CÁI NHÌN, KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG HỒI KÝ CỦA TÔ HOÀI
(Qua hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt
Nam. Nhắc đến Tô Hoài là ta nhắc đến “một nhà văn có nghề nghiệp vững
vàng với một công phu rèn luyện dẻo dai, bền bỉ”. Trên hành trình sáng tạo
nghệ thuật gần 70 năm, Tô Hoài đã trải qua những mốc lịch sử đặc biệt quan
trọng: trong chiến tranh và sau chiến tranh, trước và sau cách mạng, trước và
sau thời kỳ đổi mới văn học. Thành tựu xuất sắc và độc đáo của Tô Hoài là
những đóng góp quan trọng cho nền văn học hiện đại Việt Nam. Đóng góp ấy
thể hiện trên nhiều thể loại và đề tài: từ đề tài miền xuôi đến đề tài miền núi,
từ truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện thiếu nhi đến kịch, ký, . . Hầu như ở thể
loại và đề tài nào Tô Hoài cũng để lại dấu ấn rõ nét, đúng như G.S Hà Minh
Đức đã nhận xét: “Tô Hoài là một cây bút văn xuôi sắc sảo và đa dạng”.
1.2. Tô Hoài được độc giả biết đến từ những sáng tác trước Cách mạng tháng
Tám năm 1945 với những truyện viết về đề tài thiếu nhi, về những con người
ở một vùng quê ven đô. Những năm kháng chiến rồi hòa bình, ngòi bút của
Tô Hoài chưa bao giờ ngưng nghỉ. Ông viết truyện ngắn, tiểu thuyết, hồi ký .
trong đó hồi ký là thể loại có vị trí đặc biệt thể hiện đậm nét phong cách nghệ
thuật của nhà văn. Hồi ký của Tô Hoài thực sự được người đọc quan tâm và
có những đánh giá sâu sắc khi các thể loại khác của ông đi vào giai đoạn gần
như đã viên mãn.
Hai tập hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều đã ghi lại hiện thực
cuộc sống một cách chân thực, sinh động và sáng tạo. Nhắc đến hồi ký của Tô
Hoài, chúng ta không thể không nhắc đến hai tập hồi ký này.
1.3. Tiếp cận và nghiên cứu văn học từ góc độ thi pháp là cách có sức hấp
dẫn, hiệu quả khoa học cao. Bởi đối tượng của thi pháp học là tính quy luật
nội tại của quá trình sáng tạo nghệ thuật văn chương. Trong đó hình thức là
phương thức tồn tại và biểu hiện của nội dung. Để hiểu được nội dung chỉ có
con đường là khám phá về hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Chính mối
quan hệ giữa nội dung và hình thức trong nghệ thuật đã qui định cách tiếp cận
của thi pháp học. Vì thế, việc nghiên cứu hồi ký của Tô Hoài từ góc độ thi
pháp (cái nhìn, không gian và thời gian) sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn những
giá trị các tập hồi ký của nhà văn Tô Hoài.
1.4. Lâu nay, các nhà nghiên cứu phê bình văn học đã dành nhiều công sức
cũng như tâm huyết cho các sáng tác của Tô Hoài nhưng những công trình coi
thể hồi ký là đối tượng chuyên biệt còn khá khiêm tốn. Đặc biệt, với mong
muốn giúp giáo viên giảng dạy ở các bậc học cũng như bạn đọc yêu mến nhà
văn Tô Hoài có một cái nhìn tổng quát về tác giả, đồng thời thấy được vẻ đẹp
văn chương, sự cảm nhận tinh tế về hiện thực cuộc sống của nhà văn, chúng
tôi chọn đề tài: “Cái nhìn, không gian và thời gian nghệ thuật trong hồi ký
của Tô Hoài”.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU . 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . 6
4. Mục đích nghiên cứu 6
5. Nhiệm vụ nghiên cứu . 7
6. Phương pháp nghiên cứu 7
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 7
8. Cấu trúc luận văn 8
PHẦN NỘI DUNG 9
Chương 1: Cái nhìn nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài . 9
1.1. Đặc điểm hồi ký của Tô Hoài 9
1.1.1. Khái niệm hồi ký 9
1.1.2. Nhà văn Tô Hoài và hành trình viết hồi ký của tác giả . 11
1.1.3. Đặc điểm hồi ký của Tô Hoài 14
1.2. Cái nhìn nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài . 16
1.2.1. Khái niệm cái nhìn nghệ thuật . 16
1.2.2. Cái nhìn nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài . 19
1.2.2.1. Cái nhìn chân thực mang đậm dấu ấn lịch sử 19
1.2.2.2. Cái nhìn nhân bản nghiêng về cuộc sống sinh hoạt đời thường 25
Chương 2: Không gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài 39
2.1. Khái niệm không gian nghệ thuật 39
2.2. Không gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài 44
2.2.1. Không gian hiện thực cụ thể gắn với những sự kiện đáng nhớ . 44
2.2.2. Không gian sinh hoạt đời thường 57
Chương 3: Thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài . 79
3.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật . 79
3.2. Thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài . 83
3.2.1. Thời gian lịch sử rộng mở đa chiều 83
3.2.2. Thời gian đời tư đồng hiện chồng chéo 91
KẾT LUẬN 100
THư MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . 104
113 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2467 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cái nhìn, không gian và thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài (qua hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẩm nghệ thuật, con người có quá
trình vận động và phát triển riêng. Trong tác phẩm nghệ thuật, con người có
thể trải qua một cuộc đời, một ngày, trải qua nhiều thế hệ, hoặc quay về quá
khứ, hay nhảy vượt tới tương lai. Vì thế “thời gian nghệ thuật là thời gian mà
ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ
dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với chiều thời gian và hiện tại, quá
khứ hay tương lai ” [47. 61]. Như vậy thời gian nghệ thuật có thể mang tính
liên tục, cái này xảy ra sau cái kia theo một trình tự nhưng cũng có thể đảo
ngược sự liên tục của nó. Bởi thế thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược quay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
83
về quá khứ. Người nghệ sĩ có thể chọn điểm bắt đầu và kết thúc, có thể là
nhanh hay chậm, có thể kể xuôi hay đảo ngược, có thể chọn độ dài một
khoảnh khắc hay nhiều thế hệ, nhiều cuộc đời. Thời gian thể hiện ý thức sáng
tạo chủ động, tự do mang đậm dấu ấn của tác giả.
Trần thuật trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một
điểm nhìn nhất định trong thời gian. Cái được trần thuật bao giờ cũng diễn ra
trong thời gian, được biết qua thời gian. Thời gian nghệ thuật vừa là hình thức
hiện hữu, vừa là hình thức tư duy của con người được diễn tả bằng ngôn từ
trong quá trình miêu tả tính cách, hoàn cảnh, đường đời của nhân vật. Do đó
“Thời gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình thức của hình tượng nghệ
thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó” [11. 219].
Thời gian nghệ thuật là hình thức nghệ thuật, sản phẩm sáng tạo của tác
giả bằng các phương tiện nghệ thuật nhằm làm cho người thưởng thức cảm
nhận được: hoặc hồi hộp đợi chờ, hoặc thanh thản vô tư, hoặc đắm chìm vào
quá khứ. Nhưng thời gian nghệ thuật cũng không phải là một hiện tượng của
tâm lý mà cá nhân người đọc muốn cảm thụ nhanh chậm tùy ý. Thời gian
nghệ thuật là một sáng tạo khách quan trong chất liệu. Nếu như một tác phẩm
có thể gây hiệu quả hồi hộp đợi chờ thì đối với ai, lúc nào, khi cảm thụ thời
gian ấy đều xuất hiện. Điều đặc biệt là thời gian nghệ thuật là một biểu tượng,
một tượng trưng, thể hiện một quan niệm của nhà văn về cuộc đời và con
người.
Chẳng hạn khi ta đọc truyện ngắn Dƣới bóng hoàng lan của Thạch
Lam ta sẽ cảm nhận mình đang quay về quá khứ. Nhà văn đã sử dụng thời
gian hồi tưởng để miêu tả cuộc đời nhân vật Thanh. Nhân vật Thanh dù đã
trưởng thành nhưng khi quay trở về thăm bà chàng lại thấy mình như bé lại.
Kỷ niệm thơ ấu, sự yêu thương và chở che trong vòng tay của bà nội, cảnh
ngôi nhà và khu vườn yên tĩnh vẫn vẹn nguyên như ngày xưa… Thạch Lam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
84
như “ghìm giữ nhịp trôi của thời gian” làm cho người đọc tưởng mình đang
sống trọn vẹn cùng quá khứ. Thời gian trong văn học có thể được các nhân
vật cảm nhận khác nhau tùy theo hoàn cảnh sống của họ.
