Ngân hàng nên mở rộng phạm vi áp dụng hình thức gửi tiền một nơi có thể rút ở nhiều nơi. Áp dụng được hình thức này sẽ tiết kiệm được tính năng động của Ngân hàng. Biện pháp này cũng góp phần điều hoà được lượng khách hàng ở các quầy tiết kiệm tránh tình trạng chờ đợi mất thời gian. Dịch vụ tạo điều kiện thuận lợi, tâm lý thoải mái cho khách hàng, tăng thêm sức hấp dẫn cho hình thức tiền gửi tiết kiệm. Nghiệp vụ này đòi hỏi Ngân hàng phải thay đổi các mẫu sổ tiết kiệm để khi Ngân hàng chi trả có thể phân biệt được sổ thật hay sổ giả hoặc có thể kiểm tra, đối chiếu thuận tiện, dễ dàng qua điện thoại hoặc qua mạng vi tính Ngân hàng, nhằm tránh phiền hà cho khách hàng. Hơn nữa để nghiệp vụ này thực hiện được tốt thì đòi hỏi Ngân hàng phải trang bị máy vi tính cho các quỹ tiết kiệm và các cán bộ Ngân hàng làm nghiệp vụ này phải có trình độ. Điều này tuy khó thực hiện vì phải đầu tư vốn nhiều vào chính sách vật chất và đào tạo các cán bộ nhân viên nhưng toàn ngành đã có kế hoạch triển khai mạnh mẽ trang thiết bị máy móc kỹ thuật hiện đại nên việc mở rộng phạm vi thực hiện dịch vụ “gửi tiền một nơi, lĩnh ở nhiều nơi” là hoàn toàn có thể thực hiện được. Trên chính sách khắc phục những khó khăn trong quản lý theo dõi số dư, giảm chi phí về giấy tờ, nhân công, cước bưu điện, những hạn chế về điểm giao dịch, đối tượng phục vụ ./.
71 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1497 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cải tiến mở và sử dụng các loại tài khoản tiền gửi nhằm đẩy mạnh huy động vốn kinh doanh của Ngân hàng công thương Bãi Cháy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong hoạt động ngân hàng. Nếu thu, chi tiền mặt được tốt đảm bảo chính xác, kịp thời thoả mãn được mọi nhu cầu về tiền mặt của khách hàng sẽ làm tăng sự tin cậy và uy tín của ngân hàng.
Ngoài nguồn thu tiền mặt rồi dào để thoả mãn nhu cầu tại chỗ của khách hàng, ngân hàng công thương Bãi Cháy còn điều chuyển về ngân hàng công thương Quảng Ninh để thoả mãn nhu cầu chung trong toàn tỉnh.
d) Kết quả kinh doanh:
Biểu 4: Thu nhập chi phí và kết quả kinh doanh:
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
31/12
31/112
Tỷ trọng
31/12
Tỷ trọng
31/12
Tỷ trọng
Tổng thu nhập
8.648
9.837
13,74
7.825
-20,45
9.692
23,85
Tổng chi phí
8.011
8.895,5
11,04
7.943
-10,70
10.341
30,08
LN hạch toán/1lđ
12
16,4
36,66
2
-87,8
1
-50
LN hạch toán
637
868,5
36,34
112
-87,1
-678
-705
Nguồn : theo báo cáo tổng kết năm 1998, 1999, 2000,2001
Kết quả kinh doanh là mục đích cuối cùng trong kinh doanh của mọi doanh nghiệp trong đó có ngân hàng công thương Bãi Cháy.
Qua số liệu trên cho ta thấy:
Lợi nhuận hạch toán năm 1998,1999 rất khả quan nhưng năm 2000 bị giảm.
Lợi nhuận hạch toán trên một lao động cũng tương tự.
Nhìn vào đây cho ta thấy lợi nhuận của hai năm 98, 99 khả quan yếu tố chủ yếu là do chất lượng của công tác tín dụng được cải thiện, dẫn đến chất lượng kinh doanh được tăng lên rõ rệt nên lợi nhuận hạch toán đã đạt được kết quả đáng khích lệ trong năm 2000 lợi nhuận hạch toán bị giảm cũng là do hoạt động tín dụng bị thu hẹp. đến năm 2001 lợi nhuận hạch toán dương nhưng do đầu năm ngân hàng hạch toán dự thu dự trả cho nên đến cuối năm 2001 mới có kết quả âm. Vì vậy hoạt động tín dụng là yếu tố quan trọng quyết định đến lợi nhuận của ngân hàng.
2.2 Thực trạng mở và sử dụng các loại tài khoản tiền gửi ở ngân hàng công thương Bãi Cháy.
- Nền kinh tế thị trường vận hành theo quy luật cung cầu trên các thị trường nói chung trên thị trường vốn tiền tệ nói riêng. Vấn đề khách hàng đực đặt lên vị trí hàng đầu của kinh doanh. Vì vậy các ngân hàng thương mại xem khách hàng là nguồn vốn tiền gửi là vấn đề cốt tử đối với kinh doanh ngân hàng. Hiện nay nền kinh tế nước ta đang chuyển mạch sang sản xuất hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Đa dạng hoá phương thức hoạt động, đa phương hoá quan hệ không ngừng mở rộng. Khách hàng của ngân hàng cũng ngày càng phong phú, nhu cầu của khách hàng cũng đa dạng. Mỗi khách hàng có nhu cầu mục đích khác biệt trong quan hệ với ngân hàng. Cho nên muốn chiếm lĩnh giành giật thị trường và thu hút khách hàng ngân hàng phải đổi mới toàn diện tạo ra các " Sản phẩm dịch vụ ngân hàng " đa dạng thoả mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng.
2.2.1. Cơ cấu tiền gửi theo kỳ hạn của ngân hàng công thương Bãi Cháy.
Hiện nay tại ngân hàng công thương Bãi Cháy cơ cấu tiền gửi theo kỳ hạn gồm có:
- Tiền gửi các tổ chức kinh tế.
- Tiền gửi dân cư.
a) Tiền gửi các tổ chức kinh tế
Là của các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân mở tài khoản tại ngân hàng để phục vụ công tác sản xuất, kinh doanh của đơn vị mình gồm chuyển tiền đi và nhận tiền chuyển đến. Tiền gửi thanh toán doanh nghiệp. Tức là khách hàng uỷ thác trong ngân hàng quản lý một khối lượng tài sản nhất định, khách hàng không mất quyền sở hữu và quyền sử dụng số tiền này, họ có thể sử dụng bất kỳ lúc nào để chi trả cho bất kỳ ai cũng được. Thông qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Ngân hàng cung cấp cho khách hàng một loạt các dịch vụ tạo khả năng to lớn để khách hàng thực hiện được các nghiệp vụ có giá trị to lớn, cùng khắp địa phương một cách nhanh chóng chính xác đảm bảo an toàn mà bản thân khách hàng nếu tự đứng ra thực hiện sẽ rất tốn kém và khó khăn cho nên từ trước tới nay các tổ chức kinh tế có hoạt động sản xuất kinh doanh hầu hết đều mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng nhưng thực chất lượng tiền trên các tài khoản này chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng số nguồn vốn huy động của ngân hàng công thương Bãi Cháy.
Một phần do vốn của các tổ chức kinh tế do nhà nước cấp quá ít phải sử dụng vốn vay là chủ yếu nên đồng tiền phải quay vòng luân chuyển liên tục, không được phép " Nằm ì " trên tài khoản, và một phần cũng do mức lãi suất của loại tiền gửi này không có sự hấp dẫn với doanh nghiệp.
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế gồm hai loại:
- Tiền gửi không kỳ hạn:
Là khoản tiền mà các tổ chức kinh tế gửi vào ngân hàng không có sự thoả thuận về thời hạn rút tiền, khách hàng có thể gửi vào rút ra bất kỳ lúc nào khi có nhu cầu. Tiền gửi không kỳ hạn nói chùng là tiền còn nằm trong lưu thông chủ tài khoản có thể sử dụng bất kỳ lúc nào cho nên ngân hàng chỉ được dùng nguồn vốn này để cho vay ngắn hạn.
- Tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế:
Là khoản tiền mà các tổ chức kinh tế gửi vào ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận về thời hạn rút tiền, về nguyên tắc khách hàng chỉ được rút tiền khi đến hạn thoả thuận. Song trong thực tế do áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng để khuyến khích và thu hút khách hàng thì các ngân hàng có thể cho khách hàng rút tiền trước hạn song trong trường hợp ấy khách hàng không được hưởng lãi suất hoặc được hưởng nhưng lãi suất thấp, cho nên ngân hàng có nguồn vốn này lớn thì sẽ tạo ra được những thuận lợi đáng kể trong việc sử dụng vốn bởi vì nó xuất phát từ tính ổn định của nguồn vốn có kỳ hạn vì lý do đó nên các ngân hàng đã tìm mọi biện pháp này.
Ví dụ: Như các ngân hàng có thể đưa ra nhiều thời hạn gửi tiền khác nhau để khách hàng có nhiều phương án lựa chọn sao cho phù hợp nhất với thời gian nhàn rỗi của các khoản tiền của họ, đồng thời ngân hàng áp dụng một chính sách lãi suất linh hoạt trên nguyên tắc thời hạn gửi tiền càng dài thì lãi suất càng cao và ngược lại. Với nguồn vốn tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế ngân hàng có thể cho vay mà không làm mất khả năng thanh toán.
Nhưng trên thực tế nguồn vốn của các tổ chức kinh tế chiếm một tỷ trọng khôn lớn trong tổng số nguồn vốn huy động của ngân hàng công thương Bãi Cháy.
b) Tiền gửi dân cư
Tiền gửi dân cư chính là nghiệp vụ huy động tiết kiệm tiền nhàn rỗi trong nhân dân của toàn ngành ngân hàng. Đối với ngân hàng công thương Bãi Cháy tiền gửi dân cư chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động để phục vụ kinh doanh.
Tiền gửi dân cư hiện nay ngân hàng công thương Bãi Cháy áp dụng hai hình thức huy động chủ yếu là:
- Tiết kiệm không kỳ hạn
- Tiết kiệm có kỳ hạn.
Tiết kiệm không kỳ hạn là loại tiền gửi tiết kiệm mà khách hàng và ngân hàng không có sự thoả thuận về rút tiền loại tiết kiệm không kỳ hạn lãi suất thấp được áp dụng dưới hình thức gửi vào rút ra dễ dàng. Cho nên nguồn vốn tiền gửi không kỳ hạn thường là rất ít, nhưng tổng số tiền gửi này là rất lớn một khi trình độ nghiệp vụ của ngân hàng được nâng cao và sẽ là nguồn tài nguyên quan trọng của ngân hàng. Đối với người dân ngân hàng phải là nơi gửi có tín nhiệm để những số tiền mà người dân chưa sử dụng không còn là " Tiền chết ", cất dấu đâu đó trong nhà hay dưới gầm giường mà phải được gửi vào hệ thống ngân hàng từ đó được sử dụng có hiệu quả kinh doanh cho toàn nền kinh tế. Tuy vậy đối với ngân hàng công thương Bãi Cháy thì việc sử dụng nguồn vốn tiết kiệm không kỳ hạn không phải là nguồn chính mà nó chỉ là mang tính chất bổ trợ.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
Là những khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn cố định cho một số tiền nhất định nào đó. Nói cách khác khi khách hàng gửi một khoản tiền có kỳ hạn họ chỉ có thể rút ra khi đến hạn đã được thoả thuận, vì số tiền gửi kỳ hạn là cố định người gửi tiền có muốn cũng không thể tăng số dư trên một sổ tiền gửi khi chưa đến thời hạn thoả thuận, mà phải mở một sổ mới việc phát hành một sổ tiền gửi mới cho tiền gửi có kỳ hạn có thể thực hiện bất kỳ lúc nào và không có quy định số tiền quy định số tiền bắt buộc ban đầu, tuy nhiên để bù đắp các chi phí giao dịch ban đầu các ngân hàng thường quy định số tiền tối thiểu khi mở một sổ tiết kiệm có kỳ hạn. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn luôn được trả lãi mà các lãi suất được ngân hàng ấn định tuỳ thuộc vào thời hạn gửi tiền và thay đổi theo từng thời kỳ, khách hàng chỉ được hưởng toàn bộ lãi nếu rút tiền đúng hạn. Nhưng trong điều kiện kinh doanh với các áp lực cạnh tranh lớn để thu hút khách hàng các ngân hàng thường áp dụng chính sách vẫn trả lãi cho các khách hàng rút tiền trước thời hạn với lãi suất thấp hơn mức lãi suất thoả thuận ban đầu và thường bằng lãi suất của tiết kiệm không kỳ hạn.
Ưu điểm của loại tiết kiệm này là mức lãi suất cao cho nên thu hút được nhiều lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư, lãi suất rằng buộc thời hạn nên hình thức tiết kiệm này là nguồn vốn khá ổn định để ngân hàng kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay và đi vay. Và đó cũng chính là dịch vụ kinh tế mà ngân hàng cung ứng với tư cách là người trung gian.
Số liệu sau đây cho thấy nguồn vốn huy động bằng tiền gửi dân cư luôn tăng trưởng và cũng nói lên được nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng công thuơng Bãi Cháy luôn luôn ổn định.
Biểu 5: Cơ cấu tiền gửi dân cư
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Tiền gửi dân cư
75.851
88.447
100.831
127.062
Có kỳ hạn
73.492
86.767
88.501
122.986
Không kỳ hạn
2.359
1.680
12.330
5.076
Nguồn: Bảng cân đối năm 1998, 1999, 2000, 2001.
2.2.2 Cơ cấu tiền gửi theo chủ tài khoản :
Tiền gửi tại Ngân hàng công thương hiện nay chủ yếu gồm 2 loại sau đây:
+ Tiền gửi cá nhân
+ Tiền gửi doanh nghiệp
a) Tiền gửi cá nhân :
Có thể nói việc mở tài khoản cá nhân trước tiên là việc tạo thu nạp tiền nhàn rỗi của mọi người dân tiếp đó là việc tạo tiền đề cho việc việc chi tiêu một cách đa năng bằng tiền mặt và không bằng tiền mặt, nhanh chóng gọn nhẹ an toàn mở tài khoản cá nhân là xu thế tiến bộ thích ứng và phù hợp với sự phát triển của xã hội và sự hoà nhập với cộng đồng Quốc tế. Việc mở tài khoản cá nhân nó chiếm tỷ trọng lớn trong các loại tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng. Một bài toán đơn giản việc triển khai mở rộng thanh toán trong khu vực dân cư chắc chắn sẽ có con số ngàn tỷ đồng trên số dư tiền gửi ở các ngân hàng thương mại để làm nguồn vốn cho vay nền kinh tế. Nâng cao tiện ích cho khách hàng cải tiến thủ tục lề nối làm việc đặc biệt tăng tiện ích trong lĩnh vực thanh toán. Mở rộng khối lượng thanh toán tài khoản cá nhân vấn đề này đang gặp không ít khó khăn. Từ thủ tục chứng từ thanh toán qua ngân hàng vẫn chưa cải tiến đơn giản hơn nên chưa phù hợp với trình độ phổ thông chung của dân cư.
Do số lượng giao dịch thanh toán của dân cư qua ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng nhỏ bé nên toàn bộ nền kinh tế phải chịu những bất lợi sau:
- Tiềm năng vốn nhàn rỗi trong dân cư là rất lớn nhưng chưa được khai thác có hiệu quả, mỗi cá nhân, mỗi gia đình có một khoản dự trữ tiền mặt để phục vụ cho nhu cầu giao dịch hàng ngày nhưng chưa gửi vào ngân hàng thương mại làm phân tán nguồn vốn nội lực của đất nước.
