PHẦN MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
So với các phân môn khác, ngữ pháp văn bản là một trong những phân môn 
xuất hiện khá muộn và có lịch sử chưa dày. 
Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa của phép liên kết nói chung, phép nối nói riêng, 
chúng tôi thiết nghĩ đây là một trong những vấn đề đáng quan tâm. Thật sự, phép 
nối đóng vai trò là thành tố tạo tính mạch lạc cho văn bản, là một trong những 
yếu tố trọng yếu của vấn đề tạo lập và tiếp nhận văn bản. 
Thế nhưng, thực tế là, nhiều nhà Việt ngữ học xem xét phép nối thông qua 
phát ngôn, mà chưa xem xét nó thông quan khái niệm cú (clause). Chúng tôi, 
đứng trên quan điểm “cú”, sẽ phân tích những đặc điểm về cấu trúc, ngữ nghĩa, 
ngữ dụng của phép nối tiếng Việt. 
Đặc biệt, trong khi tiếp xúc với tiếng Anh, người viết thấy có những điểm 
tương đồng và khác biệt giữa phép nối của ngôn ngữ này với tiếng Việt; do đó, 
người viết tiến hành so sánh phép nối giữa hai ngôn ngữ. Chính những sự tương 
đồng phản ánh sự qui luật chung về tư duy, diễn đạt ý tưởng chung của nhân 
loại; còn sự dị biệt lại phản ánh sự khác biệt về loại hình ngôn ngữ cũng như sự 
nghiêng về mặt hình thức ngữ pháp – tiếng Anh hay ngữ nghĩa – tiếng Việt của 
hai ngôn ngữ. 
Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài này cũng phục vụ trực tiếp cho việc giảng 
dạy phân môn Ngữ pháp văn bản, Tiếng Việt thực hành cũng như việc rèn luyện 
ngoại ngữ của người viết. 
2. Lịch sử vấn đề 
2.1. Ngoài nước 
Năm 1976, nhà xuất bản Lodon và Nework đã cho ra đời quyển “Cohesion 
in English” –Phép Liên kết trong tiếng Anh của M.A.K Halliday và Ruqaiya 
Hassan [108]. Đây có thể xem là công trình đầu tiên đánh dấu lịch sử nghiên cứu 
về phép nối. Trong quyển sách, hai tác giả đã trình bày khá kỹ về các phép liên 
kết: Quy chiếu (Reference), Phép thế (Substitution), Phép tỉnh lược (Ellipsis), 
Phép liên kết từ vựng (Lexical cohesion) và trong đó có Phép nối (Conjunction). 
Về phép nối, Halliday và Hassan nhấn mạnh rằng sự nối kết phải dựa trên mối 
quan hệ ngữ nghĩa của chúng. Nhưng đó không phải là mối quan hệ cố định, mà 
là “cái theo sau được kết nối một cách hệ thống với cái đã đi trước”. Đây là công 
trình nghiên cứu khá kỹ và đi vào chi tiết vào phép nối nói riêng, các phép liên 
kết khác nói chung. Sau đi đưa ra khái niệm về phép nối, Halliday và Hassan đã 
phân phép nối thành 4 loại chính theo quan hệ ngữ nghĩa của chúng: i.Bổ sung 
(Additive), ii.Đối lập (Adversative), iii.Nhân quả (Causal) và iv.Quan hệ thời 
gian. Đồng thời, tác giả cũng thống kê một số liên từ biểu hiện những quan hệ 
ngữ nghĩa trong phép nối, và phân tích một số liên từ tiêu biểu. Nhìn chung, 
đóng góp lớn của công trình là về lí thuyết văn bản nói chung, phép nối nói riêng 
cũng như những quan hệ ngữ nghĩa trong phép nối. 
Đến năm 1998, ấn bản lần 2 của M.K.Halliday về “An Introduction to 
Functional Grammer” - Dẫn luận ngữ pháp chức năng, (được tái bản lần 6) do 
Hoàng Văn Vân dịch [31]. Trên cơ sở công trình thứ nhất năm 1976, Halliday 
tiến hành bổ sung và sữa chữa những vấn đề có liên quan, đặc biệt về liên kết. 
Công trình trình bày và phân tích khá kỹ về khái niệm Cú (Clause) và xem cú là 
khái niệm cơ sở để soi sáng các góc độ của văn bản. Đây là công trình được 
nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao và được xem là công trình không thể không 
biết đến khi nghiên cứu ngữ pháp văn bản nói chung, phép nối nói riêng. Đầu 
tiên, tác giả làm rõ khái niệm cú đứng trên ba kiểu ý nghĩa khu biệt hàm chứa 
trong cấu trúc của một cú: i.Cú như là một thông điệp – “clause as a masage” 
(cấu trúc Đề - Thuyết, ), ii. Cú như là một sự trao đổi – “clause as an exchange” 
(hệ thống ngữ pháp và hệ thống thức (mood), Chủ – Vị (chủ ngữ ngữ pháp) và 
iii.Cú như là sự thể hiện – “clause as a representation” (chủ ngữ logic: hành 
thể, cú được xem như chứa đựng một nguyên tắc cơ bản để mô hình hóa kinh 
nghiệm, tức là cú được xem xét như là một quá trình - process). Sau đó, 
M.K.Halliday mở rộng khái niệm Cú - dưới cú (những tổ hợp nhỏ hơn cú) và 
trên cú (những tổ hợp lớn hơn cú). Công trình cũng đưa ra sự biện luận khá kỹ 
về việc chọn cú làm đơn vị cơ bản đề nghiên cứu ngữ pháp chức năng. Từ những 
kiến thức nền tảng về “cú”, tác giả soi sáng vào khái niệm: Liên kết và Ngôn bản 
(mục 9) - đây là nội dung trọng tâm mà chúng ta cần nghiên cứu. Ở mục này, tác 
giả cũng trình bày những phép liên kết cơ bản, nhưng sự phân chia có khác 
trước. M.K.Halliday nhập tỉnh lược và thay thế làm một; như vậy, từ năm phép 
liên kết, trong công trình này chỉ còn bốn. Tác giả phân chia tỉ mỉ Phép nối theo 
ba lĩnh vực: i.Chi tiết hóa (Elaboration), ii.Bành trướng (Expantion) và iii.Tăng 
cường (Enhancement). Theo chúng tôi, cách nhìn nhận liên kết dựa trên khái 
niệm “cú” của M.K.Halliday có nhiều ưu điểm, nó mang tính khái quát cao. Và 
chúng tôi, trong luận văn này, phần lớn theo quan điểm của M.K.Halliday để 
nghiên cứu phép nối của tiếng Việt. Đồng thời, trong công trình này, Halliday 
cũng trình bày khá kỹ về các quan hệ ngữ nghĩa của phép nối. Trên cơ sở kế 
thừa, chúng tôi soi sáng vào phép nối tiếng Việt; đồng thời phân chia lại, thay 
đổi một số thuật ngữ để phù hợp với một ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt. 
Tóm lại, Halliday là một trong những người đặt những viên gạch đầu tiên 
để xây dựng nền móng cho việc tìm hiểu phép nối nói riêng, liên kết nói chung. 
Đến năm 1992, nhà xuất bản Philadelphia ở Amsterdam cho ra mắt bạn 
đọc công trình của J.R.Martin [120] về “English Text – System and Structure” 
(Văn bản tiếng Anh - Hệ thống và Cấu trúc). Đây có thể xem là công trình 
nghiên cứu khá kỹ về các phép liên kết, trong đó có phép nối. Chính tác giả này 
đưa đến bạn đọc khái niệm Nối bên trong (Internal relations) và Nối bên ngoài 
(External relations) - điểm mới của tác giả so với Halliday. Và Martine đã đưa ra 
những tiêu chí phân biệt hai loại quan hệ nối này. Đặc biệt, tác giả đã dựa vào 
ngữ cảnh cụ thể (Circumtaintial identifying relationals) để phân biệt Nối bên 
ngoài (External relations), và dựa vào khái niệm Phóng chiếu (Projection) để 
nhận dạng kiểu Nối bên trong (Internal relations). Tác giả cũng chia từng loại 
nối bên trong và bên ngoài theo các loại quan hệ: i.Bổ sung (Addictive relations), 
ii.Nhân quả (Consiquential relations), iii.So sánh (Comparative relations), 
iv.Thời gian (Temporal) và v.Định vị (Locative relations). Ở mục thứ 6 của 
quyển sách, tác giả có đề cập đến: Conhesion and register (Liên kết và ngữ vực) 
và Cohesive harmony analysis (Phân tích tính hài hòa liên kết). Ở phần thứ nhất 
(Conhesion and register), tác giả chủ yếu tóm tắt và trích dẫn lại một số nhận 
định của M.K.Halliday và Ruaqaiya Hassan về vấn đề có liên quan đến liên kết 
và ngữ vực. Phần còn lại – Cohesive harmony analysis (Phân tích tính hài hòa 
trong liên kết), J.R.Martin đề cập đến kỹ năng (hay thủ thuật – Procedure) khảo 
sát sự tương tác của chuỗi sở chỉ, chuỗi từ vựng và ngữ pháp kinh nghiệm. Thủ 
pháp Cohesive harmony analysis chủ yếu để xem xét sự liên kết trong đơn vị văn 
bản; do đó, nó chú ý đến môi trường tồn tại của phép liên kết. Tuy nhiên, công 
trình chỉ là những bước phát thảo sơ bộ về phép nối. 
Năm 2000, quyển “English Grammer - An Introduction” của Peter Collins 
và Carmella Hollo [93] được tái bản (lần 2). Quyển sách gồm hai phần 
A.Grammatical Decription (Mô tả ngữ pháp) và B.Looking at language in 
context (Xem xét ngôn ngữ trong ngữ cảnh). Ở phần thứ 2, mục Cohesion – Liên 
kết và Analysis of Cohesion in sample texts – Phân tích phép liên kết trong 
những văn bản tiêu biểu - đã đề cập đến vấn đề liên kết và phép nối. Theo hai tác 
giả, ở cấp độ vĩ mô, có các loại phép liên kết: 1).Deictic (Trực chỉ), 2).Generic 
(Loại Thể) và 3).Logical signposts (Dấu hiệu logíc). Ở cấp độ vi mô, liên kết có 
các loại: 1).Đồng sở chỉ (Co-reference), 2).Thay thế (Substitution) và 3).Tỉnh 
lược (Ellipsis). 
