nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thừa nhận công dân Việt Nam chỉ có một quốc tịch đó là quốc tịch Việt Nam. 3.2.1 Nguyên nhân của tình trạng hai hay nhiều quốc tịch của một cá nhân. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng hai hay nhiều quốc tịch của một cá nhân là do các nguyên nhân sau: Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 31 Do xung đột pháp luật giữa các quốc gia với nhau về việc xác lập quốc tịch cho đứa trẻ mới sinh ra: Như một trẻ em sinh ra tại một nước áp dụng nguyên tắc nơi sinh để xác lập quốc tịch, nhưng cha mẹ của đứa trẻ lại mang quốc tịch của nước áp dụng theo nguyên tắc huyết thống để xác lập quốc tịch. Như vậy, đứa trẻ này có hai quốc tịch là quốc tịch mà nơi đứa trẻ được sinh ra và mang quốc tịch của nước mà cha mẹ đứa trẻ là công dân Đứa trẻ mà có cha mẹ có quốc tịch khác nhau mà luật quốc tịch của hai bên cha mẹ của đứa trẻ đều xác lập quốc tịch theo nguyên tắc huyết thống. Nghĩa là, đều thừa nhận đứa trẻ này là công dân của nước mình. Trường hợp nữa là một người đã nhận quốc tịch mới nhưng chưa thôi quốc tịch cũ. Như vậy, việc một người có hai quốc tịch sẽ trái với nguyên tắc mỗi người chỉ có một quốc tịch mà các nước đang hướng tới và vấn đề này rất dễ dẫn đến những tranh chấp giữa các quốc gia, ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao. Đặc biệt là vấn đề bảo hộ ngoại giao cho công dân và thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân đối với quốc gia mà họ mang quốc tịch. 3.2.2 Những khó khăn của tình trạng hai hay nhiều quốc tịch của một cá nhân. Trên thực tế không chỉ một cá nhân mang hai quốc tịch mà thậm chí là ba, bốn quốc tịch. Từ việc một người mang nhiều quốc tịch sẽ dẫn đến khó khăn cho việc xác định địa vị pháp lý của họ như quyền và nghĩa vụ của công dân đối với quốc gia mà họ mang quốc tịch. Khó khăn gặp phải là các quan hệ ngoại giao và có sự tranh chấp giữa các nước về vấn đề bảo hộ ngoại giao cho công dân mình. 3.3 Một số thực trạng khi áp dụng luật quốc tịch Việt Nam Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 đã có những quy định tiến bộ vượt bậc so với luật quốc tịch Việt Nam năm 1988. Nó đã đáp ứng được yêu cầu đặt ra của thời kỳ mới. Tuy nhiên với sự phát triển ngày càng nhanh của xã hội đã dẫn đến nhiều trường hợp phát sinh mà luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 chưa có thể dự liệu hết. Từ đó dẫn đến những khó khăn trong thực tiễn khi áp dụng. 3.3.1 Thực trạng về vấn đề không quốc tịch. Thứ nhất: Theo khoản 1 Điều 18 luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 quy định “ trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh có cha mẹ đều là người không quốc tịch, nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam, thì có quốc tịch Việt Nam”. Như vậy, với quy định trên thì trong trường hợp mà đứa trẻ sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà có cha mẹ là người không quốc tịch nhưng không có nơi thường trú tại Việt Nam mà chỉ có nơi tạm trú tại Việt Nam thì quốc tịch của đứa trẻ đó xác định như thế nào? Nếu như trong trường hợp này áp dụng theo Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 32 quy định tại khoản 1 Điều 18 luật quốc tịch Việt Nam 1998 thì đứa trẻ này sẽ không có quốc tịch Việt Nam. Từ đó dẫn đến đứa trẻ này sẽ rơi vào tình trạng không có quốc tịch. Thứ hai: Theo khoản 2 Điều 18 quy định “trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh có mẹ là người không quốc tịch, nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam, còn cha không rõ là ai, thì có quốc tịch Việt Nam”. Như vậy, với quy định trên thì khi trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam nhưng cha không rõ là ai, mẹ là người không quốc tịch mà chỉ có nơi tạm trú ở Việt Nam thì quốc tịch của đưa trẻ xác định như thế nào? Trường hợp này luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 chưa có quy định, khi đó trên thực tế khi gặp trường hợp này đã gây ra nhiều khó khăn khi xác lập quốc tịch cho đứa trẻ. Thứ ba: Tại Điều 19 luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 quy định: “Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi và trẻ em tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ là ai, thì có quốc tịch Việt Nam; nhưng sau đó, nếu tìm thấy cha mẹ đều có quốc tịch nước ngoài, cha hoặc mẹ có quốc tịch nước ngoài, người giám hộ có quốc tịch nước ngoài mà khi đứa trẻ này chưa đủ 15 tuổi thì đứa trẻ này không còn quốc tịch Việt Nam”. Với quy định này của luật quốc tịch nhằm hạn chế tình trạng hai quốc tịch của đứa trẻ. Tuy nhiên, lại có thể dẫn đến tình trạng không quốc tịch của đứa trẻ trong trường hợp này. Nếu như trong trường hợp trên mà luật quốc tịch của quốc gia mà cha mẹ người giám hộ mới tìm thấy của đứa trẻ mang quốc tịch lại xác lập quốc tịch theo nơi sinh hoặc luật quốc tịch của cha mẹ, người giám hộ của