Từ thực tế ở địa phương cho thấy phát triển tài khoản cá nhân là đúng đắn, vì một bộ phận dân cư đã dùng tài khoản để chi trả công lao động, mua sắm hàng hoá, chuyển tiền. Góp phần làm giảm lượng tiền trong lưu thông thúc đẩy thanh toán qua ngân hàng
Là nguồn vốn chiếm tỉ trọng lớn và góp phần quan trọng trong toàn bộ cơ cấu vốn tiền gửi của Ngân hàng công thương trong kinh doanh tiền tệ , nó thường chiếm tỉ trọng từ 65-70% trong toàn bộ các loại tiền gửi tại Ngân hàng . Khả năng nguồn tiền gửi này còn có thể tăng ( Nếu thủ tục, hình thức huy động và lãi suất đơn giản, thích hợp và kích thích được người gửi ).
Loại này chỉ 1 bản thân cá nhân gửi đồng thời là chủ tài khoản .
b) Tiền gửi doanh nghiệp :
Được cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập, có chỉ định người là chủ tài khoản cho doanh nghiệp. Nếu là doanh nghiệp Nhà nước phải được cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thành lập doanh nghiệp và chủ tài khoản. Phải có kế toán trưởng theo điều lệ. Loại này thường chiếm tỷ trọng từ 20-25% trong các nguồn tiền gửi. Hiện nay cũng như xu hướng tới nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp, tại các Ngân hàng số dư tiền gửi doanh nghiệp thường duy trì ở mức cần thiết do trình độ kinh doanh và khả năng tài vụ của doanh nghiệp ngày càng cao, vòng quay vốn càng được tận dụng tốt thì tiền gửi của doanh nghiệp tại ngân hàng sẽ luôn biến động .
Biểu: 6 Cơ cấu tiền gửi tổ chức kinh tế
Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Tiền gửi các tổ chức kinh tế
Không kỳ hạn
7.484
6.493
8.380
9.695
Nguôn báo cáo tổng kết năm 1998, 1999, 2000, 2001.
2.2. 3 Đánh giá tình hình mở và sử dụng các loại tài khoản tiền gửi ở Ngân hàng công thương Bãi Cháy:
Thực trạng mở và sử dụng tài khoản tiền gửi hiện nay của Ngân hàng công thương Bãi Cháy là : Được sự đầu tư của Ngân hàng công thương Việt Nam và sự thống nhất trong toàn hệ thống, Ngân hàng công thương Bãi Cháy đã nhanh chóng hoà nhập vào công nghệ hiện đại hoá Ngân hàng, áp dụng các hình thức thanh toán điện tử, gửi tiền tiết kiệm nhanh chóng, thuận tiện và tiến tới bằng phương pháp tiết kiệm điện tử. Hơn nữa bên cạnh đó còn có những chính sách khách hàng hợp lý nên ngày càng thu hút được nhiều khách hàng đến với Ngân hàng công thương Bãi Cháy kể cả trên lĩnh vực gửi vốn và vay vốn. Với nguồn vốn tiền gửi luôn ổn định, tăng trưởng, Ngân hàng công thương Bãi Cháy đã vững bước trên lĩnh vực kinh doanh tiền tệ đem lại hiệu quả kinh tế cao và phục vụ cho sự phát triển không ngừng của nền kinh tế tỉnh Quảng Ninh .
Chương III
Kiến nghị về việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi khách hàng nhằm khơi tăng nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng công thương Bãi Cháy
Trong nền kinh tế thị trường ngân hàng đóng vai trò quan trọng nó là hệ thần kinh, hệ tuần hoàn của toàn bộ nề kinh tế quốc dân. Nền kinh tế chỉ có thể cất cánh và phát triển với tốc độ cao nếu có một hệ thống ngân hàng mạnh không thể có nền kinh tế tăng trưởng khi hệ thống, tổ chức và hoạt động ngân hàng yếu kém, lạc hậu. Như vậy đòi hỏi ngân hàng phải phát triển tương xứng và hoạt động có hiệu quả trong mọi lĩnh vực nhất là huy động tiền gửi, cho vay, thanh toán.
Mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược phát triển ngân hàng là phải tạo lập được hệ thống ngân hàng đủ mạnh cả về năng lực hoạch định chính sách, năng lực quản lý, năng lực điều hành kinh doanh. Đủ mạnh về trình độ công nghệ và kỹ thuật hiện đại để hoạt động ngân hàng bắt nhịp được với cơ chế thị trường trở thành công cụ đắc lực cho mọi mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và sớm hoà nhập với cộng đồng quốc tế.
Ngân hàng công thương Việt Nam là một ngân hàng tích cực đổi mới các mặt nghiệp vụ hoàn thiện cơ cấu tổ chức, khôi phục dần chữ tín chung cho nghành ngân hàng, sau những thăng trầm qua đổi mới.
Hoạt động tiền gửi ngân hàng là một nghiệp vụ cơ bản trong hoạt động của ngân hàng. Thực tế cũng như lý luận chúng ta đều thấy nguồn vôn huy động là trụ cột đối với kinh doanh ngân hàng nhằm thu lợi nhuận . Đồng thời sự cạnh tranh gay gắt giữa Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng trong nước, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài cùng đặt ra vấn đề cải tiến các loại tài khoản hiện có và tạo ra những loại tài khoản tiền gửi mới, để thoả mãn tốt nhu cầu của khách hàng về gửi tiền về đầu tư kiếm lợi và nhận dịch vụ ngân hàng .
3.1. Một số định hướng chung
3.1.1. Sự cần thiết khách quan về việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng tại Ngân hàng:
Trong toàn bộ các công cụ của Ngân hàng thương mại, tài khoản Ngân hàng là công cụ có vị trí quan trọng vào bậc nhất. Phần lớn các nghiệp vụ do Ngân hàng thương mại thực hiện thay cho khách hàng đều được ghi vào tài khoản của khách hàng. Sau khi mở tài khoản tại Ngân hàng, khách hàng chuyển giao cho Ngân hàng việc tiến hành về mặt kỹ thuật các nghiệp vụ chi trả của mình. Công việc mà trước kia thuộc nhiệm vụ của kế toán khách hàng thì bây giờ do Ngân hàng thực hiện. Thông qua tài khoản Ngân hàng, Ngân hàng cung cấp cho khách hàng một loạt các dịch vụ tạo khả năng to lớn để khách hàng thực hiện được các nghiệp vụ có giá trị to lớn, cùng khắp địa phương một cách nhanh chóng, chính xác, đảm bảo an toàn mà bản thân khách hàng nếu tự đứng ra thực hiện sẽ tốn kém và khó khăn.
Đối với Ngân hàng, tài khoản là một công cụ kỳ diệu thực hiện cơ chế tạo tiền, làm tăng sức mạnh Ngân hàng gấp nhiều lần. Chính tài khoản Ngân hàng mới tạo cho đồng tiền ghi sổ (bút tệ) có khả năng tương ứng với giấy bạc Ngân hàng, nó cho phép lưu thông đồng tiền ghi sổ, nghĩa là số dư trên tài khoản của khách hàng. Cái mà lưu thông một cách hầu như liên tục thông qua các bút toán, đó là tài sản ghi có trên tài khoản của khách hàng tại Ngân hàng. Như vậy cơ sở của việc phát hành séc hay thanh toán qua chuyển khoản đó là tài khoản tại Ngân hàng.
Tài khoản Ngân hàng là “tên gọi của những ký hiệu” do Ngân hàng lập ra để theo dõi tình hình gửi tiến và rút tiền (nếu là tài khoản tiền gửi) hoặc vay tiền và trả nựo (nếu là tài khoản tiền vay) của mỗi khách hàng. Đứng về phía Ngân hàng “mở một tài khoản mới” có nghĩa là có những giao dịch mới với một khách hàng mới. Ngược lại, đứng về phía khách hàng, mở một tài khoản tại Ngân hàng là bắt đầu việc giử tiền và thanh toán chi tiêu, vay mượn trả nợ qua Ngân hàng.
Do đó, việc thuận nhận mở tài khoản là một hành vi biểu lộ sự tín nhiệm hỗ tương từ phía khách hàng cũng như từ phía Ngân hàng.
3.1.2. Đẩy mạnh công tác huy động vốn trên cơ sở sử dụng có hiệu quả nguồn vốn:
Để có thể huy động vốn qua Ngân hàng có kết quả cần nhận thức đúng đắn các quan điểm có tính định hướng cho việc huy động vốn trong các tổ chức kinh tế, trong dân cư nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế và đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước từ nay đến những năm tiếp theo.
