DẪN NHẬP 
0.1 . Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu 
Ngôn ngữ là một thành tựu vĩ đại nhất của loài người. Mỗi ngôn ngữ 
thể hiện trong nó không chỉ là bề dày lịch sử, nền văn hóa, mà cả trình độ văn 
minh của một quốc gia, một dân tộc. Ngôn ngữ học, ngành khoa học nghiên 
cứu về ngôn ngữ, có một vị trí rất quan trọng trong các khoa học xã hội và 
nhân văn. Nó giúp chúng ta tìm hiểu về ngôn ngữ nói chung và đặc trưng của 
các ngôn ngữ cụ thể. Việc nghiên cứu ngôn ngữ cũng sẽ giúp chúng ta hiểu rõ 
cách nhận thức thế giới, cách truyền đạt tri thức và cách giao tiếp của các 
cộng đồng ngôn ngữ. Hơn thế, nghiên cứu tiếng mẹ đẻ còn góp phần giữ gìn, 
bổ sung, trau dồi cho ngôn ngữ của mỗi người ngày càng trong sáng hơn, 
hoàn thiện hơn. 
Hiểu được tầm quan trọng của việc nghiên cứu ngôn ngữ, yêu quý và 
trân trọng tiếng mẹ đẻ, và suy nghĩ rằng nghiên cứu sâu tiếng Việt trên một 
bình diện nào đó cũng đều rất quan trọng, chúng tôi chọn nghiên cứu về câu 
quan hệ trong tiếng Việt. Trong ngữ pháp truyền thống, các nhà nghiên cứu 
theo khuynh hướng cấu trúc chủ yếu khảo sát câu về cấu trúc hình thức. Gần 
đây khuynh hướng ngữ pháp chức năng đã đi sâu tìm hiểu câu từ góc độ ngữ 
nghĩa của câu, chẳng hạn dựa trên sự hình thành các quá trình (Process) để 
phân ra các loại câu như: các quá trình vật chất (các quá trình hành động), 
các quá trình tinh thần (các quá trình cảm giác) và quá trình quan hệ (các quá 
trình tồn tại). Trong các loại câu đó thì câu quan hệ là loại câu khá đa dạng, 
phong phú về ngữ nghĩa và được dùng phổ biến trong tiếng Việt cũng như 
trong các ngôn ngữ khác. Từ trước tới nay, một số công trình về ngữ pháp 
tiếng Việt có đề cập đến câu quan hệ nhưng có lẽ chưa có công trình nào 
nghiên cứu sâu và cụ thể vào một khía cạnh nào đó của câu quan hệ. Chúng 
tôi nhận thấy vấn đề “Câu quan hệ trong tiếng Việt” đặc biệt là “câu quan hệ 
có từ “là” trong tiếng Việt” là một vấn đề lý thú và bổ ích nên quyết định 
chọn làm đề tài luận văn. 
Để tiện cho việc khảo sát, chúng tôi dùng các ngữ liệu trên ngôn ngữ 
viết thuộc nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau như phong cách khoa học, 
phong cách chính luận, phong cách hành chính, phong cách ngôn ngữ văn 
chương. 
Luận văn khảo sát câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt nhằm các 
mục đích sau đây : 
- Tiếp xúc với các vấn đề lý thuyết về ngữ nghĩa học, về ngữ pháp chức 
năng (đặc biệt là quan niệm của M.A.K. Halliday, S.C. Dik), vận dụng vào 
việc khảo sát, lý giải một loại câu quan hệ trong tiếng Việt. 
- Kết quả khảo sát, phân tích loại câu quan hệ có từ “là”trong tiếng Việt 
có thể có những đóng góp thiết thực vào thực tiễn nói, viết và thực tiễn giảng 
dạy tiếng Việt. 
0.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 
Như trên đã nói, có rất nhiều công trình nghiên cứu về các kiểu quá 
trình trong hệ thống chuyển tác của ngôn ngữ, trong đó có quá trình quan hệ. 
Ở mỗi công trình các tác giả có thể có những cách tiếp cận khác nhau. Luận 
văn không có tham vọng bao quát đầy đủ quá trình nghiên cứu về câu quan hệ 
trong ngôn ngữ nói chung và trong tiếng Việt nói riêng. Thông qua tìm hiểu 
của bản thân, chúng tôi chỉ cố gắng điểm qua tình hình nghiên cứu câu quan 
hệ của những tác giả tiêu biểu trên thế giới và ở Việt Nam. 
Trên thế giới: 
Các kiểu quá trình trong hệ thống chuyển tác của ngôn ngữ được rất 
nhiều nhà ngôn ngữ trên thế giới quan tâm và nghiên cứu. Có nhiều cách tiếp 
cận các quá trình này với những quan điểm khác nhau. Công trình nghiên cứu 
được xem là đầy đủ, xứng đáng được xem là một cuốn sách giáo khoa cho 
những ai muốn tìm hiểu về các kiểu quá trình trong hệ thống ngôn ngữ, là của 
M.A.K.Halliday. Đó là cuốn “Dẫn luận Ngữ pháp chức năng”. Các quá trình 
mà M.A.K.Halliday miêu tả chủ yếu là trong tiếng Anh, nhưng xét thấy có 
nhiều điểm có thể vận dụng vào tiếng Việt nên luận văn của chúng tôi áp 
dụng những mô hình lý thuyết mà ông đưa ra để giải thích và nghiên cứu về 
câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt. M.A.K.Halliday khái quát về quá 
trình quan hệ (Relational processes) như sau: “để liên hệ mảng này với mảng 
kia của thế giới kinh nghiệm: cái này giống cái kia, cái này là một loại của 
cái kia là quá trình quan hệ” [24, 206]. Hệ thống các quá trình quan hệ trong 
tiếng Anh của M.A.K. Halliday hoạt động theo ba kiểu chính là: 
Quan hệ sâu (intensive): ‘x is a’  x là a 
Quan hệ chu cảnh (circumstantial): ‘x is at a’ x ở a 
Quan hệ sở hữu (possessive): ‘x has a’  x có a 
Mỗi kiểu như vậy xuất hiện dưới hai phương thức tách biệt mà Halliday 
gọi là phương thức đồng nhất (identifying) và phương thức định tính 
(attributive). Như thế, chiếu theo phương thức quan hệ và kiểu quan hệ mà 
ông đưa ra, sẽ có sáu cặp phạm trù quan hệ tương ứng. Những đóng góp của 
Halliday về các quá trình chuyển tác có giá trị rất lớn với tiếng bản xứ (Anh) 
và cả với các ngôn ngữ khác trên thế giới, chẳng hạn tiếng Việt. 
Cùng với M.A.K. Halliday, các nhà chức năng luận khác như Fawcett, 
V.Z. Panfilov, C. Fillmore, Simon C.Dik cũng đề cập đến câu quan hệ hay 
loại câu tương tự câu quan hệ. 
Nhà ngôn ngữ học Simon C. Dik trong Functional Grammar (Ngữ pháp 
chức năng-1978), đã dùng thuật ngữ “sự tình” (cái có thể là tình huống trong 
một thế giới nào đó). S.C. Dik dựa trên hai thông số cơ bản là tính động 
(Dynamism) và tính có chủ ý (Control) để xác lập ra bốn loại hình sự tình: 
hành động, quá trình, trạng thái, tư thế (xem bảng trình bày các sự tình của 
S.C. Dik) trong đó không có loại hình sự tình quan hệ. Đến năm 1989, S.C. 
Dik đưa thêm Tính thành quả (Telicity) vào bộ thông số và cho ra một bảng 
phân loại gồm sáu sự tình: Tư thế (Position), Trạng thái (State), Hành động 
hoàn thành (Accomplishment), Hành động diễn tiến (Activity), Quá trình biến 
đổi (Change), Quá trình biến động (Dynamism). Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại 
những khiếm khuyết như Siewierska (1991) thừa nhận: “Những loại hình sự 
thể lọt ra ngoài bảng phân chia loại nhỏ này thì không được nêu tên gọi.” 
[54, số 10, tr.14]. Diệp Quang Ban cho rằng ngoài lĩnh vực các quan hệ, cách 
phân loại sự thể của S.C. Dik khá thỏa đáng nhưng rất khó để tìm kiếm được 
một giải pháp khả thi mới để kết hợp cả hai cách phân loại của S.C. Dik và 
M.A.K. Halliday. 
Bảng trình bày các loại sự tình của S.C. Dik.(nguồn NPCN,tr.50) 
Sự tình 
+ Động 
Sự kiện 
-Động 
Tình huống 
+ Chủ ý Hành động Tư thế 
- Chủ ý Quá trình Trạng thái 
Sự tình quan hệ ở đây được S.C. Dik xem là một thể loại của sự tình 
trạng thái và cũng dựa trên những phân biệt trong các chỉ định của kết cấu vị 
ngữ hạt nhân. 
Ví dụ: 
(1) The substance is red .(trạng thái) 
(2) The table stood in the corner. (trạng thái) [-Động,-Chủ ý] 
(3) John tasted the wine in the soup. (trạng thái) 
Theo S.C. Dik “ Nếu một kết cấu vị ngữ trạng thái chỉ có một tham tố, 
tôi cho rằng tham tố đó có chức năng nghĩa là zero. Tôi thấy không có lý do 
gì để quy gán bất kỳ một chức năng ngữ nghĩa cụ thể nào cho các tham tố 
như thế. 
Các tham tố kết cấu vị ngữ trạng thái hai vai thường có hai tham tố 
chức năng zero, và thậm chí có thể có sự tình trạng thái ba vai với ba tham tố 
chức năng zero. Tuy nhiên, tham tố thứ hai trong các kết cấu vị ngữ trạng 
thái cũng có thể có chức năng thời gian hay vị trí.” [29; 54] 
Ví dụ: 
(4) Rose ф are red. 
(5) That man ф is the killer.  ф chức năng nghĩa là zero. 
(6) The cup ф is on the table. 
Theo nhận định của Cao Xuân Hạo trong Tiếng Việt Sơ thảo ngữ pháp 
chức năng thì tiêu chí (+Động, - Động) và (+Chủ ý, -Chủ ý) của Simon 
C.Dik rất quan trọng đối với nhiều loại ngôn ngữ trên thế giới. S.C.Dik đã 
đưa ra được một lược đồ khá cơ bản, thế nhưng sự đơn giản ấy lại làm cho 
lược đồ của ông trở nên khó ứng dụng, chẳng hạn ô tư thế (+chủ ý,-động) 
không cân bằng với ba ô còn lại. Các vị từ làm hạt nhân cho loại câu này như 
đứng, ngồi, nằm, quỳ có thể đếm trên đầu ngón tay, theo thống kê không 
tới 0,2% trong số các vị từ làm hạt nhân cho các loại câu nằm ở ô hành động, 
trạng thái, quá trình. Không chỉ vậy, lược đồ của Dik khó có thể chia ra chi 
tiết hơn nữa, chẳng hạn không thể xếp các câu tồn tại, câu định vị (ví dụ như 
câu: “Cá nằm trên thớt” không được xếp vào ô loại tư thế vì thiếu tiêu chí (+ 
chủ động).), hay câu đẳng thức .v.v không xếp vào ô nào trong bốn ô phân 
loại các loại sự tình của Dik). Như vậy, không thể dựa vào bảng phân loại sự 
tình của S.C. Dik để miêu tả câu quan hệ tiếng Việt. 
John Lyons, nhà ngôn ngữ học truyền thống ở Anh, tiếp cận vấn đề từ 
quan điểm logic. Ông cũng đã đưa ra các kết cấu tồn tại, định vị và sở hữu 
tương tự thuật ngữ “các quá trình quan hệ” mà luận văn đang đề cập. John 
Lyons cho rằng trong rất nhiều ngôn ngữ có những tương tự hiển nhiên giữa 
những câu định vị và câu tồn tại, chẳng hạn: 
Ví dụ: Tiếng Anh 
(7) Coffee will be here in a moment. không có sự khác nhau 
(7’) There will be coffee here in a moment. về nghĩa giữa (7) và (7’) 
John Lyons, tiếp cận vấn đề từ quan điểm logic học, với các câu tồn tại 
câu định vị, và câu sở hữu, ông phân ra làm hai xu hướng “vị ngữ tính” 
(tương đương với câu tả trong tiếng Việt) và “vị ngữ danh” (tương đương với 
câu luận trong tiếng Việt). Tuy nhiên, vì sự phân tích cú pháp của các câu có 
“vị ngữ danh” phức tạp nên ông quyết định bỏ qua tất cả những điểm khác 
nhau giữa các tiểu loại và phân tích tất cả như những “vị ngữ danh từ”. 
Đặc biệt, trong Nhập môn ngôn ngữ học ông nói nhiều đến “động từ là” 
và “động từ có”, ông cho rằng đó là những câu tồn tại, định vị và sở hữu có 
quan hệ qua lại trong nhiều ngôn ngữ “ cái thường được gọi là “động từ 
là”, và “động từ có” trong tiếng Anh và các ngôn ngữ khác là một yếu tố 
ngữ pháp, vô nghĩa, chỉ dùng để “mang” các dấu hiệu về thời, thức, thể ở cấu 
trúc nổi của câu.” 
Theo mô hình của Fawcett, giao điểm của kiểu quá trình và kiểu đương 
thể cho ra 12 kiểu quá trình quan hệ trong tiếng Anh. 
Mô hình các quá trình quan hệ trong tiếng Anh của Fawcett: Các hệ thống 
ban đầu. [40, 273] 
Hoàng Văn Vân cho rằng “ đây là một mô hình chi tiết và đã đi sâu 
vào việc tìm hiểu bản chất của quá trình quan hệ trong tiếng Anh Mô hình 
của Fawcett quan tâm đến những kiểu quá trình cụ thể hơn là đến sự khái 
quát hóa các quá trình quan hệ”. [40, 276]. Cũng theo Hoàng Văn Vân, mô 
hình các quá trình quan hệ của Fawcett đã không thể hiện được sự khái quát 
hóa các quá trình quan hệ; đồng thời trong công trình nghiên cứu về các quá 
trình quan hệ của Fawcett cũng không hề đề cập đến hệ thống Dạng (là một 
Định tính 
Đương thể đơn 
Sở hữu 
Định vị 
Kiểu đương thể 
Đương thể bị tác động 
Đương thể tác nhân 
Đương thể thứ ba Đương thể thứ ba 
Kiểu quá trình 
hệ thống mà chính Fawcett khẳng định không thể thiếu khi nghiên cứu các 
công trình ngữ pháp) đồng thời “ nếu chấp nhận một mô hình như vậy sẽ 
làm cho vấn đề trở nên phức tạp vì người ta phải xây dựng lại các tiêu chí 
định nghĩa” [40, 277] cho tất cả các quá trình trong hệ thống chuyển tác của 
ngôn ngữ. 