đứa trẻ đó quy định, đứa trẻ đó phải có giấy tờ hợp pháp chứng minh là con hợp pháp của người mang quốc tịch của quốc gia đó mới được nhập quốc tịch. Như vậy, quy định tại khoản 2 Điều 19 luật quốc tịch Việt Nam 1998 có thể dẫn đến tình trạng không quốc tịch của những đưa trẻ bị bỏ rơi (sau đó tìm thấy cha mẹ hoặc người giám hộ) Thứ tư: Theo luật quốc tịch Việt Nam 1998 xác lập quốc tịch theo nguyên tắc huyết thống và nguyên tắc nơi sinh. Nhưng hiện nay với sự phát triển của khoa học đã có trường hợp trẻ em sinh ra trong ống nghiệm thì đứa trẻ này có quốc tịch Việt Nam hay không và áp dụng nguyên tắc nào để xác lập quốc tịch cho đứa trẻ.Trường hợp này luật quốc tịch Việt Nam 1998 chưa quy định. Thứ năm: Tại khoản 2 Điều 17 luật quốc tịch Việt Nam quy định “trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài, thì có quốc tịch Việt Nam, nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ vào thời điểm đăng ký khai sinh”. Ví dụ nếu như đứa trẻ được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài. Mà theo luật quốc tịch của người nước ngoài này chỉ xác lập quốc tịch cho đứa trẻ theo nguyên tắc nơi sinh, còn theo quy định luật quốc Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 33 tịch Việt Nam 1998 quy định đứa trẻ này chỉ có quốc tịch Việt Nam khi có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ đứa trẻ vào thời điểm đăng ký khai sinh. Vậy nếu như trong trường hợp trên cha mẹ đứa trẻ không thỏa thuận hoặc không thể thỏa thuận được bằng văn bản, vì nhiều lý do như: Hiện nay ở Việt Nam có nhiều trường hợp mà cha mẹ đứa trẻ không thể thỏa thuận được bằng văn bản được. Đó là các cô gái Việt Nam kết hôn với người Đài Loan và về Việt Nam sinh con, sau đó ở lại Việt Nam là do ly dị hoặc chồng chết, thì quốc tịch của đứa trẻ này sẽ được giải quyết như thế nào? Hoặc là khi cha mẹ đứa trẻ rơi vào tình trạng là khi sinh con ra họ có ý muốn ly hôn nhau và họ cứ muốn nuôi đứa con đó, ví dụ người cha đó ở nước ngoài không chấp nhận cho người con có quốc tịch Việt Nam, và người mẹ thì muốn đứa con có quốc tịch Việt Nam, và hai người không thỏa thuận được với nhau về vấn đề cho đứa con hưởng quốc tịch nước ngoài hay hưởng quốc tịch Việt Nam, thì trong trường hợp này dẫn đến đứa trẻ này rơi vào tình trạng không quốc tịch. Thứ sáu: Còn một trường hợp nữa mà luật quốc tịch Việt Nam chưa có quy định. Đó là trường hợp đứa trẻ là con của công dân nước ngoài nhưng được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam. Ví dụ như công dân nước ngoài (nước A) đến Việt Nam công tác, học tập và trong thời gian ở Việt Nam công dân nước ngoài này (nước A) sinh con. Mà theo quy định luật quốc tịch của người nước ngoài này chỉ xác lập quốc tịch cho đứa trẻ mới sinh theo nguyên tắc nơi sinh. Vậy trong trường hợp này thì đứa trẻ này sẽ không có quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch của nước mà cha mẹ đứa trẻ là công dân. Bởi vì luật quốc tịch Việt Nam chưa có quy định. 3.3.2 Thực trạng về áp dụng nguyên tắc một quốc tịch của luật quốc tịch Việt Nam. Do hoàn cảnh chính trị, lịch sử hiện nay Việt Nam có khoảng 3 triệu người Việt Nam hiện đang làm ăn sinh sống ở khoảng 80 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong số này phần lớn đã nhập quốc tịch nước ngoài để dễ dàng ổn định cuộc sống, làm ăn lâu dài trên lãnh thổ nước sở tại. Để được nhập quốc tịch nước ngoài một số người đã xin thôi quốc tịch Việt Nam (do quốc gia sở tại yêu cầu). Nhưng cũng có những người Việt Nam sinh sống nhiều năm ở nước ngoài, đã nhập quốc tịch nước ngoài nhưng vẫn giữ quốc tịch Việt Nam do một số nước không bắt buộc họ phải thôi quốc tịch Việt Nam, khi nhập quốc tịch nước mình. Do đó họ mang hai quốc tịch đó là quốc tịch Việt Nam và quốc tịch của nước sở tại họ đang sinh sống. Tuy nhiên, theo luật quốc tịch Việt Nam 1998 chỉ thừa nhận nguyên tắc một quốc tịch, được quy định tại Điều 3 “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”. Với quy định như vậy nhưng chúng ta không đưa ra bất kỳ Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 34 một biện pháp nào nhằm bảo đảm nguyên tắc một quốc tịch như yêu cầu công dân Việt Nam phải thôi hoặc mất quốc tịch Việt Nam khi nhập quốc tịch nước ngoài, người nhập quốc tịch Việt Nam phải từ bỏ quốc tịch nước ngoài…nên quy định tại Điều 3 luật quốc tịch Việt Nam 1998 hoàn toàn chỉ là hình thức. Do đó khi công dân Việt Nam (Việt kiều) mang hai quốc tịch khi về nước vẫn được xem như công dân Việt Nam. Nhưng trên thực tế điều này chỉ là lý thuyết. Bởi vì, họ chỉ được coi như là công dân Việt Nam chứ không phải là công dân Việt Nam, về quyền và nghĩa vụ của những người này bị hạn chế hơn so với những công dân Việt Nam đang sinh sống trong nước (quyền ứng cử, quyền bầu cử…). Địa vị pháp lý của những người này (Việt kiều) cũng không rõ ràng. Đồng thời cũng dẫn đến những tranh chấp giữa