* Huy động vốn trong nước:
Hiện nay, nguồn vốn trong nước là nguồn vốn quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng, thể hiện ở chỗ:
+ Nó đã tạo các điều kiện cần thiết để hấp thụ và khai thác có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
+ Hình thành và tạo lập sức mạnh nội sinh cho nền kinh tế, hạn chế những tiêu cực phát sinh về kinh tế, xã hội do đầu tư nước ngoài mang lại, tránh lệ thuộc vào kinh tế nước ngoài.
Huy động vốn trong nước qua nhiều kênh: Ngân sách Nhà nước, doanh nghiệp, Ngân hàng, dân cư... Trong đó nguồn vốn trong dân cư và doanh nghiệp là quan trọng nhất. Chỉ có dựa vào nguồn vốn trong dân, khai thác triệt để tiềm năng vốn trong dân cư mới mong tạo sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Phải coi trọng sức mạnh vốn đang tiềm ẩn trong dân cư và các doanh nghiệp, coi đó là kho tài nguyên quý hiếm, phải được khai thác và sử dụng có hiệu quả.
* Huy động vốn phải gắn chặt với yêu cầu sử dụng có hiệu quả nguồn vốn:
Việc huy động vốn nếu không có kế hoạch sẽ gây áp lực lạm phát và việc huy động vốn sẽ gặp khó khăn. Ngân hàng huy động vốn không chỉ dừng lại ở mục đích là góp phần kiềm chế lạm phát, củng cố giá trị đồng tiền mà ý nghĩa quan trọng của nó còn ở chỗ đưa vốn vào sử dụng có hiệu quả. Quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả chính là một cách tạo vốn và phát triển vốn chắc chắn nhất. Do vậy, cùng với chiến lược huy động vốn cần có chiến lược sử dụng vốn đúng đắn cho thời gian trước mắt và lâu dài một cách có hiệu quả, tiết kiệm.
Trong hoạt động tín dụng cần bố trí vốn đầu tư vào những dự án sản xuất kinh doanh có tính khả thi, thiết thực và hiệu quả để thu hồi vốn đúng hạn, hạn chế nợ quá hạn, rủi ro làm thất thoát vốn.
* Kết hợp hài hoà lợi ích người gửi tiền và Ngân hàng:
Quan hệ giữa người gửi tiền và Ngân hàng thực chất là quan hệ giữa bên bán và bên mua, hai bên cùng thực hiện mục đích kinh doanh tiền tệ. Do đó lãi suất tiền gửi phải được căn cứ vào cung - cầu trên thị trường để xác định một cách thoả đáng, phù hợp với chs tiền tệ trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất huy động thấp hơn chỉ số trượt giá thì Ngân hàng không huy động được vốn, ngược lại nếu nâng lãi suất lên cao để huy động vốn thì kinh doanh của Ngân hàng gặp phải khó khăn, trong điều kiện đầu ra không thay đổi, kinh doanh Ngân hàng sẽ thua lỗ, như vậy vốn của Ngân hàng sẽ không được bảo toàn. Một giải pháp tối ưu trong công tác huy động vốn là Ngân hàng phải không ngừng cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng phục vụ, thiết lập sự tín nhiệm của khách hàng trên nhiều mặt.
3.1.3. Thực hiện đa dạng hoá hệ thống tài khoản huy động vốn:
Để có thể huy động vốn ngày càng nhiều, Ngân hàng cần phải đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, cụ thể:
* Đa dạng các kỳ hạn gửi tiền tiết kiệm:
Bên cạnh các kỳ hạn đang áp dụng Ngân hàng mở rộng thêm các kỳ hạn gửi tiền như 2 năm, 3 năm, 5 năm... Việc áp dụng các hình thức gửi tiền tiết kiệm có kỳ hạn với thời hạn khác nhau sẽ tăng nguồn vốn trung và dài hạn, tạo điều kiện đa dạng hoá các hình thức sử dụng vốn tại Ngân hàng. Tuy nhiên để có thể thu hút vốn dài hạn, Ngân hàng nên phát hành “phiếu tiết kiệm có kỳ hạn chuyển nhượng” ngay tại các quỹ tiết kiệm của Ngân hàng. Với loại tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn này có thể dung hoà được lợi ích giữa hai bên: Ngân hàng và người gửi tiền. Người gửi tiền tự động rút vốn ra chi tiêu đột xuất, đồng thời Ngân hàng tạo được nguồn vốn ổn định.
* Phát triển mở rộng tài khoản cá nhân, phát hành séc cá nhân:
Hình thức này giúp Ngân hàng thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư với lãi suất thấp. Đồng thời phát triển tài khoản cá nhân góp phần hiện đại hoá quá trình thanh toán qua Ngân hàng, giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, giảm chi phí in ấn, bảo quản, kiểm đếm, tức là giảm được hao phí lao động xã hội, góp phần kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, củng cố nâng cao giá trị đồng tiền Việt Nam.
* Ngoài việc phát triển, mở rộng thêm các loại tiền gửi cổ truyền đang được thực hiện, Ngân hàng cần quan tâm đến việc mở rộng thêm các loại tiền gửi khác để đáp ứng nhu cầu ngày một đa dạng của dân chúng. Các Ngân hàng có thể áp dụng nhiều hình thức huy động tiết kiệm dài hạn có mục đích, cụ thể:
+ Hình thức tiết kiệm hưu trí bảo thọ dành cho người có thu nhập hiện tại để dành một phần tiêu dùng cho tương lai thì về già bằng cách hàng tháng gửi tiền vào tài khoản này.
+ Hình thức tiết kiệm học đường: dành cho những gia đình muốn tiết kiệm để khi có công việc, con lớn lên thi vào đại học hoặc đi học nghề, lúc này đòi hỏi chi phí lớn thì đây sẽ là khoản tiền thực hiện điều đó.
+ Hình thức tiết kiệm ở nhà: Hình thức này tạo cho người gửi tiền được quyền vay ở Ngân hàng một khoản lớn với lãi suất hợp lý để đầu tư vào cho chỗ ở của mình.
Song song với đa dạng hoá các hình thức tiền gửi tiết kiệm, Ngân hàng cần phải mở rộng việc phát hành kỳ phiếu có mục đích với hình thức đa dạng hơn, lãi suất linh hoạt tuỳ thuộc môi trường cạnh tranh và cung cầu trên thị trường nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi và tiền mặt ngoài xã hội.
3.1.4. Phát triển tài khoản tiền gửi cá nhân để mở rộng công tác thanh toán:
Việc mở rộng tài khoản cá nhân trong khu vực dân cư trước tiên là việc tạo chỗ thu nộp tiền nhàn rỗi của mọi người dân. Mặt khác, tạo cho họ chi tiêu một cách hệ thống: có thể bằng tiền mặt, chuyển khoản, hoặc gửi quà tặng cho bạn bè người thân... thông qua các công cụ Ngân hàng như: thể thức thanh toán séc, chuyển tiền phải trả... Tuy đây là một việc mới chưa quan với nhân dân ta, song chắc chắn sẽ thành thói quen, sẽ là điều mong ước của nhân dân trong tương lai gần đây. Bởi vì nó là xu thế thích ứng của thời đại, phù hợp với sự phát triển của xã hội và sự hoà nhập của cộng đồng quốc tế. Có thể nói cả nước cùng nhau triển khai mở rộng thanh toán trong khu vực dân cư qua hình thức tài khoản cá nhân, chúng ta sẽ có con số hàng ngàn tỷ đồng số dư tiền gửi ở các Ngân hàng thương mại để làm nguồn vốn cho vay phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, để triển khai mạnh mẽ việc mở rộng tài khoản cá nhân, thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng, Ngân hàng cần thực hiện:
+ Hoàn thiện thủ tục trong việc mở tài khoản, tiền gửi và rút theo hướng đơn giản hơn, nhanh chóng hơn.
+ Đào tạo nghiệp vụ cho nhân viên giao dịch để họ có thể thao tác nhanh chóng, chính xác các nghiệp vụ cho Ngân hàng với thái độ vui vẻ, tận tình, văn minh, lịch sử, trung thực.