Từ việc tiếp thu những thành tựu nghiên cứu của các nhà nghiên cứu 
theo hướng chức năng luận, chúng tôi nhận thấy mô hình miêu tả quá trình 
chuyển tác quan hệ của M.A.K. Halliday là mô hình lý thuyết phù hợp nhất để 
miêu tả câu quan hệ tiếng Việt. 
Tại Việt Nam 
Đã có khá nhiều công trình ngữ pháp đề cập trực tiếp đến câu quan hệ 
như Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Vân, Bùi Minh Toán, 
Nguyễn Thị Lan Anh, Đỗ Thị Kim Liên Ngoài ra còn có những công trình 
nghiên cứu về những kiểu câu tương tự câu quan hệ như câu tả, câu luận, 
trong sách Ngữ pháp tiếng Việt của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việ t Nam 
(1983), hay những những động từ chỉ các trạng thái tâm lý hướng tới đối 
tượng, biểu thị trạng thái tồn tại, sở hữu có thể có thành tố phụ sau là một 
danh từ, cụm danh từ chỉ đối tượng như : có, còn, xuất hiện, diễn ra trong 
Ngữ pháp Việt Nam của Nguyễn Thị Ly Kha, hay những bài viết cùng bàn về 
cấu trúc “Danh là Danh” và các mối quan hệ của nó của Lê Xuân Thại, 
Nguyễn Đức Dân, Trần Ngọc Thêm, v.v Từ những năm 2000 trở lại đây, 
cũng có một số bài viết đề cập đến một số tiểu loại của câu quan hệ trong 
tiếng Việt trên tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, của các tác giả Nguyễn Thị 
Thanh Phương, Nguyễn Thế Lịch , hoặc so sánh đối chiếu câu quan hệ 
tiếng Việt với tiếng Anh của Hoàng Tuyết Minh nhằm tìm ra một số lỗi người 
Việt thường mắc khi sử dụng động từ quan hệ tiếng Anh 
Cao Xuân Hạo kế thừa lược đồ phân loại các loại sự tình cơ bản của 
S.C. Dik nhưng ông xếp loại câu quan hệ và câu trạng thái vào một loại câu, 
đó là câu chỉ tình hình : “Trong các câu chỉ tình hình có thể phân biệt câu chỉ 
trạng thái với câu chỉ quan hệ. Trạng thái là một tình hình có mặt trong bản 
thân chủ thể (thực thể mang nó, hay ở “trong trạng thái” đó). Quan hệ là một 
tình hình mà nội dung là một cái gì ở giữa hai sự vật, dù đó là một sự tiếp 
xúc, một khoảng cách, một mối dây nhân quả, hay một sự so sánh.” [13, 430]. 
Cao Xuân Hạo đưa thêm sự tình tồn tại (hiện hữu), mà S.C.Dik còn thiếu, vào 
hàng sự tình cơ bản bậc một ngang hàng với biến cố và tình hình. Cao Xuân 
Hạo đã thay ô sự tình tư thế (bậc hai) của S.C. Dik bằng loại quan hệ và xem 
vị trí của nó tương đương với vị trí của sự tình trạng thái trong những sự tình 
tĩnh [-Động]. 
Theo khảo sát trên tư liệu tiếng Việt của tác giả Bùi Minh Toán và Lê 
Thị Lan Anh thì bên cạnh những nét cơ bản phù hợp hệ thống các quá trình 
mà M.A.K. Halliday nghiên cứu “ có thể nhận thấy chỉ có một số kiểu sự 
tình quan hệ là được tổ chức theo cả hai phương thức đồng nhất và định tính” 
[2, 1], chẳng hạn quan hệ cảnh huống (chỉ có loại quan hệ vị trí và quan hệ 
nguyên liệu là tổ chức theo hai phương thức đồng nhất và định tính; còn các 
quan hệ cảnh huống khác như: quan hệ mục đích, quan hệ so sánh, quan hệ 
tương hỗ, quan hệ nguyên nhân, quan hệ nguồn gốc, quan hệ vai diễn thì 
không tồn tại cả hai phương thức trên.), hay quan hệ sở hữu (chỉ tổ chức theo 
một phương thức định tính). Trong bài viết “Câu quan hệ tiếng Việt: sự hiện 
thực hóa các thành tố của sự tình quan hệ ”, tác giả Bùi Minh Toán và Lê Thị 
Lan Anh đã đưa ra 13 loại sự tình quan hệ trong tiếng Việt theo quan niệm 
của M.A.K. Halliday. Tiếc là bài viết này không coi “câu quan hệ có từ là” 
như là một đối tượng nghiên cứu mà chỉ nói chung chung đến các loại sự tình 
quan hệ trong tiếng Việt. 
Sách Ngữ pháp tiếng Việt của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam cũng 
nhắc đến câu quan hệ nhưng dưới thuật ngữ câu tả và câu luận. Đây cũng 
chính là hai loại câu chính của câu đơn hai thành phần được làm thành từ một 
cụm chủ ngữ (C)- vị ngữ (V), chủ ngữ và vị ngữ có quan hệ qua lại với nhau. 
Câu tả là loại câu để biểu thị một quá trình miêu tả đối tượng trong hoạt 
động, trạng thái hay tính chất của nó. Câu tả có nghĩa về trạng thái tồn tại của 
sự vật (câu tồn tại) có phần đề do từ loại danh từ, phần thuyết do tiểu loại 
động từ tồn tại đảm nhận (có, còn, hết ), đây là loại câu khá đặc biệt, tương 
đương câu quan hệ mang đặc điểm “không có từ là”. Vì ở luận văn này chúng 
tôi nghiên cứu loại “câu quan hệ sâu có từ là” trong tiếng Việt, nên chúng tôi 
sẽ nhắc nhiều đến loại câu luận là loại câu tương đương câu quan hệ đặc biệt 
“có dùng động từ là”. 
Câu luận là kiểu câu biểu thị một quá trình tư duy và thông báo mang 
tính suy luận, phán đoán. Nó có thể đưa ra một nhận xét, một ý kiến đánh giá 
và đôi khi mang tính triết lý. Vị từ “là” trong câu luận có thể coi là động từ 
mang trọng trách đặc biệt, làm “chính tố”, “động từ thuyết tính của câu luận”. 
Ví dụ: 
(8) Tổ chức là biện pháp cơ bản để thực hiện chính sách . (mô hình A là B) 
A B 
(9) Ruộng rẫy là chiến trường. (mô hình A=B) 
A B 
Câu luận trong tiếng Việt là loại câu tương đương “câu quan hệ sâu có 
từ là”. Đó là một loại câu có cách thể hiện khá đa dạng. 
Ví dụ: Câu luận “A là B” 
(10) Cuốc cày là vũ khí. [39, 185]  có thể thay đổi vị trí A và B 
[57, 185] 
(11) Nguyên tắc là nguyên tắc. [39, 185]  có thể thay đổi vị trí A và B. 
(12) Hà là một cán bộ nhà nước.[39, 183] không thể thay đổi vị trí A và B 
Như trên có thể thấy loại câu luận có mô hình “A là B” tương đương 
câu quan hệ sâu đồng nhất và định tính,“là” ở câu luận đóng vai trò là động từ 
(vị từ) chứ không phải trợ từ. 
Diệp Quang Ban đã đưa ra cách phân loại chi tiết và khá bao quát cho 
các loại câu tồn tại. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm ấy, cách phân loại của ông 
không đưa ra được “một mô hình toàn diện nhất để giải thích các kiểu quá 
trình quan hệ.” tức là phải đáp ứng “ ba điều kiện: (i) nó phải xem ‘quan 
hệ’ như là một đặc điểm của cả cú chứ không phải chỉ là một đặc điểm của 
động từ; nghĩa là, nó phải được trừu tương hóa để có đủ sức giải thích cho 
những đặc điểm cụ thể của các quá trình quan hệ trong tiếng Việt; và (ii) nó 
phải được kiểm chứng bằng sự phù hợp của cả hai tiêu chí ngữ nghĩa và ngữ 
pháp-từ vựng’’[40, 271]. 
Lê Thị Lan Anh bàn nhiều về sự tình quan hệ trong bài viết “Đặc trưng 
ngữ nghĩa của sự tình quan hệ so sánh trong tiếng Việt”. Tác giả đã đưa ra vị 
tố biểu thị quan hệ so sánh trong tiếng Việt gồm: như, như thể, in như, như, 
giống, khác, khác biệt, bằng, hơn, kém, tựa, hệt, sánh, ví, tày . và tổ hợp của 
các vị tố này: như là, hệt như, giống như là, y hệt như là , đồng thời đưa ra 
khá đầy đủ những ví dụ để phân tích, chứng minh làm nổi bật các đặc trưng 
ngữ nghĩa của sự tình so sánh trong tiếng Việt. Tuy nhiên bài viết không nhắc 
đến vị từ “là”, trong khi “là” cũng có thể là một vị từ so sánh trong một số 
trường hợp. Bài “Phương thức định tính và đồng nhất trong sự tình quan hệ 
thâm nhập” của Lê Thị Lan Anh dùng thuật ngữ “thâm nhập” thay vì thuật 
ngữ “sâu” của M.A.K. Halliday, nhưng về cơ bản cũng dựa trên mô hình “x 
is a”, dựa trên cơ sở lý thuyết của M.A.K. Halliday để xem xét loại sự tình 
quan hệ thâm nhập ở hai phương thức: định tính và đồng nhất trong tiếng Việt 
“Đồng nhất thể và định tính là hai phương thức quan hệ hoàn toàn khác 
nhau, mỗi phương thức sẽ cho chúng ta một loại sự tình riêng với những đặc 
trưng ngữ pháp, ngữ nghĩa đặc thù của nó” [54,số 2, tr.62]. 
Theo tác giả, trong tiếng Việt, các vị tố : là, biểu hiện, biểu đạt, minh 
họa, thể hiện thường chỉ xuất hiện trong câu biểu thị sự tình quan hệ 
thâm nhập định tính. 
Ví dụ: 
(13) Cây nguyệt quế biểu hiện sự vinh quang. 
(Yêu thơ văn em tập viết)[54, số 2; tr.62] 
(14) Sài Gòn tức Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố đầy nắng gió 
phương Nam với những chiều mưa về hối hả. 
(Yêu thơ văn em tập viết) [54; số2, tr.62] 
Còn các vị tố : là, tức là, nghĩa là, có nghĩa (có nghĩa là), đồng nghĩa, 
đóng vai, làm là những vị tố quan hệ xuất hiện trong câu quan hệ thâm 
nhập đồng nhất. 
Ví dụ: 
(15) Vết tích xấu nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá nhân. 
(Hồ Chí Minh. Về vấn đề giáo dục) [1, 61] 
(16) Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn, đặt lợi ích của 
nhân dân lên trên hết. (Hồ Chí Minh. Về vấn đề giáo dục) [1, 61] 
Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Lan Anh chưa trình bày được hết 
những vấn đề của “câu quan hệ thâm nhập” (theo cách gọi của tác giả), câu 
quan hệ sâu (cách gọi của Halliday). Tuy nhiên, bài viết đã gợi ra một số vấn 
đề cho đề tài nghiên cứu của chúng tôi. 
Hoàng Văn Vân, người trực tiếp dịch công trình “Dẫn luận ngữ pháp 
chức năng” của M.K.A. Halliday, Trong công trình “Ngữ pháp kinh 
nghiệm của cú tiếng Việt: Mô tả theo quan điểm chức năng hệ thống”, Hoàng 
Văn Vân đã tiếp thu quan điểm của M.A.K. Halliday: quan điểm chức năng 
hệ thống. Công trình của Hoàng Văn Vân nghiên cứu bình diện kinh nghiệm 
của cú tiếng Việt, dựa vào mô hình kinh nghiệm của Halliday để mô hình hóa 
các khu vực chuyển tác khác nhau trong cú tiếng Việt. Tuy nhiên, chuyên 
khảo của Hoàng Văn Vân mới chỉ nghiên cứu giải thích các phạm trù ngữ 
pháp trong hệ thống chuyển tác (hay hệ thống các kiểu quá trình) trong tiếng 
Việt, còn ở cấp độ chi tiết hơn như “câu quan hệ sâu có từ “là” trong tiếng 
Việt” thì Hoàng Văn Vân chưa khảo sát đến. 
Bàn thêm về cấu trúc “Danh + là + Danh” của Trần Ngọc Thêm có 
phân ra hai kiểu: 
“Danh + là + Danh” kiểu 1: tự bản thân hoàn toàn là một câu độc lập, không 
phụ thuộc bên ngoài cả cấu trúc và nội dung. Cấu trúc này có thể tham gia vào 
câu lớn hơn với tư cách như một mệnh đề, hay một đối tượng. Đặc biệt, nó 
không kết hợp được với đại từ chỉ định. 
“Danh + là + Danh” kiểu 2: không bao giờ là một câu độc lập, và chỉ có thể là 
một thành phần của một câu độc lập khác. Cấu trúc câu kiểu này luôn kết hợp 
được với các đại từ chỉ định. 
Theo Trần Ngọc Thêm, cấu trúc kiểu 1 khi nghĩa của từ “là” biểu hiện 
quan hệ đồng nhất giữa Danh 1 và Danh 2. Danh 1 là tập hợp được xác định, 
có thể đơn nhất hay trên một phần tử. Quan hệ ngữ pháp của cấu trúc kiểu 1 là 
quan hệ chủ - vị. 