Theo hai tác giả này, 1).trực chỉ (deictic) là những đơn vị định vị các nhân 
vật tham gia giao tiếp, định vị không gian, thời gian (ngữ cảnh hội thoại và thời 
gian hội thoại). Cụ thể đó là: i.Participant identification (Nhận ra người tham 
gia giao tiếp), ii.Place and time indicators (yếu tố chỉ không gian, thời gian), 
iii.Temporal ordering expressions (Sự diễn đạt theo trật tự thời gian) và iv.Tense 
and aspect (Thì và Thể - cũng là một yếu tố xác định thời gian của hành động). 
Về 2).Loại thể (Generic), đó là những yếu tố làm cho bố cục của văn bản trở nên 
rõ ràng, theo một mẫu thức xác định: “in set patterned ways”, chẳng hạn như 
phân chia văn bản thành từng chapter (chương), paragraphs (đoạn) Về 3).Dấu 
hiệu logic (Logical signposts), đó là những dấu hiệu trình bày ngữ liệu theo một 
chuỗi logic, chuỗi trật tự thời gian như: first (đầu tiên), then (sau đó) , on one 
hand (một mặt), on the other hand (mặt khác) Tóm lại, ba ý nghĩa ở cấp độ vĩ 
mô trên chính là những quan hệ ý nghĩa chỉ thời gian, không gian và trật tự diễn 
đạt. 
Và hai tác giả đi sâu vào từng khía cạnh: i.Text Orientation (Định hướng 
văn bản), ii.Grammatical cohesion (Liên kết ngữ pháp), iii.Logical connectors 
(Những yếu tố liên kết logíc) và iv.Lexical Cohesion (Liên kết từ vựng). Trong 
mỗi phần vừa nêu, Peter Collins và Carmella Hollo đều có đề cập ít nhiều đến 
phép nối. Chẳng hạn, trong phần Text Orientation (Định hướng văn bản), hai tác 
giả có kể đến: Temporal ordering expression – Diễn đạt trật từ thời gian (Tr164) 
và liệt kê liên từ như: First, second, next . Đến mục Logical connectors, tức 
những yếu tố liên kết logic, tác giả lại đưa ra bốn loại liên kết logíc: i.Addictive 
(Bổ sung), ii.Adversative (Tương phản), iii.Causal (Nhân-quả) và iv.Temporal 
(Thời gian) (tr171-172). Bốn kiểu này là những loại phép nối mà M.K.Halliday 
và các tác giả khác đã nêu. Do đó, trên cơ sở kế thừa, chúng tôi sẽ tiến hành bổ 
sung và điều chỉnh những vấn đề trùng lắp. 
Ngoài ra, lấy cú làm đơn vị phân tích cơ bản, Peter Collins và Carmella 
Hollo còn đề cập đến những loại cú (clause types) và những mối quan hệ giữa 
các cú hay câu như: Đẳng lập (coordination) và Chính phụ (subordination). Nhìn 
chung, có đề cập đến lí thuyết, nhưng công trình chủ yếu đi vào các khía cạnh 
ứng dụng của phép nối. 
Năm 2008, công trình bằng tiếng Anh của David Nunan [64] “Introduction 
Discourse Analysis” - “Dẫn nhập phân tích diễn ngôn” được hai dịch giả Hồ Mỹ 
Huyền và Trúc Thanh dịch sang tiếng Việt. Sau khi đề cập đến khái niệm diễn 
ngôn cũng như phân biệt khái niệm diễn ngôn và văn bản, Nunan đề cập đến liên 
kết, trong đó có phép nối. Ngoài việc đề cập đến khái niệm phép nối, tác giả còn 
đề cập đến bốn loại quan hệ ngữ nghĩa chủ yếu trong phép nối, đó là: i.Nghich 
đối, ii.Bổ sung, iii.Thời gian và iv.Nguyên nhân. Ngoài ra, công trình còn đề cập 
đến khái niệm và phân tích một vài cấu trúc đề thuyết trong diễn ngôn. Do vậy, 
những lí thuyết của công trình có thể được xem là cơ sở lí thuyết để nghiên cứu 
ngữ nghĩa, ngữ dụng của phép nối trong tiếng Việt. 
Như vậy, trong khả năng bao quát tư liệu có thể chưa đầy đủ của chúng 
tôi, phép nối đã được nhiều nhà Anh ngữ học chú ý đến; và những thành tựu của 
nó, nhất là về mặt lí thuyết cũng đạt được những nền móng cơ bản. 
2.2. Trong nước 
Phạm vi trong nước, cũng có khá nhiều công trình đề cập đến văn bản, liên 
kết và cấu trúc, ngữ nghĩa, ngữ dụng của phép nối. 
Năm 1980, Nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp Hà Nội đã 
giới thiệu với bạn đọc công trình “Ngữ pháp tiếng Việt” của Hoàng Trong Phiến 
[66]. Trong công trình này, điểm đóng góp nổi bật của tác giả chính là đưa ra các 
mô hình của câu ghép ứng với từng loại quan hệ trong câu ghép - mà theo quan 
niệm của chúng tôi là phép nối như: i.câu nhân quả, ii.câu điều kiện, iii.câu nhân 
nhượng, iv.câu mục đích, v.câu so sánh, vi.câu đồng loại, vii.câu tương phản, 
viii.câu lựa chọn và ix.câu gộp. Chính những mô hình này là tài liệu vô cùng quí 
báu để chúng tôi xem xét các quan hệ ngữ nghĩa cơ bản của phép nối cũng như 
bổ sung thêm vào phép nối một hệ thống liên từ thể hiện sự nối kết giữa các cú 
hay phát ngôn. 
Năm 1985 (tái bản vào 05/04/1999), công trình của Trần Ngọc Thêm [76] 
về “Hệ thống liên kết và văn bản Tiếng Việt” đã được công bố. Đây là công trình 
có giá trị và đánh dấu một bước phát triển mới của ngữ pháp văn bản nói chung, 
phép nối nói riêng. Công trình nghiên cứu sâu rộng các khía cạnh của văn bản; 
khái quát cả ba bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng của phép nối. Công 
trình trình bày ba phần chính. Phần 1 gồm ba chương, đề cập về các khái niệm 
và cái nhìn khái quát về “Liên kết văn bản”. Ở phần 2, tác giả bắt đầu đi vào 
“Các phương thức liên kết giữa các phát ngôn”. Đây là chương đề cập đến các 
phương thức (phép) liên kết ở mặt hình thức, trong đó có phép nối. Trần Ngọc 
Thêm dựa trên các loại phát ngôn, chia phép liên kết thành hai loại cơ bản: Phép 
nối lỏng (dựa trên phương thức liên kết hợp nghĩa và phát ngôn hợp nghĩa) và 
Phép nối chặt (dựa trên phương thức liên kết trực thuộc và phát ngôn trực thuộc 
(mà tác giả gọi là ngữ trực thuộc). Trong phép nối lỏng, Trần Ngọc Thêm còn 
trình bày mô hình của các yếu tố từ vựng làm thành phần chuyển tiếp hay các từ 
làm phụ tố có ý nghĩa so sánh (mà chúng tôi gọi chung là liên từ) như: cũng, lại, 
vẫn, càng, còn, cứ Tác giả cũng đề cập đến cấu trúc khái quát của phép nối: 
ArB cũng như trình bày những quan hệ ngữ nghĩa cơ bản của phép nối. Dựa trên 
quan hệ ngữ nghĩa, tác giả chia phép nối theo ba quan hệ cơ bản, mỗi quan hệ lại 
có những tiểu loại cơ bản: i.Quan hệ định vị (thời gian, không gian); ii.Quan hệ 
logic diễn đạt (bao gồm: Trình tự diễn đạt, Thuyết minh- bổ sung và Xác minh – 
nhấn mạnh); và iii.Quan hệ logic sự vật (bao gồm: Nhân quả, và Tương phản – 
đối lập). Còn phần 3, tác giả đề cập đến khái niệm liên kết ở mặt nội dung. Tóm 
lại, đứng trên quan điểm phát ngôn, Trần Ngọc Thêm đã mô tả những đặc điểm 
cơ bản của một phép nối nói chung. Từ mô hình lí thuyết chung này, chúng tôi 
kế thừa có điều chỉnh để khảo sát mô hình của một số tiểu loại phép nối. Có thể 
nói, đây là một trong những công trình nghiên cứu sâu và kỹ về phép nối của 
tiếng Việt. 
Năm 2001, Nhà xuất bản Giáo Dục đã ra mắt bạn đọc công trình của 
Nguyễn Thị Việt Thanh [74] về “Hệ thống kiên kết lời nói tiếng Việt”. Đối tượng 
nghiên cứu là ngôn bản, đề cập khá sâu về những vấn đề khái quát chung liên 
quan đến liên kết lời nói, tác giả chia liên kết lời nói thành hai phương thức 
i.“Bằng phương thức ngữ kết học” và ii.“Bằng phương thức ngữ dụng học”. 
Trong phương thức liên kết ngữ kết học lại được chia thành ba tiểu loại: Liên kết 
duy trì chủ đề, Liên kết phát triển chủ đề và Liên kết logic. Trong đó, phép nối 
thuộc phương thức liên kết logic. Tác giả cũng đã đề cập đến phép nối không có 
liên từ: “mặc dù từ nối không được sử dụng nhưng quan hệ ngữ nghĩa vẫn được 
xác lập” [74;50]. Nhưng chung qui lại, đóng góp chủ yếu của công trình là 
nghiên cứu các phương tiện liên kết trên ngữ liệu lời nói. 
Năm 2006, quyển “Văn bản và liên kết trong tiếng Việt: Văn bản, Mạch 
lạc, liên kết, đoạn văn” của Diệp Quang Ban [6] được tái bản (lần thứ ba). Trong 
công trình, tác giả trình bày thành từng bài mục rõ ràng về bốn nội dung đã nêu 
trong nhan đề sách, rất tiện cho việc tham khảo. Ở phần 2, tác giả đã đề cập đến 
phép liên kết, trong đó có Phép nối (từ tr132-134). Lấy phát ngôn làm cơ sở 
nghiên cứu như Trần Ngọc Thêm, Diệp Quang Ban cũng chia phép nối thành hai 
loại cơ bản: Phép nối lỏng và Phép nối chặt. Đặc biệt, ở phần một, tác giả đã đưa 
ra khoảng 15 cách hiểu về khái niệm về văn bản, phân biệt khái niệm văn bản và 
diễn ngôn, ngôn ngữ nói và viết và nêu lên những đặc trưng của một văn bản nói 
chung. Trần Ngọc Thêm cũng đã đề cập đến cấu trúc đề thuyết – cấu trúc mang 
ý nghĩa thông báo trong văn bản. 
