MS: LVVH-VHVN010
SỐ TRANG: 101
NGÀNH: VĂN HỌC
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
NĂM: 2007
CẤU TRÚC LUẬN VĂN
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
2. Lịch sử vấn đề:
3. Mục đích nghiên cứu:
4. Đối tượng nghiên cứu:
5. Phạm vi nghiên cứu:
6. Nhiệm vụ nghiên cứu:
7. Các phương pháp nghiên cứu:
8. Cấu trúc luận văn:
CHƯƠNG 1: VỀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1. Về khái niệm cảm hứng và cảm hứng lịch sử.
1.1.1. Về khái niệm cảm hứng và cảm hứng chủ đạo.
1.1.2 Cảm hứng lịch sử:
1.2 . Về đặc trưng tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử.
1.2.1. Khái niệm tiểu thuyết
1.2.2. Khái niệm tiểu thuyết lịch sử
1.3. Hướng tiếp cận, lý giải cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng.
1.3.1 Nhân tố khách quan.
1.3.2 Nhân tố chủ quan: Cuộc đời, con người và sự hình thành khuynh hướng sáng tác nghiêng về cảm hứng lịch sử.
CHƯƠNG 2:NHỮNG CHẤT LIỆU CHỦ YẾU CỦA CẢM HỨNG LỊCH SỬ TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN HUY TƯỞNG.
2.1. Quan niệm về cảm hứng lịch sử qua bốn tiểu thuyết:
2.1.1. Mối quan hệ giữa hiện thực và sáng tạo trong loại hình tiểu thuyết lịch sử.
2.1.2. Nhận diện cảm hứng lịch sử ở nhà văn Nguyễn Huy Tưởng
2.2 Những chất liệu lịch sử khơi nguồn cảm hứng.
2.2.1 Đề tài.
2.2.2 Sự kiện.
2.2.3 Nhân vật.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ NGUYỄN HUY TƯỞNG
3.1. Sự kết hợp giữa tiểu thuyết và lịch sử.
3.2. Cảm hứng lịch sử một nét phong cách đã sớm định hình trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng.
3.3. Con người lịch sử - kiểu nhân vật đặc thù trong văn xuôi nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng.
3.4. Không gian lịch sử.
3.5. Những thời điểm, giai đoạn lịch sử có nhiều biến động dữ dội mạnh mẽ với Đêm hội Long Trì, An Tư, Sống mãi với thủ đô, Lá cờ thêu sáu chữ vàng
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
101 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3896 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bỏ tinh thần Việt Nam”. Năm hai mươi tuổi trong nhật ký của
mình ông đã viết nên những câu chữ đáng coi là một châm ngôn sâu sắc: “Người không biết
lịch sử nước mình là một con trâu đi cày ruộng. Cày với ai cũng được, mà cày ruộng nào
cũng được” [14]. Từ những tâm huyết đó, ông đã có ý thức muốn sáng tác tiểu thuyết lịch
sử để bồi dưỡng và khích lệ lòng yêu nước, ý thức tự tôn tự hào dân tộc, nêu cao tinh thần
trách nhiệm của mỗi người dân đối với vận mệnh của nước nhà trong những lúc nguy nan,
cố gắng đưa người đọc nhập cuộc, tin tưởng vào cuộc đấu tranh cho nền độc lập dân tộc,
bằng cách đưa họ tìm về với truyền thống vẻ vang của cha ông. Và để đi tìm sức mạnh, tìm
con đường giải thoát cho dân tộc ông đã “vùi đầu trong đống sách lịch sử để lấy cái vinh
quang của cha ông mà bồi dưỡng lòng tự hào dân tộc cho mình. Tôi chuẩn bị viết văn để ca
ngợi lịch sử, ca ngợi dân tộc, kích động lòng yêu nước của đồng bào” [14]. Đó là động lực
tinh thần cơ bản thúc đẩy Nguyễn Huy Tưởng viết tiểu thuyết lịch sử.
Như vậy ,với một trí thức yêu nước, có tinh thần dân tộc như Nguyễn Huy Tưởng thì
viết tiểu thuyết lịch sử như là một tất yếu khách quan xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống
dân tộc. Hơn nữa, trong hoàn cảnh mất nước của những năm đầu thế kỷ XX, trong sự kiểm
duyệt khắt khe của chế độ thực dân Pháp đối với những sáng tạo nghệ thuật thì không còn
cách nào hơn là mượn chuyện đời xưa để nói bóng gió chuyện ngày nay.Nguyễn Huy
Tưởng đã tái hiện lại quá khứ vẻ vang của dân tộc để nhắc nhở hậu thế đừng quên cái nhục
mất nước và đừng quên trách nhiệm của mình trước vận mệnh sống còn của dân tộc. Vì thế
tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng chính là thái độ dấn thân, nhập cuộc hết sức tích
cực của nhà văn. Ở đó ông vừa trình bày những quan niệm của mình về lịch sử, vừa gửi
gắm những suy tư chiêm nghiệm về con người, về cuộc đời, về thời đại. Tiểu thuyết lịch sử
của ông là sự nối liền giữa quá khứ và hiện tại.
Khi sử dụng chất liệu lịch sử trong tác phẩm, mỗi nhà văn thường hướng tới một mục
đích riêng và thể hiện một quan điểm riêng. Có nhà văn coi việc tái hiện chính xác lịch sử
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
làm mục đích của tiểu thuyết như Lan Khai nhưng cũng có nhà văn chỉ giả vờ mượn chiếc
vỏ lịch sử cho “trò chơi” độc đáo của mình như Nguyễn Huy Thiệp. Với Nguyễn Huy
Tưởng thì khác hẳn, “Một mặt anh trung thành với lịch sử nhưng một mặt anh vẫn phát huy
vai trò sáng tạo của mình” [77,tr 121].Nghĩa là nhà văn vừa coi trọng yếu tố lịch sử lại vừa
coi trọng yếu tố tiểu thuyết, sử dụng một cách nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa lịch sử và hư
cấu nghệ thuật, tạo nên những” Tác phẩm bề thế, có một dáng dấp ổn định và chững chạc”
(Vũ Tuấn Anh}. Coi trọng yếu tố lịch sử là để làm thành một thứ vũ khí tinh thần hữu hiệu
nhằm vào thực tại xã hội, đánh thức nhân tâm và cổ vũ lòng người, ưu tiên chất tiểu thuyết
là để đi sâu khám phá mọi ngõ ngách sâu kín trong tâm hồn và tính cách của nhân vật -
những ngõ ngách đã bị lịch sử bỏ qua,từ đó nhà văn đã lãng mạn hóa, đời thường hóa một
số nhân vật lịch sử, tạo ra một cái nhìn đa chiều về đời sống. Lịch sử không phải là cái gì
diễn ra một cách xác định để nhà văn kể lại cho bạn đọc nghe và cho lời phán xét cuối cùng.
Lịch sử phải được soi chiếu từ nhiều phía. Các nhân vật lịch sử không đơn thuần là những
tượng đài “đơn nghĩa”, như một tấm gương tối hoặc sáng như trong định kiến của các sử gia
phong kiến hay trong cách đánh giá của nhiều nhà tiểu thuyết lịch sử trước đó. Trong thời
kỳ 1930 - 1945, một số nhà văn lãng mạn Việt Nam khi viết tiểu thuyết lịch sử để làm nơi
trốn tránh thoát ly [77,tr.118] như Khái Hưng (Tiêu Sơn tráng sĩ), Nguyễn Tế Mỹ (Hai bà
Trưng khởi nghĩa)... Giá trị hiện thực của những tác phẩm tiểu thuyết lịch sử này rất mờ
nhạt. Như trên đã nói, Nguyễn Huy Tưởng một mặt ưu tiên chất tiểu thuyết, mặt khác lại rất
tỉ mỉ và khắt khe đối với các chi tiết lịch sử. Đây là công việc mới nhìn tưởng đơn giản,
nhưng lại đòi hỏi rất nhiều công phu của nhà văn khi tái tạo lại chất liệu lịch sử vốn khô
cứng trong quá khứ đã xa, nhào nặn chúng theo ý đồ nghệ thuật của mình. Đồng thời nhà
văn sẽ phát huy được sở trường nếu lợi dụng được mối quan hệ “quen biết” của người đọc
với lịch sử để tạo nên hiệu quả tối ưu. Trong quá trình viết tiểu thuyết lịch sử, Nguyễn Huy
Tưởng luôn lấy “sự thực” làm gốc, nhưng nhà văn không bê nguyên xi lịch sử mà chỉ chọn
một sự việc, một chi tiết nào đó rồi hư cấu tưởng tượng thêm rất nhiều để tạo thành tác
phẩm. Trong tác phẩm Đêm hội Long Trì, tác giả chỉ chọn một chi tiết điển hình trong một
đêm để xây dựng thành kết cấu câu chuyện. Hay trong tác phẩm An Tư, tác giả lại chọn
mối tình tan vỡ của nàng công chúa An Tư với Chiêu Thành Vương Trần Thông để xây
dựng cốt truyện, dẫn dắt người đọc đến tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm và những chiến
thắng lẫy lừng của quân dân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
lược. Chính điều này đã làm cho tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng giảm đi tính
chất lịch sử, tính sử thi và tăng thêm tính chất tiểu thuyết nhiều hơn. Vì thế các tác phẩm
của ông có sức hấp dẫn đối với người đọc của thời hiện đại và cũng mang hơi thở đậm đà
của cuộc sống hơn. Và như thế “Bản thân lịch sử đã được tái hiện một cách nghệ thuật
hơn”. Nó là lời “thông báo thời sự” được khoác bộ áo lịch sử. Lịch sử với tư cách là chất
liệu nghệ thuật trong tiểu thuyết tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng đã được dùng
như một thứ vũ khí hữu hiệu nhất để chuyển tải tư tưởng của nhà văn.