Ví dụ: (17) Em tôi là công nhân. 
Cấu trúc kiểu 2 khi nghĩa của từ “là” chỉ sự phụ thuộc của Danh 2 vào Danh 
1. Danh 1 ở kiểu 2 là tập hợp không đơn nhất và không được xác định. Quan 
hệ ngữ pháp của kiểu cấu trúc 2 là quan hệ chính - phụ. 
Ví dụ: (18) Những cô gái là sinh viên. 
Đỗ Thị Kim Liên trình bày các nhóm từ chỉ quan hệ thân tộc biểu thị 
quan hệ so sánh trong các câu tục ngữ Việt cũng có nhắc đến từ so sánh “là”. 
Tuy nhiên, tác giả cho rằng khi câu tục ngữ chỉ quan hệ thân tộc có từ so sánh 
“là” thì “luôn vắng yếu tố cơ sở so sánh”, ở một số trường hợp có thể lược bỏ 
“là”. 
Ví dụ: 
(20) Cái bị là chị cái thúng.  Cái bị chị cái thúng. [54,số 11, tr.11] 
(21) Đậu nành là anh nước lã. Đậu nành anh nước lã. [54,số 11, tr.11] 
Khi lược bỏ “là”, các câu tục ngữ có nhóm danh từ chỉ quan hệ thân tộc 
có sự bù đắp hết sức tinh tế, từ ba nét nghĩa (giới tính, thứ bậc, quan hệ huyết 
thống) chúng chỉ còn lại một nét nghĩa. 
Ví dụ: “là” là vị từ so sánh. 
(22) Bàng già là bà lim.  Bàng già bà lim. 
Cái so sánh Cái được so sánh. 
Trong các câu tục ngữ chỉ quan hệ thân tộc, “là” có thể được coi như 
một vị từ so sánh. 
Ví dụ: “là”  vị từ so sánh 
(23) Cờ bạc là bác thằng bần. 
Cái so sánh Cái được so sánh 
(24) Chồng già vợ trẻ là tiên. 
Cái so sánh Cái được so sánh 
(25) Ruộng rẫy là chiến trường. 
Cái so sánh Cái được so sánh 
Nguyễn Thị Thanh Hương với bài viết “Bước đầu tìm hiểu về kiểu câu 
vị ngữ danh từ tiếng Việt” đã phân ra làm 5 tiểu loại ( câu vị ngữ danh từ nêu 
đặc trưng về số lượng; câu vị ngữ danh từ nêu lai lịch; câu vị ngữ danh từ nêu 
đặc trưng về màu sắc, mùi vị, hình thể; câu vị ngữ danh từ xác định thời gian, 
không gian; câu vị ngữ danh từ nêu quan hệ phân phối). Bài viết này cho thấy 
khá rõ tác giả đồng quan điểm với John Lyons, khi cho là cách dùng động từ 
“có” và động từ “là” trong các “câu vị ngữ động” khi chuyển qua kiểu “câu vị 
ngữ danh” của tiếng Việt có thể loại bỏ hoặc ngược lại khá thú vị. Tiểu loại 
câu vị ngữ DT xác định thời gian cho rằng “Tất cả các câu xác định thời gian, 
không gian cũng có thể được diễn đạt theo cấu trúc câu vị ngữ động từ, mà 
trong đó từ “là” làm thành tố chính” [55,số 4, 10] nhưng nếu diễn đạt theo 
cấu trúc vị ngữ DT (tức là lược bỏ vị từ “là”) thì sẽ cho ra cấu trúc câu ngắn 
gọn hơn, độc đáo hơn, mang đậm sắc màu Á Đông hơn. 
Ví dụ: 
(26) Lạt theo chân Keng đi luôn. Đến đầu ngõ thì gặp Ngọ. Hôm nay 
chủ nhật. ( ) Cô lên phố huyện chơi với bạn làm công trường trên đó. (Anh 
Keng- Nguyễn Liên) [55,số 4; tr.9] 
(27) Đây suối Lê-nin, kia núi Mác. (Hồ Chí Minh) [55,số 4, tr.9] 
Với tiểu loại “câu vị ngữ danh từ nêu đặc trưng về số lượng” thì “trừ các 
câu nêu số lượng tuổi, các câu nêu số lượng khác của tiếng Việt đều có thể 
kết hợp được với động từ có hay các tính từ khác mà không tạo ra sự khác 
biệt với người giao tiếp” [55, số 4; tr.8] 
Ví dụ: 
(28) Chiếc xe này ba bánh.  Chiếc xe này có ba bánh. [55,số 4; tr.8] 
(28) Vườn nhà tôi hai sào.  Vườn nhà tôi rộng hai sào. [55,số 4; tr.8] 
Tiểu loại “câu vị ngữ danh nêu lai lịch của con người” đều có thể kết 
hợp với động từ “là” để tạo thành câu có nghĩa tương đương. 
Ví dụ: 
- Cháu tên gì? 
(29) - Tui tên Nhọn. [55,số 4,8]  - Tui tên là Nhọn. 
(30) - Anh ấy kỹ sư. [55,số 4,8]  - Anh ấy là kỹ sư. 
Nói tóm lại, các nhà nghiên cứu trên ở những mức độ khác nhau đều đã 
đề cập đến câu quan hệ, hay tương tự “câu quan hệ sâu có từ là trong tiếng 
Việt”, nhưng vẫn chưa có sự phân tích kỹ lưỡng về kiểu câu này và chưa đưa 
ra đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của “câu quan hệ có từ là” trong tiếng Việt. 
0.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
Câu quan hệ của tiếng Việt là một loại câu rất phong phú và đa 
dạng. Điều kiện của một luận văn thạc sĩ không cho phép nghiên cứu toàn bộ 
những kiểu câu quan hệ như câu quan hệ sở hữu, câu quan hệ chu cảnh và các 
phương thức quan hệ của chúng nên chúng tôi chỉ xin giới hạn đề tài trong 
một phạm vi nhất định. Mục đích của luận văn là tìm hiểu câu quan hệ có từ 
“là” trong tiếng Việt theo quan niệm ngữ pháp chức năng; xác định cái nhìn 
tổng quan về câu quan hệ trong tiếng Việt; thống kê, khảo sát các dữ liệu về 
câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt nhằm nêu lên được đặc điểm ngữ 
nghĩa và ngữ pháp của chúng, tần số xuất hiện của kiểu câu này trong các loại 
phong cách văn bản. 
Về cơ sở lý thuyết luận văn này dựa trên quan điểm của M.A.K. 
Halliday trong “ Dẫn luận ngữ pháp chức năng”. Qua khảo sát chúng tôi nhận 
thấy có nhiều điểm tương đồng giữa kiểu và hai phương thức quan hệ định 
tính và đồng nhất của “câu quan hệ sâu” trong tiếng Anh mà Halliday nghiên 
cứu với câu quan hệ trong tiếng Việt. Bên cạnh đó, chúng tôi có tham khảo 
thêm các công trình nghiên cứu của các nhà ngữ pháp trong và ngoài nước 
khác như S.C. Dik, John Lyons, Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn 
Vân, Nguyễn Thị Lan Anh, các tác giả quyển Ngữ pháp tiếng Việt của Ủy 
ban Khoa học Xã hội Việt Nam . 
0.4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 
0.4.1. Phương pháp nghiên cứu 
Ngoài những phương pháp và thủ pháp nghiên cứu khoa học chung 
như: thu thập dữ liệu, phân loại, luận văn chủ yếu sử dụng những phương 
pháp sau: 
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa – cú pháp : Phương pháp này dùng 
để phân tích ngữ nghĩa, cấu trúc của các loại câu quan hệ trong tiếng Việt. 
- Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được dùng khảo sát, miêu tả 
các loại câu quan hệ trong tiếng Việt. 
- Phương pháp thống kê: Thống kê ngữ liệu về mặt số lượng nhằm xác 
định tần số xuất hiện của loại “câu quan hệ có từ là” trong tiếng Việt trong 
văn bản thuộc những phong cách khác nhau. 
0.4.2. Nguồn ngữ liệu 
Về ngữ liệu nghiên cứu, chúng tôi cũng giới hạn cụ thể như sau: 
Một số bài nghiên cứu khoa học (khoa học tự nhiên và khoa học xã 
hội), các bài nghiên cứu trong tạp chí nghiên cứu và phê bình văn học 
(phong cách ngôn ngữ khoa học) 
Truyện ngắn của các tác giả như Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Lý 
Biên Cương . (phong cách ngôn ngữ văn chương) 
Các tin tức trên một số báo điện tử, báo viết, truyền hình, lời kêu gọi 
của Bác (phong cách ngôn ngữ chính luận) 
Một số nghị quyết, nghị định, thông tư, hợp đồng, báo cáo, thông báo 
 (phong cách ngôn ngữ hành chính) 
0.5. Bố cục luận văn 
Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, phần Nội dung của luận văn được cấu 
trúc thành hai chương. 
Chương 1:
Chương này tóm tắt quan điểm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữtrong và ngoài nước như Simon C. Dik, M.A.K. Halliday, Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Vân . về câu quan hệ, chủ yếu là quan điểm 
của M.A.K. Halliday về câu quan hệ. Đây là chương làm tiền đề cho việc 
miêu tả và khảo sát câu quan hệ trong tiếng Việt ở chương sau. 
Chương 2:
Chúng tôi đi vào chức năng ngữ nghĩa của từ “là” trong câu quan hệ (câu quan hệ sâu theo Halliday), hình thức các tham thể xung quanh vị từ
“là” trong câu quan hệ, thống kê và đưa ra tần số xuất hiện của kiểu câu này 
trong văn bản mà chúng tôi chọn làm ngữ liệu, có chú ý khảo sát trong một 
số phong cách văn bản. Chương này thông qua những dữ liệu thu thập, làm 
nổi rõ chức năng ngữ nghĩa và đặc điểm cấu trúc của loại câu quan hệ có từ 
“là” trong tiếng Việt
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
146 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2673 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Câu quan hệ có từ Là trong tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t biển khó quên. 
(216) “Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng. 
 Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương. 
 Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm.” (TV5) 
 Hình thức này không thấy xuất hiện trong văn bản mang phong cách 
hành chính. 
x là a (danh từ không xác định) 
 ٭ Hình thức: x là danh từ, ngữ danh từ, đại từ; a là lượng ngữ 
không xác định (lượng ngữ không xác định, quán ngữ không xác định, 
những từ ngữ biểu đạt ý về lượng: nhiều, ít, bao nhiêu, bấy nhiêu, ....) 
 Ví dụ: 
(217) 1997^1998 = 25*k + 14 với k là một số tự nhiên nào đó. 
(218) Năm chục bạc đối với mình là mấy. 
 ٭ Hình thức: x là danh từ, ngữ danh từ, đại từ , a là cụm từ cố định. 
 Ví dụ: 
 (219) Thế nào là “mềm nắn rắn buông” 
 (220) Một đứa như vậy là “đầu bò đầu bướu” lắm ! 
 (221) Thế nào là “mềm nắn rắn buông” 
 (222) Thế là “sấm tan, mưa tạnh” 
 (223) Toàn là “cây nhà lá vườn” cả. 
 (224) Hoàn cảnh lúc này không phải là nước sôi lửa bỏng. 
 (225) Cái điệu này là có voi đòi tiên. 
 (226) Thế là sấm tan mưa tạnh. 
 (Nguyễn Huy Thiệp, Con gái Thủy thần, 22.TD) 
 (227) Cái tính của hắn là ăn không được thì đạp đổ. 
 ٭Hình thức: x là động từ, ngữ động từ; a là danh từ không xác 
định, ngữ danh từ không xác định. 
 Ví dụ: 
 (228) Thổi thủy tinh là một phương pháp thủ công. 
 (Giải đáp câu hỏi hóa học, 27.TD) 
(229) Bản chất cấu tạo của nam châm là một thanh thép. 
 (Hóa học, 31.TD) 
(230) Đăng ký bản quyền là một nhiệm vụ không bắt buộc. 
 (Hỏi đáp luật bản quyền, 28.TD). 
(231) Chăn dắt chúng là những vị Thần Thánh. 
 (Đông Hòa, Hoài niệm trắng, 22.TD) 
(232) Sinh ra nó đã không phải là một con người. 
 (NHThiệp, Cún, 22.TD) 
(233) Khóc là yếu hèn. 
 ٭ Hình thức: x là tính từ, ngữ tính từ, danh từ, ngữ danh từ, ; a là 
danh từ, ngữ danh từ, đại từ, tính từ. 
Ví dụ: 
(234) Căn nhà này là rất đẹp. 
 (235) Thói quen dậy sớm là tốt 
 (236) Mọi người không bị sao là may rồi. 
 ٭ Hình thức: x là tính từ, ngữ tính từ; a là tính từ, ngữ tính từ . 
Ví dụ: 
(237) Giả dối ôi là giả dối. 
(238) Đẹp ơi là đẹp. 
 (239) Dịu dàng quá là yếu tâm hồn. 
(240) Chao ôi là ẫm ách! Chao ôi là oan uổng ! Chao ôi là vô tình ! 
 (Nguyễn Huy Thiệp, Lòng mẹ) 
٭Hình thức: x là tổ hợp ngữ khí từ (tiểu từ) như biết bao, biết mấy, 
biết bao nhiêu, quá, quá đỗi, quá chừng, quá mức, lắm, làm sao; a là danh 
từ không xác định, ngữ danh từ không xác định dùng thể hiện cảm xúc. 
Ví dụ: 
(241) Biết bao nhiêu là ân tình. 
(242) Nhưng bây giờ, trong cái phút đói này, chàng mới thấy rõ cái cần mạnh 
mẽ của miếng ăn là thế nào. (Thạch Lam, Đói) 
٭ Hình thức: x là giới từ, ngữ giới từ như trên, dưới, trước, sau, 
trong, ngoài, bên trên, bên ngoài, phía trước, ... ; a là danh từ không xác 
định, ngữ danh từ không xác định. 