Năm 2007, nhà xuất bản Đại học Sư phạm đã cho ra mắt bạn đọc quyển 
“Văn bản” của tác giả Diệp Quang Ban [7] theo dự án đào tạo giáo viên THPT 
cuả Bộ Giáo dục và Đào Tạo. Phải công nhận đây là công trình viết khá bao quát 
về các khía cạnh của văn bản; công trình đề cập hầu hết các phép liên kết, trong 
đó có phép nối. Trong bài viết của mình, Diệp Quang Ban đã đề cập đến phép 
nối và các phương tiện nối; và các quan hệ ý nghĩa thường gặp trong phép nối. 
Về phương tiện nối, ông chia làm hai loại lớn: Quan hệ từ (bình đẳng / phụ 
thuộc) và Từ ngữ nối kết (đại từ thay thế/những tổ hợp từ ngữ có ý nghĩa quan hệ 
và có tác dụng liên kết). Còn về các quan hệ thường gặp trong phép nối, ngoài 4 
quan hệ mà Halliday đã nêu: i.bổ sung, ii.tương phản, iii.thời gian, iv.nhân quả; 
Diệp Quang Ban còn đề cập thêm hai loại quan hệ nữa: mục đích và điều kiện. 
Nhìn chung, các công trình là một sự tổng hợp từ các công trình đi trước nên sự 
đóng góp của nó là không đáng kể. 
Năm 2002, (tái bản 2005) công trình của Hoàng Văn Vân [31] ra đời “Ngữ 
pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt: Mô tả theo quan điểm chức năng hệ thống”. 
Đây là công trình mà tác giả viết dựa chủ yếu vào luận án tiến sĩ được tiến hành 
tại Khoa Ngôn ngữ học, đại học Macquarie, Australia với nhan đề tiếng Anh “An 
Experiential Grammer of the Vietmam clause: A functional Description”. Công 
trình dựa trên lý thuyết của M.K.Halliday về cú (clause) trong công trình “An 
Introduction to Functional Grammer” (Dẫn luận ngữ pháp chức năng) để soi 
sáng vào tiếng việt. Thật sự, công trình có một ý nghĩa đột phá, đem đến một 
cách hiểu mới về ngữ pháp văn bản, bên cạnh cách hiểu cũ – dựa vào phát ngôn. 
Nhìn chung, công trình là sự vận dụng của ngữ pháp Châu Âu vào tiếng Việt. Dù 
chưa nghiên cứu sâu về phép nối, nhưng công trình ít nhiều đã khẳng định vai 
trò, ý nghĩa của cú trong việc biểu thị kinh nghiệm (cú như là một sự thể hiện 
“clause as a representation” để mô hình hóa kinh nghiệm theo quan điểm chức 
năng hệ thống; do đó, nó có ý nghĩa về mặt lí thuyết cho việc chọn cú làm đơn vị 
cơ sở của phép liên kết nói chung, phép nối nói riêng. 
Nhìn chung, những công trình trên đã đề cập khá toàn diện về những vấn 
đề chung về văn bản, liên kết và phép nối. 
Năm 1995, Đỗ Thị Kim Liên [56] đã đề cập đến “Quan hệ ngữ nghĩa 
trong câu ghép không liên từ” - Ngôn ngữ số 2/1995. Trong công trình này, tác 
giả đã trình bày khá kỹ về quan niệm của các nhà ngữ pháp đi trước: một là 
không đề cập đến loại câu ghép không liên từ, hai là không tách câu ghép không 
liên từ thành một đối tượng nghiên cứu riêng. Tác giả cũng đề cập đến “những 
nhân tố tạo nghĩa trong câu ghép không liên từ”. Đó chính là cấu trúc chuyền tải 
ý nghĩa; các phương tiện liên kết như phụ từ tình thái, trật tự trước sau ; hay ý 
nghĩa của các thành tố trong loại câu ghép này. Về quan hệ ngữ nghĩa, vì đánh 
giá cao vai trò của vị ngữ trong việc thể hiện quan hệ ngữ nghĩa trong câu ghép 
không liên từ, nên tác giả xem xét các kiểu quan hệ ngữ nghĩa chính của loại câu 
ghép này trên hai phương diện cơ bản: i.Các kiểu quan hệ ngữ nghĩa giữa các vị 
ngữ và ii.Số lượng các thành tố trong vị ngữ. Đồng thời, tác giả cũng nêu lên 
một số quan hệ ngữ nghĩa trong câu ghép không có liên từ như: i.Quan hệ ngữ 
nghĩa đẳng kết, ii.Quan hệ đối sánh (so sánh đồng nhất, so sánh đối lập - khác 
biệt, so sánh đối ứng); và iii.Quan hệ ngữ nghĩa tiếp liên (bao gồm 7 nhóm: 
nhóm ý nghĩa thời gian – hành động, nhóm quan hệ nguyên nhân – kết quả, 
nhóm quan hệ điều kiện – kết quả, quan hệ luận chứng – thuyết minh, quan hệ 
ngữ nghĩa bao hàm, quan hệ giải thích, và quan hệ kết quả, nguyên nhân). Bên 
cạnh đó, Đỗ Thị Kim Liên còn đề cập đến “giá trị của các cú trong chỉnh thể của 
câu ghép”, phần này có liên quan ít nhiều đến tiêu điểm thông báo cũng như 
quan hệ ngữ nghĩa giữa các cú. Nhìn chung, công trình là tài liệu vô cùng quí giá 
để chúng tôi nghiên cứu phép nối không có liên từ, các quan hệ ngữ nghĩa trong 
phép nối và một số cách diễn đạt mang tiêu điểm thông tin khác nhau trong phép 
nối, tức ngữ dụng. 
Cũng trong năm 2006, công trình “Các phương tiện tổ chức và liên kết văn 
bản tiếng Việt” của Nguyễn Chí Hòa [45] ra đời. Công trình đánh dấu một bước 
ngoặt lớn về khái niệm “câu ghép không có quan hệ từ” – đứng trên quan điểm 
phát ngôn. Trước đó, một số bài viết của tác giả về vấn đề này đã được công bố 
trên tạp chí Ngôn ngữ, chẳng hạn như bài “Về khái niệm ngữ pháp hóa và câu 
ghép không có liên từ” [43]. Căn cứ vào kết quả công trình nghiên cứu của 
Nguyễn Chí Hòa, cộng với những cứ liệu thống kê được¸ chúng tôi trình bày về 
phép nối không có liên từ - đứng trên quan điểm cú (clause). Bên cạnh đó, công 
trình “Các phương tiện tổ chức và liên kết văn bản tiếng Việt” của Nguyễn Chí 
Hòa cũng đi sâu vào tìm hiểu các khía cạnh ngữ dụng của các liên từ tiếng Việt. 
Vấn đề này được chúng tôi vận dụng một cách có bổ sung, điều chỉnh vào phần 
ngữ dụng ở chương 2. 
Năm 1999, Nguyễn Hữu Tiến [80] cũng đã giới thiệu với đọc giả bài 
nghiên cứu của mình về “Quan hệ liên câu trong văn bản tiếng Việt” trong tạp 
chí Ngôn ngữ Số 1. Công trình đã trình bày tóm lược sơ bộ những khái niệm của 
Trần Ngọc Thêm về phép nối như khái niệm, phép nối đẳng lập và chính phụ, 
cũng như chức năng thực hiện liên kết hồi qui và liên kết dự báo của phép nối. 
Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến “vai trò, ngữ nghĩa, ngữ dụng của các từ ngữ 
chuyển tiếp chỉ quan hệ nghịch đối”. Đó là tính kết nối, thông qua việc “phá vỡ 
tính hoàn chỉnh vốn có của nó”. Có mâu thuẫn nhưng mức độ không cao nên 
câu nghịch đối vừa “tạo lập quan hệ, vừa là dấu hiệu chỉ dẫn hay xác nhận quan 
hệ”; và đây là quan hệ thực hiện liên kết “hướng ngoại, gián tiếp, hồi chỉ”. Tóm 
lại, trên định hướng phân loại của Trần Ngọc Thêm, công trình đã cụ thể hóa 
tương đối tỉ mỉ chi tiết, đồng thời phân chia thêm những tiểu loại mới về các loại 
quan hệ ý nghĩa trong phép nối tiếng Việt. Đồng thời, tác giả cũng đi vào một 
quan hệ cụ thể - quan hệ nghịch đối để phân tích giá trị về mặt ngữ dụng của loại 
quan hệ này. Do đó, công trình có giá trị tham khảo về phương diện ngữ nghĩa, 
ngữ dụng của luận văn. 
Cũng năm 2004, Tạp chí Ngôn ngữ số 4 đã đăng bài viết của Võ Văn 
Chương [16] về “Liên kết hồi qui trong ngôn ngữ học văn bản – Vài kiến nghị về 
cách xác định và phân loại”. Đóng góp đầu tiên của tác giả là đi vào phân biệt 
phép tỉnh lược và phép hồi quy. Sau đó, tác giả đi vào miêu tả các dạng thức của 
liên kết hồi qui, dựa trên hai cơ sở chủ yếu sau: 1).dựa vào từ loại của kết tố và 
2).dựa vào quan hệ ngữ nghĩa giữa chủ tố và kết tố. Trên tiêu chí phân loại thứ 
nhất, tác giả chia liên kết hồi qui thành hai dạng chủ yếu: i kết tố hồi qui là một 
đại từ - và ii.kết tố hồi qui là một ngữ danh từ. Hai loại này chủ yếu gặp trong 
phép thế. Theo tiêu chí phân loại thứ hai, tác giả chia liên kết hồi qui thành ba 
tiểu loại: i.kết tố hồi qui là sự lặp lại từ vựng của chủ tố, ii.kết tố hồi qui là một 
ngữ danh từ đồng nghĩa với ngữ danh từ làm chủ tố, và iii.kết tố hồi qui là một 
ngữ danh từ có khả năng tóm lược nội dung (resomptif) hoặc khái niệm hóa 
(conceptual) chủ tố và kết tố liên kết với chủ tố thông qua phép liên tưởng. Tuy 
đề cập chủ yếu đến phép thế, đôi chỗ có nhắc đến phép tỉnh lược, phép liên 
tưởng mà chưa đi sâu vào chức năng thực hiện liên kết hồi qui của phép nối; 
nhưng đề cập khá kỹ đến liên kết hồi qui nên công trình đã đưa ra nhiều hướng 
gợi mở cho việc tìm hiểu cách thức liên kết này trong phép nối nói chung. Chính 
liên kết hồi qui phục vụ đắc lực cho việc tìm hiểu cấu trúc phép nối ở chương 2. 