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du nhân vật Thúy Kiều đã từng có lúc
cảm thấy thời gian dài đằng đẵng một ngày dài tựa ba thu:
Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê
Nhưng cũng có lúc nàng lại thấy thời gian trôi đi nhanh chóng, mười mấy
năm trời mà như thoáng chốc:
Chốc đà mười mấy năm trời
Còn ra khi đã da mồi tóc sương
Như vậy thời gian nghệ thuật trong văn học khác với thời gian khách
quan, nó có thể trôi rất nhanh, bị dồn nén hay kéo dài cái chốc lát thành vô
tận.
Có thể nói thời gian nghệ thuật được xây dựng theo cách cảm nhận thời
gian của con người. Phản ánh sự cảm thụ thời gian của con người trong từng
thời kỳ lịch sử, từng giai đoạn phát triển, thể hiện sự cảm thụ độc đáo của tác
giả về phương thức tồn tại của con người trong tác phẩm.
Thời gian nghệ thuật là sự sáng tạo của nghệ sĩ để tạo ra “một thế giới
nghệ thuật có thể trường tồn trong thời gian” (Trần Đình Sử). Như vậy thời
gian nghệ thuật đã góp phần bộc lộ rõ quan điểm và tư tưởng của nhà văn. Có
khi nhà văn tổ chức vận hành thời gian nghệ thuật trong tác phẩm của mình
theo diễn biến của câu chuyện, được trình bày theo sự phát triển trước sau của
thời gian. Đó là thời gian sự kiện, thời gian này được tính theo độ dài thời
gian mà nó diễn ra. Các sự kiện được xâu chuỗi và xuất hiện một cách tuần
tự, không đứt quãng. Tác phẩm không có thời gian chết và sức hấp dẫn của nó
là ở nhịp điệu dẫn dắt câu chuyện. Ví dụ như tác phẩm: Tam quốc diễn nghĩa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85
– La Quán Trung, Tây du kí – Ngô Thừa Ân, Hoàng lê nhất thống chí – Ngô
gia văn phái …
Bên cạnh kiểu thời gian này còn có kiểu thời gian tâm lý. Nhà văn kéo
dài thời gian để diễn đạt tâm trạng chờ đợi của nhân vật, có khi buộc thời gian
phải đứng lại vận động theo chiều ngược lại hay vận động ngược chiều để thể
hiện sự hồi tưởng của nhân vật. Quá khứ, hiện tại và tương lai không tách rời
mà đan cài lẫn nhau; cái hôm qua hiện hữu trong cái hôm nay, cái hôm nay dự
báo cái ngày mai. Điều đó thể hiện quan niệm về sự vận động biện chứng của
con người và lịch sử.
Là một phạm trù của thi pháp học, thời gian nghệ thuật đã “cung cấp
một cơ sở để phân tích cấu trúc bên trong của hình tượng văn học, cũng như
nghiên cứu các loại hình, các hiện tượng nghệ thuật trong lịch sử” [35, 68].
Thời gian nghệ thuật rất đa dạng. Nó là một thuộc tính tất yếu của hình
tượng nghệ thuật. Các nhà văn khi sáng tạo nên công trình nghệ thuật thường
sử dụng yếu tố thời gian nghệ thuật như một phương tiện cần thiết để tái hiện
đời sống con người.
Khi nghiên cứu thời gian nghệ thuật, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra
một số cách phân loại.
M.Bakhtin (nhà nghiên cứu văn học Nga) trong bài viết Tiểu thuyết
giáo dục và ý nghĩa của nó trong lịch sử chủ nghĩa hiện thực (Tạp chí văn
học số 4 - 1999) đã phân chia thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học
thành bốn loại: thời gian phiêu lưu, thời gian cổ tích, thời gian tiểu sử và thời
gian lịch sử.
G.S Trần Đình Sử quan niệm trong tác phẩm văn học có thời gian trần
thuật và thời gian được trần thuật:
Thời gian trần thuật là thời gian vận động theo dòng vận động tuyến
tính một chiều của văn bản ngôn từ. Người ta nói văn học là nghệ thuật thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
86
gian bởi văn học diễn đạt các sự vật hiện tượng theo trật tự thời gian của lời
nói liên tục, từ câu đầu đến câu cuối cùng, không đảo ngược. Thời gian trần
thuật là thời gian của người kể, của sự kể. Nó có mở đầu và kết thúc; có tốc
độ và nhịp độ riêng do người kể có thể nhanh hay chậm, kể lướt hay kể tỉ mỉ,
dừng lại miêu tả chi tiết; có thể sắp xếp trật tự thời gian của sự việc đem cái
xảy ra sau kể trước và ngược lại; nó luôn mang thời hiện tại (tương ứng với
thời hiện của người nói).
Thời gian được trần thuật là thời gian của sự kiện được nói tới bao
gồm: thời gian sự kiện, thời gian nhân vật, thời gian thiên nhiên, thời gian
sinh hoạt, thời gian phong tục, thời gian xã hội lịch sử.
Nghiên cứu thời gian nghệ thuật trong hồi ký Cát bụi chân ai và
Chiều chiều của Tô Hoài chúng tôi thấy thời gian nghệ thuật trong hai tập hồi
ký này được thể hiện trên hai bình diện: thời gian lịch sử và thời gian đời tư.
Chính nó đã góp phần làm nên thành công của hồi ký Tô Hoài.
3.2. Thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài
3.2.1. Thời gian lịch sử rộng mở đa chiều
Thời gian lịch sử là “thời gian thay đổi sơn hà, sự hưng phế, thịnh suy
của xã hội. Nó đánh dấu bằng các sự kiện lên ngôi, niên hiệu, chiến tranh, nội
chiến, ngày giải phóng, ngày hòa bình, ngày cách mạng, các đổi thay trong
chính sách làm đổi thay cuộc sống và số phận của bao nhiêu người” [47. 67].
Nhà nghiên cứu văn học Nga M. Bakhtin trong bài viết Tiểu thuyết
giáo dục và ý nghĩa của nó trong lịch sử chủ nghĩa hiện thực (sách đã dẫn)
có đưa ra khái niệm về thời gian lịch sử: “Sự hình thành con người diễn ra
trong thời gian lịch sử hiện thực với tính tất yếu của nó, với sự đầy đủ của nó,
với tương lai của nó, với tính không gian sâu sắc của nó”.
Như vậy, thời gian lịch sử là thời gian hiện thực với những sự kiện
quan trọng, đánh dấu bước đi và nấc thang có ý nghĩa của mỗi dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
87
Nghiên cứu thời gian nghệ thuật trong hai tập hồi ký Cát bụi chân ai
và Chiều chiều của Tô Hoài chúng tôi thấy do đặc điểm hồi kí có những điểm
khác với các thể loại khác nên thời gian nghệ thuật trong hồi ký nói chung và
hai tập hồi ký của Tô Hoài nói riêng được tổ chức không theo một trình tự
biên niên hay quy luật có sẵn. Trong bài viết “Cấu trúc thời gian và ngôn
ngữ trong Cát bụi chân ai” tác giả Đặng Thị Hạnh đã nhận thấy: “Dòng hoài
niệm trong Cát bụi chân ai chạy lan man, rối rắm như ba mươi sáu phố
phường, những phố hẹp của Hà Nội cổ đan xen nhau dày đặc, với những rẽ
ngoặt quanh co …, (…). Thời gian hồi tưởng như ngẫu hứng, cũng chạy lông
bông theo dòng hoài niệm, móc vào đâu đấy, dừng lại một lát rồi lại đi, vấp
phải một câu nói, có khi chỉ là một từ, tên con tàu Chantilly chẳng hạn, chứ
không hẳn phải là một bóng chiều trên sóng hồ lăn tăn nhà Thủy Tạ, là đã có
thể đổi chiều, đi ngược về trước hoặc lùi về sau, có khi hàng chục năm.
Tưởng đó cũng là bình thường khi “trò chơi lớn” của văn viết hồi ký là đặt
chồng lên nhau các lớp thời gian” [32. 398]. Cũng theo tác giả Đặng Thị
Hạnh “đối với giới nghiên cứu phương Tây thì điều này đánh dấu sự chuyển
đổi vị trí của cái tôi nhân chứng trong các sự kiện lịch sử thời hiện đại: Việc
không còn tuân thủ trình tự biên niên như hồi ký cổ điển khiến cho “không
gian và thời gian truyện kể được đặt cao hơn không gian và thời gian các sự
cố được kể” [32. 398].
Tô Hoài là nhà văn của những cảm hứng nhân văn đời thường, vì thế
trong sáng tác của ông đặc biệt là hồi ký người ta ít thấy âm hưởng hào hùng
của những năm tháng chiến tranh như những tác phẩm thời kỳ 1945 – 1975.