Nhận xét về tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng, nhiều nhà nghiên cứu đã
khẳng định chính xác : “Nguyễn Huy Tưởng đã rất nghiêm túc, bám sát chính sử, tôn trọng
các sự kiện chính của lịch sử” (Hà Minh Đức), “Anh tỏ ra khá trung thành với tinh thần của
các thời đại quá khứ xa xưa” (Phan Cự Đệ), “Tác giả nghiền ngẫm từng chi tiết lịch sử để
chuyển hóa vào tiểu thuyết” (Lại Nguyên Ân)... Thực ra đây cũng là điều mà nhiều nhà văn
viết tiểu thuyết lịch sử trước Nguyễn Huy Tưởng cũng đã làm được, cũng đã thành công.
Tuy nhiên mỗi người có một cách thức “chế biến” riêng. Ở Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn đã
kết hợp hài hòa giữa yêu cầu chính xác về mặt sử liệu với sự phóng khoáng bay bổng trong
hư cấu tự do thể hiện ở một số phương diện như cảm hứng chủ đạo, không gian lịch sử,
nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử.
3.2. Cảm hứng lịch sử một nét phong cách đã sớm định hình trong tiểu thuyết
Nguyễn Huy Tưởng.
Muốn sáng tạo nên những áng văn chương, những tác phẩm nghệ thuật,người nghệ sĩ
phải có cảm xúc, cảm hứng trong tâm hồn. Cảm hứng có vai trò vô cùng quan trọng trong
sáng tạo của nghệ sĩ. Không có cảm hứng, nhà văn không thể sáng tạo được những tác phẩm
có giá trị. L.Tônxtôi đã từng tâm sự với vợ rằng: “Không có xúc động thì nghề văn của
chúng ta không nhích lên được”. Chính cảm hứng của người nghệ sĩ sẽ làm nên tâm cái hồn
của tác phẩm. Cảm hứng càng cao, càng mãnh liệt, càng sâu sắc thì tác phẩm càng có giá trị
và người đọc càng yêu thích tác phẩm. Yếu tố cảm hứng có vai trò vô cùng quan trọng trong
việc hình thành chủ đề của tác phẩm: “Khi tư tưởng người viết không dứt khoát, không rõ
ràng, không mãnh liệt thì không thể nào thổi bùng lên ngọn lửa chủ đề tư tưởng của tác
phẩm dự định viết” (Nguyễn Minh Châu )
Cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật là một tình cảm mạnh mẽ mang tính tư tưởng. Nó
thể hiện phần tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Đó chính là sự ham muốn tích cực trong con
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
người của họ, thôi thúc họ hành động. Cảm hứng trong tác phẩm trước hết là sự đam mê.
Khẳng định chân lý, lý tưởng mà nhà văn theo đuổi hoặc phủ định những sự xấu xa tiêu cực
đối lập hoàn toàn với lý tưởng mà nhà văn ca ngợi trong cuộc sống. Nó được cụ thể hoá ở
thái độ của người nghệ sĩ, đồng tình ca ngợi nhân vật chính diện hay phê phán những hiện
tượng thấp hèn phi đạo đức...
Vì thế, cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm sẽ chi phối hệ thống nghệ thuật biểu hiện
cảm xúc của tác phẩm như việc lựa chọn đề tài, chủ đề, kết cấu và nghệ thuật xây dựng hình
tượng nhân vật. Nó “chính là năng lượng tình cảm của tác phẩm được tập trung nén lại chỉ
chờ độc giả để bùng cháy lên” [41.tr.141].
Mỗi một tác phẩm, thậm chí mỗi một thể loại văn học là một niềm say mê riêng, một
niềm cảm xúc riêng của tâm hồn nhà văn phản chiếu vào trong đó. Với Nguyễn Huy Tưởng,
tiểu thuyết lịch sử và kịch lịch sử cũng là những thể loại đã phản ánh những cảm hứng riêng
của ông.
Trong những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, xã hội phong kiến Việt Nam
đang bước nhanh trên con đường suy vong dẫn đến chỗ sụp đổ, nhường chỗ cho một chế độ
xã hội mới - chế độ thực dân nửa phong kiến ra đời: hoàn cảnh ấy đã làm lung lạc tinh thần
của người Việt Nam và đã dẫn tới “cái vạ chết lòng”. Tình trạng phi dân tộc, phản dân tộc
đã trở thành một nguy cơ, một thảm họa và để góp phần cứu vãn đời sống tinh thần của dân
tộc, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thời kỳ này đều có khuynh hướng ngợi ca truyền thống dân
tộc và đều qui tụ cảm hứng yêu nước, cảm hứng dân tộc. Tùy thuộc vào thế giới quan của
tác giả, có người tập trung ở cảm hứng yêu nước, có người thì mượn lịch sử để nêu gương
cho thế hệ mai sau và nhìn chung mọi vấn đề của cuộc sống đều quy chiếu về lịch sử. Sang
giai đoạn 1930-1945 văn học Việt Nam có thể chuyển dịch từ cảm hứng sử thi sang cảm
hứng thế sự, hướng mối quan tâm đến con người, điều đó đã tác động không nhỏ tới tiểu
thuyết lịch sử. Bà chúa chè của Nguyễn Triệu Luật viết về Đặng Thị Huệ trong phủ chúa
với “Những lỗi lầm, mưu mô và phản trắc, những ganh tị nhỏ nhen của hạng đàn bà không
hiểu được cảnh ngộ thê thảm của chính mình” [7,tr48]. Các tác phẩm này thường tập trung
thể hiện một cảm hứng chủ đạo,bởi vậy hệ thống nhân vật, cốt truyện, kết cấu tác phẩm đều
chịu sự chi phối của cảm hứng đó.
Tiểu thuyết An Tư của Nguyễn Huy Tưởng là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng. Ở
đây có niềm tự hào về những nét truyền thống của dân tộc trong cuộc giữ nước chống giặc
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
ngoại xâm của quân dân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân nguyên xâm lược.Tác
giả giành nhiều trang tâm huyết ca ngợi những sự kiện lịch sử lớn như Hội Nghị Diên Hồng,
hay cuộc hội quân ở bến Bình Than và những trận đánh lẫy lừng như Đông Bộ Đầu, Bạch
Đằng, Chương Dương, Vạn Kiếp... tất cả đã được Nguyễn Huy Tưởng tái hiện lại với một
niềm tự hào và lòng ngưỡng mộ chân thành: “Những chiếc thuyền cảm tử lao cả vào thuyền
giặc, lửa bốc lên ngùn ngụt và một vài tráng sĩ nhảy tót lên thuyền mới cháy, vung kiếm
sáng đánh quân thù, nhưng ngọn giáo lao trúng ngực, chàng ngã lăn xuống nước. Bốn
chiếc thuyền dẫn hỏa sau đi tới, chỉ trong nháy mắt, hàng thuyền đầu của giặc cháy bùng
lên, cả khúc sông cũng đỏ rực và lửa cháy tung hoành trên mặt sông. Trong bão đạn âm
vang tiếng hô “Sát Thát” [102, tr 429]. Cùng với sự kiện này, thu hút bút lực, tài hoa tâm
huyết của nhà văn hơn cả mối tình của nàng công chúa An Tư với Chiêu Thành Vương Trần
Thông, đặc biệt là số phận của nàng công chúa nhà Trần trong những giây phút nghiệt ngã
của lịch sử dân tộc. Trước những lẽ đời, lẽ người Nguyễn Huy Tưởng đã tìm thấy trong đó
sự lựa chọn đớn đau giữa hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc chung, giữa vận mệnh sống còn
của dân tộc với số phận của cá nhân con người, với những ngổn ngang, vò xé, khóc cười...