Đến năm 2007, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội cho xuất bản 
quyển “Dụng học Việt ngữ” của Nguyễn Thiện Giáp [30]. Tác giả dành gần 50 
trang để đề cập đến khái niệm “Diễn ngôn” và “Văn bản”, và từ trang 176 đến 
178, Nguyễn Thiện Giáp đề cập đến Phép nối. Tác giả chia phép nối thành bốn 
loại theo quan hệ ngữ nghĩa của chúng: i.Đồng hướng, ii.Ngược hướng, iii.Nhân 
quả và iv.Thời gian – trình tự. Thực chất của quan hệ đồng hướng là quan hệ bổ 
sung, của quan hệ ngược hướng là quan hệ tương phản. Ngoài ra, tác giả có đề 
cập đến liên kết hồi chỉ và khứ chỉ. Theo Nguyễn Thiện Giáp, liên kết hồi chỉ và 
khứ chỉ là một phương thức liên kết độc lập với phép nối (và cả phép tỉnh lược, 
phép thế). Nhưng trong phần ví dụ, tác giả đã dẫn ra một ví dụ về phép liên kết 
hồi chỉ và khứ chỉ, mà đó chính là phép nối: “Chiều nay được nghỉ học. Thế thì 
ta đi xem phim nhé.” [30;174]. Liên từ thế thì biểu hiện kết quả trong quan hệ 
điều kiện nhân quả. Bốn ví dụ còn lại cũng là dạng phép nối không có liên từ 
(mà theo một số tác giả là phép tuyến tính) – xem thêm trang 174. Nhìn chung, 
bên cạnh việc đưa ra cách định danh mới về những quan hệ ý nghĩa cơ bản của 
phép nối; đóng góp của công trình chủ yếu là ở chỗ gợi mở về chức năng thể 
hiện liên kết hồi chỉ, khứ chỉ của phép nối nói chung. 
Năm 2004, Lê Thị Minh Hằng [39] đã đóng góp bài viết về “Một đề nghị 
phân loại câu điều kiện tiếng Việt” cho tạp chí Ngôn ngữ (số 2). Sau khi thống 
kê một số cách phân loại câu điều kiện của một số nhà ngữ pháp Tiếng Việt như 
Hoàng Tuệ, Hoàng Trọng Phiến ; tác giả đã đưa ra kiến nghị về một hướng 
phân loại riêng. Đứng trên quan điểm ngữ nghĩa, Lê Thị Minh Hằng phân loại 
câu điều kiện theo hai tiêu chí cơ bản: i.Quan hệ nhân – quả và ii.Tính hiện thực. 
Theo tiêu chí “quan hệ nhân quả”, tác giả chia câu điều kiện thành hai bộ phận: 
Bộ phận nêu quan hệ nhân quả và Bộ phận nêu quan hệ tiền đề - kết luận. Theo 
tiêu chí “tính hiện thực”, tác giả chia câu điều kiện thành hai loại: Điều kiện giả 
định và phi giả định (hiện thực). Hệ thống phân loại của tác giả được cụ thể hóa 
như sau: 1).Điều kiện kết quả: i.Giả định (bao gồm: Giả thuyết, và Phản sự thật) 
và ii.Phi giả định (bao gồm: Tất yếu và Tập quán. 2).Tiền đề - kết luận (gồm ba 
tiểu loại: i.Suy đoán, ii.Sóng đôi và iii.Dẫn nhập tình huống). Ngoài ra, công 
trình còn cung cấp một số liên từ (mà tác giả gọi là “chỉ tố đánh dấu về mặt hình 
thức”) thể hiện những loại câu điều kiện trên. Nhìn chung, công trình xoáy sâu 
vào một quan hệ ngữ nghĩa cơ bản của phép nối - cung cấp một tiêu chí mới 
đồng thời đưa ra một kết quả phân định mới về loại quan hệ này. 
Ngoài ra, có một số công trình đánh dấu về việc nghiên cứu về ngữ dụng 
trong phép nối. 
Năm 2002, Tạp chí Ngôn ngữ số 5, đã giới thiệu bài báo của Nguyễn Thị 
Thìn [77] về “Các từ thì, mà, nhưng ở đầu câu trong chức năng liên kết nghĩa 
học”. Bảy trang của bài báo đã trình bày khá kỹ về tính chất đa chức năng của 
một số liên từ thông dụng trong tiếng Việt. Chẳng hạn, trong công trình, tác giả 
đã trình bày các chức năng biểu hiện quan hệ của liên từ “thì” như: i.quan hệ 
thời gian, ii.quan hệ móc xích – đề thuyết, iii.quan hệ điều kiện/ nguyên nhân – 
hệ quả. Và liên từ “mà” thể hiện bốn quan hệ chính (mỗi loại lại bao gồm những 
tiểu loại) sau: i.quan hệ bổ sung (bao gồm ba quan hệ nhỏ: bổ sung – liệt kê, bổ 
sung – tăng cấp, bổ sung – chú thích), ii.quan hệ đối lập (bao gồm ba quan hệ 
sau: tương phản (trái ngược), nghịch điều kiện – hệ quả, và mâu thuẫn), iii.quan 
hệ móc xích đề thuyết đồng thời với quan hệ nhân - quả và iv.quan hệ đối chiếu 
tương đồng. Còn liên từ “nhưng” lại biểu hiện bốn quan hệ ngữ nghĩa sau: i.quan 
hệ đối lập, ii.quan hệ bổ sung đồng thời với quan hệ đối lập, iii.quan hệ so sánh 
tăng cấp đồng thời với quan hệ đối lập và iv.quan hệ hạn định đồng thời với 
quan hệ đối lập. Qua công trình, chúng ta cũng nhận ra đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ 
dụng, tức nghiêng về mặt nghĩa học, dụng học của các liên từ nói riêng, phép nối 
nói chung. 
Tạp chí ngôn ngữ số 4 năm 2005 đã ra mắt bạn đọc công trình “Quan hệ 
ngữ nghĩa của các phát ngôn, giái trị tu từ của từ VÀ trong liên kết văn bản tiếng 
Việt” của tác giả Lương Đình Khánh [51]. Tác giả nêu lên những quan hệ ngữ 
nghĩa cũng như những chức năng chính yếu của liên từ này: i.quan hệ nguyên 
nhân (nhân- quả), ii.quan hệ tương phản, iii.quan hệ bổ sung, và iv.quan hệ thời 
gian – đồng thời và nối tiếp. Đây chính là cơ sở để chúng tôi xem xét ý nghĩa 
ngữ dụng của một số liên từ đa chức năng trong phép nối tiếng Việt. 
Trên tạp chí ngôn ngữ số 12, năm 2008 có bài đăng của Nguyễn Đức Dân 
[23] về “Logic ngữ nghĩa của từ thì”. Trong bài viết, tác giả đã đề cập đến những 
hàm ý ngữ dụng của cấu trúc nếu thì, tức quan hệ điều kiện kết quả như: bác 
bỏ, bác bỏ để khẳng định, giải thích, khuyên, từ chối, đánh giá, khuyên, Đặc 
biệt, Nguyễn Đức Dân đã trình bày những quan hệ điều kiện hệ quả không chứa 
liên từ, mà ý nghĩa điều kiện của chúng vẫn được thể hiện.12 trang báo đã đi sâu 
vào khai thác ý nghĩa ngữ dụng của phép nối nói chung, một quan hệ ngữ nghĩa 
cơ bản của phép nối – quan hệ điều kiện – kết quả nói riêng. Điểm nổi bật của 
tác giả này là đi vào khai thác ý nghĩa ngữ dụng của các quan hệ chủ yếu trong 
nội bộ một phát ngôn. 
Ngoài ra, năm 2005, công trình “Bắt buộc” và “tùy ý” về hai cách biểu 
đạt nghĩa trong ngôn ngữ của Cao Xuân Hạo [37] đã gợi mở về vấn đề so sánh 
đối chiếu về phép nối giữa tiếng Anh và tiếng Việt. Và tác giả đã khẳng định, 
chính từ vựng và ngữ pháp là công cụ để xoay quanh trung tâm duy nhất là nghĩa 
học: “Ta thường thấy có những ngữ nghĩa mà trong ngôn ngữ này thì biểu đạt 
bằng phương tiện từ vựng mà trong ngôn ngữ kia lại biểu đạt bằng phương tiện 
ngữ pháp” [37;6]. Tác giả cũng chỉ ra một cách khái quát những sự khác biệt về 
đặc điểm của loại hình ngôn ngữ có biến đổi hình thái và ngôn ngữ đơn lập, qua 
đó, tác giả khẳng định cấu trúc nội bộ của từng ngôn ngữ đóng vị trí trung tâm 
trong việc biểu đạt nói chung. Nhìn chung, công trình có nghĩa phương pháp 
luận và định hướng cho việc so sánh một số điểm tương đồng và dị biệt của phép 
nối trong hai ngôn ngữ thuộc hai loại hình khác nhau. Cùng với công trình này, 
một số luận án nghiên cứu về ngôn ngữ học đối chiếu giữa tiếng Việt và tiếng 
Anh như: Thái Minh Đức [101] về “A Systematic Functional Interpretation of 
Vietnamese Grammar” (1998), Nguyễn Thị Thu Hiền [40] về “Cấu trúc Đề - 
Thuyết” trong bản tin tiếng Anh và tiếng Việt” (2008) . đã gợi mở về việc đối 
sánh phép nối ở hai ngôn ngữ này. 
Trên cơ sở kế thừa những công trình lí thuyết và thực tiễn quan sát những 
bài viết cụ thể, luận văn này đặt nhiệm vụ cho mình là trên cứ liệu tiếng Việt, 
khảo sát phép nối một cách hệ thống và toàn diện hơn. 
3. Mục đích ngiên cứu 
Chọn và nghiên cứu đề tài này, chúng tôi nhằm hướng đến những vấn đề sau: 
- Làm rõ cấu trúc và chức năng của phép nối trong văn bản. Từ đó thấy được 
phần nào vai trò của phép nối trong vấn đề tạo lập và tiếp nhận văn bản. 