các nước trong việc bảo hộ công dân. Đặc biệt là vấn để áp dụng pháp luật dân sự (khi có tranh chấp) hoặc pháp luật hình sự khi công dân Việt Nam có hai quốc tịch vi phạm pháp luật Việt Nam. Ví dụ: một công dân Việt Nam sang định cư tại Mỹ, chưa thôi quốc tịch Việt Nam nhưng đã nhập quốc tịch Mỹ, khi về Việt Nam (bằng hộ chiếu của Mỹ) kết hôn với người Việt Nam trong nước, thì cơ quan đăng ký hộ tịch không biết ghi quốc tịch của người nay như thế nào? Nếu ghi quốc tịch Việt Nam thì phía Mỹ sẽ không giải quyết cho họ nhập cảnh Mỹ nhưng nếu ghi người nay quốc tịch Mỹ, thì vô hình trung Việt Nam đã từ bỏ “chủ quyền” hoặc ghi cả hai quốc tịch thì lại vi phạm Điều 3 luật quốc tịch Việt Nam . Thêm vào đó trên thực tế đó là việc miễn thị thực cho Việt kiều, cho Việt kiều mua nhà…Tất cả những điều đó nằm ngoài khuôn khổ và mâu thuẩn với Điều 3 luật quốc tịch Việt Nam. Ngoài ra việc thực hiện nguyên tắc một quốc tịch hiện nay cũng đang gây ra nhiều khó khăn trong việc quản lý người xuất nhập cảnh, nhất là người có hai hộ chiếu. 3.3.3 Thực trạng về vấn đề xin nhập, xin trở lại quốc tịch Việt Nam. Với sự phát triển của nền kinh tế nhiều nhà đầu nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam để sinh sống làm ăn lâu dài. Muốn thuận lợi cho việc làm ăn sinh sống lâu dài ở Việt Nam cho nên họ muốn nhập quốc tịch Việt Nam. Nhưng trên thực tế một số điều kiện để được nhập quốc tịch Việt Nam mà luật quốc tịch Việt Nam 1998 quy định, gây khó khăn cho việc nhập quốc tịch của người nước ngoài và người không quốc tịch. Thứ nhất: Theo Điều 20 luật quốc tịch Việt Nam 1998 quy định người nước ngoài, người không quốc tịch đang thường trú tại Việt Nam xin nhập quốc tịch Việt Nam phải thỏa các điều kiện sau: Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 35 “…tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, tôn trọng truyền thống, phong tục tập quán của dân tộc Việt Nam, biết tiếng Việt đủ để hòa nhập vào cộng đồng xã hội Việt Nam, đã thường trú ở Việt Nam từ năm năm trở lên, có khả năng đảm bảo cuộc sống tại Việt Nam” Từ những điều kiện mà luật quốc tịch Việt Nam 1998 quy định ta có thể nhận thấy rằng người nước ngoài, người không quốc tịch mà muốn nhập quốc tịch Việt Nam thì phải thỏa điều kiện là phải thường trú tại Việt Nam từ 5 năm trở lên, mà thời gian 5 năm này là liên tục chứ không phải tất cả thời gian thường trú đứt quãng tại Việt Nam được cộng gộp lại. Có thể nói đây là điều kiện bắt buộc khó khăn và là rào cẳng đối với người xin nhập quốc tịch Việt Nam. Ví dụ: Trường hợp của tiền đạo Lino người Brazin đang chơi bóng cho đội Gạch Đồng Tâm Long An muốn xin nhập quốc tịch Việt Nam để hy vọng khoắc áo đội tuyển quốc gia Việt Nam (tháng 04/2002). Nhưng vì điều kiện nhập quốc tịch của Việt Nam rất nhiều, trong khi đó điều kiện về thời gian thường trú liên tục năm năm tại Việt Nam và điều kiện về ngôn ngữ mà Lino chưa đạt được. Tuy nhiên điều kiện này được miễn nếu là thân nhân của công dân Việt Nam (vợ, chồng, cha, mẹ, con), hay việc nhập quốc tịch có lợi cho Nhà nước Việt Nam. Trong trường hợp này Lino chỉ được nhập quốc tịch Việt Nam nếu như được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho rằng việc nhập quốc tịch của Lino là có lợi cho Nhà nước Việt Nam. Đây là cơ sở cho Lino được nhập quốc tịch Việt Nam và người quyết định là Chủ tịch nước. Nhưng cho đến nay, Lino vẫn chưa được nhập quốc tịch Việt Nam. Thứ hai: Theo khoản 2 Điều 8 NĐ104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998 của chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật quốc tịch Việt Nam quy định “người xin nhập quốc tịch Việt Nam phải có tên gọi Việt Nam…”nhưng trên thực tế chưa có văn bản nào quy định về cơ cấu cũng như hình thức như thế nào là tên gọi Việt Nam. Ví dụ như tên gọi của những người dân tộc thiểu số có được xem là tên gọi Việt Nam hay không? Thứ ba: Có thể coi đây là một trường hợp đặc biệt mà hiện nay rất phổ biến và đang gây khó khăn cho các cơ quan quản lí nhà nước về vấn về quốc tịch và cũng là mối lo lắng đối với một số gia đình ở các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long. Đó là tình trạng những cô gái Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và sinh con ở nước ngoài nhưng vì nhiều lí do khác nhau, những cô gái Việt Nam này mang con trốn về Việt Nam mà không có mang theo giấy tờ gì chứng minh trẻ được sinh ra ở đâu, sinh vào ngày, tháng, năm nào, mang quốc tịch của quốc gia nào? Ví dụ như trường hợp bé H ở "đảo Đài Loan" cù lao Tân Lộc là kết quả của một cuộc hôn nhân không tình yêu. Bảy năm trước, mẹ em chấp nhận kết Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 36 hôn với một người Đài Loan để cứu gia đình đang cơn khốn khó về kinh tế, nhưng không ngờ người chồng chỉ là một thợ hàn nghèo. Giấc mơ đổi đời tan vỡ, cộng với ngôn ngữ, văn hóa bất đồng, chị bồng con trốn về Việt Nam. Ngày trốn chồng ra đi, chị không mang theo giấy khai sinh cho con. Khi H sắp đến tuổi đi học mà không có giấy tờ gì. Thứ tư: Căn cứ vào Điều 20 luật quốc tịch Việt Nam 1998 và các Điều 8, Điều 9 của Nghị định 104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998 của Chính phủ. Việc nhập quốc tịch được áp dụng đối với người nước ngoài thường trú tại Việt Nam và người nước ngoài không thường trú ở Việt Nam vào thời điểm nộp hồ sơ xin nhập quốc tịch. Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam thì nộp hồ sơ tại Sở Tư pháp cấp tỉnh nơi người nước ngoài này thường trú, người nước ngoài không thường trú tại Việt Nam, thì nộp hồ sơ tại cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam tại nước ngoài. Trong khi đó, trong hồ sơ xin nhập quốc tịch phải có phiếu lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, nơi đương sự thường trú cấp. Nhưng đối với người không quốc tịch thì luật và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định cơ quan nào sẽ cấp lý lịch tư pháp cho người không quốc tịch. Tại điểm 3 mục I thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA ngày 08/02/1999 giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an quy định về quyền yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp đối với người không quốc tịch. Đây là một khó khăn không chỉ đối với người xin nhập quốc tịch mà còn gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết về quốc tịch. Thứ năm: Về điều kiện nhập quốc tịch tại điểm c Khoản 1 Điều 20 luật quốc tịch Việt Nam 1998 và theo điểm d Khoản 1 Điều 8 Nghị định 104//1998/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật quốc tịch quy định: Người xin nhập quốc tịch Việt Nam phải có trình độ tiếng Việt, bao gồm cả hiểu biết về văn hóa, lịch sử và pháp luật của Việt Nam theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Tư pháp. Để thỏa điều kiện về trình độ tiếng Việt, thì phải có chứng chỉ trình độ tiếng Việt phải do trường ĐHKHXH-NV thuộc ĐHQG cấp (trừ trường hợp được miễn). Muốn có giấy chứng nhận, trường phải tổ chức kiểm tra. Trong khi đó, những đối tượng muốn xin nhập quốc tịch Việt Nam thường là do chiến tranh hoặc điều kiện sống lưu lạc sang Việt Nam làm ăn, sinh sống… hoặc người gốc Lào, Campuchia sống chủ yếu ở vùng núi biên giới giáp ranh, không đủ điều kiện kinh tế để thi lấy chứng chỉ tiếng Việt. Phần lớn họ đã có thời gian sinh sống ổn định, lâu dài tại Việt Nam, biết tiếng Việt rất thành thạo đủ để hòa nhập vào cộng đồng. Nếu theo quy định những người này phải có chứng chỉ tiếng Việt là không cần thiết, lại gây khó khăn vì nhiều lí do như họ không đủ điều kiện kinh tế để lấy chưng chỉ tiếng Việt. trường hợp cả gia đình đều xin nhập quốc Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 37 tịch Việt Nam, do đó chi phí cho việc lấy chứng chỉ tiếng Việt đối với họ là quá lớn. Chính vì lẽ đó mà rất nhiều hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam cho đến nay chưa được giải quyết do thiếu điều kiện này. Vì vậy yêu cầu này gây phiền hà và không khả thi. Thứ sáu: Là yêu cầu về lý lịch tư pháp cũng tương tự. Khi xin nhập quốc tịch Việt Nam, người nước ngoài có thời gian thường trú ở Việt Nam phải nộp phiếu do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam tại nơi thường trú cấp. Trên thực tế, phiếu này do sở tư pháp cấp trên cơ sở kết quả tra cứu dữ liệu của cơ quan công an. Trong khi đó, khi tiếp nhận hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam, Sở Tư pháp phải có văn bản đề nghị cơ quan công an xác minh về nhân thân. Yêu cầu nộp phiếu lý lịch tư pháp là động tác không cần thiết, lặp lại việc xác minh của cơ quan công an, gây mất thời gian, ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết hồ sơ. Thứ bảy: Giấy cho thôi quốc tịch nước ngoài để nhập quốc tịch Việt Nam cũng gây không ít trở ngại. Các kiều dân Campuchia cư trú lâu năm tại Việt Nam đã gặp rất khó khăn và thường không thực hiện được. Có người tự khai là công dân Campuchia nhưng bản thân họ không có bất cứ giấy tờ chứng minh nên cơ quan có thẩm quyền của Campuchia không giải quyết. Do đó các kiều dân Campuchia này không có giấy cho thôi quốc tịch Campuchia nên không được nhập quốc tịch Việt Nam. Thứ tám: Nên cải cách thủ tục hành chính, trong việc cho nhập, thôi, tước, trở lại, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam: Theo quy định tại Điều 32 của luật quốc tịch thì Chủ tịch nước có thẩm quyền ra quyết định cho nhập, thôi, tước quốc tịch Việt Nam…Thực tế cho thấy, hàng năm, những yêu cầu xin nhập, thôi quốc tịch Việt Nam rất nhiều. Theo thống kê của Vụ Hành chính (Bộ Tư pháp), tính từ tháng 01/1999 đến tháng 12/2007 đã có 61.460 người xin thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài. Trong khi đó người xin nhập quốc tịch Việt Nam là 674 người. Nếu để Chủ tịch nước giải quyết thì thấy không thể giải