Tô Hoài viết về cách mạng trên cái nền của những bức tranh sinh hoạt đời
thường. Bởi vậy thời gian trong sáng tác của Tô Hoài đôi khi không được cụ
thể và thật sự xác định. Tuy nhiên không phải vì thế mà sáng tác của Tô Hoài
thoát ly khỏi hiện thực cách mạng, ông tái hiện lịch sử theo cách riêng của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
88
mình. Đặc biệt trong hồi ký Tô Hoài viết về lịch sử không giống bất cứ nhà
văn nào. Là người đã từng sống và chứng kiến những bước chuyển mình của
lịch sử dân tộc, trên từng trang viết của ông chúng ta thấy những sự kiện lịch
sử hiện lên một có ý thức. Những sự kiện lịch sử ấy là những mốc đánh dấu
sự đổi thay của cuộc sống, thay đổi vận mệnh của con người, của dân tộc. Do
đó, qua sự kiện lịch sử những vấn đề của xã hội, con người hiện lên nhẹ
nhàng mà sâu sắc. Ngoài thời gian lịch sử trọng đại của những cuộc cách
mạng, cuộc kháng chiến của dân tộc, trong hồi ký của Tô Hoài còn xuất hiện
những mốc thời gian liên quan tới nghề viết của các nhà văn và của chính tác
giả.
Trong hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều một điều chúng ta dễ
nhận thấy là những mốc sự kiện lịch sử chỉ được Tô Hoài phác họa thoáng
qua nhưng cũng đủ để chúng ta nhận diện được một cách tổng quát về tình
hình xã hội lúc bấy giờ. Thời gian trong hồi ký của Tô Hoài được tổ chức
theo dòng hoài niệm nên các sự kiện được nói tới thường “chạy lông bông”.
Tô Hoài khi viết về thời gian thường không có ngày, giờ, tháng, năm thật
chính xác. Nhà văn chỉ ước đoán bằng những khoảng ước định như: “năm
ấy”, “những năm ấy”, “khoảng những năm”, “mấy năm”, “hồi ấy” … nhưng
chúng ta vẫn có thể biết được các sự kiện theo dòng lịch sử của dân tộc.
Không gian và thời gian có một mối liên hệ mật thiết với nhau, nhất là
trong hồi ký của Tô Hoài. “Vào quãng giữa thế kỷ này thành phố và con
người đều trải nhiều quãng đời chằng mắt xích với nhau.” [25. 389]. Vì lẽ đó
mà không ít lần tác giả nhắc tới cái ngã năm, ngã sáu. Những năm tháng khắc
nghiệt của chiến tranh, con người và thành phố của họ đều cùng phải chống
đỡ lại sự tàn phá của giặc ngoại xâm. Vì thế, con người và thời gian của
những sự kiện “chằng mắt xích với nhau”. Tô Hoài không trần thuật lại lịch
sử mà ghi lại câu chuyện đời thường. Những câu chuyện đời thường đó lại có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
sự liên kết chặt chẽ với lịch sử. “Thế nào mà ở đây Nguyễn Tuân lại nhớ tới
Két chiến dịch sông Thao mùa hạ 1949. Chập tối, bộ đội qua sông xuống đò
bến đền Đông Cuông gần Mậu A. Chúng tôi hành quân suốt đêm vào hậu
dịch để kịp chiều hôm sau đánh đồn Đại Bục. Tình cờ, gặp lại Két ở Mậu A,
Nguyễn Tuân quen Két, Trung đoàn Thủ đô. Chiến dịch ấy, trung đội trưởng
Két đã hy sinh, nằm lại bờ bên kia sông Thao” [25. 391]. Tô Hoài không ghi
lại diễn biến của chiến dịch này nhưng qua việc nhà văn hồi tưởng cuộc gặp
gỡ tình cờ với Két và sự hi sinh của anh, người đọc cũng hình dung được một
phần cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cam go ác liệt. Trung đoàn Thủ
đô là một trung đoàn kiên cường, bất khuất và có rất nhiều chiến công trong
cuộc kháng chiến trường kì chín năm. Trong trung đoàn đó đã có biết bao
chiến sĩ anh dũng và đã hi sinh như trung đội trưởng Két để bảo vệ nền hòa
bình cho Thủ đô nói riêng và đất nước nói chung. Mốc lịch sử ấy không
những nhà văn tái hiện được một chiến dịch hào hùng mà còn ghi nhận sự có
mặt của các nhà văn lớn của nước nhà cùng tham gia chiến dịch.
Rồi những năm tháng chiến tranh, nhiều gia đình ở Hà Nội phải đi tản
cư đến những vùng bình yên. “Kháng chiến, Nguyên Hồng và Kim Lân đưa
gia đình tản cư lên ấp Cầu Đen trên Nhã Nam.” [25. 422]. Sự kiện lịch sử này
mãi mãi in đậm trong trí nhớ mỗi người dân Việt Nam đặc biệt là các nhà văn.
Các nhà văn và gia đình của họ theo dòng tản cư về mọi miền quê hòa vào
không khí chung của cách mạng. Trong dòng hoài niệm, Tô Hoài còn nhớ
như in năm Hội Nhà văn được thành lập. Đó là: “Giữa năm 1957, Hội Nhà
văn được thành lập. Nguyên Hồng phụ trách tuần báo Văn của Hội. Đã nhiều
năm làm nghề viết trong kháng chiến và có làm báo, làm xuất bản nhưng
cũng là ngồi trong rừng điều khiển đôi quang gánh sách báo đi các chiến khu,
chúng tôi bỡ ngỡ và háo hức những công việc mới.” [25. 423]. Đó là một sự
kiện quan trọng cho cả đất nước, đặc biệt là cho nền văn học của nước nhà.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
Sự kiện lịch sử này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống văn học.
Bởi từ đây cách mạng đã trao cho họ một sứ mệnh riêng. Ngòi bút các nhà
văn trở thành vũ khí chiến đấu. Họ viết trong kháng chiến, họ làm báo, làm
xuất bản, phục vụ cho chiến khu. Cuộc sống vất vả, khó khăn ở chiến khu in
đậm trên từng trang hồi ký của Tô Hoài: “Chín năm ở rừng, không có lương,
quần áo phát theo mùa, xà phòng tắm và giặt cũng lĩnh ở kho từng miếng. Cơ
quan sắm dao kéo, tông đơ mọi người húi đầu cho nhau.” [25. 423]. Chín
năm ở rừng, chín năm cùng cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp, chín
năm sống trong sự khó khăn, gian khổ, thiếu thốn nhưng cũng là quãng thời
gian có ý nghĩa nhất với mỗi nhà văn. Mỗi kỷ niệm trở về trên từng trang hồi
ký của Tô Hoài như một lời nhắc nhở con người gắn bó với lịch sử dân tộc,
cho dù đó là những năm tháng nếm mật nằm gai. “Mấy năm ở rừng Thượng
Yên mà nhớ lại tưởng như đâu một vài ngày. Bởi chỉ khi ra ngoài, đi công
tác, đi chiến dịch, quang cảnh và mọi việc mới đổi khác. Trở về trong rừng,
ngày ngày lại như thế. Dậy theo hiệu còi, tập thể dục, vác xẻng cuốc, xách
ống vầu nước tiểu xuống sườn đồi tăng gia rồi lên làm việc, đến giờ sang nhà
bếp ăn cơm, họp kiểm điểm cuối ngày, vào xóm người Dao dân vận, dạy học,
làm vệ sinh quét dọn nhà, chuồng trâu… ” [25. 416].
Thời gian trong hồi ký của Tô Hoài được lồng ghép, đan cài vào nhau.
Các sự kiện nối chồng chéo chằng chịt khiến cùng một lúc, người đọc có thể
được chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng của lịch sử. Khi là thời gian ở rừng
Thượng Yên, khi lại là những sự kiện báo chí làm ầm ĩ cả giới văn nghệ sĩ:
“Chúng tôi bị kiểm điểm qua loa: Bỏ lớp học quan trọng đi ăn mừng đường
xe lửa được khôi phục, việc không cần thiết. Báo Nhân Văn ra đến số 6 bị tịch
thu tại nhà in. Các báo hoan nghênh việc đó. Một số văn nghệ sĩ chúng tôi
chẳng biết ai chủ trương cũng ra tuyên bố tán thành sự tịch thu báo Nhân
Văn. Nhà xuất bản Minh Đức đóng cửa. Hồi ấy, báo in còn ít, chỉ tính số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
nghìn. Nhưng một tờ báo bị cấm thì ầm ĩ ngay. Bấy giờ, cuối năm 1956.” [25.
