Bước đầu tiên cần quan tâm là Việt Nam cần phải tạo ra nguồn thu ngân sách ổn 
định và có chính sách chi tiêu hợp lý. Khi mà nguồn thu từdầu thô và thuếnhập khẩu (sẽ
giảm nhiều trong những năm tới) vẫn chiếm gần 50% ngân sách là vấn đềcần quan tâm. 
Tiếp theo là việc xác định mô hình và mục tiêu của các ngân hàng có tính chất chính sách, 
nhất là ngân hàng phát triển. Nhà nước chỉnên đầu tưvào những lĩnh vực thực sựcần thiết 
mà khu vực dân doanh không có động cơ đểlàm. Nếu không việc mởrộng ngân hàng này 
có thểdẫn đến hiện tượng chèn lấn xảy ra và hiệu quả đầu tưcó thểcòn thấp hơn hiện tại.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
106 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1863 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam: nghiên cứu so sánh với Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m đã đi trước Trung Quốc vì 
những điều tương tự được triển khai ở Trung Quốc sau năm 1992. 
Đại hội lần thứ VII năm 1991 tiếp túc tiến trình đổi mới, trong đại hội này đã xác 
định việc “Phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội 
chủ nghĩa.”157 Văn kiện nêu rõ “Trong nền kinh tế thị trường, với quyền tự do kinh doanh 
được pháp luật bảo đảm, từ ba loại hình sở hữu cơ bản (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở 
154 Xem: https://www.cia.gov/cia/publications/factbook/rankorder/2078rank.html, 23/02/2007. 
155 Xem: Qian (2003), trang 3. 
156 Xem: ĐCSVN (1986) 
157 Xem: ĐCSVN (1991) 
69 
hữu tư nhân), sẽ hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh 
doanh đa dạng.” 158 
Đại hội VIII năm 1996 tiếp tục khẳng định “tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều 
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng 
xã hội chủ nghĩa”.159 Mục tiêu được đặt ra là đến 2020, đưa Việt Nam cơ bản trở thành 
một nước công nghiệp, đến năm 2000 GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi năm 1990. 
Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm đạt khoảng 9-10%. 
Đại hội lần thứ IX đưa ra chiến lược 10 năm (2001-2010) với mục tiêu tổng quát là 
“Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, 
tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước 
công nghiệp theo hướng hiện đại.” Với định hướng phát triển gồm: Đẩy nhanh công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn; Phát triển nhanh các ngành công 
nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh; Định hướng phát triển các vùng; Hình 
thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như: Phát triển nền 
kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu; Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, 
đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước; Đổi mới chính sách và kiện toàn hệ thống 
tài chính - tiền tệ; Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.160
Đại hội lần thứ X năm 2006, thời điểm có vẻ như Việt Nam sẽ trở thành thành viên 
của WTO đã tiếp tục con đường đã chọn trong đó nêu ra các vấn đề gồm: Nắm vững định 
hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường; Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý 
của Nhà nước; Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ 
bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh; Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại 
hình tổ chức sản xuất kinh doanh; Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát 
triển kinh tế tri thức. Trong đó, một số nội dung cụ thể được đặt ra gồm: Thực hiện nhất 
quán các chính sách tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và phát 
triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp; Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao 
hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước; Tiếp tục đổi mới, tạo động lực phát 
triển có hiệu quả các loại hình kinh tế tập thể; Tiếp tục phát triển mạnh các hộ kinh doanh 
158 Xem: ĐCSVN (1996) 
159 Xem: ĐCSVN (1996) 
160 Xem: ĐCSVN (2001) 
70 
cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân; Thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu 
tư nước ngoài; Đổi mới chính sách đầu tư.161
Một số ý kiến cho rằng “Tiến trình của Việt Nam được đánh dấu bằng ba mốc lớn: 
Khoán 10 (năm 1988) cởi trói cho nông nghiệp, biến Việt Nam thành nước xuất khẩu gạo 
lớn kể từ năm 1989; Luật đầu tư nước ngoài (năm 1987) khai thông nguồn vốn bên ngoài; 
Luật doanh nghiệp mới (năm 2000) dỡ bỏ hàng rào quan liêu với khu vực công - thương 
nghiệp, khiến mỗi năm có hơn hai vạn doanh nghiệp mới ra đời.” 162 Thêm vào đó chương 
trình thúc đẩy xuất khẩu, cải cách doanh nghiệp nhà nước và chủ động hội nhập là những 
vấn đề đáng chú ý trong quá trình cải cách của Việt Nam. 
Chương trình cải cách về nông nghiệp nông thôn: Đầu tiên có thể kể đến việc trả 
đất về tay người dân qua những chính sách khoán 10, khoán 100. Kết quả của việc cải cách 
chính sách về đất đai về nông nghiệp nông thôn đã đưa Việt Nam từ một nước thiếu ăn, 
phải nhập khẩu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới và nhiều 
mặt hàng như cà phê, tiêu… đứng trong nhóm dẫn đầu thế giới. 
Chương trình thúc đẩy xuất khẩu: Trong 5 kỳ đại hội gần đây, thúc đẩy xuất khẩu 
luôn được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Việt Nam. Kết quả đến 
cuối năm 2006, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã đạt 39,5 tỷ đô-la, bằng gần 
70% GDP. Đây là một tỷ lệ rất cao so với bình quân chung trên thế giới. 
Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 
năm 1988 được sửa đổi năm 1990 và 1993 là luật đầu tiên về lĩnh vực này. Trong luật này 
ba hình thức đầu tư được quy định gồm mô hình hợp tác kinh doanh, liên doanh và doanh 
nghiệp 100% vốn nước ngoài163. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, mô hình 100% vốn nước 
ngoài hầu như được khuyến khích. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, sửa 
đổi năm 2000 có sự thông thoáng hơn và kể từ thời điểm này, loại hình doanh nghiệp 
100% vốn nước ngoài bắt đầu phát triển. Đến năm 2005, để chuẩn bị cho việc gia nhập 
WTO, tránh vi phạm nguyên tắc phân biệt đối xử, tất cả các hình thức đầu tư đã được 
thống nhất vào một Luật Đầu tư. Với việc mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đến hết 
năm 2006, đã có 6.813 dự án đầu tư vào Việt Nam với số vốn đăng ký lên đến 60,5 tỷ đô-la 
và số vốn thực hiện là 28,8 tỷ đô-la.164
161 Xem: ĐCSVN (2006) 
162 Xem: “Giữa hai thời kỳ Đổi mới: những cải cách đã qua và sắp tới,” lấy tại: 
 24/02/2007 
163 Xem: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1988, điều 4. 
164 Xem:  23/02/2997 
71 
Chương trình cải cách doanh nghiệp nhà nước: Tuy chậm, nhưng sau gần 20 năm 
tiến hành cải cách, các doanh nghiệp nhà nước đã được sắp xếp lại hợp lý hơn và với tốc 
độ được đẩy nhanh, có thể đến năm 2010, về cơ bản, Việt Nam tiến hành xong giai đoạn 
đầu kế hoạch cải cách các doanh nghiệp nhà nước. 
Chương trình khuyến khu vực dân doanh tham gia vào các hoạt động kinh tế: 
Những văn bản pháp lý quan trọng đầu tiên liên quan đến việc khuyến khích khu vực dân 
doanh tham gia vào các hoạt động kinh tế là Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty 
năm 1991. Tuy nhiên, sau 10 năm ban hành hai luật này, hoạt động của các doanh nghiệp 
dân doanh vẫn rất èo uột. Luật doanh nghiệp năm 2000 mới thực sự được coi là bước đột 
phát để phát huy nôi lực tiềm tàng khổng lồ của khối kinh tế dân doanh. Kết quả là hơn 6 
năm thi hành luật này đã có trên 200 nghìn doanh nghiệp đăng ký mới. Đây chính là nơi 
tạo ra các chất xúc tác cho tăng trưởng và giải quyết việc làm trong thời gian vữa qua 
Chương trình hội nhập quốc tế: Nỗ lực hội nhập quốc tế lớn nhất của Việt Nam 
trong 20 năm qua có thể kể đến cột mốc bình thường hóa sau đó ký kết hiệp định thương 
mại với Hoa Kỳ vào năm 2000 và trở thành thành viên chính thức của WTO vào thời điểm 
cuối năm 2006, đầu năm 2007. 