- Đề xuất một số cánh hiểu, cách phân chia mới về cấu trúc và ngữ nghĩa của 
phép nối, cũng như đưa ra một số đặc điểm ngữ dụng của các liên từ trong phép 
nối. 
- Tìm và nêu lên những đặc điểm nổi bật của phép nối trong tiếng việt và 
tiếng Anh. Đồng thời có những đối sánh cần thiết giữa hai ngôn ngữ để làm rõ, 
làm nổi bật những đặc điểm đề cập. Từ đó, giúp ích phần nào cho việc học ngoại 
ngữ và giảng dạy tiếng Việt của bản thân. 
4. Phạm vi nghiên cứu 
Do sự hạn hẹp về kiến thức, thời gian cũng như quy mô của công trình, 
chúng tôi chỉ tập trung chú ý vào những khía cạnh cơ bản sau: 
- Như đã xác định, phép nối được chúng ta khảo sát trên ba bình diện: cấu 
trúc, ngữ nghĩa, ngữ dụng. Và có thể phép nối có liên quan mật thiết với với một 
số phép liên kết khác, nhưng đối tượng tiếp cận chính của chúng tôi vẫn là phép 
nối. 
- Hình thức là hình thức của một nội dung, tuy nhiên, trong cách tiếp cận 
của chúng tôi, mặt hình thức của phép nối được chú ý nhiều hơn mặt nội dung. 
- Khi nghiên cứu về phép nối, chúng tôi chỉ chú ý đến những đơn vị có 
chức năng nối hai hay nhiều cụm câu (cú), phát ngôn với nhau, mà không xem 
xét những trường hợp liên kết trong nội bộ một phát ngôn, chẳng hạn: Nam và 
An là bạn thân. Như vậy, chúng tôi chỉ khảo sát nối giữa các cú, không chú ý đến 
nối trong nội bộ một cú. 
5. Phương pháp nghiên cứu 
Ngoài một số thủ pháp nghiên cứu mà bất kỳ công trình nào, dù khoa học 
tự nhiên hay khoa học xã hội đều phải sử dụng như sưu tập, miêu tả, phân loại; 
luận văn này sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính sau: 
- Phương pháp hệ thống – cấu trúc: Tính hệ thống, mặt cấu trúc bên trong 
và các loại quan hệ trong phép nối được luận văn quan tâm, vận dụng. 
- Phương pháp ngữ nghĩa – cú pháp: Nói tới phép nối, là nói tới các loại 
quan hệ ngữ nghĩa, do vậy phương pháp này được ưu tiên phân tích. 
- Phương pháp phân tích ngữ dụng: Phép nối chỉ được thực hiện một cách 
rõ ràng trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Do vậy, các yếu tố như ngữ 
cảnh, thể loại, tính tương tác được luận văn vận dụng một cách tổng hợp. 
6. Bố cục của luận văn 
Luận văn được triển khai trong ba chương chính sau: 
Chương 1: Một số vấn đề chung 
1.1. Văn bản 
1.2. Liên kết 
1.3. Phép nối 
1.4. Tiểu kết 
Chương 2: Phép nối trong tiếng Việt 
2.1. Cấu trúc 
2.2. Ngữ Nghĩa 
2.3. Ngữ dụng 
2.4. Tiểu kết 
Chương 3: Một vài đối sánh về phép nối trong tiếng Anh và tiếng Việt. 
3.1. Cấu tạo 
3.1.1. Tương đồng 
3.1.2. Dị biệt 
3.2. Ngữ nghĩa 
3.1.1. Tương đồng 
3.1.2. Dị biệt 
3.3. Ngữ dụng 
3.1.1. Tương đồng 
3.1.2. Dị biệt 
3.4. Tiểu kết
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
264 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 4014 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cấu trúc, ngữ nghĩa, ngữ dụng của phép nối trong tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g ba mươi, 
ba mươi xu hay là ba cắc. Thế mà tôi đã trả một cắc hôm qua với hai cắc 
hôm nay, cộng lại ắt là ba. Vậy là cân. [NC,NN;288] 
49 
Một tí nữa, nếu không hãm kịp thì cả một chuyến xe riêng chở quan 
Toàn Quyền đâm nhào xuống sông sâu, chắc không sống sót một ai; 
tưởng không có cái tai nạn nào ghê gớm hơn, thế mà chính vì tôi nên 
mới không có cái tai nạn ấy. Tôi đứng ngẩn người không hiểu sao cả. 
(NL, BNTSM) 
50 
Nàng cũng hiểu cái dịp ấy chẳng bao giờ tới, nếu chồng nàng không 
chết. [NC, NĐ;71] 
51 Nếu cao mà ăn, người ta có thể ăn suốt ngày. [NC,LT;177] 
52 
Nếu còn sống, chắc chắn những mong muốn của anh sẽ thành sự thực 
rực rỡ trên một tầm xa, rất xa. [NC;10] 
53 Nếu em sửa được tính nết em. Em lại trở về với cậu. [NC,NĐ;94] 
54 Nếu không còn sức mà cướp giật, doạ nạt nữa thì sao. [NC,CP;49] 
55 
Nghiện hút đã ba năm mà muốn "cai khan" là chuyện rất khó, song Vân 
đã quả quyết dám có ý nghĩ: chết thì thôi. Nếu không thoát nạn phù 
dung, rồi Vân cũng đến phải tự tử. Vân đã chán cái sống bêu rếu ở đời. 
(VTP ,GTT) 
56 
Những đĩa đồ ăn ngon lành ấy, mẹ tôi thường có ý đẩy lại trước mặt tôi, 
vì người chỉ muốn có một mình tôi ăn thôi. Cái sung sướng ích kỷ của 
tôi được diễn ra trong hơn hai năm, và có thể diễn ra được mãi, nếu 
không có một lần.. (HZ,TCĐT) 
57 
Nó cứ còn mãi, còn để sợ từng cơn gió, để rung rẩy trước từng cơn gió. 
Như thế thà chết quách đi cho rồi. [NC,NĐ;87] 
58 
Thấy lũ con đức nào cũng nhăn nhăn, nhó nhó, người mẹ thương đứt 
ruột. [NC,TCKĐATC;146] 
59 
Thế nghĩa là em đã yêu người ấy lắm, yêu lắm. Đến nỗi phải chán đời 
cho đến lúc lấy chồng, nghĩa là trong bảy năm không sức để ý đến một 
ai nữa, nếu không có anh.(VTP,CGĐÔ) 
60 
Thị bảo dần: “Mày có hư thì người ta mới đánh, đánh thế chứ đánh nữa 
tao cũng không thương chút nào; mày muốn sống thì về nhà bà chánh 
mà sống, không về thì đi đâu mặc kệ! Tao không chứa, tao không lấy 
gì nuôi được mày.” [NC,MĐC;123] 
61 
Thưa thầy, giá nhà con khỏe khoắn, thì nhà con chả dám kêu. Nhưng, 
thưa thầy, từ đây lên huyện, những chín cây lô mếch, sợ nhà con đi nắng 
thì cảm, rồi phải lại thì oan gia.(NCH,TTTD) 
62 
Thức ăn không bao giờ tự nhiên chạy vào mồm. Có làm thì mới có. 
 [NC, MBN;158]
63 
Thúc thì hắn chửi, căm vườn thì hắn chém, sinh chuyện với hắn thì 
chính lý trưởng làng có lỗi bởi cố ý ẩn lậu hắn là một tên can phạm. 
[NC,CP;31] 
64 Thương con thì để bụng. Nuông con thà giết con đi. [NC,MĐC;123] 
65 
Tiền rừng, bạc bể chả dễ nuốt được đâu. Vô phúc mà ngã nước một 
chuyến thì lại được.[NC,MĐC;126] 
66 
Tôi cũng muốn vừa có thể phụng sự nghệ thuật lại vừa có thể kiếm tiền 
nuôi cả nhà. Nghĩa là tôi ham viết lắm. Nhưng giá thử viết mà không 
được một đồng xu nhỏ thì có lẽ tôi cũng ham vừa vừa thôi. 
[NC,CMKCĐ;304] 
67 
Tuy vậy, lúc cùng đi xe trở về nhà, một mối buồn lại đến ám ảnh anh. 
Minh buồn rầu, chỉ vào cái chân gỗ của anh, nói: - Giá không què chân 
mà được số bạc này có phải sướng biết bao không! (TL,CCQ) 
68 
Và lão kể. Lão kể nhỏ nhẹ và dài dòng thật. Nhưng đại khái có thể rút 
vào hai việc. Việc thứ nhất: Lão thì già, con đi vắng, vả lại nó cũng dại 
lắm, nếu không có người trông nom cho thì khó mà giữ được vườn đất 
để làm ăn ở làng này. (NC,LH) 
69 
Và nàng nghĩ thầm: "Mình phải bảo Nga, Lan cùng đi tắm mới được, 
nếu không thì sẽ buồn chết". Phát cố giữ cái ngáp để trả lời: "Phải đấy 
Hoàn ạ, mai đi tắm sớm nhé!" Và chàng tự nhủ: "Để ngắm cái mặt buồn 
thiu của bà vị hôn thê! Rõ khổ!". (KH,DAT) 
70 
 Vả lại, nếu ông không đi, thì hai thằng bé cũng không thể đi mà Dần 
thì đang khóc lóc. Nếu chỉ có mình nó ra đi thì có lẽ nó cũng không 
chịu nốt. [NC,MĐC;134]. 
71 
Vẫn tưởng một người vai vế như Năm Thọ mà thất cơ lỡ vận đến nỗi 
tội tù làm gì còn dám vác cái mặc mo về làng. [NC,CP;29] 
72 
Vd: Tôi nghĩ bụng; ông nhiêu Tiêm hớ rồi. Chắc ông gặt ở đây cao lắm. 
Đáng nhẽ ông phải nói đồng rưỡi, hai đồng .(NC,QD;149) 
73 Viết xuống không thôi quên. (Yahoo.360O - Do what you love) 
 1.1.9. QUAN HỆ NHƯỢNG BỘ 
1 
Bà nâng nui nó chẳng khác gì con của bà. Mặc dầu có những người 
thóc mách hay là ác miệng bảo nó là con của môt kẻ giết người, cha nó 
đi ở tù, mẹ nó đi lấy chồng. [NC,NĐ;65] 
2 
Cái chết ở thôn quê là một cái rầy rà to. Vậy thì dẫu bố mẹ Thai có 
vườn để lại cho Thai thì Thai cũng phải bán đi rồi. [NC,LT;179] 
3 
Cho thì lấy vậy. Dẫu chẳng lợi lộc thì cũng không phải thiệt. 