444]. Sự kiện này có tác động không nhỏ tới đời sống tinh thần của nhiều nhà
văn cũng như độc giả. Vào thời điểm lịch sử lúc bấy giờ việc tịch thu báo
Nhân Văn được sự ủng hộ của rất nhiều người. Đó là thời điểm “ cuối năm
1956”. Thời gian này miền Bắc đã hòa bình, cuộc kháng chiến trường kì chín
năm đã kết thúc bằng một chiến thắng làm chấn động địa cầu: chiến thắng
Điện Biên Phủ. Việc một tờ báo bị cấm trở thành sự kiện “ầm ĩ”. Và những hệ
lụy của sự kiện này sẽ không bao giờ lịch sử có thể quên. Sự kiện này không
chỉ thể hiện cái nhìn của chân thực của tác giả mà còn là cái mốc lịch sử
không quên. Những sự kiện ấy ăn sâu vào tiềm thức của nhiều người và gây
không ít ảnh hưởng trong giới văn nghệ sĩ một thời gian dài. Chính vì thế mà
có “những cuộc họp tập thể này gọi là chỉnh huấn” [25. 472]. “Mùa đông
1951, ở rừng Chiêm Hóa, hai tháng dự lớp đầu tiên chỉnh huấn gọi là “theo
phương pháp Hoa Nam”. Lớp ấy nòng cốt các ngành các giới và địa phương
học xong về tỏa ra rộng khắp.” [25. 473, 474]. “Chỉnh huấn xong ở Chiêm
Hóa, về tổ chức chỉnh huấn trí thức và văn nghệ sĩ.” [25. 475]. Trong đợt
chỉnh huấn rất nhiều nhà văn được tham gia: “Người đi thực tế thì không ai
giống ai” [24. 29]. “Chúng tôi về lao động và xây dựng hợp tác xã một thôn ở
Thái Thụy, huyện Thái Ninh. Mỗi xã mới tổ chức hợp tác xã ở một làng thí
điểm.”. [25. 483]. Tổ chức hợp tác xã đã đem lại một luồng gió mới cho
những người nông dân, những người của ruộng đồng. Xây dựng hợp tác xã
với phương châm làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu đã đem lại niềm tin
cho người dân. Có lẽ vì thế mà ông Ngải (Chiều chiều) cho dù trước đó
không đi Việt Minh nhưng “Bây giờ có hợp tác ông vào ngay” [24. 80] vì
“ông lại cắt nghĩa rằng vào hợp tác ai cũng phải lao động. Lao động được
chấm công, ăn thóc, không làm thì nhịn há mồm ra. ” [24. 81].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
Thời gian trôi đi những dấu ấn lịch sử còn đó trên từng trang hồi ký của
Tô Hoài cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì chín năm, những thay đổi
trong cơ cấu tổ chức xã hội… đều được Tô Hoài ghi lại. Các mốc thời gian
tuy không chính xác từng ngày, từng tháng theo dòng biên niên của lịch sử
nhưng bằng nghệ thuật tổ chức thời gian riêng, Tô Hoài đã cho người đọc
thấy rõ diện mạo lịch sử - xã hội đất nước qua từng thời kỳ cách mạng.
Nếu như ở tập Truyện Tây Bắc và tiểu thuyết Miền Tây thời gian lịch
sử được tác giả ghi lại chủ yếu là sự đổi mới của vùng miền núi Tây Bắc sau
Cách mạng tháng Tám và quá trình thoát khỏi ách cai trị của thực dân Pháp
thì trong hai cuốn hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều thời gian sự lịch sử
được tác giả nhắc tới qua nhiều sự kiện khác nhau trong đời sống và trong văn
học. Ngoài các sự kiện lịch sử đã nói tới, Tô Hoài còn không thể không thể
nhắc tới một sự kiện lịch sử trọng đại đó là những năm chống đế quốc Mỹ.
Khi ghi lại thời khắc lịch sử này, Tô Hoài nhắc lại: “Những năm trước 60, ở
cái dốc ngã sáu Hàng Kèn ban đêm thanh vắng lắm. Những cây sấu, cây sữa
cũng chưa như mấy năm sau phải một trận bom Mỹ đánh sập hai ngôi nhà và
mấy gốc cây cổ thụ” [25. 385, 386]. Những năm trước 60 là những năm hòa
bình mới được lập lại ở miền Bắc sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi,
cuộc sống đang yên bình thì chiến tranh lại nổ ra. Thủ đô Hà Nội phải gánh
chịu những trận bom tấn ác liệt của đế quốc Mỹ. Sự kiện lịch sử này là cái
mốc quan trọng báo hiệu nền hòa bình ở miền Bắc đang bị đe dọa. Chiến
tranh chống đế quốc Mỹ đã bắt đầu. Sự tàn phá của chúng không thể không
dữ dội, cách mạng Việt Nam lại bước vào một chặng đường mới.
Các sự kiện lịch sử được Tô Hoài hồi tưởng chồng chất lên nhau tạo
nên phong cách rất riêng. Trong khi tái hiện hiện thực Tô Hoài thay đổi liên
tục không gian và thời gian. Có khi gặp một sự kiện nào mạnh kể lại bất ngờ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
chuyển hướng. Mặc dù vậy, trong tầng sâu của dòng hồi tưởng các sự kiện
trọng đại vẫn tạo nên sự lôgic nhất định.
Vùng quê Vĩnh Linh sau chiến tranh được tác giả ghi lại: “Vĩnh Linh
hòa bình bây giờ khác xưa, nhưng mỗi lần qua tôi vẫn một nỗi bâng khuâng
ấy. Cuối 1975, chuyến tàu suốt Hà Nội – Sài Gòn vào ga Tiền An trên Bến
Hải hơn mười cây số. Người đôi bên hàng tàu xôn xao, náo nức. (…)” [23.
564]. Hòa bình đã mang lại cho con người đất Vĩnh Linh anh hùng sự “xôn
xao, náo nức”. Đó chính là âm thanh của cuộc sống hòa bình. Khoảnh khắc ấy
mỗi người dân Việt Nam đều đã chờ đợi từ rất lâu. Từ đây cuộc sống của
người dân Vĩnh Linh nói riêng và của người dân Việt Nam nói chung bước
sang một trang mới.
Thời gian lịch sử được mở rộng ra nhiều chiều ở những sự kiện và hoàn
cảnh khác nhau. Trong hồi ký của mình, Tô Hoài có trên một lần nhắc tới
không khí của cái tết. Những cái tết trong lửa đạn: “Năm cùng tháng tận, tết
nhất đến nơi mà thành phố vẫn phấp phỏng không biết bom đạn trên trời ập
xuống lúc nào” [25. 593]. Tết là quãng thời gian sum vầy, đầm ấm của mỗi
người vậy mà họ phải đón tết trong lo âu, phấp phỏng. Chiến tranh đã khiến
niềm vui và hạnh phúc đó không được trọn vẹn. Giao thừa ở Hà Nội trong
những năm bom đạn chiến tranh thật khắc nghiệt: “Đêm nay Hà Nội lại giao
thừa.
Chặp tối, năm hết tết đến, vẫn loa báo động máy bay địch cách 40 ki lô
mét … máy bay địch 20 ki lô mét … trong cái thành phố thương tâm bất cần
đời này, cái tết mơ ước vẫn đến như từ bao nhiêu năm qua. Tối tối, vô khối xe
đạp còn hối hả đi mua hoa – những bó hoa cúc vạn thọ vàng rỉ ế ẩm, người
chơi hoa năm nào cũng khuân cúc vạn thọ sau cùng.” [25. 612]. Bom đạn
chiến tranh là thế, có thể chết bất cứ lúc nào nhưng “cái tết mơ ước vẫn đến”.
Hình như người Hà Nội không quan tâm tới việc “máy bay địch cách 40 ki lô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
mét” hay “20 ki lô mét”, họ chỉ muốn có một cái tết – một cái tết bình thường
như “mơ ước”. Bằng sự lồng ghép tài tình giữa lịch sử và sự kiện, nhà văn đã
giúp người đọc hướng tới khung cảnh lịch sử trọng đại bằng cách nhìn vào
cuộc sống sinh hoạt. Người dân không thể được hưởng cái tết bình yên nếu
vẫn còn “loa báo động máy bay địch”. Tuy vậy, Hà Nội dù phải chịu những
trận “mưa bom bão đạn” nhưng không vì thế mà nếp sinh hoạt của người dân
Hà Thành bị mất đi. Họ vẫn sống trong không khí chuẩn bị đón giao thừa
cũng những thói quen nếp sống từ ngàn đời.
Với các mốc thời gian sự kiện lịch sử ấy, ta càng hiểu hơn về nhà văn
Tô Hoài. Không chỉ là nhà văn ông còn là một chiến sĩ, không chỉ là một
người yêu nước gắn bó với từng bước đi của cách mạng, ông còn là một
người am hiểu sâu sắc nét đẹp văn hóa của người dân Hà Nội nói riêng và
truyền thống dân tộc Việt Nam nói chung.
Thời gian qua những trang hồi ký của Tô Hoài đã đem đến cho người
đọc những hình dung thật cụ thể về cuộc sống, về những gì diễn ra trong các
giai đoạn lịch sử trọng đại của dân tộc, để từ đó mỗi chúng ta các thế hệ độc
giả thêm hiểu, thêm tự hào về đất nước mình. Một đất nước 30 năm chìm
trong bom đạn mà vẫn giữ gìn được nét đẹp văn hóa và bản sắc dân tộc.