Trong tiến trình cải cách có lẽ điểm khác biệt giữa Trung Quốc và Việt Nam là 
trong thời kỳ bắt đầu đổi mới, có vẻ như Việt Nam đã có những chính sách cải cách kinh 
tế, nhất là vấn đề phân phối lưu thông và tài chính tiền tệ quá nhanh với điển hình liên 
quan đến hệ thống tài chính ngân hàng là việc cho phép các tổ chức tự huy động vốn và 
cho vay mà không chịu những sự giám sát của ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, việc mở 
cửa này đã không đảm bảo những nguyên tắc về đảm bảo an toàn nên đã thất bại. Nhưng 
đây cũng là nền tảng đầu tiên để Việt Nam chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang mô 
hình ngân hàng hai cấp theo các chuẩn mực thị trường. 
Có thể còn nhiều yếu tố tạo ra sự giống nhau và khác nhau trong quá trình cải cách 
hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam, tuy nhiên, có lẽ những quyết sách lớn được 
đưa ra trong các kỳ Đại hội của Đảng Cộng sản hai nước là nguyên nhân tạo ra những sự 
kiện giống nhau, trong khi sự khác biệt của quy mô nền kinh tế và thời điểm bắt đầu cải 
cách là nguyên nhân tạo ra những sự khác biệt của tiến trình cải cách này. 
72 
Chương 6 
KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH 
6.1.Kết luận 
Từ những so sánh quá trình cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam và Trung Quốc, 
có thể rút ra hai kết luận quan trọng sau: 
Thứ nhất, về cơ bản, quá trình phát triển, cấu trúc và những bước cải cách của hệ 
thống Ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam là tương đối giống nhau. Từ những bước đi 
trong quá trình tự do hóa lãi suất; không sử dụng dự trữ bắt buộc làm công cụ tài trợ cho 
ngân sách; tăng cường cạnh tranh và tạo sân chơi bình đẳng; tích cực cơ cấu lại các ngân 
hàng, nhất là các NHTMNN; tách bạch tín dụng chỉ định ra khỏi hoạt động thương mại và 
giảm dần tín dụng chỉ định; cải cách chính sách tỷ giá và mở cửa tài khoản vốn thận trọng 
trên cơ sở dần hoàn thiện khung pháp lý và các công cụ giám sát hoạt động của các ngân 
hàng kết hợp với cải cách thương mại một cách hợp lý cho thấy cả Trung Quốc và Việt 
Nam đã có được một số bước tiến trong tiến trình cải cách hệ thống ngân hàng của mình. 
Tuy nhiên, những vấn đề, những điểm yếu hiện tại như: mối quan hệ giữa nhà nước 
– ngân hàng – doanh nghiệp mà nó được thể hiện qua tín dụng chỉ định và dư nợ cho vay 
tại các DNNN vẫn còn lớn (nhất là Trung Quốc); hệ thống giám sát và điều hành chính 
sách tiền tệ chưa thực sự hiệu quả; nguy cơ bị thâu tóm bởi các ngân hàng nước ngoài 
(nhất là Việt Nam) sẽ làm cho mục tiêu xây dựng một hệ thống ngân hàng thực mạnh, tạo 
ra làn sóng tăng trưởng mới gặp nhiều khó khăn hơn. Điều này có thể trở thành hiện thực 
hay không cần phải có thời gian để kiểm chứng. 
Thứ hai, khi nhìn chi tiết hơn vào quá trình cải cách của hai nước sẽ thấy rằng, tuy 
giống nhau về bước đi, nhưng hai nước lại rất khác nhau về mức độ và cách thức triển 
khai. Cụ thể là Việt Nam đã tự do hóa lãi suất nhanh hơn; ít phụ thuộc hơn vào công cụ dự 
trữ bắt buộc; tín dụng chỉ định và tín dụng cho các DNNN chiếm tỷ phần ít hơn; tỷ giá 
được điều hành linh hoạt và tài khoản vốn có vẻ được tự do hơn; các ngân hàng nước ngoài 
và ngân hàng cổ phần được tham gia nhiều hơn; sự tốn kém trong quá trình cơ cấu lại các 
NHTMNN cũng thấp hơn Trung Quốc. Ngược lại, Trung Quốc đi nhanh hơn Việt Nam 
trong việc cải cách ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng; ngân 
sách nhà nước ít phụ thuộc vào các nguồn thu từ tài nguyên và thuế nhập khẩu hơn; và 
73 
Trung Quốc đã có thặng dư mậu dịch cách đây hơn một thập kỷ, trong khi mục tiêu của 
Việt Nam đến năm 2010 mới cân bằng giữ xuất khẩu và nhập khẩu. Điều này có thể dẫn 
đến ngụ ý trái ngược nhau. 
Thứ nhất, việc cải cách và mở cửa một cách nhanh chóng trong khi ngân hàng 
trung ương và cơ quan giám sát chưa được cải cách có thể hàm chứa nhiều rủi ro hơn. 
Thực tế, Việt Nam đã có một bài học đắt giá từ việc tự do hóa tài chính quá nhanh, trong 
khi các khung thể chế, bộ phận giám sát chưa được hoàn thiện (thậm chí là chưa có) đã dẫn 
đến cuộc khủng hoảng của các hợp tác xã tín dụng cuối thập niêm 1990 và điều này đã ảnh 
hưởng rất lớn đến nền kinh tế, đặc biệt là niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng. 
Đây là điểm bất lợi cần phải xem xét trong quá trình cải cách và mở cửa của Việt Nam. 
Thứ hai, Việt Nam đi nhanh hơn Trung Quốc có thể là do quy mô hệ thống tài 
chính nói chung, hệ thống ngân hàng nói riêng của Việt Nam nhỏ hơn Trung Quốc rất 
nhiều theo cả hai khía cạnh là so với quy mô nền kinh tế và so với con số tuyệt đối. Điều 
này đem lại thuận lợi là Việt Nam có thể đẩy nhanh tiến trình cải cách hệ thống tài chính 
của mình nhưng lại ít tốn kém hơn so với Trung Quốc.165
Trong hai kết luận nêu trên, có lẽ kết luận thứ hai là phát hiện quan trọng nhất trong 
nghiên cứu này. 166 Đây là điều tham khảo có giá trị để Việt Nam có thể đẩy nhanh tiến 
trình cải cách hệ thống ngân hàng của mình nhưng vẫn có thể đảm bảo an toàn và ổn định. 
6.2.Đề xuất chính sách 
Để có thể trở thành một kênh phân phối nguồn vốn hiệu quả, tạo động lực cho sự 
tăng trưởng và phát triển kinh tế ổn định, Việt Nam còn rất nhiều việc phải làm. Trong giới 
hạn của nghiên cứu, tác giả xin gợi ý một số chính sách tập trung vào việc: (1) Xây dựng 
một cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng mạnh với những công cụ giám sát hiệu quả 
nhằm đảm bảo tính ổn định và bền vững của hệ thống ngân hàng; (2) Đẩy nhanh tiến trình 
cải cách và cơ cấu lại các ngân hàng trong nước, nhất là các NHTMNN nhằm tạo ra các 
ngân hàng mạnh có khả năng cạnh tranh làm tốt vào trò trung gian tài chính của mình; (3) 
tiếp tục tiến trình tự do hóa với những bước đi thận trọng, tạo điều kiện cho dòng vốn chảy 
vào nhiều hơn nữa, tiếp sức cho quá trình cất cánh của Việt Nam nhưng không gây ra 
những bất ổn hay khủng hoảng tài chính. 
