Luận văn Câu quan hệ có từ Là trong tiếng Việt

DẪN NHẬP 0.1 . Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu Ngôn ngữ là một thành tựu vĩ đại nhất của loài người. Mỗi ngôn ngữ thể hiện trong nó không chỉ là bề dày lịch sử, nền văn hóa, mà cả trình độ văn minh của một quốc gia, một dân tộc. Ngôn ngữ học, ngành khoa học nghiên cứu về ngôn ngữ, có một vị trí rất quan trọng trong các khoa học xã hội và nhân văn. Nó giúp chúng ta tìm hiểu về ngôn ngữ nói chung và đặc trưng của các ngôn ngữ cụ thể. Việc nghiên cứu ngôn ngữ cũng sẽ giúp chúng ta hiểu rõ cách nhận thức thế giới, cách truyền đạt tri thức và cách giao tiếp của các cộng đồng ngôn ngữ. Hơn thế, nghiên cứu tiếng mẹ đẻ còn góp phần giữ gìn, bổ sung, trau dồi cho ngôn ngữ của mỗi người ngày càng trong sáng hơn, hoàn thiện hơn. Hiểu được tầm quan trọng của việc nghiên cứu ngôn ngữ, yêu quý và trân trọng tiếng mẹ đẻ, và suy nghĩ rằng nghiên cứu sâu tiếng Việt trên một bình diện nào đó cũng đều rất quan trọng, chúng tôi chọn nghiên cứu về câu quan hệ trong tiếng Việt. Trong ngữ pháp truyền thống, các nhà nghiên cứu theo khuynh hướng cấu trúc chủ yếu khảo sát câu về cấu trúc hình thức. Gần đây khuynh hướng ngữ pháp chức năng đã đi sâu tìm hiểu câu từ góc độ ngữ nghĩa của câu, chẳng hạn dựa trên sự hình thành các quá trình (Process) để phân ra các loại câu như: các quá trình vật chất (các quá trình hành động), các quá trình tinh thần (các quá trình cảm giác) và quá trình quan hệ (các quá trình tồn tại). Trong các loại câu đó thì câu quan hệ là loại câu khá đa dạng, phong phú về ngữ nghĩa và được dùng phổ biến trong tiếng Việt cũng như trong các ngôn ngữ khác. Từ trước tới nay, một số công trình về ngữ pháp tiếng Việt có đề cập đến câu quan hệ nhưng có lẽ chưa có công trình nào nghiên cứu sâu và cụ thể vào một khía cạnh nào đó của câu quan hệ. Chúng tôi nhận thấy vấn đề “Câu quan hệ trong tiếng Việt” đặc biệt là “câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt” là một vấn đề lý thú và bổ ích nên quyết định chọn làm đề tài luận văn. Để tiện cho việc khảo sát, chúng tôi dùng các ngữ liệu trên ngôn ngữ viết thuộc nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau như phong cách khoa học, phong cách chính luận, phong cách hành chính, phong cách ngôn ngữ văn chương. Luận văn khảo sát câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt nhằm các mục đích sau đây : - Tiếp xúc với các vấn đề lý thuyết về ngữ nghĩa học, về ngữ pháp chức năng (đặc biệt là quan niệm của M.A.K. Halliday, S.C. Dik), vận dụng vào việc khảo sát, lý giải một loại câu quan hệ trong tiếng Việt. - Kết quả khảo sát, phân tích loại câu quan hệ có từ “là”trong tiếng Việt có thể có những đóng góp thiết thực vào thực tiễn nói, viết và thực tiễn giảng dạy tiếng Việt. 0.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Như trên đã nói, có rất nhiều công trình nghiên cứu về các kiểu quá trình trong hệ thống chuyển tác của ngôn ngữ, trong đó có quá trình quan hệ. Ở mỗi công trình các tác giả có thể có những cách tiếp cận khác nhau. Luận văn không có tham vọng bao quát đầy đủ quá trình nghiên cứu về câu quan hệ trong ngôn ngữ nói chung và trong tiếng Việt nói riêng. Thông qua tìm hiểu của bản thân, chúng tôi chỉ cố gắng điểm qua tình hình nghiên cứu câu quan hệ của những tác giả tiêu biểu trên thế giới và ở Việt Nam. Trên thế giới: Các kiểu quá trình trong hệ thống chuyển tác của ngôn ngữ được rất nhiều nhà ngôn ngữ trên thế giới quan tâm và nghiên cứu. Có nhiều cách tiếp cận các quá trình này với những quan điểm khác nhau. Công trình nghiên cứu được xem là đầy đủ, xứng đáng được xem là một cuốn sách giáo khoa cho những ai muốn tìm hiểu về các kiểu quá trình trong hệ thống ngôn ngữ, là của M.A.K.Halliday. Đó là cuốn “Dẫn luận Ngữ pháp chức năng”. Các quá trình mà M.A.K.Halliday miêu tả chủ yếu là trong tiếng Anh, nhưng xét thấy có nhiều điểm có thể vận dụng vào tiếng Việt nên luận văn của chúng tôi áp dụng những mô hình lý thuyết mà ông đưa ra để giải thích và nghiên cứu về câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt. M.A.K.Halliday khái quát về quá trình quan hệ (Relational processes) như sau: “để liên hệ mảng này với mảng kia của thế giới kinh nghiệm: cái này giống cái kia, cái này là một loại của cái kia là quá trình quan hệ” [24, 206]. Hệ thống các quá trình quan hệ trong tiếng Anh của M.A.K. Halliday hoạt động theo ba kiểu chính là: Quan hệ sâu (intensive): ‘x is a’  x là a Quan hệ chu cảnh (circumstantial): ‘x is at a’ x ở a Quan hệ sở hữu (possessive): ‘x has a’  x có a Mỗi kiểu như vậy xuất hiện dưới hai phương thức tách biệt mà Halliday gọi là phương thức đồng nhất (identifying) và phương thức định tính (attributive). Như thế, chiếu theo phương thức quan hệ và kiểu quan hệ mà ông đưa ra, sẽ có sáu cặp phạm trù quan hệ tương ứng. Những đóng góp của Halliday về các quá trình chuyển tác có giá trị rất lớn với tiếng bản xứ (Anh) và cả với các ngôn ngữ khác trên thế giới, chẳng hạn tiếng Việt. Cùng với M.A.K. Halliday, các nhà chức năng luận khác như Fawcett, V.Z. Panfilov, C. Fillmore, Simon C.Dik cũng đề cập đến câu quan hệ hay loại câu tương tự câu quan hệ. Nhà ngôn ngữ học Simon C. Dik trong Functional Grammar (Ngữ pháp chức năng-1978), đã dùng thuật ngữ “sự tình” (cái có thể là tình huống trong một thế giới nào đó). S.C. Dik dựa trên hai thông số cơ bản là tính động (Dynamism) và tính có chủ ý (Control) để xác lập ra bốn loại hình sự tình: hành động, quá trình, trạng thái, tư thế (xem bảng trình bày các sự tình của S.C. Dik) trong đó không có loại hình sự tình quan hệ. Đến năm 1989, S.C. Dik đưa thêm Tính thành quả (Telicity) vào bộ thông số và cho ra một bảng phân loại gồm sáu sự tình: Tư thế (Position), Trạng thái (State), Hành động hoàn thành (Accomplishment), Hành động diễn tiến (Activity), Quá trình biến đổi (Change), Quá trình biến động (Dynamism). Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những khiếm khuyết như Siewierska (1991) thừa nhận: “Những loại hình sự thể lọt ra ngoài bảng phân chia loại nhỏ này thì không được nêu tên gọi.” [54, số 10, tr.14]. Diệp Quang Ban cho rằng ngoài lĩnh vực các quan hệ, cách phân loại sự thể của S.C. Dik khá thỏa đáng nhưng rất khó để tìm kiếm được một giải pháp khả thi mới để kết hợp cả hai cách phân loại của S.C. Dik và M.A.K. Halliday. Bảng trình bày các loại sự tình của S.C. Dik.(nguồn NPCN,tr.50) Sự tình + Động Sự kiện -Động Tình huống + Chủ ý Hành động Tư thế - Chủ ý Quá trình Trạng thái Sự tình quan hệ ở đây được S.C. Dik xem là một thể loại của sự tình trạng thái và cũng dựa trên những phân biệt trong các chỉ định của kết cấu vị ngữ hạt nhân. Ví dụ: (1) The substance is red .(trạng thái) (2) The table stood in the corner. (trạng thái) [-Động,-Chủ ý] (3) John tasted the wine in the soup. (trạng thái) Theo S.C. Dik “ Nếu một kết cấu vị ngữ trạng thái chỉ có một tham tố, tôi cho rằng tham tố đó có chức năng nghĩa là zero. Tôi thấy không có lý do gì để quy gán bất kỳ một chức năng ngữ nghĩa cụ thể nào cho các tham tố như thế. Các tham tố kết cấu vị ngữ trạng thái hai vai thường có hai tham tố chức năng zero, và thậm chí có thể có sự tình trạng thái ba vai với ba tham tố chức năng zero. Tuy nhiên, tham tố thứ hai trong các kết cấu vị ngữ trạng thái cũng có thể có chức năng thời gian hay vị trí.” [29; 54] Ví dụ: (4) Rose ф are red. (5) That man ф is the killer.  ф chức năng nghĩa là zero. (6) The cup ф is on the table. Theo nhận định của Cao Xuân Hạo trong Tiếng Việt Sơ thảo ngữ pháp chức năng thì tiêu chí (+Động, - Động) và (+Chủ ý, -Chủ ý) của Simon C.Dik rất quan trọng đối với nhiều loại ngôn ngữ trên thế giới. S.C.Dik đã đưa ra được một lược đồ khá cơ bản, thế nhưng sự đơn giản ấy lại làm cho lược đồ của ông trở nên khó ứng dụng, chẳng hạn ô tư thế (+chủ ý,-động) không cân bằng với ba ô còn lại. Các vị từ làm hạt nhân cho loại câu này như đứng, ngồi, nằm, quỳ có thể đếm trên đầu ngón tay, theo thống kê không tới 0,2% trong số các vị từ làm hạt nhân cho các loại câu nằm ở ô hành động, trạng thái, quá trình. Không chỉ vậy, lược đồ của Dik khó có thể chia ra chi tiết hơn nữa, chẳng hạn không thể xếp các câu tồn tại, câu định vị (ví dụ như câu: “Cá nằm trên thớt” không được xếp vào ô loại tư thế vì thiếu tiêu chí (+ chủ động).), hay câu đẳng thức .v.v không xếp vào ô nào trong bốn ô phân loại các loại sự tình của Dik). Như vậy, không thể dựa vào bảng phân loại sự tình của S.C. Dik để miêu tả câu quan hệ tiếng Việt. John Lyons, nhà ngôn ngữ học truyền thống ở Anh, tiếp cận vấn đề từ quan điểm logic. Ông cũng đã đưa ra các kết cấu tồn tại, định vị và sở hữu tương tự thuật ngữ “các quá trình quan hệ” mà luận văn đang đề cập. John Lyons cho rằng trong rất nhiều ngôn ngữ có những tương tự hiển nhiên giữa những câu định vị và câu tồn tại, chẳng hạn: Ví dụ: Tiếng Anh (7) Coffee will be here in a moment. không có sự khác nhau (7’) There will be coffee here in a moment. về nghĩa giữa (7) và (7’) John Lyons, tiếp cận vấn đề từ quan điểm logic học, với các câu tồn tại câu định vị, và câu sở hữu, ông phân ra làm hai xu hướng “vị ngữ tính” (tương đương với câu tả trong tiếng Việt) và “vị ngữ danh” (tương đương với câu luận trong tiếng Việt). Tuy nhiên, vì sự phân tích cú pháp của các câu có “vị ngữ danh” phức tạp nên ông quyết định bỏ qua tất cả những điểm khác nhau giữa các tiểu loại và phân tích tất cả như