Như vậy, qua thời gian lịch sử trong hai cuốn hồi ký Cát bụi chân ai
và Chiều chiều, Tô Hoài đã làm sống lại những sự kiện, những bước đi của
cách mạng Việt Nam. Yếu tố thời gian lịch sử đã trở thành phương tiện để
nhà văn miêu tả một cách chân thực các sự kiện đáng nhớ của cách mạng.
3.2.2. Thời gian đời tƣ đồng hiện chồng chéo
Thời gian đời tư là thời gian mà các sự kiện trong cuộc đời nhân vật
được hiện diện theo một trình tự rất linh hoạt và đa dạng. Thời gian đời tư của
nhân vật có thể được tác giả sắp xếp theo một trình tự tuyến tính nhưng cũng
có khi được tác giả tổ chức theo kiểu thời gian gấp khúc, có sự giãn cách.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
Thời gian trong hồi ký Tô Hoài thường là thời gian đồng hiện giữa quá khứ
gần và quá khứ xa.
Trong hai cuốn hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều có rất nhiều
nhân vật xuất hiện, chủ yếu là các nhà văn hiện đại Việt Nam. Các sự kiện
liên quan tới mỗi nhà văn được Tô Hoài ghi lại chi tiết, cụ thể nhưng các sự
kiện ấy lại không được tác giả tổ chức theo trật tự thời gian tuyến tính. Có rất
nhiều nhà văn nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam được Tô Hoài nhắc đến
trong Cát bụi chân ai và mỗi nhà văn đều được gắn với những sự kiện đáng
nhớ khiến họ hiện diện bằng xương bằng thịt.
Nhà văn xuất hiện với tần số đậm đặc trong cuốn hồi ký Cát bụi chân
ai là “người bạn vong niên” [25. 399] của Tô Hoài - Nguyễn Tuân. Hình ảnh
Nguyễn Tuân được xuất hiện bắt đầu từ một mốc thời gian ước lệ: “Năm ấy,
Nguyễn Tuân cũng chỉ khoảng trên ba mươi đôi chút.” [25. 383], nhưng đã có
cách ăn mặc, đi đứng khác người. Để khắc họa hình ảnh và cá tính của
Nguyễn Tuân, Tô Hoài lựa chọn những mốc thời gian giãn cách. Các sự kiện
trong cuộc đời của nhà văn không được miêu tả theo trật tự thời gian xuôi
chảy mà theo diễn biến cuộc đời nhân vật theo dòng hồi tưởng của tác giả.
- “Những năm về sau, Nguyễn Tuân vẫn làm việc cho viết, khắc khoải sự viết,
mà không viết bao nhiêu” [25. 385].
- “Đi và đi, thực và mộng cả đời Nguyễn Tuân. Làm thế nào đi được, chỉ cốt
đi được. Năm 1937, Nguyễn Tuân ra Hương Cảng làm tài tử màn bạc” [25.
391].
- “Mùa hạ năm 1949, Nguyễn Tuân và tôi theo tiểu đoàn 54 Trung đoàn Thủ
đô tiến quân vào mở chiến dịch tiêu diệt một chuỗi cứ điểm hành lang bờ
sông Thao án ngữ Tây Bắc, các đồn Đại Bục, Đại Phác, Khe Pịa, Ngòi Mác,
Mã Yên Sơn lên đến đồn tiểu khu Phố Ràng” [25. 394].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
96
- “Năm 1961, Nguyễn Tuân lên Hà Giang dự khánh thành đường Bắc Quang
– Hoàng Su Phì” [25. 395].
Đây là những sự kiện gắn với từng mốc thời gian cụ thể trong cuộc đời
của Nguyễn Tuân được tác giả đan xen cùng những câu chuyện đời thường
của ông. Tô Hoài không miêu tả đầy đủ chi tiết mà bằng những nét phác họa
khái quát, con người và tính cách của nhân vật vẫn hiện lên rõ rệt. Vẫn là một
Nguyễn Tuân khắc khoải cho sự đi và viết. Từ những năm trước cách mạng,
Nguyễn Tuân đi làm tài tử ở Hương Cảng, rồi những năm tham gia kháng
chiến trong Trung đoàn Thủ đô, năm đi Hà Giang dự khánh thành đường Bắc
Quang Nguyễn Tuân vẫn thể hiện rõ cá tính của mình. Từ thời gian gần, Tô
Hoài bất ngờ quay ngược lại thời gian quá khứ xa, thuở: “Nguyễn Tuân được
sinh ra và nhớn nhao lên ở Hàng Bạc. Phố Hàng Bạc, số nhà 49, năm 1910 –
Nguyễn Tuân ghi lại như thế ở mép một quyển sách Hướng dẫn du lịch Ba
Lan, có lẽ vì đương đọc chợt nghĩ đến một kỷ niệm” [25. 455]. Sau rất nhiều
sự kiện và bao năm trôi qua, Tô Hoài chợt quay về thời gian xa xưa, quay về
năm Nguyễn Tuân ra đời và lớn lên ở phố Hàng Bạc. Có nhiều kỷ niệm gắn
liền giữa tác giả của Cát bụi chân ai và Chiều chiều với Nguyễn Tuân.
Chuyện đời thường ở ngã năm, ngã sáu, chuyện ở quán ông lão 81, quán Tiểu
Lạc Viên… . Tất cả đều trở thành những kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời nhà
văn, và cũng từ những chi tiết vô giá ấy mà người đọc có thể hiểu thêm về
tính cách, con người mỗi nhà văn.
Rồi mùa thu năm 1930 trên chuyến tàu hỏa từ Pnôm Pênh ra đến
Poipet, lúc đó Nguyễn Tuân còn trẻ lắm: “mặt non choẹt, chưa chắc đã được
hai mươi tuổi” [25. 501]. Nguyễn Tuân bị bắt và giam ở Thái Lan, sau đó “
đến Pnôm Pênh, vẫn bị còng tay vào nhau như thế, tống ngay xuống Sài Gòn.
Lại chui vào cái xe cây khác. Rồi bị giam ở bóp cảnh sát Xóm Chiếu. Đấy gần
bến tàu, hôm sau, bị đưa ra Hải Phòng” [25. 507]. Những câu chuyện gắn với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
cuộc đời Nguyễn Tuân được Tô Hoài kể lại với những thời gian khác nhau, ở
đó có những thời gian xác định và không xác định nhưng vẫn đầy đủ chi tiết
mọi sự kiện để người đọc có thể hiểu hơn về nhà văn Nguyễn Tuân.
Một sự kiện rất quan trọng đối với cuộc đời của mỗi nhà văn đó là khi
được kết nạp vào Đảng. “Nguyễn Tuân được kết nạp vào Đảng ngày 18 tháng
Tư năm 1950” [25. 537]. Đây là cái mốc đáng ghi nhớ đối với mỗi người đặc
biệt là Nguyễn Tuân. Khi nhà văn đang hòa mình vào dòng chảy của cuộc
kháng chiến thực hiện lý tưởng sống. Nhưng “Mỗi lần cáu kỉnh, Nguyễn Tuân
vùng vằng nói:
- Thế này thì tao đem trả thẻ Đảng cho Tố Hữu” [25. 537]. Nguyễn
Tuân nói vậy chứ chưa bao giờ ông làm thế vì suốt cuộc đời ông vẫn lăn lộn,
vẫn đi cho dù có lúc sức khỏe cạn kiệt. Cái nhìn đời thường khiến chân dung
nhà văn được hiện lên nhiều chiều. Kỷ niệm cuối cùng về Nguyễn Tuân là
một sự kiện buồn: “Buổi sáng có người đến bảo Đào Vũ và tôi:
- Đêm qua, nghe đài báo ông Nguyễn Tuân mất rồi.
Tôi nghĩ như vẫn buổi tôi ngồi uống một mình ở nhà ông, nhưng Nguyễn
Tuân đã nằm yên từ buổi sáng hôm tôi ra đây.” [25. 663, 664]. Đời người thật
ngắn ngủi, phút chốc đã ra đi. Từ một thanh niên trên “ba mươi đôi chút” nay
đã vĩnh biệt thế giới này.
Tô Hoài đã sử dụng nghệ thuật miêu tả thời gian giãn cách để kể lại các
sự kiện liên quan đến nhà văn Nguyễn Tuân. Sự đảo ngược trình tự thời gian
kể và trình tự các sự kiện trong chuỗi sự kiện gắn với cuộc đời của Nguyễn
Tuân tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Với từng mốc thời gian gắn với mỗi
chặng đường đã qua của cuộc đời con người, càng để người đọc có thể hình
dung đầy đủ hơn về nhân vật. Rõ ràng là, mỗi sự kiện trong cuộc đời nhà văn
đều là một sự kiện có ý nghĩa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
98
Trong hồi ký Cát bụi chân ai cùng với Nguyễn Tuân, Tô Hoài còn có
biết bao kỷ niệm với Nguyên Hồng. Nguyên Hồng “nhà văn của người cùng
khổ” tuy không xuất hiện với tần số đậm đặc như Nguyễn Tuân nhưng chuyện
về ông được Tô Hoài miêu tả đều để lại dấu ấn khó quên. Đó là kỷ niệm về
một truyện ngắn được in ở tuần báo Văn của Hội Nhà văn mà chính Nguyên
Hồng phụ trách. “Câu chuyện một con hổ người nuôi ở nhà như con chó (…).