Ví dụ : 
(243) Ngoài trái đất là những thiên hà. (Em yêu khoa học, 31.TD) 
(244) Dưới nó là một vũng bùn to tướng. 
٭Hình thức: x là lượng từ (số từ, đại từ); a là danh từ không xác 
định, ngữ danh từ không xác định./ x là lượng từ, a là tính từ, ngữ tính từ 
không ở hình thức so sánh cao nhất. 
Ví dụ: 
(245) Phải 300 là ít. 
 (246) Ba chục bạc đối với mình là mấy 
 (247) Ba chục đối với mình là một số tiền lớn. 
Bảng thống kê tần số xuất hiện của câu quan hệ định tính có từ “là” trong các 
phong cách văn bản tiếng Việt (qua các văn bản khảo sát) 
 Văn bản
Câu 
Văn bản 
khoa học 
Văn bản 
hành chính 
Văn bản 
chính luận 
Văn bản 
văn chương 
Câu quan hệ 
định tính có 
từ “là” 
39 0 19 30 
Tổng số câu 
khảo sát 
1197 1348 386 3284 
Tỷ lệ % 3,3 0 4,9 0,93 
2.3. Tần số xuất hiện của câu quan hệ có từ “là” trong các phong cách 
văn bản tiếng Việt 
Sau đây chúng tôi trình bày kết quả thống kê các cứ liệu trong các văn 
bản thuộc phong cách khoa học, chính luận, hành chính và văn chương mà 
chúng tôi đã thu thập được. 
2.3.1. Tần số xuất hiện của câu quan hệ có từ “là” trong văn bản mang 
phong cách văn chương 
Ví dụ: 
(248) Tôi là Trần Thị Hà.(38, p.1) 
(249) Trăm con chết chừng đôi ba con là nhiều. (65, p.1 ) 
(250) Thế là sướng. (11, p.1 ) 
(251) Thật là tiến thối lưỡng nan. (64, p.1) 
 Luận văn đã khảo sát trên các cứ liệu lấy từ 10 văn bản truyện ngắn của 
Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Trần Dũng, Lý Biên Cương. Có 80 câu quan 
hệ có từ “là” trên 3284 câu của 10 văn bản. Tỷ lệ phân bố trung bình là 2,44 
%, trong đó 1,04 % là câu quan hệ sâu định tính và 1,4 % là câu quan hệ sâu 
đồng nhất. 
2.3.2. Tần số xuất hiện của câu quan hệ có từ “là” trong văn bản mang 
phong cách hành chính 
 Ví dụ : 
 Tôi tên là Nguyễn Văn A. (p.2 ) 
 Vợ là Nguyễn Văn B. (p.2 ) 
 (252) Chế độ giãn dòng là Exactly 17 pt. (p.2) 
Loại câu quan hệ sâu rất hiếm gặp trong các văn bản mang phong cách 
hành chính, nếu có gặp thì thường là loại câu quan hệ sâu đồng nhất. 
Luận văn đã khảo sát trên các cứ liệu lấy từ 10 văn bản hành chính như 
nghị quyết, nghị định, thông báo … trên tổng cộng 1384 câu của 19 văn bản 
được khảo sát chỉ có 7 câu quan hệ có từ “là”, 7 câu quan hệ này đều là các 
câu quan hệ đồng nhất. Qua khảo sát luận văn đưa ra tỷ lệ xuất hiện của kiểu 
câu quan hệ sâu có từ «là», trong các văn bản mang phong cách hành chính 
bản là 0,51 %, trong đó 0 % là câu quan hệ định tính, 0,51 % là câu quan hệ 
đồng nhất. 
Như vậy, theo khảo sát của luận văn, tần số xuất hiện của câu quan hệ 
có từ «là» trong phong cách văn bản hành chính thấp nhất so với ba phong 
cách còn lại. 
2.3.3. Tần số xuất hiện của câu quan hệ có từ « là » trong văn bản mang 
phong cách chính luận 
 Ví dụ: 
(257) Đó là một chất cực độc. (3, p.3) 
(258) Tôi tự hào là người Việt Nam. (4, p.3) 
(259) Hoa đào Nhật Tân là di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. (20, p.3) 
(260) Kiệm là tiết kiệm, không hoang phí, không bừa bãi. (31, p.3) 
Luận văn khảo sát các cứ liệu lấy từ 10 văn bản chính luận như Tuyên 
ngôn độc lập của Hồ Chủ Tịch, Lời kêu gọi của Hội nghị Quốc tế Nạn nhân 
chất Da cam / Dioxin Hà Nội, Nước cờ sai của Sakahvili của Hiếu Trung, Tôi 
tự hào là người Việt Nam của báo Tuổi trẻ, ... Với tổng cộng 386 câu trên 10 
văn bản chính luận có 51 câu quan hệ có từ là. Tỷ lệ xuất hiện của kiểu câu 
quan hệ có từ « là » trong các văn bản mang phong cách hành chính là 13,2 
%, trong đó 4,9% là câu quan hệ định tính, 8,3 % là câu quan hệ đồng nhất. 
Như vậy, theo khảo sát của chúng tôi, tần số xuất hiện của câu quan hệ 
có từ ‘‘là’’ trong phong cách văn bản chính luận cao nhất so với ba phong 
cách còn lại. 
2.4.4. Tần số xuất hiện của câu quan hệ có từ « là » trong văn bản 
mang phong cách khoa học 
 Ví dụ : 
(261) ‘‘Vua chết rồi hoàng hậu qua đời vì u buồn’’ là một cốt truyện. (15, p.4) 
(262) Trong cả bài thơ, mỗi từ là một nốt nhạc. (15, p.4) 
(263) Đó là màu yêu, là nhịp tim, điệu hồn. (18, p.4) 
(264) Thơ là đau thương. (32, p.4) 
(265) Thơ là một trò chơi. (37, p.4) 
 Luận văn khảo sát các cứ liệu từ 10 văn bản mang phong cách khoa học 
gồm khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Có 1197 câu trên 10 văn bản khoa 
học, trong đó có 113 câu quan hệ có từ « là ». Tỷ lệ xuất hiện của kiểu câu 
quan hệ có từ «là»trong các văn bản mang phong cách khoa học là 9,46 %. 
Trong đó 3,35 % là câu quan hệ định tính, 6,11 % là câu quan hệ đồng nhất. 
Đây là một tỷ lệ khá cao trong 4 phong cách văn bản được khảo sát. 
Tiểu kết: 
Ở chương này, luận văn đã khảo sát chức năng ngữ nghĩa của kiểu câu 
quan hệ có từ “là” (câu quan hệ sâu) trong tiếng Việt. Vị từ “là” là một vị từ 
đặc biệt trong khung vị ngữ có thể tạo ra ra những câu quan hệ có chức năng 
ngữ nghĩa khác nhau rất phong phú, đa dạng. 
Không chỉ vậy, hình thức của các tham thể xoay quanh vị từ “là” rất đa 
dạng cũng đã góp phần tạo nên sự phong phú về ngữ nghĩa, ngữ dụng cho câu 
quan hệ sâu trong tiếng Việt. 
Ngoài ra, luận văn cũng đã thống kê và khảo sát các cứ liệu là câu quan 
hệ có từ “là” trên các văn bản đại diện cho một số phong cách (bao gồm 
phong cách khoa học, chính luận, hành chính và văn chương ) để đưa ra được 
tần số xuất hiện của kiểu loại câu này trong những văn bản tiếng Việt đã khảo 
sát như sau: 
 Văn bản 
Câu 
Văn bản 
khoa học 
Văn bản 
hành chính 
Văn bản 
chính luận 
Văn bản nghệ 
thuật 
Câu quan hệ 
định tính có 
từ “là” 
39 0 19 30 
 Câu quan hệ 
đồng nhất có 
từ “là” 
71 7 32 45 
Tổng số câu 
khảo sát 
1197 1384 386 3284 
Tỷ lệ % 9,2 0,51 13,2 2,3 
 KẾT LUẬN 
 Do đặc điểm loại hình của tiếng Việt nói chung và vị từ “là” tiếng Việt 
nói riêng, câu quan hệ có vai trò quan trọng trong cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt 
và có một vị trí riêng bên cạnh các loại câu hành động, câu quá trình, câu 
trạng thái … 
1. Luận văn đã tiếp thu những thành tựu nghiên cứu về ngữ nghĩa học, ngữ 
pháp học theo quan điểm chức năng, đặc biệt là các công trình nghiên cứu của 
M.A.K. Halliday. Luận văn đã điểm qua khái niệm về câu theo hai quan điểm 
ngữ pháp truyền thống và ngữ pháp chức năng, xác định khái niệm về câu 
quan hệ trong tiếng Việt 
2. Luận văn đã thu thập và khảo sát được khoảng trên 470 câu quan hệ có từ 
‘là” (câu quan hệ sâu theo quan niệm của M.A.K. Halliday) trong nhiều loại 
văn bản thuộc các phong cách khác nhau của tiếng Việt. 
3. Dựa trên lý thuyết câu quan hệ của M.A.K. Halliday, luận văn cũng đã 
phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa câu quan hệ định tính và câu quan 
hệ đồng nhất có từ “là” trong tiếng Việt, đồng thời thấy được đặc điểm chức 
năng của vị từ “là”, một vị từ đặc biệt, xuất hiện trong câu quan hệ sâu tiếng 
Việt. Trong câu quan hệ, “là” là vị từ quan hệ, tuy không có ý nghĩa từ vựng 
nhưng có khả năng đóng vai trò vị từ trung tâm, thiết lập mối quan hệ được 
giữa Bị đồng nhất thể và Đồng nhất thể, Đương thể và Thuộc tính thể. 
4. Qua các ngữ liệu khảo sát chúng tôi nhận thấy có một vài phong cách văn 
bản (chẳng hạn phong cách văn bản hành chính ) tần số xuất hiện của câu 
quan hệ định tính, quan hệ đồng nhất có từ “là” là rất thấp. Theo những ngữ 
liệu mà luận văn khảo sát được, tần số câu quan hệ sâu xuất hiện thấp nhất là 
ở loại văn bản mang phong cách hành chính (0,51% - trong đó tần số xuất 
 hiện của câu quan hệ sâu định tính là 0% ), tần số xuất hiện cao nhất của câu 
quan hệ sâu là ở các phong cách văn bản mang phong cách chính luận (13%) 
5. Những kết quả đạt được của luận văn: 
 Về mặt lý luận: 
 Luận văn hy vọng đã tổng hợp được về cơ bản một số vấn đề lý thuyết 
câu và câu quan hệ, đặc biệt là câu quan hệ sâu có từ “là” theo khuynh hướng 
ngữ pháp chức năng. Công việc tìm hiểu chức năng ngữ nghĩa và đặc điểm 
cấu trúc, kết quả thống kê khảo sát các ngữ liệu của câu quan hệ có từ “là” đã 
giúp chúng tôi thấy rõ hơn bản chất ngữ nghĩa, tỷ lệ phân bố của loại câu này 
trong các phong cách văn bản tiếng Việt. 
 Về thực tiễn: 
 Bản thân là một giáo viên giảng dạy ngữ văn, việc nghiên cứu câu quan 
hệ giúp tôi hiểu thêm đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của câu quan hệ trong 
tiếng Việt đồng thời đóng góp được một hệ thống dẫn chứng phong phú, chân 
thực cho những ai muốn tìm hiểu thêm về loại câu này. 
 Ngoài ra , kết quả của luận văn cũng có thể góp phần hỗ trợ cho bản 
thân trong việc biên soạn những tài liệu học tập, giảng dạy về câu nói chung 
và câu quan hệ nói riêng và góp phần hỗ trợ cho thực tiễn nói viết tiếng Việt. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Thị Lan Anh (2006), “Đặc trưng ngữ nghĩa của sự tình quan hệ 
so sánh trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 2. 
2. Bùi Minh Toán-Lê Thị Lan Anh (2006), “Câu quan hệ tiếng Việt: Sự hiện 
thực hóa các thành tố của sự tình quan hệ”, Ngôn ngữ, số 10. 
3. Diệp Quang Ban (2001), Ngữ pháp Việt Nam (phần câu), Nxb Đại học Sư 
phạm. 
4. Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục. 
5. Diệp Quang Ban (chủ biên)- Hoàng Văn Thung (2005), Ngữ pháp tiếng 
Việt tập1&2 , Nxb Giáo dục. 
6. Nguyễn Đức Dân (1976), Lôgic- Ngữ nghĩa- Cú pháp, Nxb ĐH& THCN, 
Hà Nội. 
7. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, Nxb GD, Tp HCM. 
8. Nguyễn Đức Dân (1998), Lôgic và tiếng Việt, Nxb GD, Tp HCM. 
9. Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào (1995), Từ điển thành ngữ và tục 
ngữ Việt Nam, Nxb Văn hóa. 
10. Đinh Văn Đức (2001), Ngữ pháp tiếng Việt- Từ loại, Nxb ĐH Quốc gia 
Hà Nội. 
11. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục. 
12. Nguyễn Thiện Giáp (1995), Từ vựng học tiếng Việt hiện đại, Nxb ĐH & 
THCN, Hà Nội. 
13. Cao Xuân Hạo (2004), Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng, Nxb Giáo dục. 
14. Cao Xuân Hạo (chủ biên)- Hoàng Xuân Tâm- Nguyễn Văn Bằng- Bùi Tất 
Tươm (2001), Ngữ pháp chức năng tiếng Việt (quyển 1) Câu trong 
tiếng Việt, Nxb Giáo dục. 
 15. Cao Xuân Hạo- Lý Tùng Hiếu- Nguyễn Kiên Trường- Võ Xuân Trang- 
Trần Thị Tuyết Mai (2002), Lỗi ngữ pháp và cách khắc phục, Nxb 
Khoa học Xã hội. 
16. Trần Hoàng (tuyển chọn) (2001), Tài liệu tham khảo về ngữ pháp tiếng Việt. 
17. Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Minh Thuyết (1998), Thành phần câu tiếng 
Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 
18. Vũ Gia Hiền (2006), Để viết bài luận tốt, Nxb Lao động. 
19. Hoàng Dũng, Bùi Mạnh Hùng (2007), Giáo trình Dẫn luận Ngôn ngữ 
học, Nxb Đại học Sư phạm. 