những “vị ngữ danh từ”. Đặc biệt, trong Nhập môn ngôn ngữ học ông nói nhiều đến “động từ là” và “động từ có”, ông cho rằng đó là những câu tồn tại, định vị và sở hữu có quan hệ qua lại trong nhiều ngôn ngữ “ cái thường được gọi là “động từ là”, và “động từ có” trong tiếng Anh và các ngôn ngữ khác là một yếu tố ngữ pháp, vô nghĩa, chỉ dùng để “mang” các dấu hiệu về thời, thức, thể ở cấu trúc nổi của câu.” Theo mô hình của Fawcett, giao điểm của kiểu quá trình và kiểu đương thể cho ra 12 kiểu quá trình quan hệ trong tiếng Anh. Mô hình các quá trình quan hệ trong tiếng Anh của Fawcett: Các hệ thống ban đầu. [40, 273] Hoàng Văn Vân cho rằng “ đây là một mô hình chi tiết và đã đi sâu vào việc tìm hiểu bản chất của quá trình quan hệ trong tiếng Anh Mô hình của Fawcett quan tâm đến những kiểu quá trình cụ thể hơn là đến sự khái quát hóa các quá trình quan hệ”. [40, 276]. Cũng theo Hoàng Văn Vân, mô hình các quá trình quan hệ của Fawcett đã không thể hiện được sự khái quát hóa các quá trình quan hệ; đồng thời trong công trình nghiên cứu về các quá trình quan hệ của Fawcett cũng không hề đề cập đến hệ thống Dạng (là một Định tính Đương thể đơn Sở hữu Định vị Kiểu đương thể Đương thể bị tác động Đương thể tác nhân Đương thể thứ ba Đương thể thứ ba Kiểu quá trình hệ thống mà chính Fawcett khẳng định không thể thiếu khi nghiên cứu các công trình ngữ pháp) đồng thời “ nếu chấp nhận một mô hình như vậy sẽ làm cho vấn đề trở nên phức tạp vì người ta phải xây dựng lại các tiêu chí định nghĩa” [40, 277] cho tất cả các quá trình trong hệ thống chuyển tác của ngôn ngữ. Từ việc tiếp thu những thành tựu nghiên cứu của các nhà nghiên cứu theo hướng chức năng luận, chúng tôi nhận thấy mô hình miêu tả quá trình chuyển tác quan hệ của M.A.K. Halliday là mô hình lý thuyết phù hợp nhất để miêu tả câu quan hệ tiếng Việt. Tại Việt Nam Đã có khá nhiều công trình ngữ pháp đề cập trực tiếp đến câu quan hệ như Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Vân, Bùi Minh Toán, Nguyễn Thị Lan Anh, Đỗ Thị Kim Liên Ngoài ra còn có những công trình nghiên cứu về những kiểu câu tương tự câu quan hệ như câu tả, câu luận, trong sách Ngữ pháp tiếng Việt của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việ t Nam (1983), hay những những động từ chỉ các trạng thái tâm lý hướng tới đối tượng, biểu thị trạng thái tồn tại, sở hữu có thể có thành tố phụ sau là một danh từ, cụm danh từ chỉ đối tượng như : có, còn, xuất hiện, diễn ra trong Ngữ pháp Việt Nam của Nguyễn Thị Ly Kha, hay những bài viết cùng bàn về cấu trúc “Danh là Danh” và các mối quan hệ của nó của Lê Xuân Thại, Nguyễn Đức Dân, Trần Ngọc Thêm, v.v Từ những năm 2000 trở lại đây, cũng có một số bài viết đề cập đến một số tiểu loại của câu quan hệ trong tiếng Việt trên tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, của các tác giả Nguyễn Thị Thanh Phương, Nguyễn Thế Lịch , hoặc so sánh đối chiếu câu quan hệ tiếng Việt với tiếng Anh của Hoàng Tuyết Minh nhằm tìm ra một số lỗi người Việt thường mắc khi sử dụng động từ quan hệ tiếng Anh Cao Xuân Hạo kế thừa lược đồ phân loại các loại sự tình cơ bản của S.C. Dik nhưng ông xếp loại câu quan hệ và câu trạng thái vào một loại câu, đó là câu chỉ tình hình : “Trong các câu chỉ tình hình có thể phân biệt câu chỉ trạng thái với câu chỉ quan hệ. Trạng thái là một tình hình có mặt trong bản thân chủ thể (thực thể mang nó, hay ở “trong trạng thái” đó). Quan hệ là một tình hình mà nội dung là một cái gì ở giữa hai sự vật, dù đó là một sự tiếp xúc, một khoảng cách, một mối dây nhân quả, hay một sự so sánh.” [13, 430]. Cao Xuân Hạo đưa thêm sự tình tồn tại (hiện hữu), mà S.C.Dik còn thiếu, vào hàng sự tình cơ bản bậc một ngang hàng với biến cố và tình hình. Cao Xuân Hạo đã thay ô sự tình tư thế (bậc hai) của S.C. Dik bằng loại quan hệ và xem vị trí của nó tương đương với vị trí của sự tình trạng thái trong những sự tình tĩnh [-Động]. Theo khảo sát trên tư liệu tiếng Việt của tác giả Bùi Minh Toán và Lê Thị Lan Anh thì bên cạnh những nét cơ bản phù hợp hệ thống các quá trình mà M.A.K. Halliday nghiên cứu “ có thể nhận thấy chỉ có một số kiểu sự tình quan hệ là được tổ chức theo cả hai phương thức đồng nhất và định tính” [2, 1], chẳng hạn quan hệ cảnh huống (chỉ có loại quan hệ vị trí và quan hệ nguyên liệu là tổ chức theo hai phương thức đồng nhất và định tính; còn các quan hệ cảnh huống khác như: quan hệ mục đích, quan hệ so sánh, quan hệ tương hỗ, quan hệ nguyên nhân, quan hệ nguồn gốc, quan hệ vai diễn thì không tồn tại cả hai phương thức trên.), hay quan hệ sở hữu (chỉ tổ chức theo một phương thức định tính). Trong bài viết “Câu quan hệ tiếng Việt: sự hiện thực hóa các thành tố của sự tình quan hệ ”, tác giả Bùi Minh Toán và Lê Thị Lan Anh đã đưa ra 13 loại sự tình quan hệ trong tiếng Việt theo quan niệm của M.A.K. Halliday. Tiếc là bài viết này không coi “câu quan hệ có từ là” như là một đối tượng nghiên cứu mà chỉ nói chung chung đến các loại sự tình quan hệ trong tiếng Việt. Sách Ngữ pháp tiếng Việt của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam cũng nhắc đến câu quan hệ nhưng dưới thuật ngữ câu tả và câu luận. Đây cũng chính là hai loại câu chính của câu đơn hai thành phần được làm thành từ một cụm chủ ngữ (C)- vị ngữ (V), chủ ngữ và vị ngữ có quan hệ qua lại với nhau. Câu tả là loại câu để biểu thị một quá trình miêu tả đối tượng trong hoạt động, trạng thái hay tính chất của nó. Câu tả có nghĩa về trạng thái tồn tại của sự vật (câu tồn tại) có phần đề do từ loại danh từ, phần thuyết do tiểu loại động từ tồn tại đảm nhận (có, còn, hết ), đây là loại câu khá đặc biệt, tương đương câu quan hệ mang đặc điểm “không có từ là”. Vì ở luận văn này chúng tôi nghiên cứu loại “câu quan hệ sâu có từ là” trong tiếng Việt, nên chúng tôi sẽ nhắc nhiều đến loại câu luận là loại câu tương đương câu quan hệ đặc biệt “có dùng động từ là”. Câu luận là kiểu câu biểu thị một quá trình tư duy và thông báo mang tính suy luận, phán đoán. Nó có thể đưa ra một nhận xét, một ý kiến đánh giá và đôi khi mang tính triết lý. Vị từ “là” trong câu luận có thể coi là động từ mang trọng trách đặc biệt, làm “chính tố”, “động từ thuyết tính của câu luận”. Ví dụ: (8) Tổ chức là biện pháp cơ bản để thực hiện chính sách . (mô hình A là B) A B (9) Ruộng rẫy là chiến trường. (mô hình A=B) A B Câu luận trong tiếng Việt là loại câu tương đương “câu quan hệ sâu có từ là”. Đó là một loại câu có cách thể hiện khá đa dạng. Ví dụ: Câu luận “A là B” (10) Cuốc cày là vũ khí. [39, 185]  có thể thay đổi vị trí A và B [57, 185] (11) Nguyên tắc là nguyên tắc. [39, 185]  có thể thay đổi vị trí A và B. (12) Hà là một cán bộ nhà nước.[39, 183] không thể thay đổi vị trí A và B Như trên có thể thấy loại câu luận có mô hình “A là B” tương đương câu quan hệ sâu đồng nhất và định tính,“là” ở câu luận đóng vai trò là động từ (vị từ) chứ không phải trợ từ. Diệp Quang Ban đã đưa ra cách phân loại chi tiết và khá bao quát cho các loại câu tồn tại. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm ấy, cách phân loại của ông không đưa ra được “một mô hình toàn diện nhất để giải thích các kiểu quá trình quan hệ.” tức là phải đáp ứng “ ba điều kiện: (i) nó phải xem ‘quan hệ’ như là một đặc điểm của cả cú chứ không phải chỉ là một đặc điểm của động từ; nghĩa là, nó phải được trừu tương hóa để có đủ sức giải thích cho những đặc điểm cụ thể của các quá trình quan hệ trong tiếng Việt; và (ii) nó phải được kiểm chứng bằng sự phù hợp của cả hai tiêu chí ngữ nghĩa và ngữ pháp-từ vựng’’[40, 271]. Lê Thị Lan Anh bàn nhiều về sự tình quan hệ trong bài viết “Đặc trưng ngữ nghĩa của sự tình quan hệ so sánh trong tiếng Việt”. Tác giả đã đưa ra vị tố biểu thị quan hệ so sánh trong tiếng Việt gồm: như, như thể, in như, như, giống, khác, khác biệt, bằng, hơn, kém, tựa, hệt, sánh, ví, tày . và tổ hợp của các vị tố này: như là, hệt như, giống như là, y hệt như là , đồng thời đưa ra khá đầy đủ những ví dụ để phân tích, chứng minh làm nổi bật các đặc trưng ngữ nghĩa của sự tình so sánh trong tiếng Việt. Tuy nhiên bài viết không nhắc đến vị từ “là”, trong khi “là” cũng có thể là một vị từ so sánh trong một số trường hợp. Bài “Phương thức định tính và đồng nhất trong sự tình quan hệ thâm nhập” của Lê Thị Lan Anh dùng thuật ngữ “thâm nhập” thay vì thuật ngữ “sâu” của M.A.K. Halliday, nhưng về cơ bản cũng dựa trên mô hình “x is a”, dựa trên cơ sở lý thuyết của M.A.K. Halliday để xem xét loại sự tình quan hệ thâm nhập ở hai phương thức: định tính và đồng nhất trong tiếng Việt “Đồng nhất thể và định tính là hai phương thức quan hệ hoàn toàn khác nhau, mỗi phương thức sẽ cho chúng ta một loại sự tình riêng với những đặc trưng ngữ pháp, ngữ nghĩa đặc thù của nó” [54,số 2, tr.62]. Theo tác giả, trong tiếng Việt, các vị tố : là, biểu hiện, biểu đạt, minh họa, thể hiện thường chỉ xuất hiện trong câu biểu thị sự tình quan hệ thâm nhập định tính. Ví dụ: (13) Cây nguyệt quế biểu hiện sự vinh quang. (Yêu thơ văn em tập viết)[54, số 2; tr.62] (14) Sài Gòn tức Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố đầy nắng gió phương Nam với những chiều mưa về hối hả. (Yêu thơ văn em tập viết) [54; số2, tr.62] Còn các vị tố : là, tức là, nghĩa là, có nghĩa (có nghĩa là), đồng nghĩa, đóng vai, làm là những vị tố quan hệ xuất hiện trong câu quan hệ thâm nhập đồng nhất. Ví dụ: (15) Vết tích xấu nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá nhân. (Hồ Chí Minh. Về vấn đề giáo dục) [1, 61] (16) Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. (Hồ Chí Minh. Về vấn đề giáo dục) [1, 61] Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Lan Anh chưa trình bày được hết những vấn đề của “câu quan hệ thâm nhập” (theo cách gọi của tác giả), câu quan hệ sâu (cách gọi của Halliday). Tuy nhiên, bài viết đã gợi ra một số vấn đề cho đề tài nghiên cứu của chúng tôi. Hoàng Văn Vân, người trực tiếp dịch công trình “Dẫn luận ngữ pháp chức năng” của M.K.A. Halliday, Trong công trình “Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt: Mô tả theo quan điểm chức năng hệ thống”, Hoàng Văn Vân đã tiếp thu quan điểm của M.A.K. Halliday: quan điểm chức năng hệ thống. Công trình của Hoàng Văn Vân nghiên cứu bình diện kinh nghiệm của cú tiếng Việt, dựa vào mô hình kinh nghiệm của Halliday để mô hình hóa các khu vực chuyển tác khác nhau trong cú tiếng Việt. Tuy nhiên, chuyên khảo của Hoàng Văn Vân mới chỉ nghiên cứu giải thích các phạm trù ngữ pháp trong hệ thống chuyển tác (hay hệ thống các kiểu quá trình) trong tiếng Việt, còn ở cấp độ chi tiết hơn như “câu quan hệ sâu có từ “là” trong tiếng Việt” thì Hoàng Văn Vân chưa khảo sát đến. Bàn thêm về cấu trúc “Danh + là + Danh” của Trần Ngọc Thêm có phân ra hai kiểu: “Danh + là + Danh” kiểu 1: tự bản thân hoàn toàn là một câu độc lập, không phụ thuộc bên ngoài cả cấu trúc và nội dung. Cấu trúc này có thể tham gia vào câu lớn hơn với tư cách như một mệnh đề, hay một đối tượng. Đặc biệt, nó không kết hợp được với đại từ chỉ định. “Danh + là + Danh” kiểu 2: không bao giờ là một câu độc lập, và chỉ có thể là một thành phần của một câu độc lập khác. Cấu trúc câu kiểu này luôn kết hợp được với các đại từ chỉ định. Theo Trần Ngọc Thêm, cấu trúc kiểu 1 khi nghĩa của từ “là” biểu hiện quan hệ đồng nhất giữa Danh 1 và Danh 2. Danh 1 là tập hợp được xác định, có thể đơn nhất hay trên một phần tử. Quan hệ ngữ pháp của cấu trúc kiểu 1 là quan hệ chủ - vị. Ví dụ: (17) Em tôi là công nhân. Cấu trúc kiểu 2 khi nghĩa của từ “là” chỉ sự phụ thuộc của Danh 2 vào Danh 1. Danh 1 ở kiểu 2 là tập hợp không đơn nhất và không được xác định. Quan hệ ngữ pháp của kiểu cấu trúc 2 là quan hệ chính - phụ. Ví dụ: (18) Những cô gái là sinh viên. Đỗ Thị Kim Liên trình bày các nhóm từ chỉ quan hệ thân tộc biểu thị quan hệ so sánh trong các câu tục ngữ Việt cũng có nhắc đến từ so sánh “là”. Tuy nhiên, tác giả cho rằng khi câu tục ngữ chỉ quan hệ thân tộc có từ so sánh “là” thì “luôn vắng yếu tố cơ sở so sánh”, ở một số trường hợp có thể lược bỏ “là”. Ví dụ: (20) Cái bị là chị cái thúng.  Cái bị chị cái thúng. [54,số 11, tr.11] (21) Đậu nành là anh nước lã. Đậu nành anh nước lã. [54,số 11, tr.11] Khi lược bỏ “là”, các câu tục ngữ có nhóm danh từ chỉ quan hệ thân tộc có sự bù đắp hết sức tinh tế, từ ba nét nghĩa (giới tính, thứ bậc, quan hệ huyết thống) chúng chỉ còn lại một nét nghĩa. Ví dụ: “là” là vị từ so sánh. (22) Bàng già là bà lim.  Bàng già bà lim. Cái so sánh Cái được so sánh. Trong các câu tục ngữ chỉ quan hệ thân tộc, “là” có thể được coi như một vị từ so sánh. Ví dụ: “là”  vị từ so sánh (23) Cờ bạc là bác thằng bần. Cái so sánh Cái được so sánh (24) Chồng già vợ trẻ là tiên. Cái so sánh Cái được so sánh (25) Ruộng rẫy là chiến trường. Cái so sánh Cái được so sánh Nguyễn Thị Thanh Hương với bài viết “Bước đầu tìm hiểu về kiểu câu vị ngữ danh từ tiếng Việt” đã phân ra làm 5 tiểu loại ( câu vị ngữ danh từ nêu đặc trưng về số lượng; câu vị ngữ danh từ nêu lai lịch; câu vị ngữ danh từ nêu đặc trưng về màu sắc, mùi vị, hình thể; câu vị ngữ danh từ xác định thời gian, không gian; câu vị ngữ danh từ nêu quan hệ phân phối). Bài viết này cho thấy khá rõ tác giả đồng quan điểm với John Lyons, khi cho là cách dùng động từ “có” và động từ “là” trong các “câu vị ngữ động” khi chuyển qua kiểu “câu vị ngữ danh” của tiếng Việt có thể loại bỏ hoặc ngược lại khá thú vị. Tiểu loại câu vị ngữ DT xác định thời gian cho rằng “Tất cả các câu xác định thời gian, không gian cũng có thể được diễn đạt theo cấu trúc câu vị ngữ động từ, mà trong đó từ “là” làm thành tố chính” [55,số 4, 10] nhưng nếu diễn đạt theo cấu trúc vị ngữ DT (tức là lược bỏ vị từ “là”) thì sẽ cho ra cấu trúc câu ngắn gọn hơn, độc đáo hơn, mang đậm sắc màu Á Đông hơn. Ví dụ: (26) Lạt theo chân Keng đi luôn. Đến đầu ngõ thì gặp Ngọ. Hôm nay chủ nhật. ( ) Cô lên phố huyện chơi với bạn làm công trường trên đó. (Anh Keng- Nguyễn Liên) [55,số 4; tr.9] (27) Đây suối Lê-nin, kia núi Mác. (Hồ Chí Minh) [55,số 4, tr.9] Với tiểu loại “câu vị ngữ danh từ nêu đặc trưng về số lượng” thì “trừ các câu nêu số lượng tuổi, các câu nêu số lượng khác của tiếng Việt đều có thể kết hợp được với động từ có hay các tính từ khác mà không tạo ra sự khác biệt với người giao tiếp” [55, số 4; tr.8] Ví dụ: (28) Chiếc xe này ba bánh.  Chiếc xe này có ba bánh. [55,số 4; tr.8] (28) Vườn nhà tôi hai sào.  Vườn nhà tôi rộng hai sào. [55,số 4; tr.8] Tiểu loại “câu vị ngữ danh nêu lai lịch của con người” đều có thể kết hợp với động từ “là” để tạo thành câu có nghĩa tương đương. Ví dụ: - Cháu tên gì? (29) - Tui tên Nhọn. [55,số 4,8]  - Tui tên là Nhọn. (30) - Anh ấy kỹ sư. [55,số 4,8]  - Anh ấy là kỹ sư. Nói tóm lại, các nhà nghiên cứu trên ở những mức độ khác nhau đều đã đề cập đến câu quan hệ, hay tương tự “câu quan hệ sâu có từ là trong tiếng Việt”, nhưng vẫn chưa có sự phân tích kỹ lưỡng về kiểu câu này và chưa đưa ra đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của “câu quan hệ có từ là” trong tiếng Việt. 0.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Câu quan hệ của tiếng Việt là một loại câu rất phong phú và đa dạng. Điều kiện của một luận văn thạc sĩ không cho phép nghiên cứu toàn bộ những kiểu câu quan hệ như câu quan hệ sở hữu, câu quan hệ chu cảnh và các phương thức quan hệ của chúng nên chúng tôi chỉ xin giới hạn đề tài trong một phạm vi nhất định. Mục đích của luận văn là tìm hiểu câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt theo quan niệm ngữ pháp chức năng; xác định cái nhìn tổng quan về câu quan hệ trong tiếng Việt; thống kê, khảo sát các dữ liệu về câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt nhằm nêu lên được đặc điểm ngữ nghĩa và ngữ pháp của chúng, tần số xuất hiện của kiểu câu này trong các loại phong cách văn bản. Về cơ sở lý thuyết luận văn này dựa trên quan điểm của M.A.K. Halliday trong “ Dẫn luận ngữ pháp chức năng”. Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy có nhiều điểm tương đồng giữa kiểu và hai phương thức quan hệ định tính và đồng nhất của “câu quan hệ sâu” trong tiếng Anh mà Halliday nghiên cứu với câu quan hệ trong tiếng Việt. Bên cạnh đó, chúng tôi có tham khảo thêm các công trình nghiên cứu của các nhà ngữ pháp trong và ngoài nước khác như S.C. Dik, John Lyons, Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Vân, Nguyễn Thị Lan Anh, các tác giả quyển Ngữ pháp tiếng Việt của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam . 0.4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 0.4.1. Phương pháp nghiên cứu Ngoài những phương pháp và thủ pháp nghiên cứu khoa học chung như: thu thập dữ liệu, phân loại, luận văn chủ yếu sử dụng những phương pháp sau: - Phương pháp phân tích ngữ nghĩa – cú pháp : Phương pháp này dùng để phân tích ngữ nghĩa, cấu trúc của các loại câu quan hệ trong tiếng Việt. - Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được dùng khảo sát, miêu tả các loại câu quan hệ trong tiếng Việt. - Phương pháp thống kê: Thống kê ngữ liệu về mặt số lượng nhằm xác định tần số xuất hiện của loại “câu quan hệ có từ là” trong tiếng Việt trong văn bản thuộc những phong cách khác nhau. 0.4.2. Nguồn ngữ liệu Về ngữ liệu nghiên cứu, chúng tôi cũng giới hạn cụ thể như sau: Một số bài nghiên cứu khoa học (khoa học tự nhiên và khoa học xã hội), các bài nghiên cứu trong tạp chí nghiên cứu và phê bình văn học (phong cách ngôn ngữ khoa học) Truyện ngắn của các tác giả như Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Lý Biên Cương . (phong cách ngôn ngữ văn chương) Các tin tức trên một số báo điện tử, báo viết, truyền hình, lời kêu gọi của Bác (phong cách ngôn ngữ chính luận) Một số nghị quyết, nghị định, thông tư, hợp đồng, báo cáo, thông báo (phong cách ngôn ngữ hành chính) 0.5. Bố cục luận văn Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, phần Nội dung của luận văn được cấu trúc thành hai chương. Chương 1: Chương này tóm tắt quan điểm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữtrong và ngoài nước như Simon C. Dik, M.A.K. Halliday, Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Vân . về câu quan hệ, chủ yếu là quan điểm của M.A.K. Halliday về câu quan hệ. Đây là chương làm tiền đề cho việc miêu tả và khảo sát câu quan hệ trong tiếng Việt ở chương sau. Chương 2: Chúng tôi đi vào chức năng ngữ nghĩa của từ “là” trong câu quan hệ (câu quan hệ sâu theo Halliday), hình thức các tham thể xung quanh vị từ “là” trong câu quan hệ, thống kê và đưa ra tần số xuất hiện của kiểu câu này trong văn bản mà chúng tôi chọn làm ngữ liệu, có chú ý khảo sát trong một số phong cách văn bản. Chương này thông qua những dữ liệu thu thập, làm nổi rõ chức năng ngữ nghĩa và đặc điểm cấu trúc của loại câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt

pdf146 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2464 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Câu quan hệ có từ Là trong tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t biển khó quên. (216) “Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng. Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương. Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm.” (TV5) Hình thức này không thấy xuất hiện trong văn bản mang phong cách hành chính. x là a (danh từ không xác định) ٭ Hình thức: x là danh từ, ngữ danh từ, đại từ; a là lượng ngữ không xác định (lượng ngữ không xác định, quán ngữ không xác định, những từ ngữ biểu đạt ý về lượng: nhiều, ít, bao nhiêu, bấy nhiêu, ....) Ví dụ: (217) 1997^1998 = 25*k + 14 với k là một số tự nhiên nào đó. (218) Năm chục bạc đối với mình là mấy. ٭ Hình thức: x là danh từ, ngữ danh từ, đại từ , a là cụm từ cố định. Ví dụ: (219) Thế nào là “mềm nắn rắn buông” (220) Một đứa như vậy là “đầu bò đầu bướu” lắm ! (221) Thế nào là “mềm nắn rắn buông” (222) Thế là “sấm tan, mưa tạnh” (223) Toàn là “cây nhà lá vườn” cả. (224) Hoàn cảnh lúc này không phải là nước sôi lửa bỏng. (225) Cái điệu này là có voi đòi tiên. (226) Thế là sấm tan mưa tạnh. (Nguyễn Huy Thiệp, Con gái Thủy thần, 22.TD) (227) Cái tính của hắn là ăn không được thì đạp đổ. ٭Hình thức: x là động từ, ngữ động từ; a là danh từ không xác định, ngữ danh từ không xác định. Ví dụ: (228) Thổi thủy tinh là một phương pháp thủ công. (Giải đáp câu hỏi hóa học, 27.TD) (229) Bản chất cấu tạo của nam châm là một thanh thép. (Hóa học, 31.TD) (230) Đăng ký bản quyền là một nhiệm vụ không bắt buộc. (Hỏi đáp luật bản quyền, 28.TD). (231) Chăn dắt chúng là những vị Thần Thánh. (Đông Hòa, Hoài niệm trắng, 22.TD) (232) Sinh ra nó đã không phải là một con người. (NHThiệp, Cún, 22.TD) (233) Khóc là yếu hèn. ٭ Hình thức: x là tính từ, ngữ tính từ, danh từ, ngữ danh từ, ; a là danh từ, ngữ danh từ, đại từ, tính từ. Ví dụ: (234) Căn nhà này là rất đẹp. (235) Thói quen dậy sớm là tốt (236) Mọi người không bị sao là may rồi. ٭ Hình thức: x là tính từ, ngữ tính từ; a là tính từ, ngữ tính từ . Ví dụ: (237) Giả dối ôi là giả dối. (238) Đẹp ơi là đẹp. (239) Dịu dàng quá là yếu tâm hồn. (240) Chao ôi là ẫm ách! Chao ôi là oan uổng ! Chao ôi là vô tình ! (Nguyễn Huy Thiệp, Lòng mẹ) ٭Hình thức: x là tổ hợp ngữ khí từ (tiểu từ) như biết bao, biết mấy, biết bao nhiêu, quá, quá đỗi, quá chừng, quá mức, lắm, làm sao; a là danh từ không xác định, ngữ danh từ không xác định dùng thể hiện cảm xúc. Ví dụ: (241) Biết bao nhiêu là ân tình. (242) Nhưng bây giờ, trong cái phút đói này, chàng mới thấy rõ cái cần mạnh mẽ của miếng ăn là thế nào. (Thạch Lam, Đói) ٭ Hình thức: x là giới từ, ngữ giới từ như trên, dưới, trước, sau, trong, ngoài, bên trên, bên ngoài, phía trước, ... ; a là danh từ không xác định, ngữ danh từ không xác định. Ví dụ : (243) Ngoài trái đất là những thiên hà. (Em yêu khoa học, 31.TD) (244) Dưới nó là một vũng bùn to tướng. ٭Hình thức: x là lượng từ (số từ, đại từ); a là danh từ không xác định, ngữ danh từ không xác định./ x là lượng từ, a là tính từ, ngữ tính từ không ở hình thức so sánh cao nhất. Ví dụ: (245) Phải 300 là ít. (246) Ba chục bạc đối với mình là mấy (247) Ba chục đối với mình là một số tiền lớn. Bảng thống kê tần số xuất hiện của câu quan hệ định tính có từ “là” trong các phong cách văn bản tiếng Việt (qua các văn bản khảo sát) Văn bản Câu Văn bản khoa học Văn bản hành chính Văn bản chính luận Văn bản văn chương Câu quan hệ định tính có từ “là” 39 0 19 30 Tổng số câu khảo sát 1197 1348 386 3284 Tỷ lệ % 3,3 0 4,9 0,93 2.3. Tần số xuất hiện của câu quan hệ có từ “là” trong các phong cách văn bản tiếng Việt Sau đây chúng tôi trình bày kết quả thống kê các cứ liệu trong các văn bản thuộc phong cách khoa học, chính luận, hành chính và văn chương mà chúng tôi đã thu thập được. 2.3.1. Tần số xuất hiện của câu quan hệ có từ “là” trong văn bản mang phong cách văn chương Ví dụ: (248) Tôi là Trần Thị Hà.(38, p.1) (249) Trăm con chết chừng đôi ba con là nhiều. (65, p.1 ) (250) Thế là sướng. (11, p.1 ) (251) Thật là tiến thối lưỡng nan. (64, p.1) Luận văn đã khảo sát trên các cứ liệu lấy từ 10 văn bản truyện ngắn của Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Trần Dũng, Lý Biên Cương. Có 80 câu quan hệ có từ “là” trên 3284 câu của 10 văn bản. Tỷ lệ phân bố trung bình là 2,44 %, trong đó 1,04 % là câu quan hệ sâu định tính và 1,4 % là câu quan hệ sâu đồng nhất. 2.3.2. Tần số xuất hiện của câu quan hệ có từ “là” trong văn bản mang phong cách hành chính Ví dụ : Tôi tên là Nguyễn Văn A. (p.2 ) Vợ là Nguyễn Văn B. (p.2 ) (252) Chế độ giãn dòng là Exactly 17 pt. (p.2) Loại câu quan hệ sâu rất hiếm gặp trong các văn bản mang phong cách hành chính, nếu có gặp thì thường là loại câu quan hệ sâu đồng nhất. Luận văn đã khảo sát trên các cứ liệu lấy từ 10 văn bản hành chính như nghị quyết, nghị định, thông báo … trên tổng cộng 1384 câu của 19 văn bản được khảo sát chỉ có 7 câu quan hệ có từ “là”, 7 câu quan hệ này đều là các câu quan hệ đồng nhất. Qua khảo sát luận văn đưa ra tỷ lệ xuất hiện của kiểu câu quan hệ sâu có từ «là», trong các văn bản mang phong cách hành chính bản là 0,51 %, trong đó 0 % là câu quan hệ định tính, 0,51 % là câu quan hệ đồng nhất. Như vậy, theo khảo sát của luận văn, tần số xuất hiện của câu quan hệ có từ «là» trong phong cách văn bản hành chính thấp nhất so với ba phong cách còn lại. 2.3.3. Tần số xuất hiện của câu quan hệ có từ « là » trong văn bản mang phong cách chính luận Ví dụ: (257) Đó là một chất cực độc. (3, p.3) (258) Tôi tự hào là người Việt Nam. (4, p.3) (259) Hoa đào Nhật Tân là di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. (20, p.3) (260) Kiệm là tiết kiệm, không hoang phí, không bừa bãi. (31, p.3) Luận văn khảo sát các cứ liệu lấy từ 10 văn bản chính luận như Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ Tịch, Lời kêu gọi của Hội nghị Quốc tế Nạn nhân chất Da cam / Dioxin Hà Nội, Nước cờ sai của Sakahvili của Hiếu Trung, Tôi tự hào là người Việt Nam của báo Tuổi trẻ, ... Với tổng cộng 386 câu trên 10 văn bản chính luận có 51 câu quan hệ có từ là. Tỷ lệ xuất hiện của kiểu câu quan hệ có từ « là » trong các văn bản mang phong cách hành chính là 13,2 %, trong đó 4,9% là câu quan hệ định tính, 8,3 % là câu quan hệ đồng nhất. Như vậy, theo khảo sát của chúng tôi, tần số xuất hiện của câu quan hệ có từ ‘‘là’’ trong phong cách văn bản chính luận cao nhất so với ba phong cách còn lại. 2.4.4. Tần số xuất hiện của câu quan hệ có từ « là » trong văn bản mang phong cách khoa học Ví dụ : (261) ‘‘Vua chết rồi hoàng hậu qua đời vì u buồn’’ là một cốt truyện. (15, p.4) (262) Trong cả bài thơ, mỗi từ là một nốt nhạc. (15, p.4) (263) Đó là màu yêu, là nhịp tim, điệu hồn. (18, p.4) (264) Thơ là đau thương. (32, p.4) (265) Thơ là một trò chơi. (37, p.4) Luận văn khảo sát các cứ liệu từ 10 văn bản mang phong cách khoa học gồm khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Có 1197 câu trên 10 văn bản khoa học, trong đó có 113 câu quan hệ có từ « là ». Tỷ lệ xuất hiện của kiểu câu quan hệ có từ «là»trong các văn bản mang phong cách khoa học là 9,46 %. Trong đó 3,35 % là câu quan hệ định tính, 6,11 % là câu quan hệ đồng nhất. Đây là một tỷ lệ khá cao trong 4 phong cách văn bản được khảo sát. Tiểu kết: Ở chương này, luận văn đã khảo sát chức năng ngữ nghĩa của kiểu câu quan hệ có từ “là” (câu quan hệ sâu) trong tiếng Việt. Vị từ “là” là một vị từ đặc biệt trong khung vị ngữ có thể tạo ra ra những câu quan hệ có chức năng ngữ nghĩa khác nhau rất phong phú, đa dạng. Không chỉ vậy, hình thức của các tham thể xoay quanh vị từ “là” rất đa dạng cũng đã góp phần tạo nên sự phong phú về ngữ nghĩa, ngữ dụng cho câu quan hệ sâu trong tiếng Việt. Ngoài ra, luận văn cũng đã thống kê và khảo sát các cứ liệu là câu quan hệ có từ “là” trên các văn bản đại diện cho một số phong cách (bao gồm phong cách khoa học, chính luận, hành chính và văn chương ) để đưa ra được tần số xuất hiện của kiểu loại câu này trong những văn bản tiếng Việt đã khảo sát như sau: Văn bản Câu Văn bản khoa học Văn bản hành chính Văn bản chính luận Văn bản nghệ thuật Câu quan hệ định tính có từ “là” 39 0 19 30 Câu quan hệ đồng nhất có từ “là” 71 7 32 45 Tổng số câu khảo sát 1197 1384 386 3284 Tỷ lệ % 9,2 0,51 13,2 2,3 KẾT LUẬN Do đặc điểm loại hình của tiếng Việt nói chung và vị từ “là” tiếng Việt nói riêng, câu quan hệ có vai trò quan trọng trong cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt và có một vị trí riêng bên cạnh các loại câu hành động, câu quá trình, câu trạng thái … 1. Luận văn đã tiếp thu những thành tựu nghiên cứu về ngữ nghĩa học, ngữ pháp học theo quan điểm chức năng, đặc biệt là các công trình nghiên cứu của M.A.K. Halliday. Luận văn đã điểm qua khái niệm về câu theo hai quan điểm ngữ pháp truyền thống và ngữ pháp chức năng, xác định khái niệm về câu quan hệ trong tiếng Việt 2. Luận văn đã thu thập và khảo sát được khoảng trên 470 câu quan hệ có từ ‘là” (câu quan hệ sâu theo quan niệm của M.A.K. Halliday) trong nhiều loại văn bản thuộc các phong cách khác nhau của tiếng Việt. 3. Dựa trên lý thuyết câu quan hệ của M.A.K. Halliday, luận văn cũng đã phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa câu quan hệ định tính và câu quan hệ đồng nhất có từ “là” trong tiếng Việt, đồng thời thấy được đặc điểm chức năng của vị từ “là”, một