Con hổ được đem về nuôi trong nhà … Hổ hiền lành bè bạn với con cún, con
mèo, con gà” [25. 449]. Câu chuyện Nguyên Hồng viết ra với ý nghĩa đơn
giản nhưng “với cách đọc soi lên gạch bút chì đỏ và suy diễn ra thì lại không
thấy thế. Đời thuở nào mà người lại nuôi hổ như nuôi vịt, dễ hơn nuôi vịt”
[25. 450]. “Không hiểu tức là có vấn đề” [25. 450]. Truyện ngắn này của
Nguyên Hồng đã bị “Những lời đao búa truy dồn. Thế là Nguyên Hồng khùng
lên, khóc òa” [25. 452]. Từ đó “nhiều cuộc phê Nguyên Hồng, tôi không thể
nhớ xiết lần nào cụ thể.” [25. 458]. Truyện ngắn của Nguyên Hồng bị cho
rằng là “Nhân Văn vẫn sờ sờ ra đấy, chứ đâu” [25. 452], sự kiện đó khiến
Nguyên Hồng suốt một thời gian dài luôn “kè kè cặp bản thảo, (…) với những
tờ báo Văn như một lá đơn để trình bày khắp nơi.” [23. 458], và mỗi lần ở
đâu họp tổ hay liên tổ hay lên hội trường, Nguyên Hồng đều phân trần về sự
kiện này, có những lúc nhà văn xúc động đến nỗi “to giọng đến bật khóc, vừa
mếu máo vừa nói tiếp, nước mắt ròng ròng” [25. 458]. Không phải ngẫu
nhiên Tô Hoài nhớ lại câu chuyện này của Nguyên Hồng. Bởi đây có thể là sự
kiện không nhỏ tác động tới việc Nguyên Hồng dứt khoát trở về Nhã Nam.
Và từ đó chúng ta càng hiểu rõ hơn tính tình, tâm tư “nhà văn của người cùng
khổ”.
Những ai đã đọc cuốn hồi ký Cát bụi chân ai không thể quên một sự
kiện của nhà thơ Nguyễn Bính. Nhà thơ đã đánh mất đứa con gái ở ngã sáu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
99
Bà Triệu trong một cơn say rượu và sau đó thì không tìm được “đã trên ba
mươi năm rồi” [25. 432].
Trong cả hai cuốn hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều những mốc
thời gian cùng những sự kiện có liên quan đến tác giả được nhắc đến thật rõ
ràng và sinh động. Mặc dù Tô Hoài không ghi lại các sự kiện theo dòng thời
gian tuyến tính, nhưng mỗi sự kiện được hiện diện theo dòng hồi tưởng, đều
cho người đọc cảm nhận rõ hơn về cuộc đời với những vui buồn, sướng khổ
của mỗi con người.
Tô Hoài đã từng làm phóng viên của báo Cứu Quốc, tham gia chiến
dịch tiêu diệt một chuỗi cứ điểm hành lang bờ sông Thao mùa hạ năm 1949,
chiến dịch giải phóng biên giới mùa thu năm 1950 ở Cao Bằng, ở rừng
Thượng Yên chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Sau chiến thắng
Điện Biên Phủ tác giả làm nhà xuất bản Văn Nghệ rồi nhà xuất bản Hội Nhà
Văn. Quãng thời gian dài với những công việc triền miên theo năm tháng
trong Cát bụi chân ai là sự tiếp tục về những hồi ức ngày xưa trong Cỏ dại:
“Năm tôi sáu bảy tuổi, ngày Tết, thường theo các dì tôi ra Kẻ Chợ xem hát
bói tuồng đầu năm ở rạp Quảng Lạc – quen gọi là ngõ Quảng Lạc, cái quán
Tiểu Lạc viên bây giờ ở trong hẻm này” [25. 454]. Tô Hoài đi Lai Châu sau
những “mổ xẻ phê bình” [25. 550] về tiểu thuyết Mười năm, “Tôi đi Lai
Châu, cho đỡ bận lòng.” [25. 551]. Chuyến tàu đưa tác giả lên Tây Bắc kéo
về bao ký ức, những ký ức đời tư của tác giả. Đó là mốc thời gian rất cụ thể:
“năm 1945, mờ sáng, tôi đi với bộ đội đánh Quốc dân đảng” [25. 553].
Những ngày tháng trực tiếp tham gia chiến đấu là thời gian quý giá đối với
nhà văn.
Trong Cát bụi chân ai, Tô Hoài không quên những ngày chất chứa bao
kỷ niệm với các nhà văn ở Yên Dã. Đặc biệt là “mối tình” với “nhà thơ mới
nhất trong các nhà thơ mới” – Xuân Diệu: “Tôi quen Xuân Diệu trước 1945.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
100
Tôi cũng là người được Xuân Diệu rủ đi nghe và cổ vũ Xuân Diệu lần đầu
tiên diễn thuyết bài Thanh niên với quốc văn ở giảng đường đại học Hà Nội”
[25.540]. Ký ức ngày xưa vụt về chốc lát: “Nhớ những tình yêu con trai với
nhau, ở trong làng và ở lớp, khi mới lớn. Học lớp nhất trường Yên Phụ, nói
vỡ tiếng ồ ồ, mặt sùi trứng cá” [25. 541], rồi mạch hồi tưởng lại trở về những
ngày ở Yên Dã “Đương cữ mưa rào. Trong thung lũng, có khi cơn nước trắng
xóa mù mịt cả ngày” [25. 541]. Ở núi rừng Yên Dã nhà văn càng hiểu hơn nét
sinh hoạt và tính cách của Xuân Diệu. Tô Hoài hiểu đến từng chân tơ kẽ tóc
của nhà thơ: “Xuân Diệu nhiều nữ tính thường cẩn thận, từ chi tiêu đến sáng
tác”. Trong mỗi lần đi nói chuyện văn thơ, nhà thơ đều “đặt kế hoạch hẳn
hoi” [25. 544], đến “mỗi bữa ăn, Xuân Diệu săn sóc thực đơn lấy” [25. 544]
để “không làm chủ nhà tốn kém, lại hợp sự đòi hỏi của mình” [25. 545]. Ngay
cả đến việc viết “Xuân Diệu cũng tính chi ly tức cười, mỗi bài đều có mục
đích hai việc một lúc. Bài nói ở đài hoặc đăng báo rồi để in sách. Nếu không,
không viết.” [25. 545], rất chi ly và kỹ càng. Không chỉ thế, nhà thơ còn là
người rất cẩn thận cho mình: “ba lô Xuân Diệu vẫn đủ thứ dự trữ, mỗi chuyến
đi đều sắp sẵn thế” [25. 545] và chu đáo, lo lắng cho người khác: “đến bữa
vẫn cho tôi miếng thịt kho và củ tỏi” [25. 545], “hay bảo ban, nhiều khi từ
những việc nho nhỏ” [25. 546]. Xuân Diệu cẩn thận, chi ly, chu đáo và
thường “Xuân Diệu chê tôi viết lung tung, khuyên tôi không nên phí chữ” [25.
545] rồi “cứ phàn nàn, cảu nhảu tôi cẩu thả.” [25. 545]. Những ký ức về
Xuân Diệu khiến cho nhà thơ hiện lên trên từng trang hồi ký của Tô Hoài thật
gần gũi, thân tình.
Trong hồi ký Chiều chiều có rất nhiều kỷ niệm về chính tác giả. Đó là
những năm tháng Tô Hoài đi thực tế ở Thái Ninh – Thái Bình. Những năm
tháng Tô Hoài trực tiếp sinh hoạt với người dân, tham gia sản xuất, tham gia
cải cách. Thời gian ấy là thời gian rất quý giá bởi tác giả được hòa vào dòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
chảy của cuộc sống, được tận mắt chứng kiến những thăng trầm đang diễn ra,
tất cả trở thành những chất liệu phong phú trong các câu chuyện mà ông ghi
lại. Từ những chuyện tham gia hoạt động các đoàn thể: “Tôi được giấy gọi đi
học trường Nguyễn Ái Quốc khóa 1961” [24. 116]. Sau đó “Ở trường về, tôi
lại được bầu vào ban chấp hành đảng bộ, lại tiếp tục như đã làm hai năm
trước khi đi học. Đã sát nhập Đảng đoàn Văn hóa và Văn nghệ. Về Đảng bộ,
đã thành lập Đảng bộ Văn hóa Văn nghệ. Bí thư Hà Huy Giáp, chịu trách
nhiệm chung, phó bí thư tôi nắm khu vực các hội văn học nghệ thuật” [24.