20. John Lyons, Nguyễn Văn Hiệp dịch (2006), Ngữ nghĩa học dẫn luận, Nxb 
Giáo dục. 
21. John Lyons, Vương Hữu Lễ dịch (1996), Nhập môn ngôn ngữ học lý 
thuyết, Nxb Giáo dục. 
22. Đinh Trọng Lạc (chủ biên)-Nguyễn Thái Hòa (1997), Phong cách học 
tiếng Việt, Nxb Giáo dục. 
23. Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ và Phạm Duy Khiêm (1949), Việt Nam văn 
phạm, Nxb Tân Việt, Sài Gòn. 
24. M.A.K.Halliday (2001), Hoàng Văn Vân dịch, Dẫn luận ngữ pháp chức 
năng, Nxb Đại học Quốc gia HN. 
25. Nguyễn Thanh Nhàn, Vị từ tình thái trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, 
Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, tp.HCM 
26. Hoàng Phê (chủ biên) (1996), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. 
27. Nguyễn Thị Kim Quyên (2007), Vị từ gây khiến trong tiếng Việt, Luận 
văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, tp.HCM. 
28. Nguyễn Thị Quy (1995), Vị từ hành động tiếng Việt, Nxb KHXH, Tp HCM. 
29. Simon C.Dik (2005), Nguyễn Vân Phổ, Trần Thủy Vịnh, Nguyễn Hoàng 
Trung, Đào Mục Đích, Nguyễn Thanh Phong dịch, Cao Xuân Hạo 
 hiệu đính, Functional Grammar - Ngữ pháp Chức năng, Nxb Đại 
học Quốc gia TP HCM. 
30. Bùi Đức Tịnh (1996), Văn phạm Việt Nam, Nxb Văn hóa. 
31. Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt mấy vấn đề ngữ âm- ngữ pháp- ngữ 
nghĩa, Nxb Giáo dục. 
32. Cù Đình Tú (2001), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb 
Giáo dục. 
33. Nguyễn Kim Thản (1983), Cơ sở ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Hà Nội. 
34. Nguyễn Kim Thản (1977), Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, Nxb GD, Hà Nội. 
35. Hoàng Văn Thung – Lê A (1995), Ngữ pháp tiếng Việt, Đại học Sư phạm 
Hà Nội. 
36. Nguyễn Minh Thuyết,Nguyễn Văn Hiệp (2004), Thành phần Câu tiếng 
Việt, Nxb ĐHQG, Hà Nội. 
37. Trần Ngọc Thêm (1977) “Bàn thêm về cấu trúc ‘‘Danh+ là+ Danh’’, 
Ngôn ngữ, số 1. 
38. Trần Ngọc Thêm (1995), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb 
KHXH, Hà Nội. 
39. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb GD, Tp HCM. 
40. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1983), Ngữ pháp Việt Nam, Nxb 
KHXH- Hà Nội. 
41. Hoàng Văn Vân (2005) Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt: Mô tả 
theo quan điểm chức năng hệ thống, Nxb KHXH. 
42. Đoàn Phi Yến, Cấu trúc Đề Thuyết trong thơ lục bát cổ điển và thơ lục 
bát hiện đại, Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, tp.HCM. 
43. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa 
Thông tin, Hà Nội. 
 TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Bộ Công thương, Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại, Các 
văn bản Pháp quy, số 39 ngày 29/9 – 5/10/2008. 
2. Bộ Công thương Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại, Các 
văn bản Pháp quy, số 41ngày 13/10/2008. 
3. Bộ Công thương Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại, Các 
văn bản Pháp quy, số 46 ngày 17/11 – 23/11/2008. 
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo Trường Đại học Thủy Sản, Chỉ thị của Hiệu 
trưởng V/v tổ chức giảng dạy và thi học kỳ (1998), số 473 CT/ĐT 
5. Bộ Xây dựng,Quyết định của Bộ trưởng Bộ Xây dựng v/v ban hành Định 
mức chi phí quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình(2005), số 
10/2005/ QĐ-BXD. 
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo trường Đại học Sư phạm, Quy định về đề cương 
nghiên cứu và luận văn thạc sĩ. 
7. Bộ Giáo dục và Đào tạoTrường Đại học Nha Trang, Thông báo V/v triển 
khai kế hoạch học và thi ngoại ngữ đối với cán bộ giảng dạy, số 
421/TB-ĐHNT-TC. 
8. Bộ Xây dựng, Định mức chi phí quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình 
(Ban hành kèm theo Quyết định số10/2005/QĐ-BXD ngày 
15/4/2005 của Bộ trưởng Bộ Xây dựngHọc viện chính trị Quốc gia 
HCM (số 1/ 2005) Các văn bản Pháp quy, số 4-2008, 7-2008, 11-
2008. 
9. Nam Cao, Ngô Tất Tố, Hải Triều (2005), Tác phẩm được giải thưởng Hồ 
Chí Minh, Nhà xuất bản Văn học Hà Nội. 
10. Nghiên cứu văn học Tạp chí nghiên cứu lý luận và lịch sử văn học, Viện 
văn học –Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, số 7-2008, 10-2009, 11-2008. 
 11. Phan Cự Đệ (chủ biên), Bùi Việt Thắng, Hà Văn Đức, Lý Hoài Thu, Hồ 
Thu Giang, Nguyễn Thị Hương Giang (2004), Văn học Việt nam thế 
kỷ XX Truyện ngắn 1994-1975, Nxb Văn học 
12. Tạp chí Ngôn ngữ số 1 (2001); 2, 3 (1991);6 (1998); 9 (2002, 2006),10; 
11(2001), 14 (2001) 
13. Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống số 1+2 (123+124) (2006), 5 (127) (2006), 
9 (2002) 
14. Thông tin công tác Trường Chính trị (2005), Quyết định v/ v ban hành quy 
định tạm thời về tổ chức thao giảng, dự giờ ở các trường chính trị 
tỉnh, thành phố, Học viện Hành chính Quốc gia, số 1, trang 1. 
15. Thông tin công tác Trường chính trị (2005), Quy định tạm thời về tổ chức 
thao giảng, dự giờ ở các trường Chính trị tỉnh, thành phố, Học viện 
hành chính quốc gia, số 1, trang 2-4. 
16. Thông tin công tác Trường Chính trị (2005), Quy định tạm thời về tổ chức 
thao giảng, dự giờ ở các trường Chính trị tỉnh, thành phố, Học viện 
Hành chính Quốc gia, số 1, trang 2-4. 
17. Thông tin công tác Trường chính trị (2005), Thông báo về việc tổ chức 
Hội thi giảng viên dạy giỏi ở các trường Chính trị tỉnh, thành phố 
năm 2005, Học viện Hành chính Quốc gia, số 1, trang 5.38 
18. Thông tin công tác Trường Chính trị (2005), Thông báo về việc tổ chức 
Hội thi giảng viên dạy giỏi ở các trường Chính trị tỉnh, thành phố 
năm 2005, Học viện Hành chính Quốc gia, số 1, trang 5.38 
19. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Nai Sở Giáo dục & Đào tạo, Tài liệu Hội 
nghị điển hình tiên tiến ngành Giáo dục & Đào tạo (2005) 
20. Viện Mác- Lênin, Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 7(1987), Nxb Sự Thật. 
 Internet: 
21.  
22.  
23.  
24.  
25.  
26.  
27.  
28.  
29.  
30.  
31.  
 Phụ lục 1 
Ngữ liệu lấy từ các truyện ngắn của Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Trần Dũng, 
Lý Biên Cương ... 
Stt Câu quan hệ sâu có 
từ “là” 
Tác giả, tác 
phẩm, số 
trang 
tr Câu 
qhs 
định 
tính có 
từ “là” 
Câu 
qhs 
đồng 
nhất có 
từ “là” 
Ghi chú 
1 Mắng một vài câu, đã 
đủ mang tiếng là con 
người tệ. 
18 X 
2 Mỗi lần đổi chủ là 
một lần hạ giá. 
Nam Cao, 
Một bữa no 
397 câu 
19 X 
3 Nó cũng là thằng 
khá, nó thấy bố nói 
thế thì nó thôi ngay, 
nó không đả động gì 
đến chuyện cưới xin 
gì nữa. 
30 X 
4 Đến tháng 7 này là 
vừa bốn năm. 
31 X 
5 Kiếp chó là kiếp khổ 
thì ta hóa ra kiếp nó 
để nó làm kiếp người, 
may ra có sung sướng 
hơn một chút ... kiếp 
người như kiếp tôi 
chắng hạn. 
34 X 
6 Chẳng có kiếp gì là 
Nam Cao, 
Lão Hạc 
[16] 
(327câu) 
35 X 
 sung sướng thật, 
nhưng có cái này là 
sung sướng: bây giờ 
cụ ngồi xuống phản 
này chơi, tôi đi luộc 
mấy của khoai, nấu 
một ấm trà thật đặc, 
uống nước chè, rồi 
hút thuốc lào... 
7 Thế là sướng. 35 X 
8 Đối với chúng mình 
thì thế là sung sướng. 
35 X 
9 Thế là được chứ gì. 35 X 
10 ...; tôi là người nhiều 
chữ nghĩa, nhiều lý 
luận, người ta kiêng 
nể; ... 
35 X 
11 ; lão còn được hai 
mươi lăm đồng bạc, 
với năm đồng bán 
chó nữa là ba mươi 
đồng bạc, muốn gửi 
tôi để nhỡ có chết, thì 
tôi đem ra, nói với 
hàng xóm giúp, gọi là 
của lão có tý chút, 
con bao nhiêu đành 
nhờ hàng xóm cả ... 
36 X 
12 ..., không bao giờ ta 
thấy họ là người đáng 
37 X 
 thương. 
13 Đấy là một đồng chí 
tân binh vui, khỏe, 
xốc vác nhưng tính 
tình hơi lẳng lơ một 
tý. 
7 X 
14 Con đường miền Tây 
dạo ấy đang mùa 
mưa, nhưng địch 
đánh rát lắm; những 
quãng qua khe ngầm, 
nhất là quãng cầu đá 
xanh, anh chị em giao 
thông đang vật nhau 
với địch để quyết giữ 
con đường biên giới. 
8 X 
15 Nhưng dầu sao nó 
cũng là một việc 
riêng. 
8 X 
16 Rõ ràng tiếng trả lời 
của một người đàn 
bà, tiếng nói trong 
lắm và rất bình tĩnh, 
cứng cỏi nữa là khác. 
10 X 
17 Thôi đi cô, đáng lý 
tôi đã mời cô xuống 
xe, đây là xe chở 
hàng quân sự. 
10 X 
18 Em là công nhân giao 
thông. 
Nguyễn 
Minh Châu, 
Mảnh trăng 
cuối rừng [,] 
376 câu 
10 X 
 19 Trong tổ đá của chị 
tôi có một cô tên là 
Nguyệt. 
11 X 
20 Phải, Nguyệt là trăng. 11 X 
21 Em là ... Nguyệt. 13 X 
22 Ở trong đội ngầm của 
cô có nhiều cô tên là 
Nguyệt lắm thì phải? 
13 X 
23 Chúng em thường gọi 
đùa là chị Nguyệt 
“lão”. 
14 X 
24 Một trong hai người, 
ai là người tôi sắp 
tìm đến? 
14 X 
25 Người tôi sắp tìm đến 
là ai? 
14 X 
26 Tôi tin chắc chắn 
người con gái ngồi 
cạnh mình là Nguyệt, 
chính cái người mà 
chị tôi từng nhắc đến. 
15 X 
27 Mà cô có xuống từ 
dưới kia tôi cũng 
không bao giờ nghĩ 
cô là một người khi 
khó khăn thì bỏ 
người khác. 
17 X 
28 Tôi chợt nhận ra 18 X 
 mình đang đứng giữa 
một cái khe chỉ vừa 
một người, hai bên là 
hai gốc cây to. 
29 Lát sau, mới biết chị 
là tổ trưởng nấu ăn 
của đội, đấy chính là 
chị Nguyệt lão, một 
người bạn thân thiết 
của chị tôi từ lâu. 
20 X 
30 Khuôn mặt tròn, hơi 
trẻ con là đằng khác. 
180 X 
31 Gọi là mới ấy là so 
với anh. 
180 X 
32 Tôi là Trần Thị Hà. 181 X 
33 Đấy, quê anh nghèo 
khổ thân yêu là thế. 
181 X 
34 Anh là Tiên, có cái 
tên để người đời chê 
hoặc khen. 
181 X 
35 Chẳng lẽ em là kỹ sư 
nghề hàn, em lại 
không nghe thấy 
tiêng nói lòng anh ? 
182 X 
36 Chính tao, tao là du 
kích đấy. 
183 X 
37 Người ngoài nhìn nó, 
ví von là sao, là hoa 
Lý Biên 
Cương, Hồ 
Quang [,] 
381 câu 
184 X 
 cà hoa cải. 
38 Ấy là những ngày 
đầu Hà đến với anh, 
chóng thế. 
185 X 
39 Cứ thế cho đến 
chuyện xô xát trưa 
hôm nay, Nhàn 
không nhớ là lần thứ 
bao nhiêu nữa. 
317 X 
40 Tổ đổi công của anh 
hồi ấy rất em thấm, 
rất ít khi trong tổ có 
chuyện xô xát, bà con 
lại còn bầu anh là 
người gương mẫu sản 
xuất. 
317 X 
41 Đám nam nữ thanh 
niên trong làng thì 
chê Nhàn là người đa 
thê, lạc hậu, phong 
kiến. 
317 X 
42 Thực ra chị ta vốn là 
người tốt. 
318 X 
43 Ngoài cái tính lắm 
điều hay ghen của chị 
làng xóm láng giềng 
ai cũng phải công 
nhận chị ta là người 
chăm làm. 
319 X 
44 Giống người hay 
Trần Dũng, 
Hai vợ [,] 
465 câu 
323 X 
 giống chó mà không 
biết ngượng là gì ? 