165 Ngụ ý ở đây là mức độ tốn kém so với quy mô nền kinh tế, mà không phải là con số tuyệt đối. 
166 Tác giả chưa tìm được nghiên cứu nào trước đây đưa ra kết luận tương tự. 
74 
6.2.1.Xây dựng cơ quan giám sát ngân hàng mạnh và các công cụ giám sát 
hiệu quả 
Như đã nêu ở phần đầu, do việc tìm hiểu những vấn đề liên quan đến chính sách 
tiền tệ không phải là trọng tâm, nên nghiên cứu này chỉ đề xuất một vấn đề nhỏ đến việc cơ 
cấu lại NHNNVN. Đó chính là việc chuyển ngay mô hình tổ chức với chi nhánh ở tất cả 
các tỉnh, thành phố hiện tại sang mô hình các chi nhánh khu vực như Trung Quốc (thực 
chất là theo mô hình của Hoa Kỳ). Khi các ngân hàng khu vực được thành lập và hệ thống 
chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh được bãi bỏ, sự phụ thuộc vào các chính quyền địa 
phương gần như sẽ được loại bỏ hoàn toàn. Đây cũng là một trong những vấn đề hết sức 
quan trọng để xây dựng một ngân hàng trung ương độc lập.167
Một vấn đề khác ảnh hưởng rất nhiều đến việc giám sát hoạt động của các ngân 
hàng thương mại ngoài hiệu quả không cao trong hoạt động giám sát tại chỗ của hệ thống 
ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam, thì việc Ngân hàng Trung ương là cơ quan chủ quản 
của các NHTMNN đã gây ra vấn đề rất lớn. Tuy không “vừa đá bóng vừa thổi còi” như khi 
còn hệ thống ngân hàng một cấp, nhưng những ảnh hưởng, sự xung đột về mặt mục tiêu 
giữa giám sát hoạt động của ngân hàng trung ương đối với các ngân hàng thương mại xảy 
ra không phải là ít. Điều này tác động không nhỏ đến tính khách quan trong công tác giám 
sát hoạt động hệ thống ngân hàng của ngân hàng trung ương. Do vậy, theo đà đổi mới các 
DNNN, việc quản lý phần vốn nhà nước nên chuyển ngay cho Tổng Công ty Đầu tư và 
Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC).168 NHNNVN chỉ tập trung vào chức năng điều hành 
chính sách tiền tệ và giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng. 
Mặt khác, kế hoạch thành lập cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng độc lập theo 
mô hình Trung Quốc đang được chuẩn bị. Xét về góc độ nào đó là việc thành lập này là 
cần thiết, nhưng có lẽ, việc có được các công cụ giám sát hoạt động của các ngân hàng 
thực sự hữu hiệu có vẻ như là điều cần thiết hơn vì vấn đề không phải ở chỗ thành lập thêm 
một cơ quan mới mà quan trọng hơn cả là bản chất hoạt động giám sát hoạt động các ngân 
hàng như thế nào. Nếu có một cơ chế tốt với các công cụ và chuẩn mực rõ ràng thì việc 
167 Dù biết nhà nước đã có chủ trương thực hiện vấn đề này, nhưng tác giả vẫn muốn đưa ra đề xuất này vì nó 
rất qua trọng và việc trì hoãn sắp xếp lại mô hình tổ chức của NHNNVN sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động 
của ngân hàng trung ương nói riêng, hệ thống ngân hàng nói chung. 
168 Điều Việt Nam cần lưu ý là lựa chọn mô hình của SCIC như thế nào cho phù hợp để không rơi vào vết xe 
đổ của các DNNN hiện nay. 
75 
giám sát các hoạt động hệ thống ngân hàng không phải là điều khó khăn đối với 
NHNNVN. 
Đối với các công cụ giám sát hoạt động ngân hàng, có lẽ cái tốt nhất là các tiêu 
chuẩn về đảm bảo an toàn của Basel II và chuẩn mực kế toán quốc tế. Việc đưa ra một lộ 
trình cụ thể áp dụng các chuẩn mực này đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam là điều hết 
sức cần thiết. Có như vậy, sự minh bạch trong hoạt động của các ngân hàng mới có thể 
nâng cao và có thể đánh giá được sức mạnh và khả năng dễ bị tổn thương đến mức nào của 
các ngân hàng nói riêng, hệ thống tài chính nói chung. 
6.2.2.Tiếp tục cải cách các ngân hàng thương mại trong nước 
Nếu tính cả các chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì hiện nay Việt Nam có khoảng 
80 ngân hàng, bình quân 1 triệu người có một ngân hàng, cao hơn bình quân của Trung 
Quốc (hơn 300 ngân hàng trên 1,3 tỷ người), nhưng không đáng kể so với gần 8.000 ngân 
hàng ở Mỹ.169 Tuy nhiên, con số nêu trên dường như không có ý nghĩa đáng kể gì. Vấn đề 
nằm ở chỗ là các ngân hàng quốc nội của Việt Nam có quy mô quá nhỏ. Tổng tài sản tính 
đến cuối năm 2006 của ngân hàng lớn nhất Việt Nam là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát 
triển Nông thôn chưa đến 20 tỷ đô-la. NHTMCP có tổng tài sản lớn nhất là ACB cũng 
chưa đến 3 tỷ đô-la. Giả sử những nước khác đều có quy định như Việt Nam là để mở chi 
nhánh ngân hàng ở nước ngoài phải có tổng tài sản tối thiệu là 20 tỷ đô-la và để mở ngân 
hàng con 100% vốn nước ngoài phải có tổng tài sản ít nhất là 10 tỷ đô-la thì Việt Nam chỉ 
có 4 ngân hàng có khả năng mở ngân hàng con và không một ngân hàng nào có khả năng 
mở chi nhánh ở nước ngoài.170 
Đây chỉ là một vấn đề, nghiêm trọng hơn là do quy mô quá nhỏ mà các ngân hàng 
Việt Nam không thể phát huy lợi thế kinh tế nhờ quy mô và phạm vi nên khả năng cạnh 
tranh và đứng vững với các ngân hàng nước ngoài sẽ gặp nhiều khó khăn. Cách tốt hơn cả 
là các ngân hàng trong nước nên sáp nhập lại với nhau (thậm chí với các tổ chức tài chính 
khác) để tạo ra một quy mô đủ lớn. Tiên phong trong việc sáp nhập này và có lẽ đơn giản 
hơn cả là việc sáp nhập các NHTMNN sau cổ phần hóa và đi vào hoạt động ổn định. Tiếp 
đến có thể là sự sáp nhập giữa các NHTMCP với nhau hay giữa NHTMNN và các 
NHTMCP. Việc sáp nhập này không chỉ giúp Việt Nam có những ngân hàng có quy mô 
169 Thực ra, nếu tính theo số điểm giao dịch thì hệ thống ngân hàng Trung Quốc dày đặc hơn Việt Nam. Chỉ 
bốn NHTMNN cuối năm 2001 đã có đến 103 nghìn chi nhánh, bình quân 116 nghìn người có một chi nhánh, 
trong khi con số này ở Việt Nam khoảng 200 nghìn (không kể các quỹ tín dụng nhân dân). 
170 Xem cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, phụ lục về dịch vụ, trang 48. 
76 
tương đối lớn mà còn giảm thiểu việc thực thi chung một chiến lược giống nhau, cạnh 
tranh theo kiểu kéo nhau xuống đáy. 
Vấn đề quan trọng khác là áp dụng các mô hình quản trị, mục tiêu hoạt động và các 
tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động. Đây chính là những vấn đề mà các ngân hàng trong 
nước, nhất là các NHTMNN đang gặp nhiều lúng túng. Việc xác định mục tiêu duy nhất là 
lợi nhuận là gia tăng giá trị doanh nghiệp và áp dụng mô hình quản trị công ty theo cách 
giảm thiểu vấn đề mâu thuẫn về lợi ích giữa chủ sở hữu và người điều hành là điều rất 
đáng quan tâm của các ngân hàng hiện nay. 
Đối với việc cổ phần hóa các NHTMNN, Chính phủ cần có những chỉ đạo và quyết 
sách mạnh mẽ và triệt để, nhất là việc xử lý nợ xấu và sắp xếp lại đội ngũ nhân sự kết hợp 
với lựa chọn mô hình quản trị doanh nghiệp rõ ràng. Nếu không khả năng các ngân hàng 
này gặp rắc rối sau khi cổ phần hóa và dẫn tới việc bị các ngân hàng nước ngoài thôn tính 
là điều có thể xảy ra. Khi đó, hệ thống tài chính của Việt Nam có thể hoạt động vẫn tốt, 
nhưng việc để cho các ngân hàng nước ngoài chiếm phần lớn thị phần, thao túng hoạt động 
trên sân nhà là điều có lẽ không hợp lắm với văn hóa của Trung Quốc và Việt Nam. 