vị từ đặc biệt, xuất hiện trong câu quan hệ sâu tiếng Việt. Trong câu quan hệ, “là” là vị từ quan hệ, tuy không có ý nghĩa từ vựng nhưng có khả năng đóng vai trò vị từ trung tâm, thiết lập mối quan hệ được giữa Bị đồng nhất thể và Đồng nhất thể, Đương thể và Thuộc tính thể. 4. Qua các ngữ liệu khảo sát chúng tôi nhận thấy có một vài phong cách văn bản (chẳng hạn phong cách văn bản hành chính ) tần số xuất hiện của câu quan hệ định tính, quan hệ đồng nhất có từ “là” là rất thấp. Theo những ngữ liệu mà luận văn khảo sát được, tần số câu quan hệ sâu xuất hiện thấp nhất là ở loại văn bản mang phong cách hành chính (0,51% - trong đó tần số xuất hiện của câu quan hệ sâu định tính là 0% ), tần số xuất hiện cao nhất của câu quan hệ sâu là ở các phong cách văn bản mang phong cách chính luận (13%) 5. Những kết quả đạt được của luận văn: Về mặt lý luận: Luận văn hy vọng đã tổng hợp được về cơ bản một số vấn đề lý thuyết câu và câu quan hệ, đặc biệt là câu quan hệ sâu có từ “là” theo khuynh hướng ngữ pháp chức năng. Công việc tìm hiểu chức năng ngữ nghĩa và đặc điểm cấu trúc, kết quả thống kê khảo sát các ngữ liệu của câu quan hệ có từ “là” đã giúp chúng tôi thấy rõ hơn bản chất ngữ nghĩa, tỷ lệ phân bố của loại câu này trong các phong cách văn bản tiếng Việt. Về thực tiễn: Bản thân là một giáo viên giảng dạy ngữ văn, việc nghiên cứu câu quan hệ giúp tôi hiểu thêm đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của câu quan hệ trong tiếng Việt đồng thời đóng góp được một hệ thống dẫn chứng phong phú, chân thực cho những ai muốn tìm hiểu thêm về loại câu này. Ngoài ra , kết quả của luận văn cũng có thể góp phần hỗ trợ cho bản thân trong việc biên soạn những tài liệu học tập, giảng dạy về câu nói chung và câu quan hệ nói riêng và góp phần hỗ trợ cho thực tiễn nói viết tiếng Việt. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Lan Anh (2006), “Đặc trưng ngữ nghĩa của sự tình quan hệ so sánh trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 2. 2. Bùi Minh Toán-Lê Thị Lan Anh (2006), “Câu quan hệ tiếng Việt: Sự hiện thực hóa các thành tố của sự tình quan hệ”, Ngôn ngữ, số 10. 3. Diệp Quang Ban (2001), Ngữ pháp Việt Nam (phần câu), Nxb Đại học Sư phạm. 4. Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục. 5. Diệp Quang Ban (chủ biên)- Hoàng Văn Thung (2005), Ngữ pháp tiếng Việt tập1&2 , Nxb Giáo dục. 6. Nguyễn Đức Dân (1976), Lôgic- Ngữ nghĩa- Cú pháp, Nxb ĐH& THCN, Hà Nội. 7. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, Nxb GD, Tp HCM. 8. Nguyễn Đức Dân (1998), Lôgic và tiếng Việt, Nxb GD, Tp HCM. 9. Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào (1995), Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn hóa. 10. Đinh Văn Đức (2001), Ngữ pháp tiếng Việt- Từ loại, Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội. 11. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục. 12. Nguyễn Thiện Giáp (1995), Từ vựng học tiếng Việt hiện đại, Nxb ĐH & THCN, Hà Nội. 13. Cao Xuân Hạo (2004), Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng, Nxb Giáo dục. 14. Cao Xuân Hạo (chủ biên)- Hoàng Xuân Tâm- Nguyễn Văn Bằng- Bùi Tất Tươm (2001), Ngữ pháp chức năng tiếng Việt (quyển 1) Câu trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục. 15. Cao Xuân Hạo- Lý Tùng Hiếu- Nguyễn Kiên Trường- Võ Xuân Trang- Trần Thị Tuyết Mai (2002), Lỗi ngữ pháp và cách khắc phục, Nxb Khoa học Xã hội. 16. Trần Hoàng (tuyển chọn) (2001), Tài liệu tham khảo về ngữ pháp tiếng Việt. 17. Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Minh Thuyết (1998), Thành phần câu tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 18. Vũ Gia Hiền (2006), Để viết bài luận tốt, Nxb Lao động. 19. Hoàng Dũng, Bùi Mạnh Hùng (2007), Giáo trình Dẫn luận Ngôn ngữ học, Nxb Đại học Sư phạm. 20. John Lyons, Nguyễn Văn Hiệp dịch (2006), Ngữ nghĩa học dẫn luận, Nxb Giáo dục. 21. John Lyons, Vương Hữu Lễ dịch (1996), Nhập môn ngôn ngữ học lý thuyết, Nxb Giáo dục. 22. Đinh Trọng Lạc (chủ biên)-Nguyễn Thái Hòa (1997), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục. 23. Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ và Phạm Duy Khiêm (1949), Việt Nam văn phạm, Nxb Tân Việt, Sài Gòn. 24. M.A.K.Halliday (2001), Hoàng Văn Vân dịch, Dẫn luận ngữ pháp chức năng, Nxb Đại học Quốc gia HN. 25. Nguyễn Thanh Nhàn, Vị từ tình thái trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, tp.HCM 26. Hoàng Phê (chủ biên) (1996), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. 27. Nguyễn Thị Kim Quyên (2007), Vị từ gây khiến trong tiếng Việt, Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, tp.HCM. 28. Nguyễn Thị Quy (1995), Vị từ hành động tiếng Việt, Nxb KHXH, Tp HCM. 29. Simon C.Dik (2005), Nguyễn Vân Phổ, Trần Thủy Vịnh, Nguyễn Hoàng Trung, Đào Mục Đích, Nguyễn Thanh Phong dịch, Cao Xuân Hạo hiệu đính, Functional Grammar - Ngữ pháp Chức năng, Nxb Đại học Quốc gia TP HCM. 30. Bùi Đức Tịnh (1996), Văn phạm Việt Nam, Nxb Văn hóa. 31. Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt mấy vấn đề ngữ âm- ngữ pháp- ngữ nghĩa, Nxb Giáo dục. 32. Cù Đình Tú (2001), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục. 33. Nguyễn Kim Thản (1983), Cơ sở ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Hà Nội. 34. Nguyễn Kim Thản (1977), Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, Nxb GD, Hà Nội. 35. Hoàng Văn Thung – Lê A (1995), Ngữ pháp tiếng Việt, Đại học Sư phạm Hà Nội. 36. Nguyễn Minh Thuyết,Nguyễn Văn Hiệp (2004), Thành phần Câu tiếng Việt, Nxb ĐHQG, Hà Nội. 37. Trần Ngọc Thêm (1977) “Bàn thêm về cấu trúc ‘‘Danh+ là+ Danh’’, Ngôn ngữ, số 1. 38. Trần Ngọc Thêm (1995), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb KHXH, Hà Nội. 39. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb GD, Tp HCM. 40. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1983), Ngữ pháp Việt Nam, Nxb KHXH- Hà Nội. 41. Hoàng Văn Vân (2005) Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt: Mô tả theo quan điểm chức năng hệ thống, Nxb KHXH. 42. Đoàn Phi Yến, Cấu trúc Đề Thuyết trong thơ lục bát cổ điển và thơ lục bát hiện đại, Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, tp.HCM. 43. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Bộ Công thương, Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại, Các văn bản Pháp quy, số 39 ngày 29/9 – 5/10/2008. 2. Bộ Công thương Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại, Các văn bản Pháp quy, số 41ngày 13/10/2008. 3. Bộ Công thương Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại, Các văn bản Pháp quy, số 46 ngày 17/11 – 23/11/2008. 4. Bộ Giáo dục và Đào tạo Trường Đại học Thủy Sản, Chỉ thị của Hiệu trưởng V/v tổ chức giảng dạy và thi học kỳ (1998), số 473 CT/ĐT 5. Bộ Xây dựng,Quyết định của Bộ trưởng Bộ Xây dựng v/v ban hành Định mức chi phí quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình(2005), số 10/2005/ QĐ-BXD. 6. Bộ Giáo dục và Đào tạo trường Đại học Sư phạm, Quy định về đề cương nghiên cứu và luận văn thạc sĩ. 7. Bộ Giáo dục và Đào tạoTrường Đại học Nha Trang, Thông báo V/v triển khai kế hoạch học và thi ngoại ngữ đối với cán bộ giảng dạy, số 421/TB-ĐHNT-TC. 8. Bộ Xây dựng, Định mức chi phí quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình (Ban hành kèm theo Quyết định số10/2005/QĐ-BXD ngày 15/4/2005 của Bộ trưởng Bộ Xây dựngHọc viện chính trị Quốc gia HCM (số 1/ 2005) Các văn bản Pháp quy, số 4-2008, 7-2008, 11- 2008. 9. Nam Cao, Ngô Tất Tố, Hải Triều (2005), Tác phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Văn học Hà Nội. 10. Nghiên cứu văn học Tạp chí nghiên cứu lý luận và lịch sử văn học, Viện văn học –Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, số 7-2008, 10-2009, 11-2008. 11. Phan Cự Đệ (chủ biên), Bùi Việt Thắng, Hà Văn Đức, Lý Hoài Thu, Hồ Thu Giang, Nguyễn Thị Hương Giang (2004), Văn học Việt nam thế kỷ XX Truyện ngắn 1994-1975, Nxb Văn học 12. Tạp chí Ngôn ngữ số 1 (2001); 2, 3 (1991);6 (1998); 9 (2002, 2006),10; 11(2001), 14 (2001) 13. Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống số 1+2 (123+124) (2006), 5 (127) (2006), 9 (2002) 14. Thông tin công tác Trường Chính trị (2005), Quyết định v/ v ban hành quy định tạm thời về tổ chức thao giảng, dự giờ ở các trường chính trị tỉnh, thành phố, Học viện Hành chính Quốc gia, số 1, trang 1. 15. Thông tin công tác Trường chính trị (2005), Quy định tạm thời về tổ chức thao giảng, dự giờ ở các trường Chính trị tỉnh, thành phố, Học viện hành chính quốc gia, số 1, trang 2-4. 16. Thông tin công tác Trường Chính trị (2005), Quy định tạm thời về tổ chức thao giảng, dự giờ ở các trường Chính trị tỉnh, thành phố, Học viện Hành chính Quốc gia, số 1, trang 2-4. 17. Thông tin công tác Trường chính trị (2005), Thông báo về việc tổ chức Hội thi giảng viên dạy giỏi ở các trường Chính trị tỉnh, thành phố năm 2005, Học viện Hành chính Quốc gia, số 1, trang 5.38 18. Thông tin công tác Trường Chính trị (2005), Thông báo về việc tổ chức Hội thi giảng viên dạy giỏi ở các trường Chính trị tỉnh, thành phố năm 2005, Học viện Hành chính Quốc gia, số 1, trang 5.38 19. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Nai Sở Giáo dục & Đào tạo, Tài liệu Hội nghị điển hình tiên tiến ngành Giáo dục & Đào tạo (2005) 20. Viện Mác- Lênin, Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 7(1987), Nxb Sự Thật. Internet: 21. 22. 23. 24. 25. 26. 27. 28. 