+ Ngân hàng cần tăng cường công tác tuyên truyền tới nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, vô tuyến.
+ Mở rộng và hoàn thiện hệ thống các chi nhánh Ngân hàng.
+ Trước mắt Ngân hàng cần triển khai việc mở tài khoản cá nhân và sử dụng công cụ thanh toán không dùng tiền mặt xuống các đối tượng có điều kiện như người có thu nhập cao, doanh nghiệp tư nhân có doanh thu, chi tiền mặt lớn.
+ Ngân hàng cần vận động, khuyến khích các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp đã có quan hệ với Ngân hàng trả tiền lương cho cán bộ công nhân viên thông qua tài khoản cá nhân mở tại Ngân hàng. Có các biện pháp khuyến khích bằng lợi ích vật chất với những người tham gia mở tài khoản cá nhân dành cho khách hàng thứ 1000 một món quà đặt biệt hoặc là một chuyến đi du lịch không mất tiền... Từ đó làm tăng sự quan tâm của dân đối với việc mở tài khoản cá nhân tại Ngân hàng.
3.2. Một số kiến nghị và đề xuất về mở và sử dụng tài khoản khách hàng để khơi tăng nguồn vốn huy động, mở rộng kinh doanh.
3.2.1. Những kiến nghị chung:
3.2.1.1. Đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước:
* Thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô:
Chính sách tài chính phải phối hợp với chính sách tiền tệ: ta thấy chính sách tài chính và chính sách tiền tệ có mối quan hệ chặt chẽ nhằm hỗ trợ bổ sung cho nhau trong tổng thể các chính sách kinh tế vĩ mô. Sự phối hợp chặt chẽ và chính sách tiền tệ sẽ tạo điều kiện quan trọng cho việc huy động vốn và sử dụng vốn của Ngân hàng thương mại. Trong việc phát hành trái phiếu kho bạc, Bộ tài chính thường xuyên phát hành trái phiếu riêng của mình với thời hạn dài hơn, nhưng lãi suất tín phiếu kho bạc cao hơn so với mức lãi suất huy động cao nhất của Ngân hàng nông nghiệp làm cho nguồn vốn huy động tại Ngân hàng nông nghiệp mất ổn định.
Chính sách lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động huy động vốn. Công cụ lãi suất có tính công phạt và nhạy cảm cao. Tăng lãi suất tiền gửi có lợi cho tiết kiệm, bất lợi cho đầu tư và ngược lại. Kinh nghiệm qua thực tế cho thấy cùng đến thành công trong phát triển kinh tế nhưng các nước áp dụng lãi suất không giống nhau, nhiều nước tự do hoá lãi suất, có nước Chính phủ can thiệp mạnh vào khung lãi suất thấp (như Hàn Quốc), có nước lại thực thi một chính sách lãi suất cao (như Đài Loan). Việt Nam cho đến nay đang thực hành một chính sách lãi suất có sự can thiệp mạnh của Nhà nước. Nhà nước ấn định trần lãi suất cho vay và tiền gửi bình quân. Vậy thì trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay vẫn cần sự can thiệp có mức độ của Nhà nước vào việc hình thành lãi suất. Về chính sách lãi suất, Nhà nước nên áp dụng theo từng vùng cả về lãi suất huy động và cho vay thì sẽ phát huy hiệu quả hơn trong việc huy động và đầu tư vốn của Ngân hàng.
* Thực hiện tốt chính sách lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc:
- Về lãi suất: Muốn công cụ lãi suất phát huy vai trò của mình thì Ngân hàng Nhà nước phải tiếp tục có chính sách lãi suất theo hướng sau:
+ Chỉ đạo lãi suất theo nguyên tắc kinh tế thị trường và mối quan hệ cung cầu về vốn, lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào, đảm bảo Ngân hàng thương mại kinh doanh có lãi.
Theo dõi lãi suất trên thị trường vốn và tỷ lệ lạm phát để điều chỉnh kịp thời linh hoạt sao cho lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực cộng tỷ lệ lạm phát và lãi suất hoạt động vốn danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến để khuyến khích tiết kiệm.
Về lâu dài, Ngân hàng Nhà nước có biện pháp hạ dần mức lãi suất để hoà nhập mặt bằng lãi suất trên thế giới. Trước mắt Ngân hàng nên điều chỉnh lãi suất theo hướng xoá bỏ chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ.
- Về tỷ giá: ổn định tỷ giá là mục tiêu, chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Đây là điều kiện quan trọng để huy động tối đa nguồn vốn. Khi tỷ giá biến động theo xu hướng giảm giá nội tệ thì người dân sẽ rút tiền khỏi Ngân hàng để mua ngoại tệ mạnh làm cho nguồn vốn sụt giảm và rối loạn tiền tệ. Trong thời gian tới Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá, tập trung giữ ngoại tệ do Ngân hàng quản lý, hoàn thiện văn bản pháp quyền về quản lý ngoại tệ.
+ Thực hiện đổi mới công nghệ Ngân hàng, tăng cường thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng, thanh toán liên hàng, chuyển tiền điện tử, trang bị máy ATM - POS... nhằm cung cấp ngày càng nhiều các dịch vụ Ngân hàng cho người dân.
+ Điều chỉnh linh hoạt tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với Ngân hàng thương mại, không nên để lãng phí hàng ngàn tỷ đồng dự trữ bắt buộc:
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một trong những công cụ quan trọng điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Tỷ lệ này cần phải được điều chỉnh thường xuyên cho phù hợp với từng thời kỳ. Đối với Ngân hàng thương mại dự trữ bắt buộc là khoản vốn huy động của Ngân hàng thương mại phải trả nhưng không được tham gia vào quá trình kinh doanh tạo lợi nhuận. Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao, lượng vốn của Ngân hàng tăng lên, sẽ ảnh hưởng đến lãi suất đầu vào vì số dự trữ này cũng được tính vào tổng nguồn huy động. Các Ngân hàng thương mại rất dễ thiếu khả năng chi trả vì với việc thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phát triển, chỉ cần một khoản tiền sang Ngân hàng khác lớn hàng tỷ là có thể giảm tiền gửi quá mức dự trữ an toàn. Khi đó việc cho Ngân hàng vay lại phải nhanh chóng. Nếu đóng băng tiền gửi dự trữ bắt buộc lại không cho các Ngân hàng thương mại vay thì tạm thời thiếu nguồn chi trả cho khách hàng. Ngân hàng Nhà nước làm sao thực hiện được trọng trách đảm bảo không thể xảy ra việc rút tiền ào ạt.
+ Kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ: Để ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát thì một trong những nội dung phải thực hiện là giải quyết tốt mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá.
* Hoàn thiện môi trường pháp lý:
Ngân hàng Nhà nước cần tạo điều kiện để thực thi hai bộ Luật Ngân hàng, cụ thể:
- Xây dựng văn bản hướng dẫn thực hiện hai bộ luật và ban hành các văn bản pháp quy, thực hiện chính sách kinh doanh tiền tệ - tín dụng và các văn bản hướng dẫn thực hiện đầy đủ, chi tiết, dễ hiểu và nội dung mang tính thuyết phục cao, phù hợp với các luật, pháp lệnh và quy chế liên quan.
- Tổ chức học tập, triển khai bộ luật Ngân hàng, các văn bản hướng dẫn và các văn bản pháp quy khác, ngoài ra, để lập hành lang pháp lý cho việc huy động vốn và sử dụng vốn của Ngân hàng thương mại nói chung, tạo điều kiện cho sự phát triển của việc sử dụng séc và công cụ thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng. Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu để ban hành các văn bản pháp quy như pháp lệnh về phát hành và sử dụng séc, luật hối phiếu, thương phiếu để bảo vệ quyền lợi của các bên trong quan hệ thanh toán.
3.2.1.2. Đối với NHCT Việt Nam.
NHCT Việt Nam cần sớm được hoạch định một chính sách tạo vốn, coi chiến lược huy động vốn là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Tiếp tục mở rộng hình thức huy động vốn bằng kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích, hình thức này đã thực hiện mấy năm gần đây và đang phát huy tốt tác dụng, thay thế dần hình thức tiết kiệm truyền thống.