Việc học hỏi kinh nghiệm của Trung Quốc khi tiến hành cơ cấu và cổ phần hóa các 
NHTMNN, nhất là các vấn đề liên quan đến yếu tố nước ngoài, Việt Nam cần hết sức lưu ý 
vì quy mô của các ngân hàng Trung Quốc rất lớn nên các ngân hàng nước ngoài dù muốn 
cũng khó lòng thôn tính được. Trong khi, điều này hoàn toàn ngược lại ở Việt Nam. Với 
tiềm lực khổng lồ của các ngân hàng nước ngoài việc thôn tính cả hệ thống tài chính chứ 
chưa nói đến một ngân hàng ở Việt Nam là điều hoàn toàn nằm trong tầm tay của họ. 
Một lưu ý khác đối với Việt Nam trong quá trình cải cách hệ thống ngân hàng là 
hoạt động của tổ chức tài chính tựa ngân hàng nhưng trực thuộc các bộ khác và chính 
quyền địa phương mà không chịu sự quản lý và giám sát hoạt động của NHNNVN. Nếu 
tình trạng một “hệ thống ngân hàng khác” tồn tại bên cạnh hệ thống ngân hàng hiện tại sẽ 
làm cho việc điều hành chính sách tiền tệ sẽ trở nên khó khăn hơn và đương nhiên, điều 
này tiềm ẩn nhiều rủi ro cho nền kinh tế 
6.2.3.Tiếp tục tiến trình tự do hóa tài chính 
Tự do hóa tài khoản vốn là bước cuối cùng trong tiến trình tự do hóa tài chính. Tuy 
nhiên, việc để các dòng vốn ra vào tự do khi mà các thể chế thị trường chưa được thiết lập 
đầy đủ tiềm ẩn những rủi ro rất lớn. Nếu không khéo, khi mà hiện tượng “bay vốn” xảy ra 
như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nỗ lực 
77 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam. Do vậy việc tự do hóa tài khoản vốn phải tiến 
hành từng bước. 
Bước đầu tiên cần quan tâm là Việt Nam cần phải tạo ra nguồn thu ngân sách ổn 
định và có chính sách chi tiêu hợp lý. Khi mà nguồn thu từ dầu thô và thuế nhập khẩu (sẽ 
giảm nhiều trong những năm tới) vẫn chiếm gần 50% ngân sách là vấn đề cần quan tâm. 
Tiếp theo là việc xác định mô hình và mục tiêu của các ngân hàng có tính chất chính sách, 
nhất là ngân hàng phát triển. Nhà nước chỉ nên đầu tư vào những lĩnh vực thực sự cần thiết 
mà khu vực dân doanh không có động cơ để làm. Nếu không việc mở rộng ngân hàng này 
có thể dẫn đến hiện tượng chèn lấn xảy ra và hiệu quả đầu tư có thể còn thấp hơn hiện tại. 
6.3.Hướng nghiên cứu tiếp theo 
Như đã trình bày trong phần giới hạn nghiên cứu, đây là một chủ đề rất rộng và 
trong giới hạn của nghiên cứu này chỉ so sánh một cách chung nhất các bước cải cách 
chính của hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam. Do vậy, việc tìm hiểu kỹ quá 
trình cải cách từng thành phần của hai hệ thống ngân hàng này, nhất là hệ thống ngân hàng 
Việt Nam có thể đem lại những kết quả hết sức thú vị và hữu ích. 
78 
 CÁC PHỤ LỤC 
Phụ lục 1 Việt Nam trong bức tranh chung của các nước đông Á 
Nguồn:Dựa trên dữ liệu của Ngân hàng Thế giới 
Macroeconomic management: 
Fiscal policy 
Debt policy 
Trade 
Finance sector 
Business regulatory environment 
Gender equality 
Equity of public resource use 
Human resources 
Social protection & labor 
Pol. & Institut for environ 
Property rights & governance 
Public finance 
Efficiency of revenue mobility 
Quality of public administration 
Transparency accountability and corruption 
Quản lý kinh tế vĩ mô 
Chính sách ngân sách 
Chính sách nợ 
Ngoại thương 
Khu vực tài chính 
Môi trường luật lệ kinh doanh 
Bình đẳng giới 
Bình đẳng trong sử dụng các nguồn lực công 
Nguồn nhân lực 
Bảo vệ xã hội và lao động 
Chính sách và thể chế về môi trường 
Quyền tài sản và quản trị 
Tài chính công 
Hiệu quả huy động nguồn thu 
Chất lượng quản lý công 
Minh bạch, trách nhiệm và tham nhũng 
79 
Phụ lục 2: Hệ số ICOR của Trung Quốc và Việt Nam và một số nước 
Nước Đầu tư (%GDP) Tăng trưởng GDP (%) ICOR
Việt Nam ('00-'06) 38,3 7,5 5,1
Trung Quốc ('91-'03) 39,1 9,5 4,1
Đài Loan ('81-90) 21,9 8,0 2,7
Hàn Quốc ('81-90) 29,6 9,2 3,2
Nhật Bản ('61-'70) 32,6 10,2 3,2
Nguồn: Dựa trên thống kê của các nước và tính toán của tác giả. 
80 
Phụ lục 3: Một số chỉ tiêu so sánh hiệu quả hoạt động của ngân hàng các nước 
Việt Nam Thái Lan Đông Âu Thế giới Chỉ tiêu 
2006 2004 2003 2005 
Dư nợ cho vay/GDP 75% 105 45 144 
ROA 1.1% 1.3 1.46 1.4 
Tỷ lệ lãi biên (NIM) ?% 2 1.38 1.8 
Tỷ lệ thu phi lãi ?% 39.4 42.9 45.5 
ROE 17-18% 14.9 13.6 16.8 
Vốn tự có/tổng tài sản 6.9% 8.7 10.5 Na 
Nguồn: WB, FED, Bank of Thailand, Reuter, García-Herrero, TBKTVN và tính toán của tác giả 
Chỉ tiêu STB ACB VCB CCB UOB Nước phát triển 
ROA 1,9% 1,5 1,0 1,1 1,2 1,4 
NIM 3,9% 2,8 2,9 2,9 2,0 1,8* 
Tỷ lệ thu phi lãi 25,2% 23,5 15,7 6,6 37,6 45,0* 
ROE 20,6% 30,0 15,4 21,6 12,4 16,8 
Vốn tự có/tổng tài sản 13,0% 5,3 7,1 6,3 10,5 ~10 
Dư nợ/Vốn huy động 59,2% 42,8 48,8 54,4 78,5 ~70 
P/E 46,0 39,0 Na 24,4 11,4 16,0 
Nguồn: Báo cáo thường niên của các ngân hàng, Reuter, Hawtrey và tính toán của tác giả. 