Tất cả đều đặt lên đôi vai bé nhỏ của người con gái nhà Trần. Sau cái bi tráng hào hùng lẫm
liệt của chiến thắng, của tự hào là cả một bi kịch của cá nhân con người, bi kịch của lịch sử.
Viết An Tư, Nguyễn Huy Tưởng bị ảnh hưởng sâu sắc cảm hứng lịch sử dân tộc song
cảm hứng này luôn đan cài và có sự kết hợp khá nhuần nhuyễn với cảm hứng nhận thức,
chiêm nghiệm lịch sử từ điểm nhìn hiện tại. Xuất phát từ cảm hứng thế sự kết hợp với cảm
hứng lịch sử dân tộc, tác giả đã đề cập đến vấn đề không phải riêng một thời đại nào mà có
ý nghĩa chung cho mọi thời đại: Số phận của cá nhân con người trong những biến động dữ
dội của lịch sử, để từ đó lý giải những hiện tượng phức tạp của lịch sử, đặt ra nhiều câu hỏi
để mọi người cùng suy nghĩ, nhận thức, đánh giá và kiến giải về lịch sử, về thời đại.
Trước An Tư, Nguyễn Huy Tưởng viết tiểu thuyết Đêm hội Long Trì. Đây là một tác
phẩm mang nguồn cảm hứng thế sự rõ nét nhất. Những éo le, rắc rối, nhố nhăng, phi lý và
phức tạp trong cuộc đời với những khổ đau, điêu đứng của con người do những thế lực đen
tối được tiếp tay dung túng từ những người cầm quyền trong xã hội thời vua Lê, chúa Trịnh.
Thế kỷ XVIII đã trở thành nguồn cảm hứng mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc cho nhà văn tài
hoa Nguyễn Huy Tưởng. Thông qua mối tình giữa Quỳnh Hoa và Bảo Kim, Trịnh Sâm và
Đặng Thị Huệ, thông qua hình tượng Đặng Lân, nhà văn đã phơi bày tất cả sự thực trần trụi
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
mà vô cùng sinh động về một xã hội với những lọc lừa, xảo trá, mưu mô và phản trắc bất
công, những tội ác và sự lộng hành... tất cả đã làm đảo lộn những kỷ cương phép tắc trật tự
trong xã hội. Xuất phát từ cảm hứng thế sự nhà văn đã giúp người đọc nhận thức, lý giải về
nguyên nhân sâu xa của những bất ổn trong xã hội. Nếu không có sự tiếp tay dung túng bao
che của những kẻ cầm quyền và những kẻ đứng sau đó thì không thể có một Đặng Lân “Cậu
Trời” ngang nhiên quây màn giữa đường phố bắt con gái nhà lành hãm hiếp, ngang nhiên
giết người, ngang nhiên tung hoành trong xã hội như vậy. Phải chăng đó cũng là câu hỏi
nhức nhói mà Nguyễn Huy Tưởng đã đặt ra cho chính thời đại mà chúng ta đang sống?
Cảm hứng lịch sử và cảm hứng thế sự trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Huy
Tưởng đã thể hiện sức mạnh của tiểu thuyết hiện đại: “luôn nhận thức lại”, đánh giá và kiến
giải lại đời sống. Đó chính là thành công và đóng góp quan trọng nhất của Nguyễn Huy
Tưởng trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam.
3.3. Con người lịch sử - kiểu nhân vật đặc thù trong văn xuôi nghệ thuật Nguyễn
Huy Tưởng.
Trong một cuốn tiểu thuyết lịch sử, nhân vật là nơi thử thách nhà văn nhiều nhất. Nhà
văn phải bồi da đắp thịt để phục sinh nhân vật từ một cái xác cứng đờ, thổi sức sống cho nó,
bắt nó phục vụ tư tưởng của mình. Nhân vật thành công là nhân vật không quá xa lạ với
người đọc, mà vẫn phù hợp với thời đại nhân vật sống.
Các nhà tiểu thuyết lịch sử Việt Nam chịu ảnh hưởng khá nhiều của Hoàng Lê nhất
thống chí, từ hệ thống tư liệu cho đến cảm hứng, nhân vật. Nhiều người đã khẳng định tính
chất tiểu thuyết của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí ở phương diện nghệ thuật xây dựng
nhân vật. Mặc dù đây là một tác phẩm sử biên niên nhưng không thể phủ nhận khả năng hư
cấu, tưởng tượng (thể hiện ở những chỗ nhà văn nhấn mạnh tính cách nhân vật, ở những chi
tiết, ở những lời đối thoại của nhân vật) đã tạo nên chất văn chương thực sự cho tác phẩm.
Các nhân vật được cá tính hóa và đã “Có những nhân vật mang dáng dấp của hình tượng
văn học như Đặng Thị Huệ”. Trong các tiểu thuyết lịch sử nước ta, nhiều nhân vật lịch sử
in đậm dấu ấn sáng tạo của nhà văn như Nguyễn Hữu Cầu trong Quận He khởi nghĩa, Ngô
Quyền trong Tiếng sấm đêm đông, Trần Hưng Đạo, Trần Khánh Dư trong Gươm thần
Vạn Kiếp, Nguyễn Huệ trong Sông Côn mùa lũ....
Trong tiểu thuyết An Tư của Nguyễn Huy Tưởng có mặt hầu hết những nhân vật quan
trọng thời Trần đã được sử sách nhắc đến như Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão, Trần
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
Quang Khải, Trần Quốc Toản, An Tư...nhà văn đã cân nhắc lại dung lượng miêu tả nhằm
khắc họa nổi bật tính cách và làm sáng rõ lý lịch của từng nhân vật. Chẳng hạn Trần Thông
trong Việt sử thông giám cương mục khi nhắc đến những người tham gia trận Hàm Tử
Quan có nói đến Chiêu Thành Vương nhưng không ghi rõ họ tên. Trong An Tư, Chiêu
Thành Vương được xây dựng thành một nhân vật đầy đặn có nguồn gốc xuất thân, có hình
dáng, tính cách và có cuộc sống cá nhân phong phú. Chiêu Thành Vương thuộc dòng dõi
quý tộc, có tên là Trần Thông, con của Khâm Thiên Đại vương Trần Nhật Hiệu. Và đạo
quân của Trần Thông lấy tên là Tịnh Cương (tên đội quân của Trần Nhật Hiệu tuyển ở làng
Tịnh Cương). Trần Thông là con người tinh thông võ nghệ, cơ thể cường tráng, là người
cương quyết, thông minh, hiếu thắng, ham đánh vật, bơi lội, săn bắn... tuy còn trẻ nhưng
thông minh đã là một viên tướng giỏi, tráng kiện và quả cảm. Trần Thông yêu An Tư với tất
cả đam mê cuồng nhiệt của tuổi trẻ. Một tình yêu đằm thắm, bồng bột mà sôi nổi, tự do
thoát hẳn ngoài luân lý của những đạo luật phong kiến hà khắc. Khi biết người yêu bị đem
đi cống nạp cho tướng giặc Thoát Hoan, chàng như cuồng dại, đau khổ tuyệt vọng, căm giận
cả Thượng Hoàng, hờn ghét Quốc Công và cả công chúa,ngay cả mình chàng cũng muốn
chết, chàng tìm đến cái chết. Nhưng tinh thần trọng kỷ luật cùng với sự an ủi động viên của
đoàn quân Tịnh Cương của Trần Quốc Toản đã giúp chàng thắng được những nhỏ nhen đau
đớn tinh thần, nuôi hy vọng đến mùa hè sẽ giải cứu được người yêu ... Có thể thấy nhà văn
đã sáng tạo một Chiêu Thành Vương Trần Thông với những tính cách sắc nét. Trần Thông
là một danh tướng nhưng ở một góc khuất của tâm hồn chàng vẫn là con người “rất người”
với đúng nghĩa của nó. Chỉ với một cái tên trong sử liệu, Nguyễn Huy Tưởng đã tưởng
tượng ra một Chiêu Thành Vương Trần Thông - một nhân vật giàu cá tính, sinh động, hấp
dẫn, tiêu biểu cho một con người vừa lý tưởng vừa đời thường.