184], đến những chuyện đời thường ở khu phố - những chuyện đời thường,
nhỏ nhặt, rối rắm như “mớ bòng bong” [24. 204]: chuyện có một ông lão ở
nhà ba tầng “người nhỏ thó, mặt và râu nhợt nhạt, áo sơ mi trong áo vét tử tế
nhưng đã cũ. Cụ ra vỉa hè, ngồi xuống vén ống quần. (…). – Trong sổ hộ
khẩu tên cụ là Vi Văn Định” [24. 219, 220]; chuyện không được nuôi chó ở
khu phố vì sợ chó bị dại; rồi chuyện mẹ con nhà một chị lên xin trước cái tem
phiếu để đem bán lấy tiền đong gạo cho con; chuyện đứa trẻ con chết dưới hồ;
chuyện mở lớp học chữ quốc ngữ, khi khai mạc thì: “Bỗng “choang” một
tiếng, vỡ cái bóng điện tối om. Nhớp nháp trên trán, tôi sờ thấy ươn ướt,
nhưng ngửi không tanh, không phải chảy máu.(…). Tôi cúi nhặt được nửa quả
mõ ném vào mặt tôi. Quả mõ đã chín nát nhoe nhoét, trơ cái hạt cứng. Trán
tôi sưng bằng quả ổi” [24. 26]; rồi cả chuyện có gia đình cố tình trốn không
cho con đi lính; chuyện cái nhà vệ sinh ở khu phố v.v. Mọi chuyện thường
nhật của cuộc sống đi vào hồi ký của Tô Hoài không chỉ để người đọc rõ hơn
về một thời đã sống đã trải của nhà văn của lịch sử, mà còn góp phần khẳng
định nét đặc sắc trong hồi ký của Tô Hoài.
Thời gian trong hồi ký của Tô Hoài được tổ chức theo một phong cách
riêng. Trong hai cuốn hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều, Tô Hoài vừa
miên man theo thời gian giãn cách, khiến các sự kiện không hiện diện theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
trình tự, vừa có sự đồng hiện chồng chéo để các sự kiện về xã hội lịch sử, về
đời tư của mỗi nhà văn hiện lên khá đầy đủ. Từ đó người đọc có sự hình dung
rõ nét về cuộc sống con người của mỗi nhân vật trong những thời điểm lịch sử
khác nhau và trong tính cách của họ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
KẾT LUẬN
Cho đến nay, Tô Hoài là một cây bút văn xuôi lực lưỡng nhất trong nền
văn học hiện đại Việt Nam cả về tuổi đời và tuổi nghề. Trải qua gần 70 năm
miệt mài sáng tạo nghệ thuật, Tô Hoài đã có một gia tài văn chương đồ sộ mà
không phải cây bút nào cũng đạt được. Trong gia tài văn chương đồ sộ ấy, Tô
Hoài viết trên nhiều thể loại và ở thể loại nào ông cũng ghi được những dấu
ấn đặc sắc. Nghiên cứu cái nhìn, không gian, thời gian nghệ thuật trong hồi ký
của Tô Hoài (qua hai cuốn hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều), chúng tôi
muốn góp phần khẳng định những đặc sắc của tác giả trong thể hồi ký. Qua
qua trình nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
1. Trong hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều, Tô Hoài đã thể hiện một cái
nhìn chân thực mang đậm dấu ấn lịch sử. Là người có gần 70 năm cầm bút,
được chứng kiến và trải qua những giai đoạn phát triển quan trọng, những
bước thăng trầm của lịch sử, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc những
thông điệp nhiều chiều cùng sự ảnh hưởng mạnh mẽ của nó. Sự tinh tế và sâu
sắc trong việc lựa chọn chi tiết đã khẳng định cái nhìn chân thực và điển hình
trong hồi ký của tác giả. Cái nhìn chân thực qua những sự kiện lịch sử xã hội
và văn học đáng nhớ của Tô Hoài không nghiêng về một thái cực nào. Nhà
văn đã “mạnh dạn thẳng thắn nói ra những chuyện buồn quá khứ, những ấu
trĩ trong quan niệm văn học và chính trị một thời” cũng như thay đổi mạnh
mẽ theo chiều hướng tốt đẹp để người đọc có những nhận thức, thái độ
“tường minh hơn về lịch sử, văn học nước nhà trong những năm tháng đầy
biến động”
Đặc biệt là với cái nhìn nhân bản nghiêng về cuộc sống sinh hoạt đời
thường, Tô Hoài đã cảm nhận con người từ mọi phương diện tự nhiên nhất.
Trong con mắt của Tô Hoài, con người không chỉ có phẩm chất, có mọi điều
tốt đẹp, cao quý mà thẳm sâu trong họ còn không ít những cá tính, thói tật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
bình thường, thậm chí là nhỏ nhen tầm thường. Không tô điểm, không cường
điệu kể cả bản thân và những nhà văn có tên tuổi trong nền văn học Việt
Nam, ông viết về họ, nhớ về họ bằng tất cả sự trân trọng và tấm lòng chân
thật của mình. Bởi chính nhà văn đã nhận thấy: “Chúng tôi cũng có đủ thói hư
tật xấu của kiểu người như chúng tôi trong xã hội, những ích kỉ ganh ghét nhỏ
nhen” [22. 13]. Cái nhìn đó của Tô Hoài đã làm nên nét đặc sắc và chi phối
thế giới nghệ thuật trong hồi ký của ông, góp phần quan trọng tạo nên phong
cách nghệ thuật tác giả.
2. Trong hai cuốn hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều, Tô Hoài đã tạo nên
không gian rộng mở với nhiều tầng bậc góp phần chuyển tải nội dung tư
tưởng của tác phẩm tới người đọc. Đó là không gian hiện thực cụ thể với
những sự kiện in đậm dấu ấn lịch sử - xã hội một thời. Điều đáng nói là, qua
những sự kiện đó người đọc không chỉ hiểu được từng bước thăng trầm của
lịch sử xã hội, mà còn hiểu được những khó khăn, thách thức mà Đảng Nhà
nước và dân tộc đã phải đối mặt, phải trải qua. Cùng với không gian hiện thực
cụ thể in đậm dấu ấn lịch sử, trong Cát bụi chân ai và Chiều chiều còn có
không gian sự kiện in đậm dấu ấn cá nhân. Nếu không gian lịch sử với các sự
kiện xã hội đem lại cho người đọc những thông điệp nhiều chiều, thì từ những
sự kiện liên quan đến đời sống, số phận của từng con người hồi ký của Tô
Hoài đã làm phong phú hiện thực phản ánh và sự hấp dẫn cho người đọc.
Với cái nhìn nhân bản nghiêng về cuộc sống sinh hoạt, không gian sinh
hoạt với những khung cảnh hết sức đời thường, gần gũi, quen thuộc và thân
thiết được tác giả đặc biệt chú ý. Đó là không gian làng quê, không gian gia
đình – căn phòng và không gian đường phố. Thông qua không gian ấy chân
dung và số phận mỗi con người được hiện diện rõ nét để từ đó người đọc hiểu
hơn về cuộc sống, về con người trong mỗi giai đoạn lịch sử.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
3. Thời gian nghệ thuật trong hai cuốn hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều
chiều được Tô Hoài sắp xếp theo một nghệ thuật thể hiện riêng. Nhà văn đã
đan cài những biến cố của lịch sử với từng mốc thời gian lịch sử. Dấu ấn sự
kiện nhiều khi không hiện diện cụ thể ở từng ngày, từng tháng nhưng lại rõ
ràng ở từng chi tiết. Vì thế nó đã đem đến cho người đọc những thông điệp
khá đầy đủ về hoàn cảnh lịch sử và đời sống xã hội của thế hệ nhà văn cũng
như người dân đất Việt trong những giai đoạn lịch sử khác nhau.
Cùng với cách thể hiện riêng độc đáo, trong hồi ký của Tô Hoài mỗi
cuộc đời, mỗi số phận con người còn gắn với những sự kiện riêng đáng nhớ.
Tô Hoài đã đưa người đọc đến với nhiều số phận tiêu biểu. Nhà văn đã miêu
tả những sự kiện, những biến cố có ý nghĩa quan trọng đối với số phận nhân
vật.