45 Anh muốn kéo vợ 
vào đất liền, kiếm 
một căn nhà, một 
mảnh đất và muốn vợ 
mình chỉ còn là một 
người vợ thuần túy. 
127 X 
46 Ấy là một chuyến 
vượt biển khó quên. 
128 X 
47 Hai đốm lửa cháy kia 
là đảo gọi riêng em. 
129 X 
48 Tôi là Quyền, 
Nguyễn Duy Quyền, 
pháo thủ số 1 khẩu 
đội 2. 
133 X 
49 Giá nói, là các cụ lại 
cho là vợ chồng là 
cái duyên cái số đây. 
137 X 
50 Mình nghĩ khác, vợ 
chồng đến được với 
nhau, chẳng qua là 
hợp nhau. 
137 X 
51 Ấy là những năm xa 
cách nhau. 
138 X 
52 Con ơi là con, nhà 
mình có năm có bảy 
gì cho cam, chỉ có 
mỗi mống ... 
Lý Biên 
Cương, Đảo 
nhỏ [,] 
612 câu 
138 X 
 53 Trong Len, anh là 
đảo. 
139 X 
54 ... thuốc «Ngọc bình 
phong» là thuốc cầm 
mồ hôi rất diệu. 
Ngô Tất Tố, Tôi 
còn sống vì tôi 
không uống thuốc, 
tập truyện ngắn 
Dao cầu thuyền tán 
(59câu) 
 X Nguồn : 
Internet 
Thư 
viện 
online 
v 
55 Rút cục, cụ thứ nhất 
thắng, vì đã nói đến 
sách Phùng thị, thứ 
sách mà nhà chủ nói 
là môn vương đạo. 
 X 
56 Cái lệ cụ lang đến sau 
phải công kích cụ 
lang đến trước là cố 
nhiên rồi. 
 X 
57 Ai uống thuốc của họ 
mà khỏi, chỉ là sự 
ngẫu nhiên. 
 X 
58 Thật là tấn thối lưỡng 
nan! 
Sơn Nam, Mùa len 
Trâu, Tập truyện 
ngắn Hương rừng 
Cà Mau. 
196câu 
X 
59 Trăm con, chết chừng 
đôi ba con là nhiều. 
 X 
 60 Như vậy là mình bất 
nhân. 
 X 
61 Như, tiều, canh, mục 
là bốn điều quan 
trọng nhất. 
 X 
62 Voi đi một lần đôi ba 
chục con là cùng, cọp 
đi hai ba con là 
nhiều. 
 X 
63 Sao không ừ hử gì 
ráo, hay là ngủ rối... 
 X 
64 Ðằng xa kia là Bảy 
Núi, nơi mà giờ này 
thằng Nhi và hai con 
trâu của chú đang 
tung hoành, sắp lội 
nước hằng mươi cây 
số để vượt ra mé biển 
đến vùng rừng tràm 
miệt Linh Quỳnh. 
 X 
65 Mừng con, tiếc của là 
một lẽ. 
 X 
66 Nghe dễ là gần sáng. Tô Hoài, Cái áo tế, 
Tập truyện ngắn Tô 
Hoài. 
393 câu 
 X 
67 Thế này là trái tiết, 
người ta dễ ốm, con 
cua con ếch thì lo xa 
 X 
 tránh rét nghe sấm đã 
ẩn vào trong hang cả 
rồi. 
68 Cũng chẳng biết “đâu 
khắc có đấy rồi” là 
thế nào, lão đâm ra 
cuống, đến lúc lại 
nghe yên tâm nói thế, 
ông Đợ lại yên tâm 
vu vơ, lại thấy ông từ 
Hoả mới là tay tháo 
vát. 
 X X 
69 Chỉ nửa buổi, đã đẽo 
xong đôi guốc gộc 
tre, gọi là đôi guốc, 
đôi giày, đôi hia gộc 
tre cũng được. 
 X 
70 Thế mới biết Tây 
người ta nói “phú quý 
sinh chữ nghĩa” là 
phải. 
Nguyễn Công 
Hoan, Bà chủ mất 
trộm, tập truyện 
ngắn Tuyển tập 
Nguyễn Công 
Hoan. 
91câu 
X 
71 Nhất là thời thường, 
dăm bẩy ông Tây, bà 
đầm đến dự tiệc khi 
về, ai cũng tươi cười, 
bắt tay, cảm ơn bà rất 
vui vẻ 
 X 
73 Bà mới biết lời quan X 
 ông thường nói khi 
trước là chí lý. 
74 Giống An-nam là 
giống nói dối và ăn 
cắp. 
 X 
75 Thực là đàn bà hiếm 
có, quảng giao mà 
tháo vát đủ việc. 
 X 
Tổng số câu khảo sát 3284 câu/ 10vb 30 45 
Tỷ lệ phân bố tính theo tỷ lệ 
% 
2,3 0,093 1,37 
 Phụ lục 2 
Ngữ liệu lấy từ các văn bản nghị quyết định, thông báo ... 
stt Câu quan hệ 
sâu có từ ‘‘là’’ 
Nguồn, tổng số câu 
từng văn bản 
tr Câu qhs 
định 
tính có 
từ ‘‘là’’ 
Câu qhs 
đồng 
nhất có 
từ ‘‘là’’ 
Ghi 
chú 
* Không Bộ giáo dục và đào 
tạo, Quy định về lề 
lối và chế độ làm việc 
của cán bộ hướng dẫn 
thực hành. 
26 câu 
1 Tuyệt 
nhiên 
không 
có câu 
quan 
hệ có 
từ «là» 
* Không PGĐ. PGS. Tô Huy 
Rứa, Quyết định v/v 
ban hành tạm thời về 
tổ chức thao giảng, 
dự giờ ở các trường 
chính trị tỉnh, thành 
phố. 
14 câu 
1 nt 
* Không PGĐ. PGS Tô Huy 
Rứa, Quy định tạm 
thời về việc tổ chức 
thao giảng dự giờ ở 
các trường chính trị, 
thành phố. 
91 câu 
 Tuy 
nhiên 
có 3 
câu 
quan 
hệ sở 
hữu có 
«là», 
và 4 
câu 
 quan 
hệ 
cảnh 
huống. 
(xem 
phụ 
lục) 
* Không Thông báo v/v triển 
khi kế hoạch học và 
thi ngoại ngữ đối với 
cán bộ giảng dạy. 
17 câu 
 Tuyệt 
nhiên 
không 
chứa 
câu qhs 
có từ 
«là» 
1 Tại mỗi tiểu 
mục phải có ít 
nhất hai tiểu 
mục, nghĩa là 
không thể có 
tiểu mục 2.1.1 
mà không có 
2.1.2 tiếp theo. 
Quy định về đề 
cương nghiên cứu và 
luận văn thạc sĩ 
3 X 
2 Việc trình bày 
phương trình 
toán học trên 
một dòng đơn 
hay dòng kép 
là tùy ý, tuy 
nhiên phải 
thống nhất 
trong toàn luận 
án. 
 X 
 3 Chế độ giãn 
dòng là 
Exactly 17 pt. 
132 câu 
5 
4 Tác giả là 
người nước 
ngoài : xếp thứ 
tự ABC theo 
họ. 
 6 X 
5 Tác giả là 
người Việt 
Nam: xếp thứ 
tự ABC theo 
tên, nhưng vẫn 
giữ thứ tự 
thông thường 
của tên Việt 
Nam, không 
đảo tên trước 
họ. 
 6 X 
6 Tài liệu là 
sách, báo luận 
văn phải ghi 
đầy đủ các 
thông tin sau. 
 6 X 
* Không PGĐ. Nguyễn Văn 
Sáu, Thông báo v/v tổ 
chức thi giảng viên 
dạy giỏi các trường 
chính trị thành phố 
năm 2005. 
16 câu 
Có 
chứa 
một số 
câu 
quan 
hệ có 
từ 
« là » 
chu 
cảnh, 
sở hữu.
 * Không Định mức chi phí ... 
của bộ Xd 
67 câu 
 Tuyệt 
nhiên 
không 
chứa 
câu 
quan 
hệ có 
từ là. 
* Không Chỉ thị của hiệu 
trưởng v/v tổ chức 
giảng dạy, kiểm tra 
và thi học kỳ (1998) 
32 câu 
 Chỉ có 
1 câu 
qh chu 
cảnh 
có từ là
* Bộ giáo dục và đào 
tạo trường ĐHTS số 
591/Qđ tạm thời về 
đảm bảo chất lượng 
giảng dạy. 
32câu 
 Tuyệt 
nhiên 
không 
chứa 
câu 
quan 
hệ có 
từ là. 
* Nguyễn Tấn Dũng, 
Nghị định quy định 
chức năng, nhiệm vụ 
và cơ cấu tổ chức của 
Bảo hiểm xã hội Việt 
Nam, Các văn bản 
pháp quy, số 39, tr 1-
5 
155 câu 
4 Có 
chứa 
một số 
câu 
quan 
hệ có 
từ 
« là » 
chu 
cảnh, 
và sở 
 hữu. 
* Thủ tướng chính phủ, 
quyết định ban hành 
quy chế quản lý tài 
chính đối với họat 
động tìm kiếm cứu 
nạn, cứu hộ, ứng phó 
thiên tai, thảm họa, số 
118/2008/Qđ-TTg 
[các văn bản pháp 
quy, tr6-11] 
146câu 
 Có 
chứa 
một số 
câu 
quan 
hệ có 
từ 
« là » 
chu 
cảnh, 
và sở 
hữu. 
* Không Thứ trưởng Đỗ 
Hoàng Anh Tuấn, 
Thông tư hướng dẫn 
thi hành một số biện 
pháp xử lý nợ đọng 
thuế. [VBPQ, tr 23-
26] 
108câu 
 Có 
chứa 
một số 
câu 
quan 
hệ có 
từ 
« là » 
chu 
cảnh 
* Không Thứ trưởng Trần 
Xuân Hà, Quýêt định 
về cơ chế quản lý, 
điều hành giá bán 
xăng dầu [VBPQ, tr 
38-39] 
16 câu 
 Tuyệt 
nhiên 
không 
chứa 
câu 
quan 
hệ có 
từ là 
* Không Thứ trưởng thường Tuyệt 
 trực Lê Nam Thắng, 
Quyết định bàn về 
ban hành giá cứơc 
bản tin nhắn và tỷ lệ 
phân chia giá cước 
bản tin nhắn đến cổng 
thông tin điện tử nhân 
đạo Quốc gia 
[VBPQ,tr53] 
19câu 
nhiên 
không 
chứa 
câu 
quan 
hệ có 
từ là 
* Không Thứ trưởng Đinh 
Trung Tụng, Quyết 
định phê duyệt kế 
hoạch triển khai Nghị 
định số 66/2008/Nđ- 
Cp ngày 28/05/2008 
của chính phủ về việc 
hỗ trợ cho doanh 
nghiệp, [VBPL,số 39, 
tr.74] 
105 câu 
 Tuyệt 
nhiên 
không 
chứa 
câu 
quan 
hệ có 
từ là 
 Không TT Nguyễn Tấn 
Dũng, Nghị định quy 
định chức năng, 
quyền hạn và cơ cấu 
tổ chức của Bộ Tư 
pháp [VBPQ,tr1-4] 
113 câu 
 Tuyệt 
nhiên 
không 
chứa 
câu 
quan 
hệ có 
từ là 
 Không Bộ trưởng Vũ Huy 
Hoàng, Quyết định 
Ban hành Quy chế 
93 Tuyệt 
nhiên 
không 
 bảo vệ bí mật nhà 
nước trong ngành 
Công Thương [văn 
bản pháp quy số 
41,tr.91-96] 
179câu 
chứa 
câu 
quan 
hệ có 
từ là 
 Không Thứ trưởng Nguyễn 
Vinh Hiển, Quyết 
định Ban hành Quy 
chế tổ chức và hoạt 
động của trường phổ 
thông dân tộc nội 
trú,[VBPQ,87-91] 
131 câu 
88 Tuyệt 
nhiên 
không 
chứa 
câu 
quan 
hệ có 
từ là 
 Tôi tên là: 
NguyễnVăn A 
Văn bản cam kết về 
tài sản. 
13câu 
 Vợ là : 
Nguyễn Văn B 
Tổng số câu khảo sát 1384 câu/ 19 văn bản 0 7 
Tần số xuất hiện tính 
theo tỷ lệ % 
0,51 0 0,51 
 Phụ lục 3 
Ngữ liệu được chọn là văn bản : Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ Tịch, Lời 
kêu gọi của Hội nghị Quốc tế Nạn nhân chất Da cam/dioxin Hà Nội, Nước cờ sai 
của Saakahvili của Hiếu Trung, Tôi tự hào là người Việt Nam của Báo tuổi trẻ.com, 
.. 
stt Câu quan hệ sâu có 
từ “là” 
Tác giả, tác 
phẩm, số câu 
từng văn bản 
khảo sát 
tr Câu 
qhs 
định 
tính có 
từ “là” 
Câu 
qhs 
đồng 
nhất có 
từ “là” 
Ghi 
chú 
1 Sự thật là từ mùa thu 
năm 1940, nước ta 
đã thành thuộc địa 
của Nhật, chứ không 
phải thuộc địa của 
Pháp nữa. 
Hồ Chí Minh, 
Tuyên ngôn độc 
lập. 
(45câu) 
 X 
2 Nhiều cháu sinh ra 
không hề biết chiến 
tranh là gì nhưng đã 
phải mang hình hài 
đầy dị tật khiến cho 
các cháu không bao 
giờ được hưởng 
hạnh phúc đơn giản 
nhất là được sống 
như một người bình 
thường! 
Lời kêu gọi của 
Hội nghị Quốc tế 
Nạn nhân chất 
Da cam/dioxin 
Hà 
Nội (11/05/2006)
(35) 
 X 
3 Đó là một chất cực 
độc. 
 X 
4 Tôi tự hào là người B.D, Tôi tự hào X 
 VN. 
là người Việt 
Nam. 
(12câu) 
5 Một trong hai công 
cụ hữu ích của 
Internet đối với đại 
đa số giới trẻ là 
Yahoo . 