Phò mã Đặng Lân trong lịch sử được nói đến rất ít.Sử sách chỉ ghi rằng Huệ có em trai
là Đặng Mậu Lân. Lân nhờ thế chị.., ỷ thế chị làm càn. Quần áo xe kiệu của Lân đều rập
theo vua chúa. Hàng ngày Lân đem theo vài chục tay chân cầm gươm, vác giáo nghênh
ngang kinh thành cướp bóc, cưỡng hiếp đàn bà con gái.... Trong Đêm Hội Long Trì, Đặng
Lân trở thành nhân vật chính hung ác hơn, quyền hành hơn. Hắn tiêu biểu cho những thế lực
cường bạo dâm dục, vũ phu, côn đồ. Nguyễn Huy Tưởng đã bộc lộ sự căm ghét cao độ. Nhà
văn đã tô đậm thêm tính cách và phóng đại nhân vật này lên rất nhiều. So với Đặng Lân
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
trong Hoàng Lê nhất thống chí, Đặng Lân trong Đêm hội Long Trì cường bạo hơn và
dâm ác hơn.
Ở Đặng Lân, hầu như đã mất hẳn tính người không thể tìm thấy một chút ánh sáng của
lương tri. Hắn sống hoàn toàn bằng bản năng, chà đạp lên pháp luật một cách trắng trợn.
Cảnh hắn quây màn cưỡng hiếp con gái nhà lành ngay trên đường phố,cảnh hắn đem quân
đi bắt gái tơ về trong phủ thực hiện những hành vi dâm đãng thâu đêm suốt sáng, cảnh
những vụ giết người rùng rợn không gớm tay:
- “Cậu trời sấn lại, chém nhát dao, lấy chân đá cái thây văng ra xa”
- “Đặng Lân rút dao ra, đâm luôn mười mấy nhát đá cái thây sang một bên” [102,
tr.148].
Đặng Lân chém giết người thản nhiên như chém cây, chém củi. Những sự chém giết
ấy không mấy ngày không diễn ra trong phủ của hắn. Con người tửu sắc dâm dật và cái máu
điên thích thú quái gở là bắt giam hàng trăm thiếu nữ vô tội để hành lạc. Sau mỗi đêm thoả
mãn thú tính là hắn lại giết người, không chỉ là một mà có lúc hai ba người... tất cả những
cảnh đó đều được Nguyễn Huy Tưởng miêu tả tỉ mỉ và chi tiết với một thái độ căm giận sâu
sắc. Tuy nhiên Nguyễn Huy Tưởng không phải lúc nào cũng để cho Đặng Lân mê man đi
trong những hành động hiếp dâm, giết người đầy thú tính. Có những lúc Nguyễn Huy
Tưởng cũng để cho hắn tỉnh dậy làm người. Nhưng chỉ là những phút giây ngắn ngủi. Sống
bằng thú tính vẫn là bản chất của hắn. Với Đặng Mậu Lân, Nguyễn Huy Tưởng không bị
trói chặt vào sử liệu. Bằng cái nhìn tiểu thuyết, nhà văn làm sống lại một Đặng Mậu Lân
vừa vô lại, vừa ghê tởm. Qua ngòi bút miêu tả của Nguyễn Huy Tưởng, Đặng Mậu Lân đã
được sáng tạo trở thành một tính cách trọn vẹn nhất của bóng tối, của tội ác và sự lộng hành.
Bằng cái nhìn tiểu thuyết, các nhân vật lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng đã được soi
chiếu ở nhiều góc độ, từ lý lịch, diện mạo, tính cách đến tâm hồn... Tất cả đã tạo nên những
hình tượng nghệ thuật giàu sức sống, giàu tính hiện thực. Có thể nói không quá lời, nhiều
nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng sống động “Chân thực hơn cả
lịch sử”. Nhân vật lịch sử do ông sáng tạo khác xa với nhân vật của Phan Bội Châu trong
Trùng Quang tâm sử.
Bên cạnh những nhân vật có tên trong lịch sử, nhà văn còn chú tâm xây dựng tuyến
nhân vật hư cấu: Nguyễn Mại, Bảo Kim.... ông gắn kết các nhân vật hư cấu vào cốt chuyện
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
một cách hợp lý, nhuần nhuyễn. Mỗi nhân vật là một dáng vóc cụ thể, tính cách rõ nét và
một số phận đặc biệt.
Tóm lại: Cách xử lý lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng khá linh hoạt mà công phu. Sự
đào sâu vào những tâm tư của con người, sự nhấn mạnh vào số phận của từng nhân vật, nhu
cầu cắt nghĩa mọi việc theo những điều mình chiêm nghiệm, suy ngẫm đã khiến người đọc
nghĩ rằng lịch sử đích thực của tác phẩm là lịch sử hư cấu. Nhưng nó là như thế. Điều này
hoàn toàn phù hợp với tinh thần của tiểu thuyết, không ngừng “nhận thức lại” lịch sử. Và
như vậy, bức tranh lịch sử không mang giá trị tự thân mà được sáng tạo theo những ý nghĩa
mới mang tính chân thực thời đại. Cái vỏ lịch sử thời Trần (An Tư), thời Lê (Đêm hội
Long Trì) có những điểm tương đồng thú vị nhất với điều đang ám ảnh nhà văn từ hiện tại.
Quan niệm này chính là một đóng góp của Nguyễn Huy Tưởng trong quá trình hiện đại hóa
văn học.
3.4. Không gian lịch sử.
Việc tái tạo lại không gian lịch sử đòi hỏi nhà văn phải có vốn liếng giàu có về truyền
thống, văn hóa, địa lý, phong tục tập quán, ngôn ngữ, trang phục của thời đại lịch sử đã qua.
Nguyễn Tử Siêu, Nguyễn Huy Tưởng, Chu Thiên, Hà Ân...là những tác giả đã rất thành
công trong việc dùng vốn kiến thức uyên thâm, phong phú của mình tạo được không khí
thời đại cho tiểu thuyết lịch sử.
Trong cảnh Đêm hội Long Trì, không gian lịch sử được cảm nhận qua bức tranh toàn
cảnh của xã hội Việt Nam thời Lê Cảnh Hưng mà Nguyễn Huy Tưởng đã tái tạo một cách
chân thực và sinh động. Đằng sau cái vẻ nhàn tản, mơ mộng có vẻ như thái bình thịnh trị
của xã hội thời Trịnh Sâm là cả những giông tố, rối ren, thối nát, suy tàn và sự ăn chơi xa
xỉ... nhà Lê thì bạc nhược, chúa Trịnh Sâm thì bị Đặng Thị Huệ thao túng. Thấp thoáng sau
cái bóng của những nhân vật đã từng được ghi trong sử sách như Đặng Thị Huệ, Đặng Mậu
Lân, là cảnh triều chính mục ruỗng, tranh giành quyền lực, sát hại trung thần, dung túng cho
cái ác hoành hành, ức hiếp nhân dân, mọi kỷ cương phép tắc bị đảo lộn. Theo lời của Bảo
Kim và Lưu Sĩ Trực, “Chán vạn người công thần chỉ vì một tội nhỏ mà chết, vua chúa có
luận công bao giờ”, còn quan lại “bênh dân thì ít, hại dân thì nhiều”. Bối cảnh đó còn được
tô đậm qua những cảnh Đặng Lân chém giết người một cách “vô tư” và ngang nhiên làm
điều xằng bậy, quây màn ức hiếp con gái nhà lành ngay trên đường phố. Đặng Lân xuất hiện
nơi nào là nơi đó có loạn lạc, rụng rời, khiếp sợ hơn cả chạy giặc ngoại xâm.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
“Tưởng như có một trận cuồng phong thổi trong đám hội, người chạy như ong: tiếng
kêu, tiếng thét, tiếng gọi nhau liên tiếp... một thiếu phụ đầu tóc rũ rượi chạy vào hổn hển:
- Ai cứu tôi với. Cậu trời...” [102,tr44].
Hay: Khi thấy cửa phủ Đặng Lân mở rộng và cờ quạt ở trong ra, mấy người hàng phố
kêu lên ba tiếng thất thanh:
- Cậu trời đấy!
Tức thì người ta chạy tán loạn, nhất là những đàn bà con gái. Tiếng kêu trời kêu đất,
xen lẫn với những tiếng đóng cửa ầm ầm”.
Không gian lịch sử của Đêm hội Long Trì đã hiện dần qua từng chi tiết như vậy.
Trong An Tư, không khí loạn của những ngày binh lửa chiến tranh và không khí hừng
hực, sục sôi âm vang của những ngày hào hùng đánh giặc cũng in dấu lên mỗi số phận, lên
từng sinh hoạt của quân dân nhà Trần một cách chân thực. Bức tranh đất nước trong những
ngày chuẩn bị đánh giặc thật điển hình: “Người khuân vác, người luyện tập, tiếng đóng
thuyền xen lẫn với tiếng rèn binh khí... Vạn Kiếp tấp nập trong một bầu không khí tưng
bừng sửa soạn. Binh khí chất đống lên trong các kho, lương thảo quyên được của dân gian
tải về như mắc cửi...” [102. tr273]. Tái hiện lại bức tranh trong quá khứ, nhà văn còn gợi
được cả không khí căng thẳng phập phồng những lo âu, chết chóc: “Người dân đương thổn
thức lo âu. Các gia đình chỉ còn trơ những mái tóc điểm sương tựa cửa, những khăn yếm
chạy quanh, những miệng thơ gọi bố... Nhiều nhà mang trăn trở vì tin dữ đã đưa về. Biết
bao người chết đang bơ vơ bên mộ phần tiên tổ! Người còn sống ngẩn ngơ trước bàn thờ
lạnh giá...” [102.tr.269].