NHCT là một trong bốn Ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất ở nước ta, có lợi thế hơn các Ngân hàng thương mại khác là có mạng lưới rộng khắp và trải đều trên khắp mọi miền của đất nước.
Vì vậy NHCT Việt Nam có thể làm các loại dịch vụ cho Kho bạc Nhà nước như: Dịch vụ bán tín phiếu Kho bạc Nhà nước, chi trả tiền mặt... Đây không chỉ là làm dịch vụ hưởng hoa hồng mà còn là tiền đề để thực hiện phát triển thị trường mở với Ngân hàng thương mại khi có dự trữ bằng tín phiếu kho bạc Nhà nước, có thể chiết khấu Ngân hàng TW khi cần thiết.
Cần xúc tiến các hình thức huy động tiền gửi có kỳ hạn một năm trở lên trước mắt là 3 đến 5 năm với các hình thức khác nhau.
Đầu tư vốn và kỹ thuật nhằm hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng như trang bị máy vi tính, cải tiến phương thức thanh toán trong nước và ngoài nước đối với các Ngân hàng cấp tỉnh và huyện, thị.
NHCT Việt Nam cần có chính sách huy động vốn đa dạng, hấp dẫn được nhiều nguồn vốn. Ngân hàng nên thực hiện hình thức tiền gửi một nơi lĩnh ở nhiều nơi, thực hiện hình thức khách hành có thể rút tiền tiết kiệm qua hệ thống thanh toán hiện đại. Cần thực hiện chế độ lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm linh hoạt phù hợp với từng thời kỳ, từng địa bàn, từng nơi Ngân hàng đặt trụ sở làm việc.
Do trình độ dân trí hiện nay chưa cao, thủ tục tiền gửi và rút tiền ra các Ngân hàng còn phức tạp do đó cần nghiên cứu để đơn giản hoá các giấy tờ sao cho phù hợp với tình hình chung hiện nay.
Đề nghị NHCT Việt Nam cần tạo nguồn vốn để tăng cường đầu tư trung và dài hạn giúp các ngành kinh tế đổi mới kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, mở rộng sản xuất để tạo thị trường đầu tư vốn cho tương lai. Cần có chính sách ưu đãi về tín dụng, thanh toán đối với các doanh nghiệp có gửi vốn nhiều ở Ngân hàng. Điều hoà vốn kịp thời từ nơi thừa đến nơi thiếu vốn, phát huy lợi thế các Ngân hàng hoạt động ở điều kiện huy động vốn thuận lợi để đưa về nông thôn đáp ứng yêu cầu sản xuất góp phần đổi mới kinh tế nông nghiệp nông thôn.
3.2.1.3. Đối với NHCT Bãi cháy.
Trong những năm qua NHCT Bãi Cháy đã đạt được những kết quả đáng kích lệ trong việc huy động vốn các tổ chức kinh tế và tầng lớ dân cư. Để có nguồn vốn huy động trên địa bàn ngày càng tăng trưởng, phục vụ cho việc đầu tư phát triển kinh tế, xã hội và tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đạt hiệu quả cao NHCT.
+ Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, mở rộng mạng lưới huy động đến từng xã nhằm khai thác triệt để tiềm năng trong dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội. Thực hiện có hiệu quả phương châm “Đi vay để cho vay” theo cơ chế địa thị trường.
- áp dụng công nghệ Ngân hàng tiên tiến: Nhất là khâu thanh toán nghiên cứu để áp dụng phương thức gửi một nơi lấy ở nhiều nơi. Tạo điều kiện thuận lợi thu hút khách hàng tới mở tài khoản thanh toán qua Ngân hàng, bằng cách thủ tục chuyển tút tiền, xử lý các nghiệp vụ chính xác ứng dụng tốt các điều kiện kỹ thuật thì Ngân hàng sẽ ngày càng được lòng tin với khách hàng.
- Đối với các loại tiền gửi trên tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi vãng lai. Ngân hàng nên dành cho khách hàng điều kiện phục vụ tốt nhất, phải thường xuyên teo dõi những biến động trên tài khoản tiền gửi khkách hàng để rút ra được những qui luật vận động cảu vốn. Giúp khách hàng sử dụng vốn có hiệu quả cao, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng phát triển.
+ Vận dụng linh hoạt cách chính sách huy động vốn TW, động viên khuyến khích khách hàng duy trì số dư tài khoản với thời hạn dài hơn ban đầu.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, Ngân hàng cần hiểu rõ lợi ích của Ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của khách hàng, vào lợi ích tiền gửi. Vì vậy Ngân hàng phải có chính sách khách hàng đúng đắn : Đó là thu hút được nhiều khách hàng, duy trì và mở rộng khách hàng truyền thống, đảm bảo lợi ích cho cả Ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng cần chủ động tham gia xem xét các kế hoạch chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giúp đỡ doanh nghiệp khắc phục những khó khăn, yếu kém, tạo mối quan hệ lâu dài. Ngân hàng cần chia khách hàng ra làm nhiều để có cách đối xử cho phù hợp. Những kháh hàng lâu năm, có số dư tiền gửi lớn, được Ngân hàng tín nhiệm tdhì Ngân hàng nên có chính sách ưu tiên lãi suất, kỳ hạn món vay cũng như việc xét thưởng. Bên cạnh đó Ngân hàng phải thường xuyên mở hội nghị khách hàng nhằm làm cho họ hiểu rõ lợi ích của các dịch vụ Ngân hàng qua đó nắm bắt được yêu cầu của từng đối tượng, đi sâu nắm bắt tâm lý xã hội, từ đó có các kế hoạch cho việc huy động và sử dụng nguồn cốn của Ngân hàng mình đem lại hiệu quả hơn.
+ Không ngừng mở rộng và nâng cao chất lượng của hoạt động tín dụng, nghiên cứu mở rộng thị trường tín dụng cả về quy mô và chất lượng nhằm tăng thêm sản phẩm bán ra, tạo nguồn thu tăng lợi nhuận trong kinh doanh.
+ Thực hiện tốt công tác thông tin tuyên truyền, làm cho mọi người hiểu về Ngân hàng và hoạt động của Ngân hàng, từ đó họ có thể lựa chọn các hình thức gửi tiền thích hợp.
+ Không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, đổi mới tác phong, lề lối làm việc, phục vụ khách hàng một cách vui vẻ, hoà nhã, trang bị công nghệ hiện đại đáp ứng được yêu cầu đổi mới của ngành và của nền kinh tế.
3.3. Những đề xuất đối với việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng:
3.3.1. Tài khoản tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế:
Hiện nay hầu như với Ngân hàng thương mại ở nước ta đều tách biệt hoàn toàn nghiệp vụ thanh toán bằng 2 loại tài khoản cho vay và tài khoản thanh toán .
+ Đối với tài khoản cho vay : Có thể cho vay theo món. Tức hình thức cho vay theo số dư hoặc cho vay luân chuyển. Còn đối với tài khoản tiền gửi thanh toán thì luôn luôn dư có nghĩa là đơn vị chỉ được cung cấp dịch vụ thanh toán khi còn số dư tiền gửi vào trong phạm vi số dư mà thôi. Nếu phát hành quá số dư sẽ bị phạt 10% trên số tiền quá số dư. Làm như vậy là chặt chẽ đảm bảo sự an toàn cho Ngân hàng. Nhưng hình thức tài khoản thiếu linh hoạt, không thoả mãn nhu cầu sử dụng của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Mặt khác chúng ta đều biết nguồn vốn tiền gửi thanh toán là nguồn vốn với lãi suất đầu vào thấp, hiện tại chỉ 0,7 - 0,75% nếu Ngân hàng nào có nguồn vốn này lớn, ổn định vững chắc sẽ có cơ hội sử dụng cho vay ngắn hạn, thậm chí trung hạn với lãi suất cao. Vì vậy Ngân hàng nghiên cứu cải tiến loại tài khoản này cho thích hợp hơn.
- áp dụng tài khoản thanh toán thấu chi theo hạn mức, chúng ta biết mục đích cơ bản của các doanh nghiệp mở tài khoản và sử dụng là nhận dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt thu hộ, chi hộ sao cho an toàn, nhanh chóng thuận tiện. ở nước ta tiền gửi trên tài khoản trước đây không trả lãi và cung cấp dịch vụ thanh toán miễn phí. Khi chuyển sang kinh tế thị trường để phân minh, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi trên tài khoản này nhưng thu phí thanh toán .