 X 
6 Không chỉ là những 
câu chuyện phiếm, 
những icon buồn - 
vui, mà còn là một 
nhắn gửi thiêng 
liêng: tự hào dân tộc. 
 X 
7 Cách đây không lâu, 
một bạn SV trường 
ĐH KHXH&NV 
TP.HCM email về 
cho Tuổi Trẻ với 
mong muốn được 
chào cờ đầu tuần 
như cái thuở còn là 
học sinh. 
 X 
8 Một thông điệp 
không lời nhưng 
cũng đủ gửi đến 
cộng đồng bạn bè 
trên mạng, người cậu 
du học sinh ấy quen 
biết: rằng tôi là 
người VN và tôi tự 
hào là người VN. 
 X 
 9 Trong đó đa số là 
đôla và gần 40 điện 
thoại di động. 
Xã luận xã hội, 
Sòng bạc các 
quý bà. 
(9 câu) 
 X 
10 Con bạc thắng nhiều 
nhất là "nữ quái" 
Năm Bê (56 tuổi, 
ngụ phường Bình 
Hưng Hòa A). 
 X 
11 Năm Bê là một tay 
cờ bạc nữ chuyên 
nghiệp. 
 X 
* Không Việtnamnet, Thủ 
tướng yêu cầu xử 
lý xe công đi 
chợ, đi chùa. 
(7câu) 
12 Trong 3 bạn, Anh 
Tuấn là người giỏi 
tiếng Việt nhất. 
Để giữ "xuân" 
cho tuổi trẻ Việt 
Nam trong và 
ngoài nước 
(84câu) 
 X 
13 Năm 2006 là năm kỷ 
niệm 50 năm Ngày 
truyền thống Hội 
Liên hiệp thanh niên 
VN, là năm tăng tốc 
đẩy mạnh hoạt động 
Hội, đưa phong trào 
thanh niên lên tầm 
 X 
 cao mới gắn với việc 
mở rộng mặt trận 
đoàn kết, tập hợp 
thanh niên, trong đó 
thanh niên Việt kiều 
là bộ phận quan 
trọng. 
14 Thật sự đây là buổi 
họp mặt rất thú vị và 
bổ ích. 
 X 
15 Tôi muốn cho con 
tôi giao lưu văn hóa 
với người Việt, biết 
cội nguồn, biết thanh 
niên VN là như thế 
nào. 
 X 
16 Tôi lo nhất con mình 
là người Việt mà lại 
không biết tiếng 
Việt. 
 X 
17 Chị muốn đưa con 
gái về nước thường 
xuyên hơn, và đặc 
biệt là đến giao lưu 
tại những buổi họp 
mặt như thế này để 
cháu có điều kiện 
tiếp xúc, hiểu biết, 
gần gũi hơn với đất 
mẹ, với truyền 
thống và văn hóa 
Việt… 
18 Có một điều mà tôi 
muốn chia sẻ cùng 
anh chị và các bạn: 
cho dù tôi ở bất cứ 
nơi đâu, làm bất cứ 
việc gì cũng luôn tự 
hào mình là người 
VN. 
 X 
19 15.000m2 là Dinh 
đào và khu “mẫu 
chín” có lẫn cả 58 hộ 
dân đang sinh sống. 
Nguyễn Thị Kim 
Loan, Đào Nhật 
Tân còn hay mất.
(58câu) 
 X 
20 Hoa đào Nhật Tân là 
di sản văn hoá vật 
thể và phi vật thể. 
 X 
21 10 ha đào di sản; 20 
ha đào thương phẩm 
cho làng Nhật Tân 
thực tế là bao nhiêu? 
 X 
22 Ai cũng nhìn thấy 
khu đô thị là to, 
người nông dân là 
nhỏ, cây đào cũng là 
nhỏ nhưng bảo vệ 
được quyền lợi của 
họ mới thể hiện 
được tính nhân văn 
của một xã hội tốt 
đẹp. 
 X 
 23 Năm nay cây đào 
của làng Nhật Tân 
xưa chỉ còn ở 2 
khoảng đất, một gần 
chùa Tảo Sách 
7.000m2 và một là 
đuôi Dinh đào 
5.000m2. 
 X 
24 Năm mới Bính Tuất, 
nhiều người đã chọn 
xuất hành vào sáng 
mùng Một Tết vì đây 
là ngày tốt, đa số 
đến viếng chùa xin 
lộc đầu năm, sau đó 
ra đường hoa 
Nguyễn Huệ để du 
Xuân, thay vì đến 
thăm nhà ai đó vì 
ngại phải “xông đất 
đầu năm”. 
Vietnamnet, 
Đường hoa 
Nguyễn Huệ : 
nơi xuất hành 
đầu năm của 
người dân Sài 
gòn. 
(23câu) 
 X 
25 Không tiện nói tên, 
nhưng cô cho biết, 
cô là Việt kiều Mỹ, 
về Việt Nam lần này 
là lần thứ hai và đều 
vào dịp Tết Nguyên 
đán vì cô và chồng 
rất thích không khí 
Tết tại quê nhà. 
 X 
26 Anh tên Vũ, cùng vợ 
là Anh Thư, Việt 
 X 
 kiều Mỹ về quê ăn 
Tết. 
27 Quan liêu tham ô 
lãng phí là tội ác. 
Hồ Chí Minh 
Tòan tập, Lời 
dạy của Bác Hồ 
về chống tham 
nhũng, tham ô, 
quan liêu, lãng 
phí NXB Sự 
Thật, HN,t4 
(21câu) 
94 X 
28 Cần tức là siêng 
năng, chăm chỉ, cố 
gắng dẻo dai ... 
Một số lời dạy 
của Bác Hồ về 
đạo đức. 
(92câu) 
95 X 
29 Cần là luôn cố gắng, 
luôn chăm chỉ cả 
năm, cả đời. 
 96 X 
30 Như vậy không phải 
là Cần. 
 96 X 
31 Kiệm là tiết kiệm, 
không hoang phí, 
không bừa bãi. 
 97 X 
32 Việc đáng tiêu mà 
không tiêu là bủn 
xỉn, dại dột chứ 
không phải là Kiệm. 
 97 X X 
33 Như thế mới đúng là 
Kiệm. 
 97 X 
 34 Hao phí vật liệu là 
xa xỉ. 
 98 X 
35 Việc đáng làm trong 
một giờ mà kéo dài 
đến 2,3 giờ là xa xỉ. 
 98 X 
36 Việc đáng tiêu 1 
đồng, mà tiêu 2,3 
đồng là xa xỉ. 
 98 X 
37 An sang mặc đẹp 
trong lúc nhiều đồng 
bào đang thiếu cơm, 
thiếu áo, là xa xỉ. 
 98 X 
38 Liêm là trong sạch, 
không tham lam. 
 98 X 
39 Ngày nay, nước ta là 
nước dân chủ cộng 
hòa. 
 98 X 
40 Chính có nghĩa là 
không tà, nghĩa là 
thẳng thắn, đứng 
đắn. 
 98 X 
41 Điều gì không thẳng 
thắn, đứng đắn, tức 
là tà. 
 99 X 
42 Nhưng một cây cần 
có gốc rễ, lại cần có 
hoa, lá, quả, mới là 
cây hòan toàn. 
 99 X 
 43 Làm việc Chính là 
người Thiện. 
 99 X 
44 Làm việc Tà là 
người Ác. 
 99 X 
45 Siêng năng (cần), tằn 
tiện (Kiệm), trong 
sạch (Liêm) Chính 
là Thiện. 
 99 X 
46 Lười biếng, xa xỉ, 
tham lam, là tà, là 
ác. 
 99 X 
47 Vạch rõ ranh giới là 
cần phải nhận rõ ai 
là bạn, ai là thù ? 
 99 X 
48 Đối với người, ai 
làm gì có lợi cho dân 
cho Tổ Quốc ta đều 
là bạn. 
 99 X 
49 Bất kỳ ai làm điều gì 
có hại cho nhân dân 
và tổ quốc ta đều là 
kẻ thù. 
 99 X 
50 Đối với mình những 
tư tưởng và hành 
động có lợi ích cho 
Tổ quốc, cho đồng 
bào là bạn. 
 99 X 
51 Những tư tưởng và 
hành động có hại 
 X 
 cho Tổ quốc và đồng 
bào là kẻ thù. 
Tổng số câu khảo sát 386 19 32 10 vb 
Tần số xuất hiện tính theo 
tỷ lệ % 
13,2 4,9 8,3 
 Phụ lục 4 
Ngữ liệu nghiên cứu lấy từ các văn bản mang phong cách khoa học (bao gồm khoa 
học tự nhiên và khoa học xã hội), các bài viết trong tạp chí 
Nghiên cứu văn học, kỷ yếu khoa học ... 
Stt Câu quan hệ sâu có 
từ “là” 
Tác giả, tác 
phẩm, số trang 
tr Câu 
qhs 
định 
tính có 
từ “là” 
Câu 
qhs 
đồng 
nhất có 
từ “là” 
Ghi 
chú 
1 Ở vùng biển miền 
Trung, tôm hùm 
bông đực tham gia 
sinh sản lần đầu có 
chiều dài giáp đầu 
ngực là 110.06mm 
và tôm hùm bông cái 
là 98,00mm. 
Nguyễn Thị Bích 
Thủy, Một số đặc 
điểm sinh học 
sinh sản của tôm 
hùm bông ở vùng 
biển miền Trung, 
tr35-49 
(138câu) 
35 X 
2 Tuổi và kích thước 
thành thục sinh dục 
của tôm hùm bông là 
một đặc điểm thích 
nghi. 
 39 X 
3 Trọng lượng ống dẫn 
tinh của 
H.americanus là 
0,4g, của 
P.japonnicus là 1,7g. 
 40 X 
4 Song áp dụng 
P.ornatus ở Việt 
Nam là vô cùng khó 
 40 X 
 khăn. 
5 Thời kỳ này được 
gọi là giai đoạn phôi 
dâu. 
 46 X 
6 Ngày thứ 10 hoặc 
ngày thứ 8 sau khi 
thụ tinh gọi là giai 
đoạn phôi vị. 
 46 X 
7 “Vua chết rồi hoàng 
hậu qua đời” là một 
câu truyện(story) 
Lê Huy Bắc, 
“Cốt truyện trong 
tự sự”, nghiên 
cứu văn học Tạp 
chí nghiên cứu lý 
luận, phê bình và 
lịch sử văn học. 
7/2008 
35 X 
8 “Vua chết rồi hoàng 
hâu qua đời vì u 
buồn” là một cốt 
truyện” (plot) 
(104câu) 
35 X 
9 Có lẽ Arirtotle là 
nhà nghiên cứu duy 
nhất quan tâm đến 
cốt truyện. 
 35 X 
10 Theo đó, từ thế kỷ 
XIX trở về trước, cốt 
truyện tự sự chủ yếu 
là cốt truyện kịch 
tính. 
 36 X 
 11 Từ thế kỷ XX trở đi, 
cơ bản là cốt truyện 
thơ (hoặc trữ tình). 
 36 X 
 Bản tính phiên lưu là 
luôn tuân thủ hai 
nguyên tắc tất nhiên 
và ngẫu nhiên. 
 36 X 
12 Đến nay nhiều nhà 
nghiên cứu khẳng 
định thần thoại là thể 
loại văn học không 
tự giác, có nghĩa 
mục đích ra đời của 
thần thoại không 
phải là văn chương 
mà chỉ là tín 
ngưỡng, niềm tin 
vào tôn giáo cổ xưa 
của con người. 
 36 X 
13 Thời gian là phi vật 
thể, cho nên nó 
không màu, không 
mùi, không vị. 
Nguyễn Thị 
Gấm,“Các dấu 
hiệu của thơ 
tượng trưng trong 
bài Màu thời gian 
của Đòan Phú 
Tứ”, Nc văn học 
Tạp chí ....7/2008 
(85câu/6tr) 
133 X 
14 Đó là một thời gian 
biến ảo, sinh động. 
 134 X 
 Vì thơ ca là lời nói 
của linh cảm, của 
bản năng, của vô 
thức; cho nên lời lẽ 
của thơ ca là không 
chính xác, là lấp 
lửng, là mơ hồ. 
 137 X 
15 Trong cả bài thơ, 
mỗi từ là một nốt 
nhạc. 
 138 X 
16 Bạn bè của Đoàn 
phú Tứ cho biết ông 
không phải là típ 
người sống phi thực 
tế, cho nên những 
cảm nhận về thời 
gian ở đây chỉ có thể 
là sự cảm nhận trong 
bề sâu tâm hồn ông. 
 138 X 
17 Và cả bài thơ là một 
bản nhạc du dương, 
êm đềm, gợi cảm. 
 138 X 
18 Đó là màu yêu, là 
nhịp tim, điệu hồn. 
 138 X 
19 Thơ là thơ. Đặng Thu Thủy, 
Sự vận động của 
quan niệm thơ và 
nhà thơ thời kì 
đổi mới. [NCVH 
7-2008] 
68 X 
 20 Nhà thơ Việt Nam 
sớm ý thức được 
mình là một chiến sĩ, 
thơ Việt Nam sớm ý 
thức được mình là 
một vũ khí. 
(270 câu) 68 X 
21 Tính chất hướng 
ngoại của thơ là rất 
mạnh. 
 68 X 
22 Thơ trước hết phải là 
thơ. 
 68 X 
23 Thơ không thể là 
công cụ. 
 69 X 
24 Chức năng bồi đắp 
tâm hồn tình cảm 
của thơ được đề cao 
hơn bao giờ hết nhất 
là trong hoàn cảnh 
sự sa sút về đời sống 
tinh thần không chỉ 
còn là một nguy cơ. 
 69 X X 
25 Thiên chức của thơ 
là «để cho người ta 
yêu nhau». 
 69 X 
26 Đây là «sự tiếp nối 
quan niệm truyền 
thống». 
 69 X 
27 Bên cạnh xu hướng 
«thánh hóa thơ» là 
xu hướng «đời 
 69 X 
 thường hóa thơ ca». 