* Số liệu năm 2001; Na: không có số liệu 
81 
Phụ lục 4: Một số chỉ tiêu lựa chọn của các ngân hàng Việt Nam năm 2005 
Đvt: Nghìn tỷ đồng 
TT Chỉ tiêu Nhà 
nước 
Cổ 
phần 
Nước 
ngoài 
Liên 
doanh 
Quỹ tín 
dụng 
NHCS Tổng 
1 Vốn tự có 29,4 11,4 8,9 1,5 - - 51,2 
2 Tổng tài sản 622,8 151,7 81,2 13,1 12,3 150,0 1.031 
3 EBT 4,4 2,2 1,1 0,2 0,2 - 7,9 
4 Tiền gửi của khách hàng 453,0 95,1 42,0 6,1 - - 596,2 
5 Cho vay khách hàng 392,3 80,4 45,8 6,5 - - 525,0 
6 ROA 0,6% 1,2% 1,1% 1,3% - - 0,6% 
7 ROE 11,9% 15,8% 9,7% 11,1% - - 12,3% 
8 Thị phần tài sản 60,4% 14,7% 7,9% 1,3% 1,2% 14,5% 100% 
9 VTC/TTS (1/2) 4,7% 7,5% 10,9% 11,4% - - 5,0% 
Nguồn: Tổng hợp từ các nguồn khác nhau 
82 
Phụ lục 5: Một số chỉ tiêu lựa chọn của các ngân hàng Trung Quốc 
Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
ROA (%) 0,43 0,22 0,2 0,26 0,23 0,22 0,14
Thương mại nhà nước 0,19 0,09 0,13 0,22 0,16 0,18 0,08 
Thương mại khác 1,05 0,75 0,49 0,41 0,41 0,37 0,32 
Thương mại cổ phần 0,78 0,58 0,45 0,4 0,39 0,34 0,29 
Khác 1,5 1,03 0,57 0,43 0,46 0,51 0,47 
Ngân hàng chính sách 0,12 0,07 0,06 0,14 0,26 0,01 0,03 
ROE (%) 9,39 4,19 3,48 4,59 4,21 4,48 3,05
Thương mại nhà nước 5,94 2,08 2,35 4,07 3,16 3,78 1,73 
Thương mại khác 14,61 10,55 7,22 6,49 8,1 9,33 8,56 
Thương mại cổ phần 13,76 10,47 8,69 8,42 9,5 9,17 8,07 
Khác 15,42 10,62 5,86 4,54 5,86 9,81 10 
Ngân hàng chính sách 2,68 1,4 1,21 2,97 4,99 0,23 1 
Biên lãi suất ròng (%) 2,03 2,07 1,9 2,22 1,93 1,95 2,03
Thương mại nhà nước 2,4 2,47 2,07 2,35 1,98 2,02 2,11 
Thương mại khác 2,49 2,5 2,25 2,24 2,1 2,18 2,19 
Thương mại cổ phần 2,38 2,57 2,2 2,3 2,32 2,21 2,27 
Khác 2,68 2,4 2,32 2,14 1,43 2,04 1,89 
Ngân hàng chính sách 0,06 0,02 0,81 1,63 1,47 1,01 1,21 
Chi phí/thu nhập (%) 54,51 65,4 62,22 56,61 54,51 55,52 51,68
Thương mại nhà nước 49,31 66,33 59,16 56,18 55,52 51,76 47,87 
Thương mại khác 49,56 59,96 64,07 59,8 51,17 50,92 45,67 
Thương mại cổ phần 56,05 63,13 55,33 52,24 50,48 50,64 44,71 
Khác 38,61 54,47 77,17 75,2 54,47 52,04 49,52 
Ngân hàng chính sách 65,94 34,25 48,49 23,47 6,23 64,93 67,22 
VTC/TTS (%) 4,54 6,03 5,72 5,56 5,16 4,54 4,34
Thương mại nhà nước 3,15 5,61 5,28 5,32 5,04 4,59 4,38 
Thương mại khác 7,2 7,01 6,6 5,99 4,22 3,81 3,76 
Thương mại cổ phần 5,68 5,36 4,95 4,53 3,86 3,56 3,55 
Khác 9,72 9,63 9,7 9,07 5,91 4,78 4,57 
Ngân hàng chính sách 4,6 4,73 4,59 4,72 5,98 2,81 2,95 
Vốn tư có/ Nợ (%) 4,76 6,41 6,07 5,89 5,44 4,76 4,55
Thương mại nhà nước 3,26 5,94 5,57 5,62 5,31 4,81 4,58 
Thương mại khác 7,76 7,54 7,07 6,37 4,41 3,96 3,97 
Thương mại cổ phần 6,02 5,66 5,2 4,75 4,01 3,69 3,77 
Khác 10,76 10,66 10,75 9,97 6,28 5,02 4,79 
Ngân hàng chính sách 4,82 4,97 4,81 4,96 6,36 2,9 3,04 
DPRR/ Dư nợ (%) 1,03 1,26 1,55 1,46 1,81 1,81 3,3
Thương mại nhà nước 1 1,12 1,52 1,24 1,66 1,82 3,91 
Thương mại khác 1,83 2,43 2,99 3,82 2,93 2,32 2,08 
Thương mại cổ phần 1,05 1,63 2,23 3,94 3,35 2,6 2,24 
Khác 3,06 3,84 4,69 3,52 0,8 1,01 1,32 
Ngân hàng chính sách 0,73 1,06 0,79 0,73 1,64 1,02 1,01 
DPRR (Triệu đô-la) 2.197 2.957 3.662 6.971 10.277 10.379 14.061
Thương mại nhà nước 2.109 2.409 3.203 5.565 7.989 8.798 11.025 
Thương mại khác 74 113 371 756 1.008 1.582 3.036 
Thương mại cổ phần 74 113 355 715 906 1.229 2.603 
Khác 0 0 15 41 102 353 433 
Ngân hàng chính sách 0 436 89 650 1.281 0 0 
Nguồn: García- Herrero (2006)
83 
Phụ lục 6: Sơ đồ hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam 
PBOC
& 
CBRC
NGÂN 
HÀNG 
PHI 
NGÂN 
HÀNG 
Các 
Cty 
TC 
Các 
Cty 
CTTC 
Các 
Cty 
ĐT 
Các 
AMC 
4 
NHTM 
NN 
3 
NHCS 
36.000 
HTX 
TD 
123 
NH 
CP+KV
191 
NH 
NNg 
NH 
NN 
VN 
NGÂN 
HÀNG 
PHI 
NGÂN 
HÀNG 
Các 
Cty 
TC 
Các 
Cty 
CTTC 
Các 
Cty 
ĐT 
Các 
AMC 
4 
NHTM 
NN 
3 
NHCS 
924 
HTX 
TD 
37 
NH 
CP 
36 
NH 
NNg 
84 
Phụ lục 7: Những sự kiện chính của hệ thống ngân hàng Trung Quốc 
1948 Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (PBOC) ra đời. 
1951 Phát hành tiền mới, đồng nhân dân tệ. 
1978 Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình bắt đầu quá trình chuyển đổi Trung Quốc từ 
nền kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. 
1979 Chấm dứt thế lực độc quyền ngân hàng của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa 
với sự ra đời của hai ngân hàng quốc doanh đầu tiên trong Tứ đại ngân hàng: 
Ngân hàng Nông nghiệp Trung Hoa và Ngân hàng Trung Hoa. 
1980 Trung Quốc khôi phục lại tư cách thành viên Ngân hàng Thế giới và quay lại 
với Quỹ Tiền tệ quốc tế. 
1983-4 Hai ngân hàng quốc doanh còn lại trong Tứ đại ngân hàng được thành lập: 
Ngân hàng Xây dựng Trung Hoa và Ngân hàng Công thương Trung Hoa 
1985 Trung Quốc chấp thuận việc thành lập văn phòng chi nhánh ngân hàng nước 
ngoài đầu tiên tại Trung Quốc từ năm 1949. 
1990 Thị trường chứng khoán Thượng Hải được thành lập. 
1991 Thị trường chứng khoán Thẩm Quyến được thành lập. 
1992 Uỷ ban Giám sát chứng khoán Trung Quốc (CSRC) được thành lập. 
1994 Tứ đại ngân hàng được phân lại vai trò là các ngân hàng thương mại; ba ngân 
hàng phát triển chính sách mới được thành lập: Ngân hàng Phát triển nông 
nghiệp Trung Hoa, Ngân hàng Phát triển Trung Hoa, và Ngân hàng Xuất 
nhập khẩu Trung Hoa. 
1995 Quốc hội Trung Quốc thông qua Luật Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa, xác 
lập Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa là ngân hàng trung ương. 
Quốc hội Trung Quốc thông qua Luật Ngân hàng thương mại, chính thức qui 
định Tứ đại ngân hàng là những ngân hàng thương mại thực thụ; luật cũng 
tách biệt hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, các công ty chứng khoán, 
và các công ty bảo hiểm. 
1996 Công ty Ngân hàng Minshen Trung Hoa, ngân hàng tư nhân mua bán cổ 
phiếu ra công chúng đầu tiên của đất nước, được thành lập. 
1998 Uỷ ban Giám sát bảo hiểm Trung Quốc được thành lập để tiếp nhận trách 
nhiệm giám sát ngành bảo hiểm từ Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa; Uỷ ban 
Giám sát chứng khoán Trung Quốc cũng tiếp nhận trách nhiệm giám sát thị 
trường chứng khoán từ Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa. 
85 
1999 Vụ phá sản đầu tiên của một tổ chức tài chính lớn của Trung Quốc: CITIC. 
Bốn công ty quản lý tài sản được thành lập để tiếp nhận 169 tỷ đô-la nợ khó 
đòi từ Tứ đại ngân hàng: China Xinda, China Oriental, China Great Wall, và 
China Huarong. 