Nhưng hiện nay, do nghiêm cấm phát hành quá số dư nên có khi không đảm bảo thanh toán kịp thời mà bù lỗ cơ hội kinh doanh vì tạm thời số dư chưa đảm bảo thanh toán. Chính vì vậy theo ý kiến chúng tôi các Ngân hàng nên nghiên cứu phân loại khách hàng, đối với khách hàng từng quan hệ lâu dài, tài chính và kinh doanh lành mạnh chấp hành tốt các quan hệ với Ngân hàng thì Ngân hàng có thể cho phép sử dụng vượt quá số dư tiền gửi đến một hạn mức nhất định gọi là hạn mức thấu chi và số tiền thấu chi được xem như một khoản vay nóng cho nhu cầu thanh toán. Tuy nhiên giữa doanh nghiệp và Ngân hàng cần thoả mãn ký hợp đồng quy định trách nhiệm nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên rõ ràng về mặt kinh tế và pháp lý. Nếu vì nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan vượt quá cả hạn mức thì áp dụng chế tài phạt quá hạn mức .
Cải tiến tài khoản thanh toán như vậy sẽ hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh thuận lợi hơn. Nhưng cũng cần cảnh tỉnh những doanh nghiệp kinh doanh không lành mạnh do mở tài khoản ở nhiều Ngân hàng và thấu chi tràn lan .
3.3.2. Cải tiến hình thức tài khoản đối với tiền gửi của dân cư :
Xưa nay người dân chưa quen biết và sử dụng tài khoản bao giờ họ chỉ quen gửi tiền tiết kiện dưới hình thức thẻ tiết kiệm hoặc sổ tiết kiệm mà thôi . Huy động nguồn vốn của dân cư như vậy có nhiều hạn chế như chúng ta đã phân tích ở chương II. Nhằm khắc phục những hạn chế và tồn tại đã nêu. ở phần này chúng tôi kết hợp lý luận với kinh nghiệm ở một số nước mạnh dạn đề xuất một số điểm sau :
3.3.3. Đối với tài khoản tiền gửi tiết kiệm của dân cư:
Là tài khoản được mở và sử dụng cho mọi người dân muốn tiết kiệm để dành tiền an toàn và kiếm được lợi tức. Khi kinh tế phát triển thu nhập của người dân cao, mức tiết kiệm tích luỹ để dành nhiều thì đây là một nguồn vốn lớn và ít khi biến đổi đột ngột trừ khi lạm phát phi mã. Hiện nay thu nhập bình quân đầu người ở nước ta thấp, nhưng họ thường có thói quen tiết kiệm dự phòng nhưng không phải tất cả mọi người dân đã gửi vào tài khoản tiết kiệm vì một phần do họ sợ mất giá và một phần Ngân hàng chưa đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt nhanh chóng. Cho nên Ngân hàng nên tích cực cải tiến đảm bảo dự trữ tiền mặt, sẵn sàng chi trả, gửi một nơi rút ở nhiều nơi.
Đối với dân cư nên tạo cho họ hai loại tài khoản cho hai khoản tiết kiệm: tiết kiệm không kỳ hạn và tiết kiệm có kỳ hạn với mục đích tích luỹ để dành và kiếm lời. Thực tế khi Ngân hàng muốn huy động nguồn vốn có kỳ hạn của dân cư thường phát hành kỳ phiếu có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 1 năm. Nhưng để thoả mãn nhu cầu tiết kiệm thường xuyên tích luỹ dần nên chăng Ngân hàng cần mở cho người dân một tài khoản tiết kiệm theo hợp đồng dài hạn để họ tiết kiệm để dành nhằm mục đích tích luỹ mua tiện nghi đắt tiền như ô tô hoặc nhà cửa và khi họ đã để dành được khoảng 2/3 số tiền, họ cần có thể cho họ vay với lãi suất ưu đãi sẽ khuyến khích họ mở và sử dụng loại tài khoản này và tài khoản này mang lại nguồn vốn ổn định vững chắc để Ngân hàng có thể cho vay trung, dài hạn đối với các doanh nghiệp. Còn khoản tiết kiệm không kỳ hạn thì nên mở cho họ một tài khoản tiền gửi cá nhân.
3.3.4. Chuyển tiền gửi tiết kiệm dưới dạng thẻ sang hình thức tài khoản tiền gửi có kỳ hạn cho dân cư:
Vì mục đích của các khoản tiền gửi này là kiếm lời và để giành tích lũy nên có thể Ngân hàng tiếp tục cải tiến thành tiền gửi tích luỹ dài hạn theo hợp đồng với lãi suất hấp dẫn, để tạo ra nguồn vốn trung hạn của ngân hàng đem cho vay. Huy động vốn thông qua các sản phẩm tiền gửi dài hạn để người dân gắn bó với ngân hàng.
Hơn nữa hai bên có thể thoả thuận khi khách hàng đã tích luỹ đến một mức nào đó thì sẽ được ngân hàng cho vay bổ sung để thoả mãn nhu cầu của khách hàng như tậu ôtô, hoặc nhà đất ... Tuy nhiên ngân hàng cần điều tra thận trọng thu nhập của khách hàng mới tiết kiệm để phòng ngừa rủi ro lừa đảo và đánh giá được khả năng trả nợ và có sự ràng buộc pháp lý đảm bảo tín dụng .
3.3.5. Mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân và dịch vụ thanh toán trong dân cư :
Hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh nước ta tuy có mở những chi nhánh tới từng quận huyện, nhưng quy mô thực tế còn hạn hẹp vì những tiện nghi ngân hàng còn nghèo nàn về công cụ cũng như về hình thức. Vì vậy dân cư vẫn chưa tiếp cận và hưởng dụng những tiện nghi đó một cách rộng rãi. Phương thức thanh toán trong các tầng lớp dân cư hiện nay phổ biến là thanh toán tiền mặt trực tiếp trao tay, lượng giao dịch thanh toán của dân cư qua các ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng thấp, có một số nguyên nhân dẫn đến hệ quả trên.
Một thời gian dài sống trong nền sản xuất hàng hoá nhỏ tạo cho các tầng lớp dân cư tâm lý ưa thích tiền mặt khi giao dịch muốn sở hữu ngay cầm chắc trong tay số tiến thanh toán đã có được.
Hoạt động thanh toán của ngân hàng thương mại chưa được xã hội hoá các tiện nghi thanh toán của các ngân hàng thương mại hiện nay đã ở trong trạng thái sẵn sàng cung cấp, nhưng chưa biết, chưa quen, chưa phổ cập nên dân cư chưa có nhu cầu đến ngân hàng thương mại để sử dụng các tiện nghi thanh toán để dành sẵn cho mình.
Để nâng cao tỷ trọng thanh toán qua ngân hàng thì cũng chính là tăng tài khoản tiền gửi dân cư có một số giải pháp sau:
- Ngân hàng thương mại nên mở các tài khoản tiền gửi qua đêm.
- Phát hành séc thanh toán cá nhân có đảm bảo chi trả của ngân hàng thương mại. Đây là sản phẩm thanh toán đã tồn tại từ lâu trong nền kinh tế thị trường, trong điều kiện hiện nay mức thu nhập của một bộ phận dân cư đã được nâng cao, nhu cầu giao dịch thanh toán cá nhân ngày càng tăng đòi hỏi ngành ngân hàng cần nhanh chóng đưa vào áp dụng séc thanh toán cá nhân có bảo đảm chi trả của ngân hàng thương mại.
- Triển khai dịch vụ thẻ tín dụng máy rút tiền tự động ATM. Hiện nay đã có hai ngân hàng thương mại trong nước ( Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng cổ phần á Châu ) đã đưa vào sử dụng thẻ tín dụng nội địa tại các thành phố lớn với các phương tiện phục vụ thanh toán thẻ, hình thức thanh toán này bước đầu đã phát huy hiệu quả cung cấp nhiều tiện nghi cho một bộ phận khách hàng có thu nhập cao. Để làm được nghiệp vụ thanh toán thẻ thì ngân hàng thương mại cần nhanh chóng đầu tư và ứng dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực thanh toán ngân hàng.