28 Nếu thơ làm rung 
động cả triệu con 
tim, như thơ Tố 
Hữu, thì đó là điều 
hay. 
 69 X 
29 Nguy cơ mất dần 
bạn đọc là điều 
không thể tránh 
khỏi. 
 70 X 
30 Làm nghệ sĩ là để tả 
sự thật. 
 70 X 
31 Khái niệm hiện thực 
ở đây là khái niệm 
được hiểu theo nghĩa 
hẹp. 
 71 X 
32 Thơ là đau thương. 71 X 
33 Thơ là hạnh phúc. 71 X 
34 «Thơ là cái thăm 
thẳm.» 
 73 X 
35 Thơ là cái chưa biết. 73 X 
36 Nhiều khi thơ không 
chỉ là một văn bản 
ngôn từ đơn thuần 
(khi nó kết hợp với 
các loại hình nghệ 
thuật khác : hội họa, 
sân khấu, vũ đạo, âm 
 73 X 
 nhạc, trình diễn, ...) 
37 Thơ là một trò chơi. 73 X 
38 Thơ truyền thống 
của ta về cơ bản là 
mực thước, trang 
nhã. 
 73 X 
39 Nhà thơ là người 
sáng tạo ra trò chơi, 
đề xuất trò chơi. 
 73 X 
40 Trong xã hội đương 
đại, nếu thơ làm 
được như một trò 
chơi thỏa mãn được 
nhu cầu của đời sống 
tinh thần, làm vui, 
làm ý nghĩa cho 
cuộc đời vốn có rất 
nhiều niềm lạc thú 
cuốn hút thì cũng đã 
là một thành công. 
 73 X 
41 Thời nay, không ít 
người coi văn 
chương là trò chơi, 
thơ là trò chơi ; 
nhưng là «chơi 
thật», «chơi nghiêm 
túc», chơi chuyện 
nghiệp chứ không 
phải «chơi đùa» ; 
không «chơi ẩu, vì 
phải chơi với nhiều 
 74 X 
 người». 
42 Hơn nữa, đây là «trò 
chơi nguy hiểm ». 
 74 X 
43 Ông đã được mệnh 
danh là «người cách 
tân số một» 
 74 X 
44 Làm thơ tức là làm 
tiếng Việt. 
 74 X 
45 Thơ Việt Nam hiện 
nay, dòng chủ lưu 
chủ là thơ ý niệm, 
thơ tư tưởng. 
 75 X 
46 Tuyên ngôn cũng 
như thực tế sáng tác 
của những người đi 
tiên phong đã gây 
ảnh hưởng nhất định 
đối với các nhà thơ 
đương đại nhất là 
các nhà thơ trẻ. 
 76 X 
47 «Áo em mặc còn 
xanh» là tập thơ 
mang tính trò chơi 
rất rõ. 
 76 X 
48 Họ là Phan Bá Thọ, 
Lý Đợi, Bùi Chát, 
Khúc Duy, Nguyễn 
Quán –bốn sinh viên 
mới tốt nghiệp ra 
trường. 
 77 X 
 49 Thơ của họ là một 
thứ thơ phản thơ. 
 77 X 
50 Nhiều người khác lại 
cho rằng nhà thơ 
cũng là một người 
thường như bao 
người khác. 
 79 X 
51 Nhà thơ là nhà thơ, 
nhà thơ là người 
thường. 
 80 X 
52 Lê Minh Quốc tự 
nhận mình là «nhà 
thơ cà chớn». 
 80 X 
53 Tôi là một nhà thơ 
solo. 
 82 X 
54 Thế nhưng phát 
ngôn chỉ là phát 
ngôn, dù nó có táo 
bạo, hào hùng đến 
đâu chăng nữa. 
 82 
55 Một nhà thơ nghiệp 
dư coi con đường 
đến với thơ ca của 
mình là một cuộc 
chơi, thích thì làm, 
không thích thì thôi. 
 83 X 
56 Lê Đạt tự nhận mình 
là phu chữ, Trần 
Dần nhận mình là 
«kẻ cầm trạch trên 
 83 X 
 hành tinh quốc ngữ». 
57 Coi làm thơ là một 
nghề có nghĩa thơ ca 
cũng là một thứ 
hàng hóa (hàng hóa 
đặc biệt). 
 84 X 
58 Đó là một lực lượng 
sáng tác hùng hậu. 
 84 X 
59 Ấn độ coi giải thoát 
là vấn đề trung tâm, 
cốt lõi. 
Phạm Thảo 
Hương Ly, Hình 
tượng không gian 
trong sử thi 
Ramayana, Kỷ 
yếu hội nghị sinh 
viên nghiên cứu 
khoa học năm 
học 2006-2007 
26 X 
60 Văn học là nhân học. (88câu) 22 X 
61 Giá trị của văn học, 
xét cho cùng, là sự 
chiêm nghiệm về 
con người. 
 22 X 
62 Trong Ramayana, 
kinh thành là một 
khoảng không gian 
vô cùng tráng lệ, vừa 
mang tình hiện thực, 
vừa thấm đẫm chất 
tưởng tượng, huyền 
thoại và tín ngưỡng. 
 X 
 63 Có thể thấy núi rừng 
trong Ramayana là 
khỏang không gian 
mềm mại, thế tục. 
 25 X 
64 Bên cạnh không gian 
vũ trụ hoành tráng 
phóng đại tầm vóc 
người anh hùng, 
Ramayana còn miêu 
tả chiến trường là 
một không gian hỗ 
độn, khốc liệt. 
 25 X 
65 Hành động với ý 
thức bổn phận cũng 
chính là hành động 
vô cầu. 
 26 X 
66 Triết học Ấn độ coi 
giải thoát là vấn đề 
trung tâm, cốt lõi. 
 26 X 
67 Có nhiều công thức 
đúc kết mối liên hệ 
này, sau đây là một 
công thức bao quát. 
Đặng Anh Đào, 
Bàn về một vài 
thuật ngữ thông 
dụng trong kể 
chuyện. 
7-2008 
(107 Câu) 
 X 
68 Về thuật ngữ, nhãn 
quan, điểm nhìn, và 
tiêu điểm đã được 
sách lý luận coi là 
 26 X 
 một. 
69 NKC là một thực thể 
đơn nhất và giới hạn. 
 27 X 
70 Điều này được gọi là 
điểm nhìn. 
 27 X 
71 Theo suy nghĩ của 
chúng tôi, vế thứ 
nhất của định nghĩa 
đặt ra một yêu cầu 
không chính xác đối 
với NKC, kể cả đối 
với loại chuyện ta 
gọi là cổ điển. 
 27 X 
72 Tiêu biểu là từ điển 
Wikipedia. 
 29 X 
73 Riêng Manfred Jahn, 
chuyển mối quan 
tâm từ NCK sang 
một tác nhân mới mà 
ông gọi là focalizer. 
 29 X 
 74 Dẫu sao, rút cục, 
Jahn vẫn đi tới vấn 
đề tiêu điểm theo 
hướng phân loại kết 
hợp số lượng và vị 
trí : đơn lẻ, hỗn hợp, 
và cuối củng là tiêu 
điểm tập thể. 
 29 X 
75 Tuy nhiên, Genette 
cho rằng xét đến 
cùng, đây không 
phải là tác giả lựa 
chọn mà là hai thái 
độ kể chuyện. 
 31 X 
76 Bởi lẽ khuân khổ của 
lí luận vốn định 
hình, còn tác phẩm 
là một thế giới đa 
dạng. 
 32 X 
77 Trong di sản văn học 
của Lỗ Tấn, Thuốc 
là một truyện ngắn 
đặc biệt, độc đáo. 
Lê Nguyên Cẩn, 
Những nét độc 
đáo trong Thuốc 
của Lỗ Tấn. 
11-2008 
(196 câu) 
117 X 
78 Không gian quán trà 
lão Hoa với ba phần 
và không gian nghĩa 
địa với phần còn lại 
mà độ dài không 
kém ba phần kia là 
 117 X 
 bao. 
79 Phần khai chuyện, 
tương ứng với phần 
khai đề của một bài 
thơ cổ điển, được 
mở ra từ không gian 
thứ nhất bằng một 
buổi sớm, chưa sáng 
hẳn song cũng đã 
chuyển sang một 
ngày mới với nội 
dung chính là mua 
thuốc. 
 117 X 
80 Số lượng nhân vật 
trong truyện có thể 
nói là nhiều, song 
hiện rõ nét chỉ có 
bốn. 
 X 
81 Số nhân vật khác 
hiện dưới dạng các 
đám đông «tụm năm 
tụm ba» mà không 
thể biết số lượng là 
bao. 
 119 X 
82 Một ý kiến độc đáo, 
một phát hiện mới 
mẻ thường không 
gây được một phản 
ứng nào đáng kể, dù 
tích cực hay tiêu 
cực, có lẽ là do một 
Sái Phu, lời giới 
thiệu,Viết nhịu – 
lapsus calami: 
Dọn vườn ngôn 
ngữ học, 
 X 
 thái độ nể nang hay 
kính nhi viễn chi nào 
đó. 
Net 
(19 câu) 
83 Chúng tôi không 
quan niệm rằng nói 
ngược lại những điều 
đã được mọi người 
công nhận là một lỗi. 
 X 
84 Nếu nói dịch thuật là 
quan trọng, chắc ít ai 
phản đối, nhưng nếu 
nói người dịch chỉ là 
kẻ ăn theo tác giả, có 
lẽ số người đồng ý 
cũng không ít hơn. 
Ngô Tự Lập, Viết 
như là dịch thuật, 
http:// 
ngonngu.net 
(157câu) 
 X 
85 Khi còn làm biên tập 
viên nhà xuất bản 
Quân đội Nhân dân, 
tôi thường được 
nghe nhiều người 
nhất là các nhà văn, 
nói : « ... » 
 X 
86 Người ta sáng tác 
sẵn, các cậu chỉ cần 
chuyển ngữ là xong, 
có tiền tiêu. 
 X v 
87 « Các anh chỉ là lũ 
kí sinh, cả đời chỉ 
làm mỗi việc 
"chuyển ngữ" tác 
 X 
 phẩm của người 
khác để lấy tiền! » 
88 So với những lời 
này, danh hiệu "con 
khỉ" đúng là vinh dự 
hơn nhiều, vì dù sao 
nó cũng mang dáng 
dấp nghệ sĩ! 
 X 
89 Anh/chị ta tạo nên 
một tác phẩm trọn 
vẹn và người đọc chỉ 
việc thưởng thức, 
còn giữa họ, người 
dịch chỉ đơn thuần là 
kẻ trung gian. 
 X 
90 Là một người luôn 
luôn phải phân thân 
giữa viết và dịch, từ 
lâu lắm tôi đã lờ mờ 
nhận thức được rằng 
đó là một quan niệm 
sai lầm. 
 X 
91 Khó khăn lớn nhất là 
các điển tích. 
 X 
92 Thuật ngữ chuyên 
môn, từ lóng đều là 
những dạng điển tích 
khác nhau. 
 X 
93 Và nói cho cùng thì 
mỗi từ là một điển 
 X 
 tích. 
94 Khi chưa biết tên 
phim bằng tiếng 
Pháp, tôi nghĩ 
"chiều" là "buổi 
chiều". 
 X 
95 Cái tên gợi rất nhiều 
suy nghĩ, bởi nó rất 
thơ, rất triết, và nhất 
là nó rất khác 
thường. 
 X 
96 Tôi đã thử hỏi rất 
nhiều người và nhiều 
người trong số họ 
cũng nghĩ "chiều" ở 
đây là «một buổi 
chiều». 
 X 
97 Cái tên còn gợi mở 
hơn nữa vì "chiều" 
cũng có thể hiểu là 
"phương". 
 X 
98 Thú thật, tôi đã hơi 
thất vọng khi biết, 
nhờ cái tên tiếng 
Pháp, rằng "chiều" 
chỉ đơn thuần là từ 
"phương". 
 X 
 99 Tôi tin tưởng sâu sắc 
rằng sống cũng 
chính là dịch thuật. 
 X 
100 Sau từ "partir" (ra đi) 
và từ "yêu" là dấu 
phẩy. 
 X 
101 Cái tên tiếng Pháp 
chỉ đơn thuần là 
"Phương thẳng đứng 
của mùa hè", hay 
"Mùa hè phương 
thẳng đứng". 
 X 
102 Không cần phải suy 
nghĩ quá cao siêu để 
thấy rằng câu trả lời 
là phủ định. 
 X 
103 Như vậy, về thực 
chất, sáng tác chính 
là dịch thuật. 
 X 
104 Trong bài Cám dỗ và 
vinh quang của dịch 
thuật tôi có viết rằng 
mặc dù dịch là phản, 
đối với đa số người 
đọc không phải là 
bản ngữ, bản dịch 
phản bội ít hơn. 
 X 
105 Nhưng nói một cách 
chặt chẽ thì tất cả 
các bản dịch đều là 
 X 
 phỏng dịch. 
106 Chẳng hạn, từ "rice" 
trong tiếng Anh 
trong những truờng 
hợp cụ thể phải dịch 
là "lúa", "thóc", 
"gạo", "cơm".. 
 X 
107 Đối với ông, đối 
tượng chủ yếu của 
ngôn ngữ học là 
Ngôn ngữ, nhưng 
ông cũng hình dung 
được trong tương lai 
một ngành ngôn ngữ 
học của lời nói. 
Cao Xuân Hạo, 
lời nói đầu bản 
dịch giáo trình 
Ngôn ngữ học 
đại cương. 
(33câu) 
 X 
108 Xin đừng hiểu lầm 
rằng ngôn ngữ học 
và các khoa học 
nhân văn khác là 
những “khoa học 
chủ quan”. 
 X 
109 Khoa học, do chính 
định nghĩa của nó, 
chỉ có thể là khách 
quan. 
 X 
110 Một số tác giả gọi 
ngôn ngữ học trước 
1957 là 
“structuralist” 
 X 
 Tổng số câu khảo sát 1197 câu 39 71 
Tần số phân bố tính theo tỷ 
lệ % 
9,2 3,3 5,9 10 vb 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
LVNNH002.pdf