[NC,LT;180] 
4 
Dẫu trăm thân này có phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này có gói trong da 
ngựa,(nhưng) ta cũng vui lòng. (TQT) 
5 
Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu. Dẫu sao, đó không 
phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. [NC,CP;46] 
6 
Nó là con ở nhưng cũng ra phết lắm, không lẹp nhẹp; nhất là cái miếng 
ăn, miếng uống dù trong bụng đói chết, ngoài mặt nó cũng làm ra 
không cần. [NC,CM;118] 
7 Nó thà nhịn đói mà ở cửa, ở nhà còn hơn. [NC,MĐC;123] 
8 
Thà chúng ta đừng gặp chiếc ghe này còn hơn là gặp mà phá 
hủy.(SN,CGN) 
9 
Tôi muốn thà nhà tôi nói nặng còn hơn chỉ thản nhiên đáp một cách 
độc địa thế này: - Có thế! (VTP,CGĐÔ) 
 1.2. TIẾNG ANH 
1 
A company's products and business strategy contribute significantly 
to its asset turnover ratio. However, when competitions are similar, 
management's ability to control the firm's assets is vital in 
determining its success. [RL;108] 
2 
A consolidated income statement that is based on aggregated data 
may not prove useful to investor seeking to assess possible risks and 
eturns from companies operating in foreign markets. The same may be 
rue if a company operate more than a single business. Therefore, many 
ompanies provide additional information about geographic and 
business segments in notes to the financial statements. [RL;121] 
3 
A key to Exeter's decision to buy Maxidrive was the fact that other 
companies in the same industry with similar performance and past 
growth were selling for 12 times their current earning. Accordingly, 
the opportunities to buy Maxidrive for 10 times its current earning 
seemed to be an excellent one, particularly since economics forecast 
suggest that the next five years would see continuing growth and 
profitability for disk driver manufactures. [RL;19] 
4 
A swim coach would never try to evaluate a swimmer's time in the 
100 freestyle without asking if the time for a race in meters or in 
yards. Likewise, a decision maker should never attempt to use 
accounting information without first understanding measurement 
rules that were used to develop the information. [RL;20] 
5 
Although he has a physical handicap, he has become a successful 
businessman. 
6 
Although John knew practically nothing about the financial side of 
the business, he realized that a number of reports were required and 
that costs and collections had to be controlled carefully. [RL;40] 
7 
As a consequence, MiniScribe reported net income of $31 million, 
which was subsequently shown to be $9 million. [RL;24] 
8 
As a result of reviewer feedback, ten multiple choice questions have 
been added to the end of each chapter. (RL;Preface;7) 
9 
As discussed earlier in this chapter, reported revenues do not always 
equal cash collected from customers because some sales may be on 
credit. Also, expenses reported on the income statement may not be 
equal to the cash paid out during the period because expense may be 
incurred on one period and paid for another. [RL;15] 
10 
As is typical in the fast-food industry, Papa John's receives most of its 
revenues from restaurant sales at the time pizza is delivered customers 
(criteria 1 ). Because a determinable amount of cash (criteria 3) is 
paid by customers in exchange for food service from Papa John's 
(criteria 2), there are no uncertainty as to the probability of collecting 
cash (criterian4). [RL;109] 
11 
Assets are probable future economic benefit is owned or controlled by 
an entity as a result of past transaction. In other words, they are the 
resources the entity can use to operate in the future. [RL;51] 
12 
Because of this dichotomous thinking, many teachers still believe that 
students should learn to use the language in communication only after 
they have learned to master its structures in drill and other mechanical 
exercises. On the one hand, it is a fact that structures have to be 
broken down and learned, that rules have to explained, inductively, 
and that students have to get the necessary linguistic skills. On the 
other hand, teachers are now told that learners have to be given the 
opportunities to use their skills even before they completely mastered 
them and that they should focus on the massage, not on the form of 
their utterances. [CL;5] 
13 
Both Exeter Investors (Maxidrive new owner) and American Bank 
(Maxidrive's largest creditor) used Maxidrive's financial statements to 
learn more about the company before making their purchase and 
lending decisions. In doing so, Exter and American Bank assumed 
that the statements accurately represented Maxidrive's financial 
condition. As they soon learned, and now have claimed in their 
lawsuits, the statements were in error. [RL;6] 
14 
Both the chairman and the chief financial officer of MiniScribe were 
convicted of federal securities and wire fraud charges and sentenced 
at jail. Although most managers and owners act in an honest and 
responsible sashion, this incident, and the much larger frauds at Enron 
and WorldCom, are stark reminders of the economic consequences of 
lack of fair presentation inn financial reports. [RL;24] 
15 
By July, Exeter had discovered a variety of problems in the 
company's operations and its financial statements. Maxidrive 
appeared to be worth only about haft of what Exter had paid for the 
company. Furthermore, Maxidrive did not have enough cash to pay 
its debt to American bank. [RL;3] 
16 
Cash flow from operating activities are cash flows are directly related 
to earning income. For example, when Compaq, Apple Computer, 
and other customers pay Maxidrive for the disk driver it has delivered 
to them. [RL;15] 
17 
Companies that fail to meet expectations often experience a decline in 
stock price. Thus, managers are motivated to produce earning result 
that meet or exceed investor's expectations. [RL;111] 
18 
Creditors and security analysts use this ratio to assess a company's 
risk level, while managers use the ratio in deciding whether to expand 
by adding debt. As long as the interest on borrowing is less than the 
additional earning generated, utilizing debt will enhance the 
stockholder's earning. [RL;54] 
19 
Despite his physical handicap, he has become a successful 
businessman. (EG) 
20 
Despite of his physical handicap, he has become a successful 
businessman. (EG) 
21 
Despite these different strategies, Papa John's, ranked number three, 
has declared war on Pizza Hut, aiming to become the number - one 
Pizza brand in the world. [RL;101] 
22 
Either they view reading as an exercise to reinforce their knowledge 
of grammar and vocabulary, or they treat written texts only as a 
source of information about the foreign culture. [CL;6] 
23 
Even as a international language, English instruction transmits such 
Anglo-saxon value as efficiency, pragmatism, and individualism, that 
superimpose themselves on those of the learner’s native culture. 
Foreign language instructors, on the other hand, who teach a second 
or a third foreign language to students in educational settings, 
generally transmit with that language a view of the world that mainly 
promotes the values and cultural assumptions of the L1 educational 
system. [CL;12] 
24 
Every asset on the balance sheet is initially measured at the total cost 
incurred to acquire it. For example, the balance sheet for Maxidrive 
reports Land, $981, this is amount paid (in thousands) for the land 
when it was acquire. [RL;9] 
25 
Exeter and American Bank also have asked for punitive damages for 
gross negligence. In addition, the president and the chief financial 
officer of Maxidrive were convicted by a federal jury on there counts 
of criminal securities fraud for which they were fined and imprison. 
[RL;23] 
26 
Exeter's owners and managers were well aware of detail of U.S 
GAAP, but they ware still misled. Although the measurement rule 
that Maxidrive had used to produce its financial statement were 
consistent with GAAP, the underlying figure were fiticious. [RL;21] 
27 
Financial Accounting's fully-featured website offers self-quizzes, 
learning objectives, ....In addition to this helpful study material, you 
will find two appendices linked to the text material, check figures, 
article tied to end - of - chapter material, Wed link to the focus 
company financial statements, and a helpful application called 
homework Manager. (RL,Preface) 
28 
Financial statement created under cash basis accounting normally 
postpone or accelerate recognition of revenue and expenses long 
before of after goods and service are produced and delivered (when 
cash is received or paid). They also do not necessarily reflect all 
assets or liabilities of a company on a particular date. For these 
reasons, cash basis financial statements are not very useful to external 
decision makers. Therefore, generally accepted accounting principles 
require accrual basis accounting for financial reporting purposes. 
[RL;108] 
29 
He promised to call me, ill now I haven’t received any calls from him, 
though. (EG) 
30 
If Maxidrive goes out a business its assets are sold, the proceeds of 
that sale must to use to pay back creditor such as American Bank 
before the owners receive any money. Thus, creditors consider 
stockholder's equity a protective "cushion". [RL; 9] 
31 
If you are getting only about half of the questions in these sample test 
correct, then you are probably not quite ready for the IELTS test. 
[C1;15] 
32 
If you have identified the correct accounts and effects through 
transaction analysis, the accounting equation will remain in balance. 
Moreover, the total dollar value of all debits will equal the total 
dollar value of all credits in a transaction. [RL;63] 
33 
In case of malpractice, the independent CPA may be held liable for 
losses suffered by those who relied to the statements the CPA 
examined. As a result of the fraud, Maxidrive filled for bankruptcy 
and will likely be sold in an attempt to pay off creditors. [RL;23] 
34 
In this Chapter we focus on papa John's operating activities that 
involve the sale of food to the public and the sale of ingredients, 
equipment, and services to franchisees. The results of these activities 
are reported on the income statement. ([RL;102] 
35 
Indeed, classroom teaching is a juggling act that requires instant-by-
instant decisions based on both local and global knowledge and on 
intuitive graphs of the situation.[CL;3] 
36 
Instructor Advantage Plus guarantees you a full day on a-site training 
by a Blackboard or Web CT specialist, for yourself and up to nine 
colleagues. Thereafter, you will enjoy the benefits of unlimited 
telephone and e-mail support throughout the life of your adoption. 
[RL,Preface,17] 
37 
It foundations are normally traced back to the works of an Italian 
monk and mathematician, Fr. Luca Pacioli, published in 1494. 
However, prior to 1933, each company's management largely 
determined its financial reporting practices. Thus, little uniformity in 
practice existed among companies. [RL;20] 
38 
Jane will be admitted to the University, even though she has bad 
grades. 
39 
Legally, the business and the owner are not separate entities. 
Accounting views the business as the business entity, however, that 
must be accounted for separately from its owner. [RL;26] 
40 
Mail the enclosed posted-paid reservation card by March 1, 20X2, 
and the issue of The Armchair Reader’s Review is your free. At the 
same time, we’l reserve in your name a full –year supscription at a 
special introductory rate.[The AMA Handbook of Business letters;80]
41 
Many new companies do not become profitable this quickly. 
Further, both sales revenue and net income had risen every year. 