29. 30. 31. Phụ lục 1 Ngữ liệu lấy từ các truyện ngắn của Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Trần Dũng, Lý Biên Cương ... Stt Câu quan hệ sâu có từ “là” Tác giả, tác phẩm, số trang tr Câu qhs định tính có từ “là” Câu qhs đồng nhất có từ “là” Ghi chú 1 Mắng một vài câu, đã đủ mang tiếng là con người tệ. 18 X 2 Mỗi lần đổi chủ là một lần hạ giá. Nam Cao, Một bữa no 397 câu 19 X 3 Nó cũng là thằng khá, nó thấy bố nói thế thì nó thôi ngay, nó không đả động gì đến chuyện cưới xin gì nữa. 30 X 4 Đến tháng 7 này là vừa bốn năm. 31 X 5 Kiếp chó là kiếp khổ thì ta hóa ra kiếp nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút ... kiếp người như kiếp tôi chắng hạn. 34 X 6 Chẳng có kiếp gì là Nam Cao, Lão Hạc [16] (327câu) 35 X sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: bây giờ cụ ngồi xuống phản này chơi, tôi đi luộc mấy của khoai, nấu một ấm trà thật đặc, uống nước chè, rồi hút thuốc lào... 7 Thế là sướng. 35 X 8 Đối với chúng mình thì thế là sung sướng. 35 X 9 Thế là được chứ gì. 35 X 10 ...; tôi là người nhiều chữ nghĩa, nhiều lý luận, người ta kiêng nể; ... 35 X 11 ; lão còn được hai mươi lăm đồng bạc, với năm đồng bán chó nữa là ba mươi đồng bạc, muốn gửi tôi để nhỡ có chết, thì tôi đem ra, nói với hàng xóm giúp, gọi là của lão có tý chút, con bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả ... 36 X 12 ..., không bao giờ ta thấy họ là người đáng 37 X thương. 13 Đấy là một đồng chí tân binh vui, khỏe, xốc vác nhưng tính tình hơi lẳng lơ một tý. 7 X 14 Con đường miền Tây dạo ấy đang mùa mưa, nhưng địch đánh rát lắm; những quãng qua khe ngầm, nhất là quãng cầu đá xanh, anh chị em giao thông đang vật nhau với địch để quyết giữ con đường biên giới. 8 X 15 Nhưng dầu sao nó cũng là một việc riêng. 8 X 16 Rõ ràng tiếng trả lời của một người đàn bà, tiếng nói trong lắm và rất bình tĩnh, cứng cỏi nữa là khác. 10 X 17 Thôi đi cô, đáng lý tôi đã mời cô xuống xe, đây là xe chở hàng quân sự. 10 X 18 Em là công nhân giao thông. Nguyễn Minh Châu, Mảnh trăng cuối rừng [,] 376 câu 10 X 19 Trong tổ đá của chị tôi có một cô tên là Nguyệt. 11 X 20 Phải, Nguyệt là trăng. 11 X 21 Em là ... Nguyệt. 13 X 22 Ở trong đội ngầm của cô có nhiều cô tên là Nguyệt lắm thì phải? 13 X 23 Chúng em thường gọi đùa là chị Nguyệt “lão”. 14 X 24 Một trong hai người, ai là người tôi sắp tìm đến? 14 X 25 Người tôi sắp tìm đến là ai? 14 X 26 Tôi tin chắc chắn người con gái ngồi cạnh mình là Nguyệt, chính cái người mà chị tôi từng nhắc đến. 15 X 27 Mà cô có xuống từ dưới kia tôi cũng không bao giờ nghĩ cô là một người khi khó khăn thì bỏ người khác. 17 X 28 Tôi chợt nhận ra 18 X mình đang đứng giữa một cái khe chỉ vừa một người, hai bên là hai gốc cây to. 29 Lát sau, mới biết chị là tổ trưởng nấu ăn của đội, đấy chính là chị Nguyệt lão, một người bạn thân thiết của chị tôi từ lâu. 20 X 30 Khuôn mặt tròn, hơi trẻ con là đằng khác. 180 X 31 Gọi là mới ấy là so với anh. 180 X 32 Tôi là Trần Thị Hà. 181 X 33 Đấy, quê anh nghèo khổ thân yêu là thế. 181 X 34 Anh là Tiên, có cái tên để người đời chê hoặc khen. 181 X 35 Chẳng lẽ em là kỹ sư nghề hàn, em lại không nghe thấy tiêng nói lòng anh ? 182 X 36 Chính tao, tao là du kích đấy. 183 X 37 Người ngoài nhìn nó, ví von là sao, là hoa Lý Biên Cương, Hồ Quang [,] 381 câu 184 X cà hoa cải. 38 Ấy là những ngày đầu Hà đến với anh, chóng thế. 185 X 39 Cứ thế cho đến chuyện xô xát trưa hôm nay, Nhàn không nhớ là lần thứ bao nhiêu nữa. 317 X 40 Tổ đổi công của anh hồi ấy rất em thấm, rất ít khi trong tổ có chuyện xô xát, bà con lại còn bầu anh là người gương mẫu sản xuất. 317 X 41 Đám nam nữ thanh niên trong làng thì chê Nhàn là người đa thê, lạc hậu, phong kiến. 317 X 42 Thực ra chị ta vốn là người tốt. 318 X 43 Ngoài cái tính lắm điều hay ghen của chị làng xóm láng giềng ai cũng phải công nhận chị ta là người chăm làm. 319 X 44 Giống người hay Trần Dũng, Hai vợ [,] 465 câu 323 X giống chó mà không biết ngượng là gì ? 45 Anh muốn kéo vợ vào đất liền, kiếm một căn nhà, một mảnh đất và muốn vợ mình chỉ còn là một người vợ thuần túy. 127 X 46 Ấy là một chuyến vượt biển khó quên. 128 X 47 Hai đốm lửa cháy kia là đảo gọi riêng em. 129 X 48 Tôi là Quyền, Nguyễn Duy Quyền, pháo thủ số 1 khẩu đội 2. 133 X 49 Giá nói, là các cụ lại cho là vợ chồng là cái duyên cái số đây. 137 X 50 Mình nghĩ khác, vợ chồng đến được với nhau, chẳng qua là hợp nhau. 137 X 51 Ấy là những năm xa cách nhau. 138 X 52 Con ơi là con, nhà mình có năm có bảy gì cho cam, chỉ có mỗi mống ... Lý Biên Cương, Đảo nhỏ [,] 612 câu 138 X 53 Trong Len, anh là đảo. 139 X 54 ... thuốc «Ngọc bình phong» là thuốc cầm mồ hôi rất diệu. Ngô Tất Tố, Tôi còn sống vì tôi không uống thuốc, tập truyện ngắn Dao cầu thuyền tán (59câu) X Nguồn : Internet Thư viện online v 55 Rút cục, cụ thứ nhất thắng, vì đã nói đến sách Phùng thị, thứ sách mà nhà chủ nói là môn vương đạo. X 56 Cái lệ cụ lang đến sau phải công kích cụ lang đến trước là cố nhiên rồi. X 57 Ai uống thuốc của họ mà khỏi, chỉ là sự ngẫu nhiên. X 58 Thật là tấn thối lưỡng nan! Sơn Nam, Mùa len Trâu, Tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau. 196câu X 59 Trăm con, chết chừng đôi ba con là nhiều. X 60 Như vậy là mình bất nhân. X 61 Như, tiều, canh, mục là bốn điều quan trọng nhất. X 62 Voi đi một lần đôi ba chục con là cùng, cọp đi hai ba con là nhiều. X 63 Sao không ừ hử gì ráo, hay là ngủ rối... X 64 Ðằng xa kia là Bảy Núi, nơi mà giờ này thằng Nhi và hai con trâu của chú đang tung hoành, sắp lội nước hằng mươi cây số để vượt ra mé biển đến vùng rừng tràm miệt Linh Quỳnh. X 65 Mừng con, tiếc của là một lẽ. X 66 Nghe dễ là gần sáng. Tô Hoài, Cái áo tế, Tập truyện ngắn Tô Hoài. 393 câu X 67 Thế này là trái tiết, người ta dễ ốm, con cua con ếch thì lo xa X tránh rét nghe sấm đã ẩn vào trong hang cả rồi. 68 Cũng chẳng biết “đâu khắc có đấy rồi” là thế nào, lão đâm ra cuống, đến lúc lại nghe yên tâm nói thế, ông Đợ lại yên tâm vu vơ, lại thấy ông từ Hoả mới là tay tháo vát. X X 69 Chỉ nửa buổi, đã đẽo xong đôi guốc gộc tre, gọi là đôi guốc, đôi giày, đôi hia gộc tre cũng được. X 70 Thế mới biết Tây người ta nói “phú quý sinh chữ nghĩa” là phải. Nguyễn Công Hoan, Bà chủ mất trộm, tập truyện ngắn Tuyển tập Nguyễn Công Hoan. 91câu X 71 Nhất là thời thường, dăm bẩy ông Tây, bà đầm đến dự tiệc khi về, ai cũng tươi cười, bắt tay, cảm ơn bà rất vui vẻ X 73 Bà mới biết lời quan X ông thường nói khi trước là chí lý. 74 Giống An-nam là giống nói dối và ăn cắp. X 75 Thực là đàn bà hiếm có, quảng giao mà tháo vát đủ việc. X Tổng số câu khảo sát 3284 câu/ 10vb 30 45 Tỷ lệ phân bố tính theo tỷ lệ % 2,3 0,093 1,37 Phụ lục 2 Ngữ liệu lấy từ các văn bản nghị quyết định, thông báo ... stt Câu quan hệ sâu có từ ‘‘là’’ Nguồn, tổng số câu từng văn bản tr Câu qhs định tính có từ ‘‘là’’ Câu qhs đồng nhất có từ ‘‘là’’ Ghi chú * Không Bộ giáo dục và đào tạo, Quy định về lề lối và chế độ làm việc của cán bộ hướng dẫn thực hành. 26 câu 1 Tuyệt nhiên không có câu quan hệ có từ «là» * Không PGĐ. PGS. Tô Huy Rứa, Quyết định v/v ban hành tạm thời về tổ chức thao giảng, dự giờ ở các trường chính trị tỉnh, thành phố. 14 câu 1 nt * Không PGĐ. PGS Tô Huy Rứa, Quy định tạm thời về việc tổ chức thao giảng dự giờ ở các trường chính trị, thành phố. 91 câu Tuy nhiên có 3 câu quan hệ sở hữu có «là», và 4 câu quan hệ cảnh huống. (xem phụ lục) * Không Thông báo v/v triển khi kế hoạch học và thi ngoại ngữ đối với cán bộ giảng dạy. 17 câu Tuyệt nhiên không chứa câu qhs có từ «là» 1 Tại mỗi tiểu mục phải có ít nhất hai tiểu mục, nghĩa là không thể có tiểu mục 2.1.1 mà không có 2.1.2 tiếp theo. Quy định về đề cương nghiên cứu và luận văn thạc sĩ 3 X 2 Việc trình bày phương trình toán học trên một dòng đơn hay dòng kép là tùy ý, tuy nhiên phải thống nhất trong toàn luận án. X 3 Chế độ giãn dòng là Exactly 17 pt. 132 câu 5 4 Tác giả là người nước ngoài : xếp thứ tự ABC theo họ. 6 X 5 Tác giả là người Việt Nam: xếp thứ tự ABC theo tên, nhưng vẫn giữ thứ tự thông thường của tên Việt Nam, không đảo tên trước họ. 6 X 6 Tài liệu là sách, báo luận văn phải ghi đầy đủ các thông tin sau. 6 X * Không PGĐ. Nguyễn Văn Sáu, Thông báo v/v tổ chức thi giảng viên dạy giỏi các trường chính trị thành phố năm 2005. 