Diện mạo thời đại cũng được nhà văn tập trung miêu tả qua không gian văn hóa lịch
sử. Bằng vốn kiến thức sâu rộng, Nguyễn Huy Tưởng đã cung cấp cho người đọc những
hiểu biết tỉ mỉ, sống động về lễ hội Long Trì ở Thăng Long thời Trịnh Sâm. Nhà văn đã vẽ
lại một cách cụ thể lai lịch, ý nghĩa của đêm hội cho đến trang phục, quang cảnh, cách bài
trí, tục lệ... Trong những đoạn viết về đêm hội Long Trì, Nguyễn Huy Tưởng thực sự là
người am tường và rất công phu nghiên cứu địa chí Thăng Long thế kỷ XVIII để có được sự
chính xác trong việc miêu tả hồ Long Trì với những hàng phù dung, dương liễu treo muôn
thứ đèn lồng bằng gấm vóc, phủ cung phi đầy hương sắc các loại hoa thoang thoảng đưa vào
trong gió mát... Tái hiện lại bức tranh trong quá khứ, nhà văn còn gợi được cái không khí
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
khi tưng bừng náo nhiệt, khi thi vị du dương của những cảnh, những tình, với những tài tử
giai nhân “ngựa xe như nước áo quần như nem” trong đêm hội.
Sự chính xác, tỉ mỉ về việc sử liệu được kết hợp với trí tưởng tượng phóng khoáng,
bay bổng tạo nên những trang viết uyển chuyển, tài hoa giàu sức hấp dẫn đã hoàn toàn thủ
tiêu ở người đọc cảm giác đan xen những mẫu vật hóa thạch trong viện bảo tàng hay đang
đọc ký sự lịch sử. Tác giả tỏ ra khá linh hoạt khi xử lý chất liệu lịch sử. Cảm quan văn hóa
phương Đông cũng là một lợi thế giúp nhà văn nhạy cảm khi nắm bắt những chuyển động
âm thầm của bản chất lịch sử để khái quát chính xác cái “hằng số lịch sử”. Những đoạn kể,
tả, đối thoại giữa nam nữ thanh niên cách đây gần hai thế kỷ, hoàn toàn do tác giả sáng tạo
ra mà vẫn tự nhiên, không gây phản cảm vì được sử dụng hợp lý, đúng chỗ. Đó là phương
thức “nhào nặn” lịch sử đầy tính sáng tạo của một nhà văn thông minh tài hoa, giàu bản
lĩnh. Nhờ đó mà cái đã quen bỗng trở nên mới lạ hấp dẫn.
3.5. Những thời điểm, giai đoạn lịch sử có nhiều biến động dữ dội mạnh mẽ với
Đêm hội Long Trì, An Tư, Sống mãi với thủ đô, Lá cờ thêu sáu chữ vàng.
Nguyễn Huy Tưởng là một trong số hiếm hoi những tiểu thuyết gia có sở trường về đề
tài lịch sử.
Với cảm quan lịch sử nhạy bén, Nguyễn Huy Tưởng đã tái hiện lịch sử theo lối riêng
của mình, khai thác những sự kiện nằm ở khúc quanh của lịch sử, trong thời điểm xảy ra các
biến cố dữ dội, đầy sóng gió, thác ghềnh với con người và đất nước.
Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì viết về thời điểm nhân dân oán ghét đến tột độ bọn quý
tộc phong kiến Trịnh Sâm, Đặng Thị Huệ, Đặng Mậu Lân. Đó là thời điểm lịch sử xã hội
phong kiến Việt Nam suy tàn, những mâu thuẫn giữa nhân dân và tập đoàn thống trị ngày
càng bộc lộ một cách sâu sắc. An Tư viết về giai đoạn nhà Trần chuẩn bị lực lượng chiến
đấu chống quân Nguyên xâm lược 1284 - 1285. Tác phẩm là bức tranh hoành tráng về cuộc
kháng chiến chống quân Nguyên. Thời Trần là một trong những thời đẹp đẽ của dân tộc
Việt Nam, của chế độ phong kiến Việt Nam. Nguyễn Huy Tưởng đã biết nắm bắt điểm mốc
vàng son này trong lịch sử dân tộc để sáng tác.
An Tư là một thiên truyện hùng tráng viết về một thời oanh liệt của dân tộc. Trong tác
phẩm ông mô tả hội nghị Diên Hồng, những khoảnh khắc thế trận giữa ta và địch.
Lá cờ thêu sáu chữ vàng kể lại một phần rất nhỏ về chiến thắng vĩ đại của quân dân
ta chống quân Nguyên và cũng chỉ thuật lại một phần cuộc đời của Hoài Văn Hầu, Trần
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
Quốc Toản, vị anh hùng niên thiếu của dân tộc ta xưa kia. Viết tác phẩm này, Nguyễn Huy
Tưởng đã biết khai thác sự kiện lịch sử Hội nghị Bình Than ở đời Trần, sự kiện không được
vào dự họp khiến Trần Quốc Toản đã hậm hực bóp nát quả cam của vua Nhân Tông ban
cho, về nhà Trần Quốc Toản giương cao lá cờ thêu sáu chữ vàng” Phá cường địch báo
hoàng ân” ( phá giặc mạnh, trả ơn vua) và chiêu mộ sáu trăm dũng sĩ thiếu niên làm lễ tế cờ,
xuất quân đánh giặc.
Sống mãi với thủ đô là tiểu thuyết lịch sử viết về giai đoạn lịch sử gần đây nhất với sự
kiện Hà Nội trong đêm nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc vào cuối năm 1946.
Nguyễn Huy Tưởng rất có ý thức về thời gian nghệ thuật trong tác phẩm. Chiều dài của lịch
sử, thời điểm đầu của cuộc kháng chiến thủ đô có ý nghĩa hết sức quan trọng để miêu tả
cuộc sống và con người trên mảnh đất thiêng liêng này. Đông Đô, Thăng Long, Hà Nội, đất
đế đô ngàn năm văn vật đã có biết bao nhiêu trang sử oanh liệt, nhưng cũng đã từ một thế kỷ
nay, âm thầm rên xiết dưới ách nô lệ của bọn thực dân xâm lược. Hà Nội đón chào cách
mạng tháng Tám giữa một mùa thu với niềm vui trào dâng của những thác người cuồn cuộn
xuống đường biểu dương sức mạnh, với hàng rừng cờ đỏ sao vàng rực rỡ trong khí thế chiến
thắng. Hà Nội nén lòng chịu đựng những gian khổ mỗi khi bóng đen của kẻ thù lại xuất hiện
với dáng vẻ khiêu khích và nghênh ngang trên đường phố. Tình thế đổi thay từng ngày,
không khí chính trị và xã hội phức tạp, lịch sử như bị dồn nén lại trong từng bước đi nặng
nề, dè dặt báo hiệu cho sự bùng nổ quyết liệt. Quá trình ấy tích tụ ở bên trong một sự
chuyển biến mạnh mẽ của quần chúng cách mạng. Từ 19/08/1945 đến 19/12/1946, khoảng
thời gian thật ngắn ngủi nhưng chính quyền cách mạng đã tạo được trong lòng nhân dân nền
móng tư tưởng và tình cảm vững chắc của chủ nghĩa yêu nước. Nỗi nhục nhã ê chề của cuộc
đời nô lệ và niềm vui tự do đầu tiên, ý thức về tổ quốc độc lập, về chính quyền nhân dân
trong những nhận thức ban đầu thiêng liêng và mới mẻ, tình cảm với đồng bào, đồng chí...
Tất cả đã thấm sâu và làm đổi thay tận gốc, cuộc sống tinh thần của nhiều người. Nguyễn
Huy Tưởng đã nắm bắt và thể hiện khá trọn vẹn những chuyển động sâu sắc và điển hình
của những năm tháng ấy, những năm tháng đã đi vào lịch sử. Từng sự kiện lịch sử, từng
hiện tượng chính trị xã hội nổi bật đã được đóng khung thời gian theo khuôn khổ lịch sử
trong từng trang viết của nhà văn.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
PHẦN KẾT LUẬN
Khảo sát “Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng”là tìm hiểu mối
liên hệ giữa phong cách và thể loại, bởi vì cảm hứng lịch sử vừa là một phương diện của nội
dung tư tưởng tác phẩm vừa là một phương diện của phong cách nghệ thuật.