[RL;19] 
42 
Maxidrive is loosely base on the infamous fraud at Miniscribe, a real 
disk driver manufacture. The size of the real fraud, however, was 
more than 10 times as great as that in the fictional case, as were the 
losses incurred and the damages claimed in the lawsuit that followed. 
[RL;23] 
43 
Most corporations report current assets liabilities separately, even 
though classifying them as such is not required. [RL;51] 
44 
Most financial statements include the monetary unit sign (e.g...) 
beside the first dollar amount in group of items (e.g,..). Also, it is 
common to place a single underline below the last item in a group 
before a total or subtotal (e.g. land). [RL;17] 
45 
Most important, signing a contract involving the exchange of two 
promises to perform does not result in accounting transaction that is 
recorded. For example, if Papa John's sent an other for more napkins 
to it paper supplier and the supplier accepted the order but did not fill 
it immediately, no transaction took place. As soon as the goods are 
shipped to Papa John's, however, the supplier has given up its 
inventory in exchange for a promise from Para John's to pay for the 
items in the near future, and Papa John's has exchange its promise to 
pay for the suppliers its receives. Because a promise has been 
exchanged for goods, a transaction has taken place; both Papa John's 
and the supplier's statements will be affected. [RL;60] 
46 
n performing an audit, the independent CPA examines the underlying 
transactions and the accounting methods used to account for these 
transactions. Because of the enormous number of transactions 
involving a major enterprise such as General Motors, The CPA does 
not examine each of these transactions. Rather, professional approach 
is used to ascertain beyond reasonable doubt that transactions were 
measured and reported properly. [RL;23] 
47 
Non-native teachers and students alike are intimidated by the native-
speaker norm during the course of their work together. If, however, 
we consider language study as initiation into a kind of social practice 
that is at the boundary of two or more cultures, such as a linear 
progression makes less sense. [CL;9] 
48 
Not all activities affecting an income statement are central to ongoing 
operation. Using excess cash to purchase stocks in other companies is 
an investing activity for Papa John's. However, any interest or 
dividends earned on the investment is called investment income or 
revenue. Likewise, borrowing money is a financing activities. 
However, the cost of then using that money is called interest expense. 
[RL;106] 
49 
Once you've taken a particular test, Grade Summit returns a detailed 
results page showing exactly where you did well where you need to 
improve. With that information, you can plan your studying to 
focus to exclusively on your weak areas, without wasting effort on 
material you've already mastered. (RL,Preface) 
50 
Perhaps someone once told you that you were a credit to your school 
or your family. As a result, you may think that credits are good and 
debits are bad. [RL;63] 
51 
Restaurant and Commissary Sales. Approximately 25 percent of Papa 
John's stores are owner by the company, while 75 percent are 
franchises. In addition, to reduce costs and control quality and 
consistency, papa John's builds regional commissaries (centralized 
kitchens and supply facilities) that provide all of the chain's pizza 
supplies and equipment. [RL;105] 
52 
Since each asset must have a source of financing, a company's asset 
must, by definition, equal its liabilities and stock - holder's equity. 
[RL;8] 
53 
Since revenues are defined as inflows of net assets, then by definition 
recording a revenue results in either increasing an asset or decreasing 
a liability. In like manner, when recording an expense, an asset is 
decreased or liability is increased. [RL;115] 
54 
Some call out special topics that help you to in presenting a complex 
subject; others highlight issues relevant to what your students read in 
the paper or watch on TV. Either way, financial Accounting's 
pedagogical support will make a real difference in your course and 
your students. [RL, Preface;8] 
55 
Stock market analysts and investors use accounting information to 
make their investment decisions. Thus the stock market, which is 
based on investor expectations about a company's future performance, 
often reacts negatively when a company does not meet previously 
specified operating targets. [RL;115] 
56 
That meaningful context is critical for language learning has been 
widely recognized. There has not been adequate recognition, 
however, that this context includes understanding of culturally 
defined aspects of a communications event, such as role relationships 
and norms of interpretations, of holistic scripts for the negotiation of 
meanings, as well as observable aspects of setting. [CL;11] 
57 
The detail of the statements are also important. For example, 
Maxidrive had to sell more than $37 million worth of disk driver to 
make just over 43 million. [RL;12] 
58 
The exact items listed as assets on a company's balance sheet depend 
on the nature of its operations. But they are common names use by 
many companies. [RL;9] 
59 
The financial leverage ratio measures the relationship between total 
assets and the stock- holders' enquiry that finance the assets. As 
noted, companies finance their assets with stockholder's enquiry and 
debt. The higher the proportion of assets financed by debt, the higher 
the financial leverage ratio. Conversely, the higher the proportion of 
assets financed with stockholder enquiry, the lower the ratio.(...). 
However, it also increases risk. Debt financing is riskier than 
financing with stockholder enquiry because the interest payments on 
debt must be make every period (they are legal obligation), whereas 
dividends on stock can be postponed. [RL;54] 
60 
The following checks had been written: electrician's assistant, $8,500; 
pay roll taxes, $175...Also, uncollected bills to consumers for electric 
repair service amounted to $3,000. [RL;40] 
61 
The Investing Activities section shows that Maxidrive is making 
heavy investments in new manufacturing capacity, a good sign if 
demand continues to increase. But, as the Financing Activities section 
indicates, if Maxidrive is not able to sell more drives, it may have 
trouble meeting the payment on the new bank debt. [RL;15] 
62 
The preface to this book contains detailed information about the 
features and supplements that make up the Financial Accounting 
package. While this material is written for your instructor, we 
invite you to review it as well, that you learn more about the book and 
and so make your experience using it as rewarding and enjoyable as it 
can be. (RL,Preface) 
63 
The purpose of an audit is to lend credibility to the financial reports, 
that is, to ensure that they fairly represent what they claim. [RL;27] 
64 
The Q&A Center allow students to submit questions at any time and 
retrieve answers within 24 hours. Finally, the Archive Center allow 
students to browse for answers to previously asked questions. (RL, 
Preface;17] 
65 
There are three types of notes. The first type provides descriptions of 
the accounting rules applies in the company's statements. The second 
presents additional detail about a line on the financial statements. 
(For example.....). The third type of note provides additional 
financial disclosed in a note. (...)[RL;17] 
66 
There is a comprehensive key for the Reading and Listening sections, 
but if you are in any doubt about your answers, you can talk to a 
teacher or an English speaking friend. [C1;7] 
67 
These excerpts include annual report information from the focus 
companies, as well as numerous other companies, article from several 
different publications, analysis's report, from 10-ks, press releases, 
and First Call notes. [RL,Preface;9] 
68 
These tests can be taken in several formats according to your 
preference, and a smart testing engine automatically scales the 
difficulty of the questions according to your responses. (RL,Preface) 
69 
They are all expected to have a reasonable understanding of 
accounting concepts and procedures (this may be one of the reason 
you are studying accounting). Of course, as we discussed in Chapter 
1, many other group, such as suppliers and customers, also use 
external financial statements. [RL;49] 
70 
This deferred or unearned revenue account represents the amount of 
goods or services owed to the franchisees. Later, when Papa John's 
provides the services (criteria 1), it earns and records the revenue by 
reducing the liabilities account. [RL;109] 
71 
This designation is granted only on completion of requirements 
specified by the state that issues the license. Although CPA 
requirement vary among states, they include a college degree with 
specified number of accounting courses, good character, one to five 
years of professional experience, and successful completion of a 
professional examination. [RL;27] 
72 
This overview provides you a context in which you can learn more 
detailed material presented in the following chapters. In particular, we 
focus on how to primary users of the statements, investors (owners) 
and creditors (lenders), relied on each of Maxidriver's four basis 
financial statements in their ill-fated decisions to buy and lend money 
to Maxidrive. Then we test what we have learned by trying to correct 
the errors in the statement and discuss the implications of the errors 
for Maxidrive's value. Finally, we discuss the ethical and legal 
responsibilities of various parties for those errors. [RL;5] 
73 
This view of language teaching values census and negotiated 
understanding. Because we all have the same basic human need, we 
only have to agree on how to fulfil these needs in various situations of 
everyday life. [CL,1] 
74 
Though a step-by-step sequence of video clips, PowerPoint, 
interactive practice excercise, and self-tests, Topic tacker offers help 
on two key topics for every chapter, keeping your students engaged 
and learning every step of the way. [RL,Preface;6] 
75 
Throughout each chapter and its assignments, where appropriate, 
students are encouraged to explore actual internet sites. 
[RL,Preface,10] 
76 
Ties important chapter concepts to real-world-decision-making 
examples. They also highlight alternative viewpoints and add to the 
critical thinking and decision-making focus on the text. 
[RL;Preface;8] 
77 
To accomplish this purpose, Chapter 2 discusses key accounting 
concepts, the accounting model, transaction analysis, and analytical 
tools.(RL) 
78 
To continue to meet the changing needs of financial accounting 
faculty and students, the presentation of material has been 
streamlined while maintaining effective coverage of all important 
topics. [RL,Preface;5] 
79 
To maintain the real - work flavor of the chapter material, they 
are often based on other real domestic and international companies, 
and require analysis, conceptual thought, calculation and written 
communication. [RL,Preface;11] 
80 
To summarize, the contradictions sketched above, rather than being 
problems that can and should be solved, represent the basic condition 
of classroom learning…[CL;13] 
81 
Turning the thermostat and the steam button to maximum, hold the 
iron in a vertical position close to the fabric but without touching it. 
[C1;100] 
82 
Under the cost principle, cost is measured on the date of the 
transaction as the cash paid plus the current dollar value of all non 
sash considerations (any assets, privileges, or rights) also given in the 
exchange. (...). Thus, in most cases, cost is relatively easy to 
determine and can be verified. [RL;55] 
83 
Unlike other books Libby makes financial accounting come alive by 
using real world focus companies in each chapter to teach 
fundamental accounting concepts. [RL,Preface;5] 
84 
Users usually are interested in information to assist them in projecting 
a business's future cash inflows and outflows. For example, creditors 
and potential creditors need to access an entity's ability to pay interest 
over time and pay back the principle on the loan. [RL;49] 
85 
We also received invaluable input and support through the years from 
present and former colleagues and students ,.....Furthermore, we 
appreciate the additional comments, suggestions, and support of our 
students and our colleagues at Cornell University, Ithaca College, and 
Miami University. [RL,Preface;20] 
86 
We believe that students will be better prepared to use financial 
information if they learn to evaluate different elements in financial 
performance as they learn how to measure and report them. As a 
result, we introduce relevant key ratios in each chapter in Key Ratio 
Analysis section. [RL,Preface,9] 
87 
We noted earlier that revenues are not necessarily the same as the 
payment to suppliers. As a result, net income normally does not 
equal the net cash generated by operations. [RL;12] 
88 
When an amount is incurred to generate revenues during a period, 
whether paid yet or to be paid in the future, an expense result. 