quyết nhanh chống kịp thời. trong khi đó, trước khi trình Chủ tịch nước, Bộ Tư pháp đã kiểm tra, rà soát kỹ càng hồ sơ, trường hợp nào đủ điều kiện mới trình Chủ tịch nước quyết định. Thứ chín: Đó là vấn đề về điều kiện trở lại quốc tịch Việt Nam. Thực tế thời gian qua có nhiều trường hợp xin thôi quốc tịch Việt Nam chủ yếu là các cô dâu Việt Nam lấy chồng nước ngoài (Đài Loan, Hàn Quốc). Tính từ tháng 01/1999 đến tháng 12/2007 đã có 61.460 người xin thôi quốc tịch Việt Nam, trong đó 7000 cô dâu Việt Nam xin thôi quốc tịch4. Những trường hợp này, do xin thôi quốc tịch Việt Nam để đủ điều kiện xin nhập quốc tịch nước sở tại; 4 Theo thống kê của Bộ Tư pháp Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 38 nhưng sau đó, vì nhiều lý do nên không được nhập quốc tịch nước sở tại (mâu thuẩn với nhà chồng hoặc không đủ điều kiện nhập quốc tịch mới…) nên trở thành người không quốc tịch. Trong trường hợp này họ muốn trở lại quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 13 Nghị định 104/1998/ NĐ-CP ngày 31/12/1998 của Chính phủ thì hồ sơ xin trở lại quốc tịch Việt Nam rất nhiều giấy tờ phức tạp, gây khó khăn cho các đối tượng này trong việc xin trở lại quốc tịch Việt Nam như: Giấy xác nhận của Cơ quan đại diện ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam hoặc của Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài về việc đương sự đã nộp đơn xin hồi hương về Việt Nam hoặc giấy tờ hoặc tài liệu chứng minh đương sự có vợ, chồng, con, cha, mẹ là công dân Việt Nam hoặc phiếu xác nhận lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của nước mà đương sự là công dân hoặc thường trú cấp. 3.4 Một số giải pháp hoàn thiện luật quốc tịch Việt Nam. Qua quá tìm hiểu những vấn đề về quốc tịch được quy định trong luật quốc tịch Việt Nam 1998 và cùng các văn bản hướng dẫn thi hành. Có thể thấy rằng luật quốc tịch Việt Nam 1998 có nhiều quy định tiến bộ, bổ sung so với luật quốc tịch Việt Nam 1988 và nhiều quy định của luật quốc tịch Việt Nam 1998 không những thể hiện rõ quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta, mà còn phù hợp với luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, xã hội ngày càng phát triển đã làm phát sinh nhiều vấn đề mà luật quốc tịch Việt Nam 1998 chưa dự liệu được, nên trong thực tế áp dụng còn nhiều khó khăn, bất cập và nhiều vấn đề chưa được luật quốc tịch 1998 quy định. Do vậy, trong phần này với sự tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề về quốc tịch được quy định trong luật quốc tịch Việt Nam 1998 thấy còn nhiều điểm bất cập chưa phù hợp với yêu cầu của xã hội hiện nay. Nhưng với kiến thức còn hạn hẹp bản thân người viết xin đưa ra một số giải pháp tham khảo nhằm để hoàn thiện luật quốc tịch Việt Nam. 3.4.1 Giải pháp về vấn đề không quốc tịch. Thứ nhất: Theo ý kiến của tác giả nên điều chỉnh khoản 1 Điều 18 luật quốc tịch Việt Nam 1998. Nên quy định “trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh có cha mẹ đều là người không quốc tịch, nhưng có nơi cư trú tại Việt Nam, thì có quốc tịch Việt Nam” để tránh được tình trạng không quốc tịch của những đưa trẻ sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam có cha mẹ đều là người không quốc tịch và chỉ có nơi tam trú tại Việt Nam. Thứ hai: Theo tác giả cũng nên điều chỉnh khoản 2 Điều 18 luật quốc tịch Việt Nam 1998 như sau “ trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh có mẹ là người không quốc tịch, nhưng có nơi cư trú tại Việt Nam, còn cha không rõ là ai, thì có quốc tịch Việt Nam” Với quy định như vậy mới có thể thể hiện Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 39 đúng tinh thần của luật quốc tịch Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tạo mọi điều kiện cho trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đều có quốc tịch Việt Nam. Thứ ba: Cần điều chỉnh tại khoản 2 Điều 19 luật quốc tịch Việt Nam 1998, nên quy định “ trong trường hợp…trẻ chưa đủ 15 tuổi mà tìm thấy cha mẹ đều có quốc tịch nước ngoài, cha hoặc mẹ có quốc tịch nước ngoài, người giám hộ có quốc tịch nước ngoài, thì người đó không còn quốc tịch Việt Nam, nếu được sự đồng ý của quốc gia mà cha mẹ, người giám hộ của đứa trẻ đó mang quốc tịch đồng ý cho nhập quốc tịch của quốc gia đó…”. Như vậy, sẽ vừa đảm bảo nguyên tắc một quốc tịch và vừa đảm bảo nguyên tắc có quốc tịch cho đứa trẻ này. Thứ tư: Trong trường hợp đứa trẻ sinh trong ống nghiệm, thì luật quốc tịch Việt Nam 1998 chưa có quy định cho trường hợp này. Do đó nên bổ sung thêm tại Điều 16 quy định như sau: “…(2) trẻ em được sinh ra trong ống nghiệm sẽ mang quốc tịch Việt Nam, nếu người giữ quyền cha mẹ là công dân Việt Nam”. “(3) khi có một trong cha mẹ là công dân Việt Nam thì cha mẹ thỏa thuận quốc tịch cho con”. Thứ năm: Để tránh tình trạng không quốc tịch của những đứa trẻ được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam, thì