2001 Trung Quốc trở thành thành viên Tổ chức thương mại thế giới; cam kết mở 
cửa ngành dịch vụ tài chính trên cơ sở bình đẳng đối với các ngân hàng nước 
ngoài trước năm 2006. 
HSBC Holdings trở thành ngân hàng nước ngoài đầu tiên mua cổ phần trong 
một ngân hàng Trung Hoa lục địa. 
2003 Luật Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa và Luật Ngân hàng thương mại Trung 
Hoa được sửa đổi; Luật Giám sát ngành ngân hàng được thông qua: Uỷ ban 
Giám sát ngân hàng Trung Quốc được xác lập và Ngân hàng Nhân dân Trung 
Hoa được trao quyền hơn nữa như là ngân hàng trung ương quốc gia. 
Hội đồng Nhà nước phê duyệt các giải pháp cải cách các hợp tác xã tín dụng 
nông thôn bằng cách ban hành các cải cách đối với việc giám sát, sở hữu, 
chính sách và hoạt động của hợp tác xã tín dụng nông thôn. 
Các biện pháp quản lý đầu tư vốn cổ phần của các tổ chức tài chính hải ngoại 
đầu tư vào các tổ chức tài chính Trung Quốc có hiệu lực từ 31-12-2003. Số 
vốn đầu tư cổ phần mà các tổ chức tài chính nước ngoài được phép đầu tư vào 
các tổ chức tài chính Trung Quốc tăng lên đến mức tối đa là 20 phần trăm. 
2004 Ba bộ luật tài chính mới được thực hiện: Luật Ngân hàng Nhân dân Trung 
Hoa (sửa đổi), Các biện pháp quản lý giám sát ngành ngân hàng, và Luật 
Ngân hàng thương mại Trung Hoa (sửa đổi). 
2005 CCB cổ phần hóa và phát hành cổ phiếu lần đầu thành công 
2006 BOC và ICBC cổ phần hóa và phát hành cổ phiếu lần đầu thành công 
2007 Các cam kết WTO có hiệu lực đầy đủ 
Cổ phần hóa và phát hành cổ phiếu lần đầu của ABC 
86 
Phụ lục 8: Những sự kiện chính của hệ thống ngân hàng Việt Nam 
1951 Thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam mà nay là Ngân hàng Nhà nước Việt 
Nam 
1957 Thành lập Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam, nay là Ngân hàng Đầu tư và Phát 
triển Việt Nam 
1963 Thành lập Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 
1986 Bắt đầu đổi mới kinh tế 
1987 Cho phép tất cả các tổ chức kinh tế được huy động vốn dẫn đến đổ bể các hợp 
tác xã tín dụng hai năm sau đó 
1987 Thành lập Ngân hàng Công thương và Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam 
1988 
1999 
Khủng hoảng hệ thống các hợp tác xã tín dụng 
1990 Ban hành hai pháp lệnh ngân hàng làm cơ sở pháp lý cho việc hình thành hệ 
thống ngân hàng hai cấp 
1991 Khi Pháp lệnh Ngân hàng có hiệu lực, các chi nhánh, văn phòng đại diện của 
các ngân hàng nước ngoài bắt đầu được phép thành lập tại Việt Nam. 
4 ngân hàng liên doanh của 4 ngân hàng thương mại quốc doanh với các ngân 
hàng nước ngoài được thành lập ở Việt Nam. 
Các ngân hàng thương mại cổ phần bắt đầu được thành lập. 
1993 Bình thường hoá các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế 
(IMF, WB, ADB) 
1995 Quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động ngân hàng 
Thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo, nay là Ngân hàng Chính sách Xã 
hội Việt Nam. 
1997 Quốc hội khoá X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các 
tổ chức tín dụng (ngày 2/12/1997) và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998; 
Thành lập Ngân hàng phát triển Nhà Đồng bằng Sông cửu long (Quyết định số 
769/TTg, ngày 18/9/1997). 
Xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông á. Và điều này đã tác động tiêu cực 
đến hệ thống ngân hàng Việt Nam, sau giai đoạn này, một số ngân hàng cổ 
phần hoạt động yếu kém được xắp xếp lại. Từ hơn 50 ngân hàng thương mại 
cổ phần, đến cuối năm 2004 chỉ còn lại 37 ngân hàng. 
87 
1999 Thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (ngày 9/11/1999). 
2000 Cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các Ngân hàng thương mại Nhà nước và 
cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các Ngân hàng Thương Mai cổ phần. 
Trong đó có thêm một sự kiện đáng chú ý là việc thành lập các công ty quản lý 
tài sản tại các ngân hàng thương mại. 
Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM đi vào hoạt động 
2001 Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết. Trong hiệp định này, 
Việt Nam đã cam kết mở cửa thị thường tài chính ngân hàng theo một lộ trình 
nhất định. 
2002 Tự do hoá lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng - Bước cuối cùng tự 
do hoá hoàn toàn lãi suất thị trường tín dụng ở cả đầu vào và đầu ra. 
Tiến hành cơ cấu lại theo chiều sâu hoạt động phù hợp với chuẩn quốc tế đối 
với các Ngân hàng thương mại; 
Thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội trên cơ sở Ngân hàng phục vụ người 
nghèo để tiến tới tách bạch tín dụng chính sách với tín dụng thương mại theo 
cơ chế thị trường; 
Tiến hành sửa bước 1 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 
2003 Sửa đổi Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam. 
2004 Công bố cổ phần hóa các ngân hàng thương mại 
2005 Thành lập tổng công ty đầu tư vốn nhà nước (SCIC) 
2006 Hoàn thành các thủ tục gia nhập WTO 
Thành lập Ngân hàng Phát triển Việt Nam. 
2007 Chính thức trở thành thành viên của WTO và vào ngày 01/04, các ngân hàng 
nước ngoài bắt đầu được thành lập ngân hàng con 100% 
Dự kiến cổ phần hóa và Phát hành cổ phiếu lần đầu của VCB, BIDV và 
Incombank. 
88 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các tài liệu tiếng Việt 
1. ACB. Báo cáo thường niên 2001-2005 và các thông tin trên trang web 
www.bidv.com.vn. 
2. ACB. 2006. “Bản cáo bạch.” 
3. Huỳnh Thế Du. 2004. “Nợ xấu ở Việt Nam nhìn từ mô hình Trung Quốc và một số 
nền kinh tế khác.” Lấy tại 
4. Huỳnh Thế Du. 2005. “Mối quan hệ Nhà nước – Doanh nghiệp nhà nước – Ngân 
hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam.” Lấy tại 
5. Huỳnh Thế Du và Nguyễn Minh Kiều. 2005. “Nghiên cứu tình huống: Hệ thống 
tài chính Việt Nam.” Lấy tại 
6. ĐCSVN. 1986. “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng 
sản Việt Nam.” Lấy tại: 
7. ĐCSVN. 1986. “Nghị quyết số 02-NQ/HNTW của Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp 
hành Trung ương Đảng (khoá VI) giải quyết những vấn đề cấp bách về phân phối, 
lưu thông, ngày 09 tháng 04 năm 1987.” Lấy tại: 
8. ĐCSVN. 1991. “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng 
sản Việt Nam.” Lấy tại: 
9. ĐCSVN. 1996. “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng 
sản Việt Nam.” Lấy tại: 
10. ĐCSVN. 2001. “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng 
sản Việt Nam.” Lấy tại: 
11. ĐCSVN. 2006. “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng 
sản Việt Nam.” Lấy tại: 
12. FETP. “Tập bài giảng Tài chính Phát triển các năm 2003-2006.” Lấy tại 
89 
13. Gordon, Jenny và Bob Warrner. 2005. “Hội nhập quốc tế trong hệ thống ngân 
hàng: Nghiên cứu về năng lực cạnh tranh.” 
14. Gordon, Jenny và Bob Warrner. 2005. “Hội nhập quốc tế trong hệ thống ngân 
hàng: Nghiên cứu so sánh cuối cùng.” 