4. Nghiên cứu hồi ký của Tô Hoài qua hai cuốn Cát bụi chân ai và Chiều
chiều từ phương diện cái nhìn, không gian và thời gian nghệ thuật chúng tôi
càng khẳng định hồi ký của ông mang một đặc điểm riêng độc đáo. Để cho
độc giả chiêm ngưỡng bức chân dung tự họa của bản thân và chân dung các
nhà văn tầm cỡ trong nền văn học hiện đại nước nhà. Tô Hoài đã xóa nhòa
khoảng cách tiếp cận và không đi theo kiểu hồi tưởng biên niên. Nhà văn
chọn lựa những sự kiện về lịch sử và đời tư mà nhà văn quan tâm và có ấn
tượng nhất để ghi lại. Những sự kiện sâu đậm ấy lại được hiện diện theo dòng
hoài niệm lan man nhưng vẫn có định hướng để phản ánh cuộc sống và con
người qua nhiều thời kỳ đầy sôi động của đất nước. Theo dòng hồi ký của Tô
Hoài, từ Cỏ dại, Tự truyện đến Cát bụi chân ai và Chiều chiều, chúng ta
càng khẳng định cái nhìn chân thực, khách quan điềm đạm của Tô Hoài.
Chính cái nhìn đó đã chi phối thế giới nghệ thuật trong hồi ký của ông và đem
đến sức hấp dẫn cho người đọc. Nghiên cứu văn chương và phong cách nghệ
thuật Tô Hoài không thể không nghiên cứu mảng hồi ký của ông nhất là Cát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
bụi chân ai – “tập hồi ký đặc sắc” tập hồi ký khẳng định “bước tiến mới về
hồi ký” của Tô Hoài nói riêng và của nền văn học Việt Nam hiện đại nói
chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Thị Anh (2008). Hình tượng tác giả trong truyện
ngắn của Nguyễn Khải, thời kỳ đổi mới.
Luận văn thạc sĩ. Thái Nguyên.
2. Lại Nguyên Ân (2003). 150 thuật ngữ văn học. NXB ĐH
QG. H.
3. Hoàng Thị Bằng (2006). Không gian, thời gian, cái nhìn
nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền Tây
của Tô Hoài. Luận văn thạc sĩ. Thái
Nguyên.
4. Nam Cao (1997). Tuyển tập Nam Cao. NXB Văn
học.H.
5. Đào Thị Mai Dung (2005). Thời gian, không gian và cái
nhìn nghệ thuật trong tập Truyện Tây
Bắc của Tô Hoài. Luận văn thạc sĩ. Thái
Nguyên.
6. Hoàng Thị Diệu (2003). Văn xuôi viết cho thiếu nhi của
Tô Hoài sau cách mạng tháng Tám.
Luận văn thạc sĩ. Thái Nguyên.
7. Phan Cự Đệ (2000). Tuyển tập Nguyên Hồng (Tập 2).
NXB Văn học. H.
8. Nguyễn Đăng Điệp (2004). “Tô Hoài, sinh ra để viết”, Tạp
chí văn học số 9.
9. Hà Minh
Hữu
Đức
Nhuận
(2001). Nguyên Hồng về tác giả và tác
phẩm. NXB Giáo dục.
10. Hà Minh Đức (1996). Lý luận văn học. NXB Giáo dục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
11. Ngô Văn Đức (1996). Ngâm khúc quá trình hình thành
phát triển và thi pháp thể loại. NXB
Thanh niên. H. 2001.H.
12. Nhiều tác giả (2007). Từ điển thuật ngữ văn học. NXB
Giáo dục. H.
13. Nhiều tác giả (2006). Lý luận văn học. NXB Văn học.
14. Nhiều tác giả (1996). Năm mươi năm văn học Việt
Nam sau cách mạng tháng Tám. NXB
ĐH QG. H.
15. Nhiều tác giả (1990). Văn học Việt Nam 1945 – 1975
tập 2. NXB Giáo dục.
16. Nhiều tác giả (2002). Lịch sử văn học Việt Nam- tập 3.
NXB GD.
17. Nhiều tác giả (2000). Văn học Việt Nam (1900 - 1945).
NXB GD.
18. Nhiều tác giả (1998). Triết học Mác- Lênin. NXB Giáo
dục.
19. Đỗ Thị Hà Giang (2002). Vai trò của không gian nghệ
thuật đối với việc thể hiện đời sống tinh
thần nhân vật Pie Bêdukhôp trong tiểu
thuyết “Chiến tranh và hòa bình” của
L.Tônxtoi. Luận văn TN ĐHSP. Thái
Nguyên.
20. Đặng Thị Hạnh (1998). “Về một cuộc đời và những cuộc
đời” (Cấu trúc thời gian và ngôn ngữ
trong Cát bụi chân ai), Tạp chí văn học
số 12.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
21. Nguyễn Văn
Huỳnh Như
Hạnh
Phương
(1998). Lý luận văn học vấn đề và suy
nghĩ. NXB Giáo dục.
22. Dương Thị
Thu
Hiền (2004). Tô Hoài với 2 thể văn; chân
dung và tự truyện. Luận văn Thạc sĩ.
Thái Nguyên.
23. Tô Hoài (1985). Tự truyện. NXB Văn học.
24. Tô Hoài (1999). Chiều chiều. NXB Hội Nhà văn.
25. Tô Hoài (2005). Hồi ký. NXB Hội Nhà văn.
26. Tô Hoài (1973). Miền Tây (Tiểu thuyết). NXB
Văn học. H.
27. Tô Hoài (1999). Truyện Tây Bắc. NXB Văn hóa
dân tộc. H.
28. Tô Hoài (1997). Sổ tay viết văn. NXB Tác phẩm
mới. H.
29. Duy Khán (1996) Tuổi thơ im lặng. NXB Kim
Đồng.
30. M.B Khrapch
enko
(1978). Cá tính sáng tạo của nhà văn và
sự phát triển văn học.(Lê Sơn – Nguyễn
Minh dịch), NXB Hội nhà văn.
31. M.B Khrapch
enko
(2002). Những vấn đề lý luận và phương
pháp luận nghiên cứu văn học (nhiều
người dịch – Trần Đình Sử tuyển chọn
và giới thiệu). NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
32. Phong
Vân
Lê
Thanh
(2007). Tô Hoài về tác gia và tác phẩm.
NXB Giáo dục.
33. Nguyễn Đăng Mạnh (1983). Nhà văn, tư tưởng và phong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
110
cách. NXB Văn học.
34. Nguyễn Đăng Mạnh (2003). Nhà văn hiện đại, chân dung và
phong cách. NXB Văn học.
35. Nguyễn Đăng Mạnh (2002). Con đường đi vào thế giới nghệ
thuật của nhà văn. NXB Giáo dục.
36. Lê Thị Na (2003). Ngôn ngữ giàu tính tạo hình
trong văn xuôi viết về đề tài miền núi của
nhà văn Tô Hoài. Luận văn thạc sĩ. Thái
Nguyên.
37. Trần Đình Nam (1995). “Nhà văn Tô Hoài”, Tạp chí văn
học số 9.
38. Vương Trí Nhàn (1989). “Cuộc phưu lưu giữa trần ai cát
bụi”, Cánh bướm và đóa hướng dương,
NXB Hải Phòng.
39. Vương Trí Nhàn (2002). “Tô Hoài và thể hồi ký”, Tạp chí
văn học số 8.
40. Mai Thị Nhung (2006). Phong cách nghệ thuật Tô Hoài.
NXB Giáo dục.
41. Vũ Ngọc Phan (1998). Nhà văn hiện đại (tập 1 và 2).
NXB Văn học. H.
42. Hoàng Phê (2000). Từ điển tiếng Việt. NXB Đà
Nẵng.
43. Vũ Quần Phương (1999). “Tô Hoài – văn và đời”, Tạp chí
văn học số 8.
44. G.N. Pôxpelo
v
(1985). Dẫn luận nghiên cứu văn học.
NXB Giáo dục. H.
45. Xuân Sách (1993). “Cát bụi chân ai”, Báo văn nghệ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
111
Trần Đức Tiến
46. Trần Đình Sử (1993). Một số vấn đề thi pháp học hiện
đại. Bộ GD- ĐT. Vụ GV. H.
47. Trần Đình Sử (1998). Dẫn luận thi pháp học. NXB
Giáo dục.
48. Trần Đình Sử (1995). Thi pháp thơ Tố Hữu. NXB Giáo
dục.
49. Trần Đình Sử (1997). Những thế giới nghệ thuật thơ.
NXB Giáo dục.
50. Trần Đình Sử (1996). Lý luận và phê bình văn học,
NXB Hội nhà văn. H.
51. Trần Hữu Tá (2001) Tô Hoài một đời văn phong phú
và độc đáo, NXB Trẻ Thành phố Hồ Chí
Minh.
52. Hoài
Hoài
Thanh
Chân
(1996). Thi nhân Việt Nam. NXB Văn
học. H.
53. Vân Thanh (1980), “Tô Hoài qua tự truyện”, Tạp chí
văn học số 6.
54. Lý Hoài Thu (2008). Hồi ký và bút ký thời kỳ đổi mới.
Tạp chí nghiên cứu lý luận, phê bình và
lịch sử văn học. Số 10. H.
55. Trần Thị
Diệu
Thúy (2004). Đặc điểm của ký Nguyên Hồng
sau cách mạng tháng Tám. Luận văn
thạc sĩ. Hà Nội. 2004.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
112
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doc267.pdf