Từ việc tìm hiểu, khảo sát trên, có thể rút ra mấy kết luận sau đây về cảm hứng lịch sử
trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng.
1.Tiểu thuyết lịch sử lâu nay vẫn là mảng văn học chìm khuất so với những loại hình
tiểu thuyết khác nhưng với Nguyễn Huy Tưởng tiểu thuyết lịch sử là một thành tựu quan
trọng trong sự nghiệp sáng tác của ông.Nó thể hiện tài năng, tâm huyết và chứa đựng những
tư tưởng lớn của nhà văn. Càng chiêm nghiệm về thời đại, về lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng
càng day dứt khôn nguôi về số phận con người, số phận dân tộc. Ông luôn trăn trở và đi tìm
cái mới cho tư tưởng của người cầm bút.
2.Nguyễn Huy Tưởng đã viết tiểu thuyết lịch sử với một phong cách riêng. Sự kết hợp
giữa tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử trong tác phẩm của ông là một trong những bước bức
phá ngoạn mục đầy thú vị.Vừa coi trọng yếu tố lịch sử, vừa coi trọng yếu tố tiểu thuyết, nhà
văn đã sử dụng một cách nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa lịch sử và hư cấu nghệ thuật, tạo
nên những tác phẩm bề thế nhưng có một dáng dấp ổn định và chững chạc. Ông đã kết hợp
các thủ pháp tự sự truyền thống với kỹ thuật tiểu thuyết hiện đại để sáng tạo nên một hệ
thống nhân vật giàu tính biểu tượng và sinh động. Đặc biệt với nghệ thuật trần thuật linh
hoạt, luân chuyển điểm nhìn trần thuật, nhất là việc tạo ra các tình huống thử thách, và xây
dựng độc thoại nội tâm, tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng đã thật sự thoát ra khỏi lối đi
quen thuộc và trở thành tiền đề cho một hướng đi mới của tiểu thuyết lịch sử sau này. Ngôn
ngữ trong tiểu thuyết của ông đã thuyết phục được nhiều độc giả khó tính, có sức hấp dẫn
đối với đông đảo bạn đọc.Bởi ông đã “hoà giải” được ngôn ngữ lịch sử cổ kính trang nhã và
ngôn ngữ tiểu thuyết,vửa sang trọng đài các, vừa dân dã nôm na, vừa đậm màu sắc triết
lý,vừa giàu chất trữ tình.
3.Nhiều nhà văn khi khai thác những đề tài lịch sử thường ít khi đi theo đúng mạch
cảm hứng lịch sử. Họ có thể nhìn hiện thực lịch sử bằng con mắt phán xét của người đời
sau, gán cho những hiện thực lịch sử ấy một sắc thái tiểu thuyết nào đó, tùy theo cảm hứng
sáng tác khơi nguồn ở họ. Khái niệm cảm hứng lịch sử là một khái niệm chưa được định
danh.Dựa trên cách lập thuyết về cảm hứng sáng tác, qua quá trình khảo cứu, chúng tôi sơ
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
bộ đưa ra khái niệm như sau: Cảm hứng lịch sử là cảm hứng sáng tác xuất phát từ cảm quan
về hiện thực lịch sử, trong đó nhà văn lấy lịch sử làm đề tài, chất liệu để tạo ra thế giới hình
tượng, xác lập cho mình một điểm nhìn vào quá khứ, tạo ra giọng điệu phù hợp với điểm
thời gian mà nó tái hiện.
4.Nguyễn Huy Tưởng là một trong số ít những nhà văn viết về quá khứ bằng cảm
hứng lịch sử. Cảm hứng lịch sử là cảm hứng chủ đạo trong văn nghiệp của ông, nó xuất phát
từ tình yêu, lòng đam mê đầy tự hào của nhà văn với lịch sử dân tộc. Cảm hứng ấy gắn liền
với lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm của người công dân Nguyễn Huy Tưởng, đồng thời
cũng chứa đựng cả chất nhân văn cao cả trong cái nhìn của nhà văn đối với cuộc đời. Với
cảm hứng lịch sử thấm đượm chất nhân văn ấy, Nguyễn Huy Tưởng là một trong số những
tác giả hàng đầu của thế kỷ XX, có đóng góp lớn cho một thể loại quan trọng trong nền văn
học dân tộc là tiểu thuyết lịch sử.
5.Cảm hứng lịch sử ở Nguyễn Huy Tưởng mang dấu ấn lịch lãm, uyên thâm của một
ngòi bút am tường về văn hóa, giàu triết lý, suy tư sâu sắc về cuộc đời và con người. Dù viết
về quá khứ bằng giọng văn trang nghiêm, cổ kính nhưng những tiểu thuyết lịch sử của ông
vẫn cuốn hút người đọc ở hơi thở gần gũi của nhịp sống thực tại. Thế giới hình tượng trong
tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng là sợi dây kết nối những chiêm nghiệm của nhà
văn từ quá khứ về hiện tại và ẩn chứa cả những suy nghiệm đối với mai hậu. Đọc văn ông,
ta không chỉ hiểu sâu sắc hơn về những gì đã diễn ra trong trường kỳ lịch sử của dân tộc mà
còn thấu rõ tâm tư và suy nghĩ của những con người làm nên lịch sử ấy. Những trang viết
của ông chứa đựng cả niềm đau và tự hào. Cả phần sáng lẫn phần tối của quá khứ, rất chân
thực mà cũng đầy hư cấu. Điều đáng nói là nhà văn luôn hướng người đọc tới những giá trị
nhân bản, nhân văn, dù ở trong bất kỳ đề tài nào, thời chiến hay thời bình. Vì vậy, cho đến
hôm nay, dù đề tài lịch sử đã đi vào rất nhiều trong sáng tác của các nhà văn hiện đại, với
những hình thức mới lạ, những khuynh hướng cách tân nhưng những tiểu thuyết của
Nguyễn Huy Tưởng vẫn còn nguyên giá trị của nó và đã trở thành cổ điển, mẫu mực.
5.Nhìn lại vấn đề văn học và nhà trường, chúng tôi nhận thấy việc đưa tiểu thuyết lịch
sử vào nhà trường là rất cần thiết. Với những tiểu thuyết lịch sử mang tính giáo dục như
Đêm hội Long Trì, An Tư hay Sống mãi với thủ đô, học sinh sẽ tiếp nhận những tri thức về
quá khứ dân tộc một cách hào hứng hơn. Trong chương trình hiện hành, các soạn giả đã đưa
vào hai tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng và Vũ Như Tô. Tuy nhiên, Lá cờ thêu sáu chữ
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
vàng có thể phù hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh song Vũ Như Tô là một tác phẩm
có tầm tưởng tượng quá lớn, triết lý quá sâu sắc, e rằng không phù hợp với nhận thức của
lứa tuổi học sinh phổ thông. Vậy nên chúng tôi mạnh dạn đề xuất với những người biên
soạn chương trình: Nên đưa một trong các tiểu thuyết Đêm hội Long Trì, An Tư, Sống
mãi với thủ đô vào giới thiệu và bước đầu cho học sinh tìm hiểu. Đây cũng là tâm ý của
nhà văn khi sáng tác, là mong muốn để thế hệ sau không quay lưng lại với lịch sử nước nhà
nhất là trong bối cảnh hội nhập toàn cầu như hiện nay.
Trong khuôn khổ cho phép, luận văn không thể trình bày hết những cảm nhận, phân
tích trong quá trình nghiên cứu về cảm hứng lịch sử của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng qua
bốn tiểu thuyết. Chúng tôi hy vọng đã đóng góp môt phần nhỏ ý kiến vào công trình nghiên
cứu về tác giả Nguyễn Huy Tưởng, đồng thời mong muốn có thể thêm tiếng nói khẳng định
giá trị của một thể loại tiểu thuyết quan trọng nhưng lâu nay vẫn bị khuất lấp. Chúng tôi
mong sẽ có thể phát triển, hoàn thiện hơn đề tài này trong một tương lai không xa.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Ân, Vài ý kiến về sự thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong truyện lịch
sử phục vụ các em, Tạp chí văn học số 3 /1979.
2. Lại Nguyên Ân, Suy nghĩ về một lối tiếp cận lịch sử, Tạp chí Nghệ thuật điện
ảnh, số 3/ 1990.
3. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1990.