luật quốc tịch Việt Nam 1998 nên điều chỉnh khoản 2 Điều 17 như sau “ trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, còn người kia là công dân nước ngoài, thì có quốc tịch Việt Nam, nếu có sự đồng ý của cha hoặc mẹ vào thời điểm đăng ký khai sinh cho con”. Trong trường hợp này thì người đi đăng ký khai sinh cho con là cam kết đã có sự thỏa thuận giữa cha mẹ đứa trẻ. Thứ sáu: Theo tinh thần của luật Việt Nam là hạn chế tình trạng không quốc tịch của một cá nhân, cho nên Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tạo mọi điều kiện cho trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đều có quốc tịch. Cho nên, luật quốc tịch Việt Nam 1998 nên bổ sung vào Điều 18 như sau “…(3) trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam, mà có cha mẹ đều là công dân nước ngoài, nhưng theo luật quốc tịch mà cha mẹ của đứa trẻ là công dân chỉ xác lập quốc tịch theo nơi sinh, thì có quốc tịch Việt Nam, nhưng phải có nơi cư trú tại Việt Nam”. 3.4.2 Giải pháp về nguyên tắc một quốc tịch. Luật quốc tịch Việt Nam được Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X thông qua ngày 20/05/1998. Đến nay, sau gần 10 năm thi hành, đã góp phần cho sự ổn định chính trị, kinh tế của đất nước. Tuy nhiên một Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 40 số nội dung cần sửa đổi cho phù hợp với tình hình đất nước trong thời kỳ đổi mới Theo Điều 3 luật quốc tịch Việt Nam 1998 quy định “nguyên tắc một quốc tịch: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”. Nguyên tắc này là nguyên tắc xuyên suốt được ghi nhận trong luật quốc tịch của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ trước tới nay. Nguyên tắc này đã góp phần cho sự củng cố về chính trị của Nhà nước ta. Tuy nhiên, hiện nay ta bước vào thời kỳ mới, sự mở cửa và hội nhập kinh tế với những yêu cầu mới được đặt ra. Do đó nguyên tắc một quốc tịch ít nhiều cũng cho thấy sự không phù hợp. Bởi vì theo quy định của một số nước khi nhập quốc tịch của quốc gia họ không cần phải thôi quốc tịch Việt Nam và họ vẫn còn quốc tịch Việt Nam. Những người này khi trở về Việt Nam làm ăn, sinh sống và có nguyện vọng được cấp giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam. Vì vậy nguyên tắc một quốc tịch, thì khó có thể cấp chứng nhận quốc tịch Việt Nam đã gây khó khăn cho họ trong làm ăn, sinh sống. Như thế để phù hợp với tình hình mới, thiết nghỉ nguyên tắc một quốc tịch cũng cần thay đổi cho linh hoạt, phù hợp. Nhằm thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng, Nhà nước, đảm bảo yêu cầu hội nhập quốc tế. Chúng ta sửa luật không những tạo điều kiện cho bà con Việt kiều được hưởng quyền lợi như người Việt Nam trong nước, mà còn bảo đảm được cơ sở pháp lý để chúng ta bảo hộ công dân của mình ở nước ngoài . Hiện nay dự thảo luật quốc tịch Việt Nam sửa đổi gồm hai phương án. + Phương án 1: Là giữ nguyên tắc một quốc tịch theo cơ chế mềm dẻo. + Phương án 2: Là công nhận hai quốc tịch như một số nước hiện nay. Nếu theo phương án 2: Bỏ nguyên tắc một quốc tịch, tức là bỏ Điều 3 luật quốc tịch Việt Nam 1998, thì nhà nước phải giải quyết các hệ quả pháp lý phát sinh như quyền được đi về trong nước tự do, được mua nhà gắn liền với quyền sử dụng đất của công dân Việt Nam mang hai quốc tịch. Nhưng khó có thể yêu cầu họ về nước thực hiện nghĩa vụ đóng thuế, thực hiện nghĩa vụ quân sự và một số nghĩa vụ khác5. Nếu vẫn duy trì nguyên tắc một quốc tịch “cứng” và bổ sung những quy định để bảo đảm thực hiện nguyên tắc này một cách triệt để thì sẽ gặp sự phản ứng rất dữ dội, nhất là phía cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài6. + phương án 1: Là công nhận hai quốc tịch như một số nước hiện nay. Nếu thừa nhận hai quốc tịch thì có rất nhiều bất lợi. Thực tế trong những vụ Trịnh Vĩnh Bình, Lý Tống. Khi có lợi cho họ thì họ nhận mình có quốc tịch 5 Ý kiến của Ông Trần Trọng Toàn Phó chủ nhiệm ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài (Bộ Tư pháp) 6 Ý kiến của Ông Hoàng Thế Liên thứ trưởng thường trực Bộ Tư pháp Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 41 Việt Nam, nếu không có lợi cho mình thì họ lại nói mình mang quốc tịch nước ngoài. Đó là chưa kể khó khăn trong việc ghi lý lịch tư pháp như thế nào.7 Nếu thừa nhận hai quốc tịch thì chúng ta phải bảo đảm quyền công dân cho Việt kiều. Nếu như vậy họ có quyền bầu cử, ứng cử không? Khi chúng ta tổ chức một hòm phiếu ở nước ngoài thì sợ họ không dám đi bầu cử vì lo ngại sẽ mất quốc tịch của nước sở tại.8 Với những ý kiến trên thì theo ý kiến của cá nhân tác giả theo phương án 2. Tức là thừa nhận công dân Việt Nam có hai quốc tịch. Với quy định nguyên tắc một quốc tịch của Điều 3 luật quốc tịch Việt Nam 1998 quy định “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tich Việt Nam”. Với quy định này có điểm không thực tế, không phù hợp bởi lẽ việc cho nhập, thôi