16 câu Có chứa một số câu quan hệ có từ « là » chu cảnh, sở hữu. * Không Định mức chi phí ... của bộ Xd 67 câu Tuyệt nhiên không chứa câu quan hệ có từ là. * Không Chỉ thị của hiệu trưởng v/v tổ chức giảng dạy, kiểm tra và thi học kỳ (1998) 32 câu Chỉ có 1 câu qh chu cảnh có từ là * Bộ giáo dục và đào tạo trường ĐHTS số 591/Qđ tạm thời về đảm bảo chất lượng giảng dạy. 32câu Tuyệt nhiên không chứa câu quan hệ có từ là. * Nguyễn Tấn Dũng, Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Các văn bản pháp quy, số 39, tr 1- 5 155 câu 4 Có chứa một số câu quan hệ có từ « là » chu cảnh, và sở hữu. * Thủ tướng chính phủ, quyết định ban hành quy chế quản lý tài chính đối với họat động tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ, ứng phó thiên tai, thảm họa, số 118/2008/Qđ-TTg [các văn bản pháp quy, tr6-11] 146câu Có chứa một số câu quan hệ có từ « là » chu cảnh, và sở hữu. * Không Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn, Thông tư hướng dẫn thi hành một số biện pháp xử lý nợ đọng thuế. [VBPQ, tr 23- 26] 108câu Có chứa một số câu quan hệ có từ « là » chu cảnh * Không Thứ trưởng Trần Xuân Hà, Quýêt định về cơ chế quản lý, điều hành giá bán xăng dầu [VBPQ, tr 38-39] 16 câu Tuyệt nhiên không chứa câu quan hệ có từ là * Không Thứ trưởng thường Tuyệt trực Lê Nam Thắng, Quyết định bàn về ban hành giá cứơc bản tin nhắn và tỷ lệ phân chia giá cước bản tin nhắn đến cổng thông tin điện tử nhân đạo Quốc gia [VBPQ,tr53] 19câu nhiên không chứa câu quan hệ có từ là * Không Thứ trưởng Đinh Trung Tụng, Quyết định phê duyệt kế hoạch triển khai Nghị định số 66/2008/Nđ- Cp ngày 28/05/2008 của chính phủ về việc hỗ trợ cho doanh nghiệp, [VBPL,số 39, tr.74] 105 câu Tuyệt nhiên không chứa câu quan hệ có từ là Không TT Nguyễn Tấn Dũng, Nghị định quy định chức năng, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp [VBPQ,tr1-4] 113 câu Tuyệt nhiên không chứa câu quan hệ có từ là Không Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng, Quyết định Ban hành Quy chế 93 Tuyệt nhiên không bảo vệ bí mật nhà nước trong ngành Công Thương [văn bản pháp quy số 41,tr.91-96] 179câu chứa câu quan hệ có từ là Không Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển, Quyết định Ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú,[VBPQ,87-91] 131 câu 88 Tuyệt nhiên không chứa câu quan hệ có từ là Tôi tên là: NguyễnVăn A Văn bản cam kết về tài sản. 13câu Vợ là : Nguyễn Văn B Tổng số câu khảo sát 1384 câu/ 19 văn bản 0 7 Tần số xuất hiện tính theo tỷ lệ % 0,51 0 0,51 Phụ lục 3 Ngữ liệu được chọn là văn bản : Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ Tịch, Lời kêu gọi của Hội nghị Quốc tế Nạn nhân chất Da cam/dioxin Hà Nội, Nước cờ sai của Saakahvili của Hiếu Trung, Tôi tự hào là người Việt Nam của Báo tuổi trẻ.com, .. stt Câu quan hệ sâu có từ “là” Tác giả, tác phẩm, số câu từng văn bản khảo sát tr Câu qhs định tính có từ “là” Câu qhs đồng nhất có từ “là” Ghi chú 1 Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập. (45câu) X 2 Nhiều cháu sinh ra không hề biết chiến tranh là gì nhưng đã phải mang hình hài đầy dị tật khiến cho các cháu không bao giờ được hưởng hạnh phúc đơn giản nhất là được sống như một người bình thường! Lời kêu gọi của Hội nghị Quốc tế Nạn nhân chất Da cam/dioxin Hà Nội (11/05/2006) (35) X 3 Đó là một chất cực độc. X 4 Tôi tự hào là người B.D, Tôi tự hào X VN. là người Việt Nam. (12câu) 5 Một trong hai công cụ hữu ích của Internet đối với đại đa số giới trẻ là Yahoo . X 6 Không chỉ là những câu chuyện phiếm, những icon buồn - vui, mà còn là một nhắn gửi thiêng liêng: tự hào dân tộc. X 7 Cách đây không lâu, một bạn SV trường ĐH KHXH&NV TP.HCM email về cho Tuổi Trẻ với mong muốn được chào cờ đầu tuần như cái thuở còn là học sinh. X 8 Một thông điệp không lời nhưng cũng đủ gửi đến cộng đồng bạn bè trên mạng, người cậu du học sinh ấy quen biết: rằng tôi là người VN và tôi tự hào là người VN. X 9 Trong đó đa số là đôla và gần 40 điện thoại di động. Xã luận xã hội, Sòng bạc các quý bà. (9 câu) X 10 Con bạc thắng nhiều nhất là "nữ quái" Năm Bê (56 tuổi, ngụ phường Bình Hưng Hòa A). X 11 Năm Bê là một tay cờ bạc nữ chuyên nghiệp. X * Không Việtnamnet, Thủ tướng yêu cầu xử lý xe công đi chợ, đi chùa. (7câu) 12 Trong 3 bạn, Anh Tuấn là người giỏi tiếng Việt nhất. Để giữ "xuân" cho tuổi trẻ Việt Nam trong và ngoài nước (84câu) X 13 Năm 2006 là năm kỷ niệm 50 năm Ngày truyền thống Hội Liên hiệp thanh niên VN, là năm tăng tốc đẩy mạnh hoạt động Hội, đưa phong trào thanh niên lên tầm X cao mới gắn với việc mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên, trong đó thanh niên Việt kiều là bộ phận quan trọng. 14 Thật sự đây là buổi họp mặt rất thú vị và bổ ích. X 15 Tôi muốn cho con tôi giao lưu văn hóa với người Việt, biết cội nguồn, biết thanh niên VN là như thế nào. X 16 Tôi lo nhất con mình là người Việt mà lại không biết tiếng Việt. X 17 Chị muốn đưa con gái về nước thường xuyên hơn, và đặc biệt là đến giao lưu tại những buổi họp mặt như thế này để cháu có điều kiện tiếp xúc, hiểu biết, gần gũi hơn với đất mẹ, với truyền thống và văn hóa Việt… 18 Có một điều mà tôi muốn chia sẻ cùng anh chị và các bạn: cho dù tôi ở bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì cũng luôn tự hào mình là người VN. X 19 15.000m2 là Dinh đào và khu “mẫu chín” có lẫn cả 58 hộ dân đang sinh sống. Nguyễn Thị Kim Loan, Đào Nhật Tân còn hay mất. (58câu) X 20 Hoa đào Nhật Tân là di sản văn hoá vật thể và phi vật thể. X 21 10 ha đào di sản; 20 ha đào thương phẩm cho làng Nhật Tân thực tế là bao nhiêu? X 22 Ai cũng nhìn thấy khu đô thị là to, người nông dân là nhỏ, cây đào cũng là nhỏ nhưng bảo vệ được quyền lợi của họ mới thể hiện được tính nhân văn của một xã hội tốt đẹp. X 23 Năm nay cây đào của làng Nhật Tân xưa chỉ còn ở 2 khoảng đất, một gần chùa Tảo Sách 7.000m2 và một là đuôi Dinh đào 5.000m2. X 24 Năm mới Bính Tuất, nhiều người đã chọn xuất hành vào sáng mùng Một Tết vì đây là ngày tốt, đa số đến viếng chùa xin lộc đầu năm, sau đó ra đường hoa Nguyễn Huệ để du Xuân, thay vì đến thăm nhà ai đó vì ngại phải “xông đất đầu năm”. Vietnamnet, Đường hoa Nguyễn Huệ : nơi xuất hành đầu năm của người dân Sài gòn. (23câu) X 25 Không tiện nói tên, nhưng cô cho biết, cô là Việt kiều Mỹ, về Việt Nam lần này là lần thứ hai và đều vào dịp Tết Nguyên đán vì cô và chồng rất thích không khí Tết tại quê nhà. X 26 Anh tên Vũ, cùng vợ là Anh Thư, Việt X kiều Mỹ về quê ăn Tết. 27 Quan liêu tham ô lãng phí là tội ác. Hồ Chí Minh Tòan tập, Lời dạy của Bác Hồ về chống tham nhũng, tham ô, quan liêu, lãng phí NXB Sự Thật, HN,t4 (21câu) 94 X 28 Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai ... Một số lời dạy của Bác Hồ về đạo đức. (92câu) 95 X 29 Cần là luôn cố gắng, luôn chăm chỉ cả năm, cả đời. 96 X 30 Như vậy không phải là Cần. 96 X 31 Kiệm là tiết kiệm, không hoang phí, không bừa bãi. 97 X 32 Việc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn, dại dột chứ không phải là Kiệm. 97 X X 33 Như thế mới đúng là Kiệm. 97 X 34 Hao phí vật liệu là xa xỉ. 98 X 35 Việc đáng làm trong một giờ mà kéo dài đến 2,3 giờ là xa xỉ. 98 X 36 Việc đáng tiêu 1 đồng, mà tiêu 2,3 đồng là xa xỉ. 98 X 37 An sang mặc đẹp trong lúc nhiều đồng bào đang thiếu cơm, thiếu áo, là xa xỉ. 98 X 38 Liêm là trong sạch, không tham lam. 98 X 39 Ngày nay, nước ta là nước dân chủ cộng hòa. 98 X 40 Chính có nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. 98 X 41 Điều gì không thẳng thắn, đứng đắn, tức là tà. 99 X 42 Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có hoa, lá, quả, mới là cây hòan toàn. 99 X 43 Làm việc Chính là người Thiện. 99 X 44 Làm việc Tà là người Ác. 99 X 45 Siêng năng (cần), tằn tiện (Kiệm), trong sạch (Liêm) Chính là Thiện. 99 X 46 Lười biếng, xa xỉ, tham lam, là tà, là ác. 99 X 47 Vạch rõ ranh giới là cần phải nhận rõ ai là bạn, ai là thù ? 99 X 48 Đối với người, ai làm gì có lợi cho dân cho Tổ Quốc ta đều là bạn. 99 X 49 Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và tổ quốc ta đều là kẻ thù. 99 X 50 Đối với mình những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn. 99 X 51 Những tư tưởng và hành động có hại X cho Tổ quốc và đồng bào là kẻ thù. Tổng số câu khảo sát 386 19 32 10 vb Tần số xuất hiện tính theo tỷ lệ % 13,2 4,9 8,3 Phụ lục 4 Ngữ liệu nghiên cứu lấy từ các văn bản mang phong cách khoa học (bao gồm khoa học tự nhiên và khoa học xã hội), các bài viết trong tạp chí Nghiên cứu văn học, kỷ yếu khoa học ... Stt Câu quan hệ sâu có từ “là” Tác giả, tác phẩm, số trang tr Câu qhs định tính có từ “là” Câu qhs đồng nhất có từ “là” Ghi chú 1 Ở vùng biển miền Trung, tôm hùm bông đực tham gia sinh sản lần đầu có chiều dài giáp đầu ngực là 110.06mm và tôm hùm bông cái là 98,00mm. Nguyễn Thị Bích Thủy, Một số đặc điểm sinh học sinh sản của tôm hùm bông ở vùng biển miền Trung, tr35-49 (138câu) 35 X 2 Tuổi và kích thước thành thục sinh dục của tôm hùm bông là một đặc điểm thích nghi. 39 X 3 Trọng lượng ống dẫn tinh của H.americanus là 0,4g, của P.japonnicus là 1,7g. 40 X 4 Song áp dụng P.ornatus ở Việt Nam là vô cùng khó 40 X khăn. 5 Thời kỳ này được gọi là giai đoạn phôi dâu. 46 X 6 Ngày thứ 10 hoặc ngày thứ 8 sau khi thụ tinh gọi là giai đoạn phôi vị. 46 X 7 “Vua chết rồi hoàng hậu qua đời” là một câu truyện(story) Lê Huy Bắc, “Cốt truyện trong tự sự”, nghiên cứu văn học Tạp chí nghiên cứu lý luận, phê bình và lịch sử văn học. 7/2008 35 X 8 “Vua chết rồi hoàng hâu qua đời vì u buồn” là một cốt truyện” (plot) (104câu) 35 X 9 Có lẽ Arirtotle là nhà nghiên cứu duy nhất quan tâm đến cốt truyện. 35 X 10 Theo đó, từ thế kỷ XIX trở về trước, cốt truyện tự sự chủ yếu là cốt truyện kịch tính. 36 X 11 Từ thế kỷ XX trở đi, cơ bản là cốt truyện thơ (hoặc trữ tình). 36 X Bản tính phiên lưu là luôn tuân thủ hai nguyên tắc tất nhiên và ngẫu nhiên. 36 X 12 Đến nay nhiều nhà nghiên cứu khẳng định thần thoại là thể loại văn học không tự giác, có nghĩa mục đích ra đời của thần thoại không phải là văn chương mà chỉ là tín ngưỡng, niềm tin vào tôn giáo cổ xưa của con người. 