4. Hoàng Nguyên Cát, Một phong cách uyên thâm lịch lãm (trong “Nguyễn Huy
Tưởng - Một sự nghiệp chưa kết thúc”), Viện văn học, 1992.
5. Nguyễn Minh Châu, Bên nhà văn Nguyễn Huy Tưởng cùng ngắm Hồ Gươm -
Trang giấy trước đèn, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,1994.
6. Nguyễn Phương Chi, Sống mãi với thủ đô (mục từ), Từ điển văn học, tập II,
NXB Khoa học Xã Hội, Hà Nội, 1984
7. Nguyễn Huy Thắng, Nguyễn Huy Tưởng nhật ký, tập I-II-III, NXB Thanh
niên Hà Nội, 2006.
8. Hoàng Định, Đêm hội Long Trì, Hà Nội mới chủ nhật, 25/3/1990.
9. Anh Đức, Nhớ anh Nguyễn Huy Tưởng, Văn nghệ 3/8/1985.
10. Hà Minh Đức, Nguyễn Huy Tưởng - nhà văn trưởng thành dưới chế độ mới,
Tạp chí Nghiên cứu Văn học 10/1960.
11. Hà Minh Đức, Sống mãi với thủ đô tác phẩm cuối cùng của Nguyễn Huy
Tưởng, Nhân dân 18/6/1961.
12. Hà Minh Đức - Phan Cự Đệ, Nguyễn Huy Tưởng (19/12/1960),NXB Văn học,
Hà Nội, 1966.
13. Hà Minh Đức, Lời giới thiệu kịch Nguyễn Huy Tưởng (Vũ Như Tô, Cột đồng
Mã Viện, Bắc Sơn, Những người ở lại), NXB Văn học, Hà Nội,1963.
14. Hà Minh Đức, Nguyễn Huy Tưởng - Nhà văn Việt Nam (1945 - 1975), NXB
Đại học và THCN, Hà Nội, 1979.
15. Hà Minh Đức, Lời giới thiệu tuyển tập Nguyễn Huy Tưởng, NXB Văn học,
Hà Nội, 1984.
16. Hà Minh Đức, Đêm hội Long Trì trên màn ảnh, TC Nghiên cứu nghệ thuật điện
ảnh, tháng 3/1990.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
17. Hà Minh Đức, Nguyễn Huy Tưởng - Khảo luận văn chương, NXB khoa học xã
hội,Hà Nội, 1997
18. Đoàn Giỏi, Nguyễn Huy Tưởng, một người thầy, một người bạn, một người
anh, Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh 26/7/1985.
19. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên),Từ điển thuật ngữ
văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1997.
20. Đỗ Đức Hiếu, Bi kịch Vũ Như Tô, Tạp chí văn học số 10,1997
21. Tô Hoài, Lời giới thiệu Nguyễn Huy Tưởng tuyển tập, NXB Tác phẩm mới,
Hà Nội,1978.
22. Tô Hoài, Nhà văn Hà Nội Nguyễn Huy Tưởng, NXB Tác phẩm mới, Hà
Nội,1978.
23. Tô Hoài, Lời giới thiệu” Truyện viết cho thiếu nhi” của Nguyễn Huy Tưởng,
NXB Văn học, Hà Nội, 1996.
24. Phạm Hổ, Nguyễn Huy Tưởng và những truyện viết cho thiếu nhi- Lời giới
thiệu tập truyện Tìm mẹ. NXB Kim Đồng,Hà Nội, 1982.
25. Nguyên Hồng, Gác Nguyễn Huy Tưởng,Tạp chí văn học số 4, 1984.
26. Nguyên Hồng, Những câu chuyện bỏ dở, Tạp chí Văn nghệ số 40, 1956.
27. Thanh Huyền, Nguyễn Huy Tưởng - người viết sử bằng văn chương. Tạp chí
Xưa và nay, số 32, 10/1996.
28. Mai Hương, Nguyễn Huy Tưởng với những trăn trở và khát khao sáng tạo,
Tạp chí Văn học 11 + 12/6/1992.
29. Mai Hương, Trở về với tuổi thơ Nguyễn Huy Tưởng ( trong “Nguyễn Huy
Tưởng - Một sự nghiệp chưa kết thúc”), Viện Văn học, 1992.
30. Mai Thị Hương, Thao thức Nguyễn Huy Tưởng, Văn hóa số 24, 30/10/1996.
31. K.Pauxtopxki, Bông hồng vàng và bình minh mưa, NXB Văn học Hà Nội,
1999.
32. Nguyễn Khải, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Văn học Hà Nội
số 177, 1961.
33. Lê Văn Lan, Nguồn sáng ở một nhà văn đi trước, (trong “Nguyễn Huy Tưởng
- Một sự nghiệp chưa kết thúc”), Viện Văn học, 1992.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
34. Kim Lân, Những ngày cuối cùng của Nguyễn Huy Tưởng, Tạp chí Văn học số
106/ 1960.
35. Kim Lân, Nguyễn Huy Tưởng và sự làm việc của anh, Văn nghệ số 9, 1961.
36. Phong Lê, Sống mãi với thủ đô trong “Quá trình sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng”, Nghiên cứu văn học số 12/1961.
37. Phong Lê, Bàn thêm về Nguyễn Huy Tưởng, Nghiên cứu văn học số 7/1967.
38. Phong Lê, Sống mãi với thủ đô trong Quá trình sáng của Nguyễn Huy Tưởng,
(trong Nguyễn Huy Tưởng - Văn và người), NXB Văn học, Hà Nội ,1976.
39. Phong Lê, Nguyễn Huy Tưởng qua hai chế độ - Tác gia văn xuôi Việt Nam
hiện đại, NXB KHXH, 1977.
40. Phong Lê, Nguyễn Huy Tưởng - những vấn đề còn bỏ ngỏ,(trong Nguyễn Huy
Tưởng-Một sự nghiệp chưa kết thúc), Viện văn học, 1992.
41. Phong Lê, Nguyễn Huy Tưởng trong vầng sáng hồi nhớ, Đại đoàn kết,
12/4/1997.
42. Phong Lê, Nguyễn Huy Tưởng - văn xuôi và kịch, (trong Văn học trên hành
trình của thế kỷ XX), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997.
43. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa,
Thành Thế Thái Bình, Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2002.
44. Nguyễn Thị Liên, Một số vấn đề lý luận về tiểu thuyết lịch sử (qua Sông Côn
mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác và Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh). Luận
văn thạc sĩ khoa học. Trường ĐH KHXH&NV Hà Nội , 2004.
45. Nguyễn Văn Long, Nguyễn Huy Tưởng (mục từ) - Từ điển Văn học, tập II,
NXB khoa học xã hội, Hà Nội,1984.
46. Bùi Văn Lợi, Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến
1945, Luận án tiến sĩ năm 1999, ĐH sư phạm Hà Nội.
47. Lưu Văn Lợi, Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng trước khi là nhà văn, Tạp Chí Văn
học 5 + 6/1992.
48. M.B. Khrapchenkô, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn
học, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1978.
49. Trần Đình Nam, Nguyễn Phương Chi, Lời giới thiệu Đêm hội Long Trì NXB
Hà Nội, 1985.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
50. Trần Đình Nam, Nguyễn Huy Tưởng với đề tài lịch sử, Văn nghệ, 23/12/1985.
51. Đỗ Hải Ninh, Tiểu thuyết Hồ Quý Ly trong sự vận động của tiểu thuyết lịch
sử nửa sau thế kỷ XX, Luận văn thạc sĩ, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2003.
52. Nguyên Ngọc, Nguyễn Huy Tưởng và quan niệm kẻ sĩ - Nguyễn Huy Tưởng
toàn tập, tập V, NXB Văn học Hà Nội, 1996.
53. Mai Ngữ, Nhớ về Nguyễn Huy Tưởng, ( trong “ Nguyễn Huy Tưởng Một sự
nghiệp chưa kết thúc”), Viện văn học, 1992.
54. Như Phong, Vài điều ghi nhận trên một số tác phẩm văn học gần đây, Văn
nghệ, 9/1991.
55. Duy Phương, Một nhà văn Nguyễn Huy Tưởng về Dục Tú, Người Hà Nội,
3/2/1990.
56. Dương Trung Quốc, Lời giới thiệu Đêm hội Long Trì (Bộ ba tác phẩm gồm
Đêm hội Long Trì, An Tư, Vũ Như Tô), NXB Hà Nội, 1999.
57. Trần Đình Sử, Thi pháp học hiện đại - khuynh hướng - hệ hình -thành tựu,
NXB Giáo dục, Hà Nội,2003.
58. Ngô Thảo, Văn nghệ một thời nhìn qua lỗ khóa-(trong “Nguyễn Huy Tưởng
- Một sự nghiệp chưa kết thúc”), Viện văn học, 1992.