- Thực hiện dịch vụ chi trả tiền lương cán bộ công nhân viên chức qua ngân hàng. Hiện nay tại một số doanh nghiệp trả lương cao cho nhân viên có xuất hiện nhu cầu doanh nghiệp nhờ ngân hàng thương mại trích tài khoản tiền gửi trả lương hộ cho công nhân viên theo danh sách, công nhân viên có nhu cầu để dành một phần tiền lương gửi vào tài khoản cá nhân còn một phần có nhu cầu thanh toán các khoản chi phí điện, nước, bảo hiểm, theo định kỳ. Ngân hàng có thể tiếp cận các doanh nghiệp để thực hiện các dịch vụ này tạo thói quen sử dụng các dịch vụ của ngân hàng.
- Tổ chức tốt mạng lưới rộng rãi thu nhận và chi trả tiền gửi, tổ chức chuyển tiền đi - đến một cách thuận lợi nhanh chóng, chính xác.
- Phát huy nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng nhất là việc tổ chức thu nhận và chi trả nhiều giờ trong ngày ở hầu hết các ngày nghỉ để đảm bảo dòng chẩy của tiền qua quỹ ngân hàng được liên tục.
- Cần phải có cơ chế sử dụng lãi suất linh hoạt việc duy trì lãi suất tiền gửi cạnh tranh với các ngân hàng khác đã trở nên cực kỳ quan trọng trong việc thu hút các khoản tiền gửi mới và duy trì tiền gửi hiện có.
- Nên chăng trước mắt cung cấp dịch vụ thanh toán miễn phí cho người dân để họ hăng hái mở và sử dụng tài khoản cá nhân làm quen với các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán miễn phí vừa được hưởng lãi nên họ tranh thủ cơ hội ngay, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền quảng cáo, giới thiệu các dịch vụ thanh toán đến từng nhóm dân cư giúp dân cư có thông tin làm quen
-Khuyến khích người dân mở tài khoản tiền gửi tức là giảm chi cho dịch vụ thanh toán trong nền kinh tế và chi phí về phát hành tiền.
-Góp phần phục vụ tốt công tác điều hoà cung ứng tiền của ngân hàng trung ương.
- Cán bộ công nhân viên ngân hàng hưởng ứng chủ trương của ngành đã mở tài khoản cá nhân, nhân tiền lương vào tài khoản nhưng thường rút ngay ra để chi tiêu bằng tiền mặt vì thu nhập còn thấp hoặc chuyển sang tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn lãi suất cao hơn.
Với các biện pháp trên, tôi tin rằng chỉ một thời gian chúng ta sẽ nâng cao được lòng tin và sự hiểu biết của người dân đối với hệ thống Ngân hàng. Đồng thời Ngân hàng cũng nâng cao được chất lượng và mở rộng các loại hình dịch vụ của mình, qua đó có thể huy động được một lượng lớn tiền mặt trong dân chúng.
3.3.6. Tiếp tục nghiên cứu thí điểm để hoàn thiện đề án “gửi một nơi, lĩnh một nơi”.
Ngân hàng nên mở rộng phạm vi áp dụng hình thức gửi tiền một nơi có thể rút ở nhiều nơi. áp dụng được hình thức này sẽ tiết kiệm được tính năng động của Ngân hàng. Biện pháp này cũng góp phần điều hoà được lượng khách hàng ở các quầy tiết kiệm tránh tình trạng chờ đợi mất thời gian. Dịch vụ tạo điều kiện thuận lợi, tâm lý thoải mái cho khách hàng, tăng thêm sức hấp dẫn cho hình thức tiền gửi tiết kiệm. Nghiệp vụ này đòi hỏi Ngân hàng phải thay đổi các mẫu sổ tiết kiệm để khi Ngân hàng chi trả có thể phân biệt được sổ thật hay sổ giả hoặc có thể kiểm tra, đối chiếu thuận tiện, dễ dàng qua điện thoại hoặc qua mạng vi tính Ngân hàng, nhằm tránh phiền hà cho khách hàng. Hơn nữa để nghiệp vụ này thực hiện được tốt thì đòi hỏi Ngân hàng phải trang bị máy vi tính cho các quỹ tiết kiệm và các cán bộ Ngân hàng làm nghiệp vụ này phải có trình độ. Điều này tuy khó thực hiện vì phải đầu tư vốn nhiều vào chính sách vật chất và đào tạo các cán bộ nhân viên nhưng toàn ngành đã có kế hoạch triển khai mạnh mẽ trang thiết bị máy móc kỹ thuật hiện đại nên việc mở rộng phạm vi thực hiện dịch vụ “gửi tiền một nơi, lĩnh ở nhiều nơi” là hoàn toàn có thể thực hiện được. Trên chính sách khắc phục những khó khăn trong quản lý theo dõi số dư, giảm chi phí về giấy tờ, nhân công, cước bưu điện, những hạn chế về điểm giao dịch, đối tượng phục vụ ./.
Kết luận
Kinh tế thị trường là kinh tế cạnh tranh. Thị trường là chiến trường, tiền tệ là phương tiện, khách hàng là ân nhân, lợi nhuận là mục đích. Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp hoạt động trên thị trường vốn tiền tệ tạm thời nhàn dỗi, nguồn vốn tự có là tiền đề, nguồn vốn huy động là chủ yếu. Vì vậy, vấn đề khách hàng và nguồn vốn tiền gửi là vấn đề quan trọng sinh tử đối với kinh doanh ngân hàng. Muốn thu hút khách hàng, muốn thâm nhập, giành giật thị trường, muốn giá tăng nguồn vốn tiền gửi vững chắc và ổn định. Ngân hàng phải không ngừng cải tiến quản trị kinh doanh, nâng cao uy tín, chất lượng và hiệu quả với hàng loạt biện pháp quản lý, kiểm soát, kỹ thuật nghiệp vụ như: Xác lập duy trì hệ thống chỉ tiêu an toàn kinh doanh Ngân hàng như các quy chế bảo vệ khách hàng gửi tiền và đảm bảo an toàn, chất lượng và hiệu năng của tài sản có và một trong những vấn đề quan trọng mà chuyên đề này đề cập tìm hiểu nghiên cứu đề xuất là các loại tài khoản tiền gửi của khách hàng. Các loại tài khoản nay được coi là những sản phẩm dịch vụ do Ngân hàng tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu và mục đích gửi tiền của mọi thể trong nền kinh tế thị trường từ doanh nghiệp với hộ gia đình và từng cá nhân ./.
Quảng Ninh , ngày tháng 12 năm 2001danh mục Tài liệu tham khảo
1. Tạp chí lý luận và nghiệp vụ Ngân hàng 1996-200 .
2. Tạp chí thông tin khoa học Ngân hàng năm 1996 - 2000 .
3. Giáo trình hạch toán kế toán và xử lý thông tin Ngân hàng TTĐT và NCKHNN Hà Nội - 1998
4. Tiền tệ và NHCN xuất bản thành phố Hồ Chí Minh 1992 .
5. Công nghệ Ngân hàng và thị trường tiền tệ - NXBTH Hà Nội .
6. Hệ thống tài khoản kế toán Ngân hàng công thương vn 1999.
7. Kế toán và các nghiệp vụ Ngân hàng thương mại NXB TPHCM 1995.
8. Tín dụng và thanh toán quốc tế - Trường CCN VNH Hà Nội .
9. Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính - SMISHKEN 1994 .
10. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2000 và phương hướng 2000 .
11. Báo cáo tổng kết hoạt động Ngân hàng năm 1999 .
Xác nhân của cơ quan nơi thực tập
Lời cam kết:
Tôi xin cam đoan đây là luận văn riêng của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực.
Xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập.
Người viết luận văn
Nguyễn Ngọc Lan Anh
Nhận xét của người phản biện
Họ và tên :
Chức vụ :
Nhận xét luận văn của sinh viên : Nguyễn Ngọc Lan Anh
Lớp : 27A
Tên đề tài:
Cải tiến mở và sử dụng các loại tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28191.doc