36 X 13 Thời gian là phi vật thể, cho nên nó không màu, không mùi, không vị. Nguyễn Thị Gấm,“Các dấu hiệu của thơ tượng trưng trong bài Màu thời gian của Đòan Phú Tứ”, Nc văn học Tạp chí ....7/2008 (85câu/6tr) 133 X 14 Đó là một thời gian biến ảo, sinh động. 134 X Vì thơ ca là lời nói của linh cảm, của bản năng, của vô thức; cho nên lời lẽ của thơ ca là không chính xác, là lấp lửng, là mơ hồ. 137 X 15 Trong cả bài thơ, mỗi từ là một nốt nhạc. 138 X 16 Bạn bè của Đoàn phú Tứ cho biết ông không phải là típ người sống phi thực tế, cho nên những cảm nhận về thời gian ở đây chỉ có thể là sự cảm nhận trong bề sâu tâm hồn ông. 138 X 17 Và cả bài thơ là một bản nhạc du dương, êm đềm, gợi cảm. 138 X 18 Đó là màu yêu, là nhịp tim, điệu hồn. 138 X 19 Thơ là thơ. Đặng Thu Thủy, Sự vận động của quan niệm thơ và nhà thơ thời kì đổi mới. [NCVH 7-2008] 68 X 20 Nhà thơ Việt Nam sớm ý thức được mình là một chiến sĩ, thơ Việt Nam sớm ý thức được mình là một vũ khí. (270 câu) 68 X 21 Tính chất hướng ngoại của thơ là rất mạnh. 68 X 22 Thơ trước hết phải là thơ. 68 X 23 Thơ không thể là công cụ. 69 X 24 Chức năng bồi đắp tâm hồn tình cảm của thơ được đề cao hơn bao giờ hết nhất là trong hoàn cảnh sự sa sút về đời sống tinh thần không chỉ còn là một nguy cơ. 69 X X 25 Thiên chức của thơ là «để cho người ta yêu nhau». 69 X 26 Đây là «sự tiếp nối quan niệm truyền thống». 69 X 27 Bên cạnh xu hướng «thánh hóa thơ» là xu hướng «đời 69 X thường hóa thơ ca». 28 Nếu thơ làm rung động cả triệu con tim, như thơ Tố Hữu, thì đó là điều hay. 69 X 29 Nguy cơ mất dần bạn đọc là điều không thể tránh khỏi. 70 X 30 Làm nghệ sĩ là để tả sự thật. 70 X 31 Khái niệm hiện thực ở đây là khái niệm được hiểu theo nghĩa hẹp. 71 X 32 Thơ là đau thương. 71 X 33 Thơ là hạnh phúc. 71 X 34 «Thơ là cái thăm thẳm.» 73 X 35 Thơ là cái chưa biết. 73 X 36 Nhiều khi thơ không chỉ là một văn bản ngôn từ đơn thuần (khi nó kết hợp với các loại hình nghệ thuật khác : hội họa, sân khấu, vũ đạo, âm 73 X nhạc, trình diễn, ...) 37 Thơ là một trò chơi. 73 X 38 Thơ truyền thống của ta về cơ bản là mực thước, trang nhã. 73 X 39 Nhà thơ là người sáng tạo ra trò chơi, đề xuất trò chơi. 73 X 40 Trong xã hội đương đại, nếu thơ làm được như một trò chơi thỏa mãn được nhu cầu của đời sống tinh thần, làm vui, làm ý nghĩa cho cuộc đời vốn có rất nhiều niềm lạc thú cuốn hút thì cũng đã là một thành công. 73 X 41 Thời nay, không ít người coi văn chương là trò chơi, thơ là trò chơi ; nhưng là «chơi thật», «chơi nghiêm túc», chơi chuyện nghiệp chứ không phải «chơi đùa» ; không «chơi ẩu, vì phải chơi với nhiều 74 X người». 42 Hơn nữa, đây là «trò chơi nguy hiểm ». 74 X 43 Ông đã được mệnh danh là «người cách tân số một» 74 X 44 Làm thơ tức là làm tiếng Việt. 74 X 45 Thơ Việt Nam hiện nay, dòng chủ lưu chủ là thơ ý niệm, thơ tư tưởng. 75 X 46 Tuyên ngôn cũng như thực tế sáng tác của những người đi tiên phong đã gây ảnh hưởng nhất định đối với các nhà thơ đương đại nhất là các nhà thơ trẻ. 76 X 47 «Áo em mặc còn xanh» là tập thơ mang tính trò chơi rất rõ. 76 X 48 Họ là Phan Bá Thọ, Lý Đợi, Bùi Chát, Khúc Duy, Nguyễn Quán –bốn sinh viên mới tốt nghiệp ra trường. 77 X 49 Thơ của họ là một thứ thơ phản thơ. 77 X 50 Nhiều người khác lại cho rằng nhà thơ cũng là một người thường như bao người khác. 79 X 51 Nhà thơ là nhà thơ, nhà thơ là người thường. 80 X 52 Lê Minh Quốc tự nhận mình là «nhà thơ cà chớn». 80 X 53 Tôi là một nhà thơ solo. 82 X 54 Thế nhưng phát ngôn chỉ là phát ngôn, dù nó có táo bạo, hào hùng đến đâu chăng nữa. 82 55 Một nhà thơ nghiệp dư coi con đường đến với thơ ca của mình là một cuộc chơi, thích thì làm, không thích thì thôi. 83 X 56 Lê Đạt tự nhận mình là phu chữ, Trần Dần nhận mình là «kẻ cầm trạch trên 83 X hành tinh quốc ngữ». 57 Coi làm thơ là một nghề có nghĩa thơ ca cũng là một thứ hàng hóa (hàng hóa đặc biệt). 84 X 58 Đó là một lực lượng sáng tác hùng hậu. 84 X 59 Ấn độ coi giải thoát là vấn đề trung tâm, cốt lõi. Phạm Thảo Hương Ly, Hình tượng không gian trong sử thi Ramayana, Kỷ yếu hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm học 2006-2007 26 X 60 Văn học là nhân học. (88câu) 22 X 61 Giá trị của văn học, xét cho cùng, là sự chiêm nghiệm về con người. 22 X 62 Trong Ramayana, kinh thành là một khoảng không gian vô cùng tráng lệ, vừa mang tình hiện thực, vừa thấm đẫm chất tưởng tượng, huyền thoại và tín ngưỡng. X 63 Có thể thấy núi rừng trong Ramayana là khỏang không gian mềm mại, thế tục. 25 X 64 Bên cạnh không gian vũ trụ hoành tráng phóng đại tầm vóc người anh hùng, Ramayana còn miêu tả chiến trường là một không gian hỗ độn, khốc liệt. 25 X 65 Hành động với ý thức bổn phận cũng chính là hành động vô cầu. 26 X 66 Triết học Ấn độ coi giải thoát là vấn đề trung tâm, cốt lõi. 26 X 67 Có nhiều công thức đúc kết mối liên hệ này, sau đây là một công thức bao quát. Đặng Anh Đào, Bàn về một vài thuật ngữ thông dụng trong kể chuyện. 7-2008 (107 Câu) X 68 Về thuật ngữ, nhãn quan, điểm nhìn, và tiêu điểm đã được sách lý luận coi là 26 X một. 69 NKC là một thực thể đơn nhất và giới hạn. 27 X 70 Điều này được gọi là điểm nhìn. 27 X 71 Theo suy nghĩ của chúng tôi, vế thứ nhất của định nghĩa đặt ra một yêu cầu không chính xác đối với NKC, kể cả đối với loại chuyện ta gọi là cổ điển. 27 X 72 Tiêu biểu là từ điển Wikipedia. 29 X 73 Riêng Manfred Jahn, chuyển mối quan tâm từ NCK sang một tác nhân mới mà ông gọi là focalizer. 29 X 74 Dẫu sao, rút cục, Jahn vẫn đi tới vấn đề tiêu điểm theo hướng phân loại kết hợp số lượng và vị trí : đơn lẻ, hỗn hợp, và cuối củng là tiêu điểm tập thể. 29 X 75 Tuy nhiên, Genette cho rằng xét đến cùng, đây không phải là tác giả lựa chọn mà là hai thái độ kể chuyện. 31 X 76 Bởi lẽ khuân khổ của lí luận vốn định hình, còn tác phẩm là một thế giới đa dạng. 32 X 77 Trong di sản văn học của Lỗ Tấn, Thuốc là một truyện ngắn đặc biệt, độc đáo. Lê Nguyên Cẩn, Những nét độc đáo trong Thuốc của Lỗ Tấn. 11-2008 (196 câu) 117 X 78 Không gian quán trà lão Hoa với ba phần và không gian nghĩa địa với phần còn lại mà độ dài không kém ba phần kia là 117 X bao. 79 Phần khai chuyện, tương ứng với phần khai đề của một bài thơ cổ điển, được mở ra từ không gian thứ nhất bằng một buổi sớm, chưa sáng hẳn song cũng đã chuyển sang một ngày mới với nội dung chính là mua thuốc. 117 X 80 Số lượng nhân vật trong truyện có thể nói là nhiều, song hiện rõ nét chỉ có bốn. X 81 Số nhân vật khác hiện dưới dạng các đám đông «tụm năm tụm ba» mà không thể biết số lượng là bao. 119 X 82 Một ý kiến độc đáo, một phát hiện mới mẻ thường không gây được một phản ứng nào đáng kể, dù tích cực hay tiêu cực, có lẽ là do một Sái Phu, lời giới thiệu,Viết nhịu – lapsus calami: Dọn vườn ngôn ngữ học, X thái độ nể nang hay kính nhi viễn chi nào đó. Net (19 câu) 83 Chúng tôi không quan niệm rằng nói ngược lại những điều đã được mọi người công nhận là một lỗi. X 84 Nếu nói dịch thuật là quan trọng, chắc ít ai phản đối, nhưng nếu nói người dịch chỉ là kẻ ăn theo tác giả, có lẽ số người đồng ý cũng không ít hơn. Ngô Tự Lập, Viết như là dịch thuật, http:// ngonngu.net (157câu) X 85 Khi còn làm biên tập viên nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, tôi thường được nghe nhiều người nhất là các nhà văn, nói : « ... » X 86 Người ta sáng tác sẵn, các cậu chỉ cần chuyển ngữ là xong, có tiền tiêu. X v 87 « Các anh chỉ là lũ kí sinh, cả đời chỉ làm mỗi việc "chuyển ngữ" tác X phẩm của người khác để lấy tiền! » 88 So với những lời này, danh hiệu "con khỉ" đúng là vinh dự hơn nhiều, vì dù sao nó cũng mang dáng dấp nghệ sĩ! X 89 Anh/chị ta tạo nên một tác phẩm trọn vẹn và người đọc chỉ việc thưởng thức, còn giữa họ, người dịch chỉ đơn thuần là kẻ trung gian. X 90 Là một người luôn luôn phải phân thân giữa viết và dịch, từ lâu lắm tôi đã lờ mờ nhận thức được rằng đó là một quan niệm sai lầm. X 91 Khó khăn lớn nhất là các điển tích. X 92 Thuật ngữ chuyên môn, từ lóng đều là những dạng điển tích khác nhau. X 93 Và nói cho cùng thì mỗi từ là một điển X tích. 94 Khi chưa biết tên phim bằng tiếng Pháp, tôi nghĩ "chiều" là "buổi chiều". X 95 Cái tên gợi rất nhiều suy nghĩ, bởi nó rất thơ, rất triết, và nhất là nó rất khác thường. X 96 Tôi đã thử hỏi rất nhiều người và nhiều người trong số họ cũng nghĩ "chiều" ở đây là «một buổi chiều». X 97 Cái tên còn gợi mở hơn nữa vì "chiều" cũng có thể hiểu là "phương". X 98 Thú thật, tôi đã hơi thất vọng khi biết, nhờ cái tên tiếng Pháp, rằng "chiều" chỉ đơn thuần là từ "phương". X 99 Tôi tin tưởng sâu sắc rằng sống cũng chính là dịch thuật. X 100 Sau từ "partir" (ra đi) và từ "yêu" là dấu phẩy. X 101 Cái tên tiếng Pháp chỉ đơn thuần là "Phương thẳng đứng của mùa hè", hay "Mùa hè phương thẳng đứng". X 102 Không cần phải suy nghĩ quá cao siêu để thấy rằng câu trả lời là phủ định. X 103 Như vậy, về thực chất, sáng tác chính là dịch thuật. X 104 Trong bài Cám dỗ và vinh quang của dịch thuật tôi có viết rằng mặc dù dịch là phản, đối với đa số người đọc không phải là bản ngữ, bản dịch phản bội ít hơn. X 105 Nhưng nói một cách chặt chẽ thì tất cả các bản dịch đều là X phỏng dịch. 106 Chẳng hạn, từ "rice" trong tiếng Anh trong những truờng hợp cụ thể phải dịch là "lúa", "thóc", "gạo", "cơm".. X 107 Đối với ông, đối tượng chủ yếu của ngôn ngữ học là Ngôn ngữ, nhưng ông cũng hình dung được trong tương lai một ngành ngôn ngữ học của lời nói. Cao Xuân Hạo, lời nói đầu bản dịch giáo trình Ngôn ngữ học đại cương. (33câu) X 108 Xin đừng hiểu lầm rằng ngôn ngữ học và các khoa học nhân văn khác là những “khoa học chủ quan”. X 109 Khoa học, do chính định nghĩa của nó, chỉ có thể là khách quan. X 110 Một số tác giả gọi ngôn ngữ học trước 1957 là “structuralist” X Tổng số câu khảo sát 1197 câu 39 71 Tần số phân bố tính theo tỷ lệ % 9,2 3,3 5,9 10 vb

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVNNH002.pdf
Tài liệu liên quan