59. Nguyễn Huy Thắng, Cha tôi - hình ảnh dệt từ trí tưởng tượng, Tạp chí Văn
học, số 4, 7 + 8/1990.
60. Nguyễn Huy Thắng biên soạn, Nguyễn Huy Tưởng - văn và người, NXB Hội
nhà văn Hà Nội,1991.
61. Nguyễn Huy Thắng, Ấn tượng về những nhân vật cùng cảnh ngộ, (trong
“Nguyễn Huy Tưởng - văn và người”), NXB Hội nhà văn Hà Nội, 1991.
62. Nguyễn Huy Thắng, Cha tôi viết Sống mãi với thủ đô, Tạp chí Văn học, 6/1995.
63. Nguyễn Huy Thắng, Xây Cửu trùng đài sân khấu, Thế giới mới, số 168,
15/1/1996.
64. Nguyễn Huy Thắng, Những khúc sông, mảnh hồ trong cuộc đời cha tôi,Tạp
chí Tia sáng, 11/1996.
65. Nguyễn Huy Thắng, Cha tôi trong Sống mãi với thủ đô, Giáo dục và thời đại,
3/1/1997.
66. Nguyễn Huy Thắng, Nguyễn Huy Tưởng sống mãi, Tác phẩm mới, số 12/1996.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
67. Nguyễn Huy Thắng, Nguyễn Huy Tưởng - khát vọng một đời văn, Tuổi trẻ
chủ nhật, số 10, 27/4/1997.
68. Nguyễn Huy Thắng, Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, Giáo dục và thời đại chủ
nhật, 27/4/1997.
69. Nhiều tác giả - Nguyễn Huy Thắng biên soạn, Nguyễn Huy Tưởng trong vầng
sáng hồi nhớ, NXB Hà Nội, 1997.
70. Nguyễn Huy Thắng, Từ một tập giấy mỏng cha tôi để lại, Khoa học và Tổ
quốc, 5/1999.
71. Nguyễn Huy Thắng, Cụ Cử - người thầy của cha tôi, Giáo dục và thời đại chủ
nhật, số 52/2000.
72. Nguyễn Đình Thi, Vĩnh biệt Nguyễn Huy Tưởng, Văn học số 105, 1960.
73. Nguyễn Ngọc Thiện, Sống mãi với thủ đô - “Không chỉ là phản ánh, mà còn là
tổng kết, soi sáng”,( In trong “Văn chương và tác giả”). NXB Thanh niên, Hà
Nội, 1995.
74. Thiều Quang, Lá cờ thêu sáu chữ vàng- truyện lịch sử của Nguyễn Huy
Tưởng, Tạp chí Văn nghệ 1961.
75. Hoàng Trung Thông, Nhớ lại đôi điều về Nguyễn Huy Tưởng, TC Văn học số
4/1984.
76. Nguyễn Bích Thu - Tôn Thảo Miên, Nguyễn Huy Tưởng - khát vọng một đời
văn, (trong “Nguyễn Huy Tưởng về tác giả và tác phẩm”), NXB Giáo dục, Hà
Nội, 1999.
77. Nguyễn Bích Thu - Tôn Thảo Miên tuyển chọn và giới thiệu, Nguyễn Huy
Tưởng về tác giả và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999.
78. Phan Đình Dũng, Cảm hứng lịch sử trong kịch nói của Nguyễn Huy Tưởng,
Luận văn thạc sĩ khoa học. Trường ĐH Sư phạm TP. HCM, 2003.
79. Cao Xuân Thử - “Cung đình” trong bộ ba tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng -
Nguyễn Huy Tưởng, một sự nghiệp chưa kết thúc, Viện văn học, 1992.
80. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Huy Tưởng - nghệ sĩ và công dân, Nhân dân,
17/4/1997.
81. Hoàng Tiến, Nguyễn Huy Tưởng với đề tài Hà Nội, Tạp Chí Văn học số
5/1984.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
82. Nguyễn Tuân, Lũy Hoa - Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập 3, NXB Văn học, Hà
Nội,1996.
83. Nguyễn Tuân, Sống mãi với thủ đô - Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập 3, NXB Văn
học,Hà Nội, 1996.
84. Đinh Trọng Tuấn, Đêm hội Long Trì - Một bộ phim thành công, Văn nghệ,
31/3/1990.
85. Trịnh Thị Uyên, Nhà tôi - kỷ niệm của một thời và mãi mãi, Tạp chí văn học,
số 5, 9+10,1991.
86. Nguyễn Huy Tưởng với Hà Nội, Văn nghệ 6/10/1990.
87. V.G. Biêlinxky, Toàn tập tác phẩm, tập VII,(bản dịch), NXB Viện Hàn Lâm
Khoa Học Liên Xô, 1955.
88. V.G. Biêlinxky, Tác phẩm chọn lọc,(bản dịch), M.1975.
89. Hà Ân ,Trăng nước Chương Dương, NXB Văn học, Hà Nội,2000.
90. Phan Trần Chúc ,Tĩnh Đô Vương, NXB Văn học, Hà Nội,2000.
91. Hoàng Quốc Hải, Thăng Long nổi giận,NXB Văn học,Hà Nội,2000.
92. Lan Khai, Ái tình và sự nghiệp, NXB Văn học, Hà Nội,2000.
93. Nguyễn Triệu Luật, Loạn kiêu binh, NXB Văn học, Hà Nội,2000.
94. Nguyễn Triệu Luật, Hòm đựng người, NXB Văn học,Hà Nội,2000.
95. Nguyễn Triệu Luật, Bà Chúa Chè, NXB Văn học, Hà Nội,2000.
96. Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, NXB Văn học,Hà Nội,2000
97. Nguyễn Tử Siêu, Trần Nguyên Chiến kỷ,NXB Văn học, Hà Nội,2000.
98. Nguyễn Huy Tưởng, An Tư,NXB Kim đồng, Hà Nội,2005.
99. Nguyễn Huy Tưởng, Đêm hội Long Trì,NXB Kim Đồng,Hà Nội,2005.
100. Nguyễn Huy Tưởng, Sống mãi với thủ đô, NXB Kim Đồng,Hà Nội,2005.
101. Nguyễn Huy Tưởng toàn tập - tập I - NXB Văn học, Hà Nội, 1996.
102. Nguyễn Huy Tưởng toàn tập - tập II - NXB Văn học, Hà Nội, 1996.
103. Nguyễn Huy Tưởng toàn tập - tập III - NXB Văn học, Hà Nội, 1996.
104. Nguyễn Huy Tưởng toàn tập - tập IV - NXB Văn học, Hà Nội, 1996.
105. Nguyễn Huy Tưởng toàn tập - tập V - NXB Văn học, Hà Nội, 1996.
106. Nguyễn Huy Tưởng - Nhà Trần - NXB Kim Đồng,Hà Nội, 2005.
107. Nguyễn Huy Tưởng - Lá cờ thêu sáu chữ vàng, NXB Kim Đồng,Hà Nội, 2005.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
108. Nhiều tác giả , Những vấn đề thi pháp Dostoeveski, NXB Giáo dục, Hà Nội,
1993.
109. Nguyễn Văn Dân , Lý luận Văn học so sánh, NXB Khoa học Xã hội Hà
Nội,1998.
110. .M.BA KHTIN , Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch), Bộ Văn
hóa Thông tin , trường viết văn Nguyễn Du,1992.
111. .Nguyễn Đình Chú,Các thế hệ nhà văn ngót 100 năm kế tiếp nhau soi lại lịch
sử, Văn học Việt Nam trên những chặng đường chống phong kiến Trung
Quốc xâm lược. NXB KHXH Hà Nội,1981.
112. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại Việt Nam,NXB KHXH,Hà Nội,1989.
113. Nguyễn Tý , Thái Vũ - Nhà văn hiện đại Việt Nam người trung thành viết
tiểu thuyết lịch sử, Báo Văn nghệ số 39, 2003.
114. Lan Khai, Ai lên phố Cát, Phổ thông bán nguyệt san (số 4).
115. Nguyễn Triệu Luật, Tuyển tập lịch sử Nguyễn Triệu Luật, NXB Văn
học,1998.
116. Viện KHXH Việt Nam, Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, NXB KHXH, Hà
Nội,1993.
117. Trung tâm KHXH và NV Quốc gia, Viện nghiên cứu Hà Nội, Đại Việt sử ký
tiền biên, NXB KHXH , Hà Nội,1997.
118. Hà Ân , Quận He khởi nghĩa, NXB Quân đội Nhân dân,1963.
119. Lê Thanh, Cuộc phỏng vấn các nhà văn, NXB Đời mới (không có năm xuất
bản).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHVHVN010.pdf