15. Lê Hồng Hạnh .2004. “Cổ phần hoá DNNN, những vấn đề lý luận và thực tiễn.” 
16. Nguyễn Trọng Hoài. 2004. “Ổn định lạm phát - cái giá phải trả.” 
Lấy tại:  
17. Phùng Khắc Kế. 2006. “Ngân hàng Việt Nam 20 năm đổi mới cùng đất nước và 
những việc cần làm trong tiến trinhg phát triển cùng nền kinh tế thị trường, hội 
nhập của Việt Nam.” Tài liệu hội thảo “Vai trò của Hệ thống ngân hàng trong 20 
năm đổi ở Việt Nam, 01/2006. 
18. Nguyễn Minh Kiều. 2003. “Cải tổ hệ thống ngân hàng Việt nam.” 
Lấy tại  
19. Kornai, János. 1993. “Hệ thống Xã hội Chủ nghĩa.” NXB Văn hoá - Thông tin 
20. Nguyễn Phương Linh. 2005. “Những khó khăn của ngân hàng trong thu hồi nợ tại 
các DNNN thực hiện cổ phần hoá.” Tạp chí Ngân hàng số 07/2005. 
21. Trịnh Quang Long, Võ Trí Thành. 2006. “Tự do hóa tài chính và rủi ro phát sinh: 
Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị một lộ trình tự do hóa cho Việt Nam.” Viện 
Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương. Đề tài nghiên cứu cấp bộ. 
22. Đỗ Đức Minh. 2006. “Tài chính Việt Nam 2001-2010.” NXB Tài chính. 
23. Phí Đăng Minh. 2007. “Thực và điều kiện tự do hóa tài khoản vốn ở Việt Nam. 
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.” 
24. Nguyễn Thị Mùi và các đồng sự. 2005. “Giải pháp phối hợp hoạt động ngân hàng 
và bảo hiểm nhằm khắc phục, hạn chế rủi ro của ngân hàng thương mại ở Việt 
Nam.” Đề tài nghiên cứu cấp bộ của Học viện Tài chính. 
25. Lê Hoàng Nga. 2004. “Thi trường tiền tệ Việt Nam trong quá trình hội nhập.” 
NXB Chính trị quốc gia. 
26. NHNNVN. 1996. “Ngân hàng Việt Nam: Quá trình xây dựng và Phát triển.” 
NXB Chính trị quốc gia. 
27. NHNNVN. 1998. “Báo cáo thường niên năm 1998.” 
28. NHNNVN. 1999. “Báo cáo thường niên năm 1999.” 
29. NHNNVN. 2000. “Báo cáo thường niên năm 2000.” 
90 
30. NHNNVN. 2001a. “Báo cáo thường niên năm 2001.” 
31. NHNNVN. 2001b. “Thông tin về cơ cấu lại các tổ chức tín dụng.” 
Lấy tại:  
32. NHNNVN. 2002. “Báo cáo thường niên năm 2002.” 
33. NHNNVN. 2003. “Báo cáo thường niên năm 2003.” 
Lấy tại  
34. NHNNVN. 2004. “Báo cáo thường niên năm 2004.” 
Lấy tại  
35. NHNNVN. 2005a. “Báo cáo thường niên năm 2005.” 
Lấy tại  
36. NHNNVN. 2005b.“Tài liệu hội thảo: Xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ 
ngân hàng đến năm 2010 và tầm nhìn 2020.” 
37. NHNNVN & Ủy Ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc Hội. 2006. “Tài liệu hội 
thảo: “Vai trò của hệ thống ngân hàng trong 20 năm đổi mới ở Việt Nam.” 
38. Ngân hàng Công thương Việt Nam. Báo cáo thường niên 2001-2004 và các thông 
tin trên trang web www.icb.com.vn. 
39. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Báo cáo thường niên 2001-2005 và các 
thông tin trên trang web www.bidv.com.vn. 
40. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. 2006. “Bản cáo bạch.” 
41. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Báo cáo thường niên 2001-2005 và các 
thông tin trên trang web www.vcb.com.vn. 
42. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. 2006. “Bản cáo bạch.” 
43. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Các báo cáo thường niên 2001-
2004 và các thông tin trên trang web www.agrb.com.vn. 
44. Đặng Phong. 2005.“Lịch sử Kinh tế Việt Nam.” NXB Khoa học Xã hội. 
45. Nguyễn Hạnh Phúc. 2006.“10 năm đổi mới cơ chế lãi suất và ảnh hưởng đến nền 
kinh tế.” Tài liệu hội thảo: Vai trò của hệ thống ngân hàng trong 20 năm đổi mới 
ở Việt Nam”, trang 333. 
46. Sacombank. Báo cáo thường niên 2001-2005 và các thông tin trên trang web 
www.sacombank.com.vn. 
47. Sacombank. 2006. “Bản cáo bạch.” 
91 
48. Lê Thị Băng Tâm. 2004. “Phương hướng và giải pháp tài chính đổi mới, nâng 
cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đến năm 2010.” Báo cáo tại 
Hội nghị sắp xếp, đổi mới DNNN toàn quốc ngày 15-16/03/2004. 
49. Nguyễn Xuân Thành. 2003. “Việt Nam con đường đi đến tự do lãi suất.” 
Lấy tại:  
50. Võ Trí Thành, Lê Xuân Sang, Đinh Hiền Minh và Trịnh Quang Long. 2004. “Thị 
trường Tài chính Việt Nam: Thực trạng, Vấn đề và Giải pháp chính sách.” NXB 
Tài chính. 
51. Nguyễn Văn Tiến. 2005. “Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở: Đánh 
giá chính sách tỷ giá của Việt Nam sau 20 năm đổi mới.” NXB Thống kê. 
52. Tổng cục Thống kê. “Niên giám thống kê các năm 1994-2005.” XNB Thống kê. 
53. Tổng cục Thống kê. 1997. “Một số chỉ tiêu chủ yếu về quy mô và hiệu quả của 1,9 
triệu cơ sở SXKD trên lãnh thổ Việt Nam.” NXB Thống kê. 
54. Tổng cục Thống kê. 2005. “Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 
2002, 2003, 2004.” NXB Thống kê. 
55. Đinh Xuân Trình. 2006. “Thị trường thương phiếu ở Việt Nam.” NXB Lao động-
Xã hội. 
56. 2006. Tài liệu hội thảo “Các thách thức đối với cơ quan quản lý ngân hàng tài 
chính trong môi trường biến động: Hướng tới một khu vực ngân hàng vững mạnh 
và hiệu quả tại Việt Nam.” 
Các tài liệu tiếng Anh 
57. Achhorner, Thomas, Johnson Chng, Holger michaelis và Tjun Tang. 2006. 
“Banking on China: Successful Strategies for Foreign Entrants.” The Boston 
Consulting Group. Lấy tại:  
58. ANZ. 2006. “Vietnam Trip Report: Strong Growth Encouraging Foreign 
Investors.” 
59. Bank for International Settlement. 2004. “Basel II: International Convergence of 
Capital Measurement and Capital Standards.” Lấy tại  
60. Bank for International Settlement. 1988. “International Convergence of Capital 
Measurement and Capital Standards.”Lấy tại:  
61. Bartel, J. và Y. Huang. 2000. “Dealing with the Bad Loans of the Chinese 
Banks.” Lấy tại www.columbia.edu/cu/business/apec/publications/boninhuang.pdf, 08/2004 
62. Barth, James R. Rob Koepp, Zhongfei Zhou. 2004. “Banking Reform in China: 
Catalyzing the Nation’s Financial Future.” Milken Institute Working Paper. 
92 
63. Beim, David O. và Charles W. Calomiris. 2001. “Emerging Financial Markets.” 
McGraw-Hill Irwin. 
64. Berger, Allen N. Iftekhar Hasan và Mingming Zhou. 2006. “Ownership, 
Financial Liberalization, and Efficiency of Chinese Banks.” Lấy tại: 
 26/03/2007 
65. Boyreau-Debray, Genevieve và Shang-Jin Wei. 2005. “Pitfalls of a State-
dominated Financial System: The Case of China.” 
Lấy tại:  
66. Caprio, Gerard, Patrick Honohan and Joseph E. Stiglitz. 2001. “Financial 
Liberalization: How Far, How Fast?” Cambridge University Press. 
67. CPC. 1997. “Hold High the Great Banner of Deng Xiaoping Theory for an All-
round Advancement of the Cause of Building Socialism With Chinese 
Characteristics Into the 21st Century.” 