quốc tịch là thẩm quyền riêng biệt của mỗi quốc gia. Trong trường hợp một cá nhân mang hai quốc tịch, một quốc tịch Việt Nam và một quốc tịch nước ngoài, thì dù nhà nước Việt Nam chỉ công nhận người đó có quốc tịch Việt Nam. Nhưng trên thực tế họ vẫn có quốc tịch nước ngoài và nhà nước mà công dân Việt Nam mang quốc tịch vẫn có thẩm quyền trong việc bảo hộ cho người đó. Do đó, nên thừa nhận công dân Việt Nam có hai quốc tịch. Nếu như công nhận hai quốc tịch thì nên quy định những trường hợp cụ thể, trong các giao dịch dân sự, hành chính họ giao dịch với tư cách công dân Việt Nam và trường hợp nào với tư cách là công dân nước ngoài. Nếu khi giao dịch dân sự xuất trình hộ chiếu nước nào thì đối xử với họ với tư cách công dân nước đó. Đồng thời thừa nhận hai quốc tịch thì ta phải ký kết điều ước quốc tế với các nước có liên quan mà công dân Việt Nam mang quốc tịch của nước đó để hạn chế sự tranh chấp trong vấn đề bảo hộ công dân. Để dễ dàng quản lý công dân Việt Nam ở nước ngoài khi thừa nhận hai quốc tịch, thì nên quy định trong một khoảng thời gian là 2 năm thì công dân Việt Nam ở nước ngoài phải đến cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài đăng ký có quốc tịch Việt Nam. Nếu không đến đăng ký thì sẽ mất quốc tịch Việt Nam. Còn vấn đề về quyền và nghĩa vụ của những người này (Việt kiều ) thì như thế nào? Theo tác giả thì do điều kiện sống xa đất nước nên quyền và nghĩa vụ của họ có thể là không bình đẳng như công dân Việt Nam sống trong nước. Vì họ không có điều kiện thực hiện được, chỉ khi nào họ về nước thì mới yêu cầu họ làm nghĩa vụ và quy định trong những trường hợp cụ thể chứ không phải làm nghĩa vụ thường xuyên. 7 Ý kiến cửa Ông Nguyễn Công Khanh phó Cục trưởng Cục con nuôi quốc tế(Bộ Tư pháp) 8 Ý kiến của Ông Nguyễn Công Khanh phó Cục trưởng Cục con nuôi quốc tế (Bộ Tư pháp) Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 42 Ví dụ: Như Việt kiều về Việt Nam mua đất thì phải có nghĩa vụ đóng thuế, nhưng không thể bắt họ về Việt Nam làm nghĩa vụ quân sự. 3.4.3 Giải pháp về vấn đề xin nhập, xin trở lại quốc tịch Việt Nam. Thứ nhất: Để tạo điều kiện cho người nước ngoài và người không quốc tịch nhập quốc tịch Việt Nam để được đầu tư, làm ăn, sinh sống lâu dài ở Việt Nam tạo điều kiện phát triển kinh tế sánh ngang với các nước trong khu vực. Do đó, nên sửa đổi điểm d, Điều 20 luật quốc tịch Việt Nam 1998 như sau: “…tổng thời gian thường trú tại Việt Nam ít nhất là hai năm”. Thứ hai: Theo quy định thì người xin nhập quốc tịch Việt Nam phải có tên gọi Việt Nam, việc xác định tên gọi Việt Nam thì chưa có quy định như thế nào là tên gọi Việt Nam. Theo ý kiến của tác giả, trong trường hợp này cần phải quy định rõ về cơ cấu cũng như hình thức của tên gọi Việt Nam, nhằm tạo cơ sở cho người xin nhập quốc tịch Việt Nam có cơ sở trong việc xác định tên gọi của mình. Thứ ba: Trong trường hợp mẹ mang con trốn về Việt Nam mà không mang theo giấy tờ gì chứng minh trẻ sinh ra ở đâu mang quốc tịch nào, thì trong trường hợp nay luật chưa có quy định. Theo ý kiến của tác giả trước mắt có thể yêu cầu người mẹ của đứa trẻ trong trường hợp này cam kết về nguồn gốc của đứa trẻ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung mình cam kết, trên cơ sở đó, sở tư pháp tỉnh nơi người mẹ cư trú sẽ hướng dẫn làm thủ tục đăng ký khai sinh cho đứa trẻ và xác định quốc tịch cho trẻ có quốc tịch Việt Nam. Thứ tư: Theo ý kiến của tác giả, trước mắt để cho cơ quan có thẩm quyền địa phương nơi cư trú của người không quốc tịch sẽ cấp phiếu lý lịch tư pháp cho đương sự trong trường hợp đương sự xin cấp phiếu lý lịch tư pháp nhằm mục đích xin nhập quốc tịch Việt Nam và bổ sung điểm 3 mục I thông liên tịch số 07/1999/TTLT-BCA ngày 08/02/1999 giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an về quyền yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp đối với đối tượng là người không quốc tịch. Thứ năm: Thiết nghĩ, để tạo điều kiện cho những trường hợp người gốc Lào, Campuchia sống ở biên giới Việt Nam và các trường hợp xin nhập quốc tịch Việt Nam sớm được nhập quốc tịch Việt Nam, để ổn định cuộc sống, cần cho họ miễn điều kiện về chứng chỉ tiếng Việt khi xin nhập quốc tịch Việt Nam. Thứ sáu: Giải pháp về phiếu lý lịch tư pháp khi tiếp nhận hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam, thì Sở Tư pháp không cần phải đề nghị cơ quan công an xác minh về nhân thân. Vì trong khi cấp phiếu lý lịch tư pháp thì Sở Tư pháp dựa trên cơ sở kết quả tra cứu các dữ liệu của cơ quan công an. Nếu như công an xác minh lại là không cần thiết và mất thời gian, ảnh hưởng đến thời hạn giản quyết hồ sơ. Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 43 Thứ bảy: Trong trường hợp đối với các kiều dân Campuchia cư trú lâu năm ở Việt Nam nên miễn nộp giấy cho thôi quốc tịch nước ngoài khi xin nhập quốc tịch Việt nam. Thứ tám: Trường hợp về thẩm quyền ra quyết định cho nhập, thôi, tước quốc tịch Việt Nam…theo ý kiến của tác giả để rút ngắn thời gian, thiết nghĩ Chủ tịch nước nên ủy quyền cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong trường hợp cho nhập, thôi, tước quốc tịch Việt Nam. Thứ chín: Giải pháp về điều kiện xin trở lại quốc tịch Việt Nam. Theo ý kiến của cá nhân tác giả, để tạo điều kiện thuận lợi cho những trường hợp xin thôi quốc tịch Việt Nam của một số cô dâu Việt Nam, nay muốn trở lại quốc tịch Việt Nam, cần giảm bớt một số giấy tờ theo tác giả thấy là không cần thiết, giấy xác nhận lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của nước mà đương sự là công dân hoặc thường trú cấp; giấy tờ hoặc tài liệu chứng minh đương sự có vợ, chồng, con, cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam hoặc giấy xác nhận của cơ quan đại diện ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam hoặc của Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài về việc đương sự đã nộp đơn xin hồi hương về Việt Nam…mà chỉ cần xuất trình quyết định đương sự đã từng có quốc tịch Việt Nam. Việt Nam cần điều chỉnh tư duy lập pháp trong tiếp cần vấn đề quốc tịch, gắn với bối cảnh hiện nay. Thử tục hành chính trong vấn đề quốc tịch cần được điều chỉnh theo hướng đơn giản hóa, dân chủ, công khai và thân thiện với người dân, quy định từng bước áp dụng công nghệ thông tin, giảm phiên hà cho người dân. Trước mắt, áp dụng việc nhận hồ sơ qua đường bưu điện là một giải pháp tốt. Việt Nam đã thành công trong việc áp dụng chính sách này trong cấp hộ chiếu.9 9 Ý kiến của Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 44 KẾT LUẬN Từ khi mới giành được độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến vấn đề quốc tịch. Cụ thể là ngay sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Nhà nước đã ban hành sắc lệnh số 53/SL ngày 20/10/1945 quy định quốc tịch Việt Nam và sắc lệnh số 73/SL ngày 07/12/1945 quy định về nhập quốc tịch Việt Nam, các sắc lệnh này đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc khai sinh ra chế định “quốc tịch Việt Nam” và kèm theo đó là chế định “công dân Việt Nam”. Đồng thời cũng là một trong những cơ sở xác định địa vị pháp lý công dân của một nước độc lập. Do một quan hệ quốc tịch được cấu thành ba yếu tố: Nhà nước cấp quốc tịch, công dân nhận quốc tịch và mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Nhưng một Nhà nước muốn cấp quốc tịch, thì phải là một Nhà nước độc lập. Vì quốc tịch là mối quan hệ mang tính chính trị-pháp lý ổn định, lâu dài và ràng buộc giữa một cá nhân và một nhà nước nhất định trên cơ sở những quy định pháp luật của nhà nước đó. Bước vào thời kỳ mới, Nhà nước ta đã ban hành luật quốc tịch 1988. Đây là đạo luật đầu tiên của nhà nước ta về quốc tịch, luật đã quy định khá đầy đủ về các vấn đề về quốc tịch. Nhưng do sự phát triển của xã hội nên có nhiều vấn đề phát sinh mà luật quốc tịch Việt Nam 1988 không còn phù hợp và chưa giải quyết hết. Do đó luật quốc tịch Việt Nam 1998 ra đời thay thế, bổ sung một số điểm. Luật quốc tịch Việt Nam 1998 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định chặt chẽ hơn và kịp thời giải quyết những vấn đè còn vướng mắc, khó khăn mà luật quốc tịch 1988 chưa quy định. Tuy nhiên, bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế cho nên có nhiều vấn đề phát sinh mà luật quốc tịch Việt Nam chưa thể nào dự liệu và điều chỉnh cho nên một số quy định của luật quốc tịch 1998 chưa giải quyết triệt để cho nên gây khó khăn, lúng túng cho các cơ quan quản lý nhà nước về quốc tịch. Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề về quốc tịch của luật quốc tịch Việt Nam 1998 còn nhiều điểm chưa phù hợp, gây khó khăn khi áp dụng thực tế. Do đó theo ý kiến riêng của tác giả nên sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của xã hội hiện nay. Một số quy định của pháp luật quốc tịch Việt Nam 1998 chưa thể giải quyết đó là. Giải quyết chính sách cho người không quốc tịch, đương nhiên mất quốc tịch Việt Nam của trẻ sơ sinh, trẻ em bị bỏ rơi được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam còn nhiều bất cập, địa vị pháp lý của Việt kiều còn chưa rõ ràng và Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 45 một số vấn đề mà tác giả đã đưa ra ở phần những thực trạng khi áp dụng luật quốc tịch Việt Nam 1998 ở phần trên. Qua quá trình tìm hiểu luật quốc tịch Việt Nam 1998 và thực trạng áp dụng luật quốc tịch với kiến thức còn hạn hẹp bản thân tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm tham khảo để điều chỉnh, bổ sung luật quốc tịch Việt Nam 1998 cho phù hợp như giải pháp về nguyên tắc một quốc tịch, giải pháp xin nhập. trở lại quốc tịch Việt Nam, giải pháp về tình trạng không quốc tịch.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfCamp193C V7844N 2727872 V7872 QU7888C T7882CH.PDF
Tài liệu liên quan