Lấy tại:  24/02/2007 
68. CPC. 2002a. “Full Text of Jiang Zemin's Report at 16th Party Congress.” 
Lấy tại:  24/02/2007 
69. CPC. 2002b. “Summary of CPC’s Congresses.” 
Lấy tại  24/02/2007 
70. Darryl S.L. Jarvis. 2003. “Vietnam’s Financial Services Sector: Prospects for 
Reform.” 
71. Dimien Guirud. 2005. "Revue Elargissement Special Banking." 
72. Dufhues, Thomas. 2003. “Transformation of the Financial System in Vietnam and 
its Implications for the Rural Financial Market – an update.” 
Lấy tại:  
73. Ernst&Young. 2006. "Global Nonperforming Loan Report 2006." 
Lấy tại:  
74. Farrell, Diana, Susan Lund và Fabrice Morin, 2006. "The Promise and Perils of 
China’s Banking System.” 
75. García-Herrero, A. và D. Santabárbara. 2004. “Where is the Chinense Banking 
System Going with the Ongoing Reform?”. CESifo Economic Studies. 
Lấy tại  
76. Fitch Ratings. 2006. “Country Report: The Vietnam Banking System.” 
77. Goodfriend, Marvin and Eswar Prasad. 2006. “Monetary Policy Implementation 
in China.” BIS Papers No 31. Lấy tại  
93 
78. Gup, Benton E. 2004. “New Basel Capital Accord.” Thomson. 
79. Hanh, Nguyen Thi. 2002. “Can the Japanes Experience of Main Bank System be a 
Model for Financial System Reform in Transisional Economy of Vietnam.” 
Lấy tại:  
80. Hodgson, Glen. 2004. “Can China’s banking System be Reformed?” ECD. 
Economics. Lấy tại  
81. Hope, Nicolas và Fred Hu. (2005). “Reforming China’s Banking System: How 
Much Can Foreign Strategic Investment Help?” Stanford Center for International 
Development. Lấy tại  
82. Huang, Yasheng; Tony Saich; và Edward Steinfeld. 2005. “Financial Sector 
Reform.” Harvard University Asia Center 2005, Cambridge, Massachusetts. 
83. HSBC. 2006a. “Vietnamese Equities: Time to Go in.” 
84. HSBC. 2006b. “Vietnam: Going for the Next Level.” 
85. IMF. 2003. “Vietnam: Selected Issues.” Country Report No 03/381. 
Lấy tại:  
86. IMF. 2003b. “Vietnam: Statistical Appendix.” 
Lấy tại:  
87. IMF. 2006a. “Vietnam: Selected Issues.” Country Report No 06/422. 
Lấy tại:  
88. IMF. 2006b. “Vietnam: Statistical Appendix.” 
Lấy tại:  
89. Ke, Phung Khac. “WTO Accession and Banking Reform in Vietnam.” 
Lấy tại:  
90. Kousted, Jens; John Rand; Finn Tarp; Le Viet Thai; Vuong Nhat Huong và 
Nguyen Minh Thao. 2003. “Financial Sector Reforms in Vietnam - Selected 
Issues and Problems.” CIEM/NIAS report, NIASPess. 
91. Lan, Doan Phuong. 2000. “The Asian Financial Crisis and its Implication for 
Vietnam’s Financial System.” Lấy tại  
92. McCarty, Adam. 2006. “Vietnam: Economic Update 2006 and Prospects to 
2010.” Regional Outlook Forum 2006, Singapore.Lấy tại: 
93. McKinnon, Roland. I. 1973. “Money and Capital in Economic Development.” 
The Brookings Institution. Washington, D.C. 
94 
94. McKinnon, Roland. I. 1992. “The order of Economic Liberalization: Financial 
Contral in the Transition to a Market Economy.” Johns Hopkins University Press. 
95. Merrill Lynch. 2006. “Buy Vietnam – The Emerging Frontier of ASEAN.” 
96. Merrill Lynch. 2006. “Vietnam: Upping the delta in the Mekong.” 
97. Milgrom, Paul and John Roberts .1992. “Economics, Organization and 
Management.” Prentice-Hall, Inc. 
98. Mishkin, S. Frederic. 2004. “The Economics of Money, Banking and Financial 
Markets.” Seventh Edition, Pearson Addison Wesley. 
99. Nam, Tran Thi Nguyen. 2001. “The Banking System of Vietnam: Past, Present 
and Future.” Fulbright Research Project/ Assigned Country: Vietnam. 
Lấy tại:  
100. Ngoan, Vu Viet. 2003. “Financial Reform in Vetnam: Toward International 
Intergration.” ABA 20th Annual Metting and Seminars. 
101. Oh, Soo-Nam. 2000. “Financial Deepening in the Banking Sector – Vietnam.” 
Lấy tại  
102. Perkins, Dwight. 2002. “Industrial and Financial Policy in China and Vietnam: A 
New Model or Replay of the East Asian Experience?” Rethinking the East Asian 
Miracle. A Copublication of the World bank and Oxford University Press. 
103. Podpiera, Richard. 2006. “Progress in China’s Banking Sector Reform: Has Bank 
Behavior Changed?” IMF Working Paper WP/06/71. 
Lấy tại:  
104. PriceWaterHouseCooper. 2004. “China NPL Investor Survey 2004.” 
105. PriceWaterHouseCooper. 2006. “China NPL Investor Survey 2006.” 
Lấy tại:  
106. Qian, Yingyi. 2003. “How Reform Worked in China?” In Dani Rodrik, editor, In 
Search of Prosperity: Analytic Narratives on Economic Growth, Princeton 
University Press, pp. 297-333. Lấy tại: 
 23/02/2007 
107. Roland, Christian. 2006. “Banking Sector Reform in India and China – A 
Comparative Perspective.” Lấy tại: 
 26/12/2006 
108. Ruogu, Li. 2001. “Revisit to China’s Financial Reform.” 
Lấy tại:  26/03/2007 
109. Seiichi, Masuyama, Donna Vandenbrink và Chia Siow Yue. 1999. “East Asia’s 
Financial Systems: Evolution and Crisis.” NRI Nomura Institue. 
95 
110. Sikorski, M. Trevor. 1996. “Financial Liberalization in Developing Countries.“ 
Edward Elgar Publishing Limited. 
111. Soto, Hernando De. 2000. “The Mystery of Capital.” Basic Book. 
112. Claessens, Stijn & Jong-Kun Lee. 2003. “Foreign Banks in Low-Income 
Countries: Recent development and Inpacts.” 
113. Stiglitz, Joseph E. và Shaid Yusuf .2001. “Rethinking the East Asian Miracle.” A 
Copublication of the World bank and Oxford University Press. 
114. Tâm, Lê Minh. 1999. “Reforming Vietnam’s Banking System: Learning from 
Singapore’s Model.” EADN Working Papers. Lấy tại:  
115. Unteroberdoerster, Olaf. 2004. “Banking Reform in the Lower Mekong 
Countries.” IMF Policy Discussion Paper No PDP/04/05. 
Lấy tại  
116. VinaCapital. 2006. “Vietnamese Banks: A Great Growth Story at Inflated 
Prices.” 
117. WB. 2001. “Government Failure in Finance.” Finance for Growth, Chapter 3 
118. WB. 2002. “Banking Sector Review: Vietnam June 2002.” 
Lấy tại:  
119. WB. 2005. “World Development Indicator.” CD-Rom. 
120. Zhao, Min. 2005. “External Liberalization and the Evolution of China’s 
Exchange System: An Empirical Approach.” World Bank Research Paper No.4. 
Lấy tại:  
Các văn bản pháp lý và định hướng về hoạt động ngân hàng tham khảo chính 
121. Chương trình hành động hội nhập quốc tế của Ngân hàng Nhà nước năm 2003. 
122. Đề án Phát triển Ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 
2020 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2006. 
123. Đề án cơ cấu lại và xử lý nọ tồn đọng các ngân hàng thương mại năm 2000 
124. Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997, sửa đổi năm 2002 
125. Luật các tổ chức tín dụng năm 1997, sửa đổi năm 2003 
126. Pháp lệnh ngân hàng nhà nước năm 1990 
127. Pháp lệnh về hoạt động của các tổ chức tín dụng năm 1990 
128. Pháp lệnh ngoại hối năm 2006 và các văn bản liên quan đến hoạt động ngoại hối 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
464851.pdf