Therefore, not all expenditures are expenses, and expenses are 
necessary to generate revenues. [RL;106] 
89 
Writing a successful text requires a team effort, and we have enjoyed 
working with excellent tea-mates. Though out the process of writing 
this text, many people stepped forward with tremendous efforts that 
allow us to accomplish our stated goals. [RL,Preface;18] 
90 
You no longer need to worry about the various supplements that 
accompany your text. Instead, most everything is available on one 
convenient CD-ROM: PowerPoint slides, Solutions Manual, 
Instructor's Resource Manual, test Bank and Computerized Test 
Bank, ...[ RL; Preface,14] 
91 
Your iron is designed to function using tap water. However, it will 
last longer if you use distilled water.[C1;100] 
2. CHÚ THÍCH 
(1) (trang 77) 
Tại sao không có tổ hợp “bên cạnh này” trong tiếng Việt 
(1) những vấn đề đã nêu 
(2) những vấn đề đó/này 
(3) đó(3) 
Bên cạnh 
(4) zerô 
Bốn mô hình này được sắp xếp theo trật tự được rút gọn dần bằng cách 
dùng đại từ phiếm định thay thế cho những thực từ đã cho. Chẳng hạn, ở mô 
hình thứ hai, “đó/này” đã thay thế cho cụm động từ “đã nêu” ở mô hình thứ 
nhất. Ở mô hình thứ ba, đại từ phiếm định “đó” thay thế cho toàn bộ cụm 
danh từ “những vấn đề đó/này” và ở mô hình cuối cùng là sự tỉnh lược hoàn 
toàn những đại từ phiếm định của ba mô hình trên. 
Bốn mô hình trên có thể được quy về thành hai dạng chính sau: 
Bên cạnh + x 
và Bên cạnh + zerô 
Chú ý: Không có tổ hợp: “bên cạnh này”, mặc dù trước khi được rút gọn, 
ta có cả hai tổ hợp “bên cạnh những vấn đề đó” hay “bên cạnh những vấn đề 
này” (mô hình thứ 2) 
Vì đại từ phiếm định “đó” bao hàm một sự định vị: vị trí của người nói 
và vật xa hơn so với “này”. Ví dụ: 
 + Đây là tập “Vang bóng một thời.”(+) 
 (Người nói đang cầm trên tay hay tay đang chỉ tập truyện mà khoảng cách của nó với 
người nói rất gần) 
+ Đó (có phải) là tập “Vang bóng một thời”. (+) 
(Người nói không cầm trên tay tập truyện, có thể tập truyện ở rất xa. Giả định trường 
hợp người thứ nhất đang đề cập đến Nguyễn Tuân và nhắc đến một tập truyện nổi tiếng mà 
tác giả viết trước cách mạng tháng Tám; qua đó đề cao những thú chơi tao nhã và biểu hiện 
cái “ngông” của tác giả. Nghe vậy, người thứ hai đoán thử: Đó (có phải) là tập “Vang 
bóng một thời.” ) 
Như vậy, nét nghĩa bóng nghĩa chuyển của “đó”: cái gì khó thấy, khó 
nắm bắt; trừu tượng. Do vậy, khi ta chuyển sang ý lớn – luận điểm khác, ta 
dùng “bên cạnh đó”- tức bên cạnh những luận điểm vừa nêu. Mà luận điểm 
(hay ý lớn) thuộc phạm trù trừu tượng, khái quát, khó nắm bắt; đặc biệt là hơn 
luận cứ; và luận điểm mới ít nhiều còn mang tính trừu tượng, khái quát, xa lạ. 
Hơn nữa, trong trường hợp trước đó đã đưa ra nhiều luận điểm thì việc nắm 
bắt các luận điểm mới là một vấn đề không hề đơn giản (rất khó nắm bắt) – 
nhất là khi các luận điểm lại được trình bày rời rạc, được xen kẽ bởi các lập 
luận, lí lẽ, dẫn chứng – những luận cứ. 
Từ đó, ta có thể mạo muội suy ra rằng: Khả năng thay thế của đại từ 
phiếm định “này” hạn chế hơn “đó”. Nghĩa là, muốn sử dụng đại từ “này”, 
buộc phải có một danh từ đi trước nó, trong trường hợp trên là những danh từ 
“vấn đề”, “điều”, “cái”… 
Tóm lại, mô hình của đại từ phiếm định “này” và “đó” là: 
Đó + (danh từ - không bắt buôc) 
Này + danh từ (bắt buộc) 
Ngoài ra, tổ hợp “bên cạnh này” không xuất hiện tồn tạị, một phần cũng 
là do nguyên tắc hài hoà âm thanh quy định. Chúng ta không thể hay khó phát 
âm những tổ hợp đã nêu. Cũng tương tự, “bên cạnh vậy” không xuất hiện 
cũng vì lí do này. 
(2) (trang 77) 
Tại sao có sự kết hợp: Một….khác (một khía cạnh khác/nữa cần đề cập) 
mà không có sự kết hợp: Một….này (một khía cạnh này/đó cần đề cập) 
Theo chúng tôi: “một” là số từ không xác định, chẳng hạn như các cách 
diễn đạt thường gặp sau: một ngày nào đó, một tương lai nào đó, một ngày 
nọ, một hôm, một khu vườn, một đứa bé … Những cách diễn đạt trên thường 
lại xuất hiện ở những dòng đầu tiên trong những câu chuyện cổ tích để nhấn 
mạnh ý nghĩa “không xác định” về lai lịch nhân vật: 
Ngày xửa ngày xưa, không nhớ roc năm nào, đời nào; trong một gia đình nông dân 
nghèo nọ, có một người con trai tên là… (+) 
 Bởi vậy, khi đề cập đến những sự vật, hiện tương, vấn đề “xuất hiện đầu 
tiên, không xác định”, chúng ta thường dùng quán từ “một”. Chính vì “một” 
mang tính không xác định nên nó phải kết hợp với các từ mang ý nghĩa trừu 
tượng, không xác định như “khác/nữa”; chứ không kết hợp được với 
“này/đó” – mang tính cụ thể tương đối - để tạo thành quán ngữ “một khía 
cạnh này/đó cần đề cập”. Vì thế, “một” mang ý nghĩa “dẫn dắt” đến một 
cách/hướng tiếp cận mới, hay cách nhìn nhận mới – một vấn đề mới. Do đó, 
toàn bộ tổ hợp “một khía cạnh khác/nữa cần đề cập” thể hiện quan hệ bổ 
sung. 
Nhưng mô hình: một + nào đó (thêm yếu tố không xác định “nào” trước 
“đó”) để tạo thành những quán ngữ “một ngày nào đó, một tương lai nào đó” 
dùng để tạo ý nghĩa không xác định cho những cú hay phát ngôn chứa chúng. 
+ Rồi một ngày nào đó, chúng ta sẽ lại gặp nhau thôi. (+) 
+ Trong một hoàn cảnh bế tắc nào đó, anh cũng sẽ hành động giống tôi thôi. (+) 
+ Trong một chừng mực nào đó, chúng ta – những sinh viên, có quyền kiến nghị 
những giải pháp để chỉnh đốn những hoạt động của Trường.(+) 
Ngữ liệu thứ nhất khẳng định chắc chắn chúng ta sẽ gặp lại nhau, chỉ có 
điều không biết cụ thể lúc nào. Còn ngữ liệu tiếp theo nêu một hoàn cảnh 
không xác định (nhưng tương tự như hoàn cảnh của tôi), thì chắc chắn anh 
cúng sẽ hành động như tôi thôi. Ngữ liệu cuối lại nêu về “một chừng mực” 
không xác định, tức một phạm vi và quyền hạn mà người nói biết đến nhưng 
không rõ “nguồn” trích của nó từ đâu, nên phải mượn cấu trúc “không xác 
định” này để đề cập. 
Như vậy, tất cả những cấu trúc “không xác định” của “một” đều bao hàm 
ý nghĩa giả định – chưa xảy ra. 
(3) (trang 102) 
Giải thích về chức năng chỉ mục đích của “mà – để mà” 
Sau đây là một ví dụ về chức năng chỉ mục đích của liên từ “mà”: 
Nhưng lấy cớ gì mà (để mà) tát nó. [NC,CM;117] 
Nguyễn Thị Nhung cho rằng: “mà” là một hư từ bị “hư hoá hoàn toàn”, 
đến nỗi nó có thể trở thành một yếu tố đệm cho các liên từ hay các cấu trúc 
khác vd: để (mà), ấy thế (mà), nhưng (mà), cái (mà, vậy (mà)… Nhưng theo 
tác giả này, “mà” là yếu tố xuất hiện trước, đảm nhiệm nhiều chức năng rồi 
sau đó nó dần “san sẻ chức năng với những yếu tố khác”: 
 “mà” là “một trong những kết từ tiếng Việt xuất hiện vào loại sớm nhất. 
Thời kì mới ra đời, nó đảm nhận nhiều chức năng ngữ pháp và ngữ nghĩa. 
Khi vốn từ tiếng Việt có thêm các kết từ khác, nó san sẻ dần gánh nặng của 
mình cho các kết từ đó (có thể có bước đệm thay thế bằng kết từ kép có mà 
như: nhưng mà, để mà). Tuy nhiên, không phải vì thế mà gánh nặng của nó 
đã cân bằng với mối quan hệ giữa các nghĩa của các từ xuất hiện sau….” 
[63;108] 
 Một giả thuyết khác có thể: Lúc đầu, “mà” chỉ đóng vai trò từ đệm 
trong những cấu trúc “để mà”. Nhưng sau đó, nó đã dần thay thế chức năng 
của “để” và trở thành yếu tố chính để thể hiện mục đích. Từ đó, Nguyễn Thị 
Nhung đi đến khẳng định: “mà đồng nghĩa với nhiều kết từ nhất” [63;108]. 
Mặc dầu không tìm được bằng chứng thuyết phục về mặt lịch sử, chúng 
tôi tán thành hướng lí giải thứ hai. Vì nếu theo hướng thứ nhất, từ “mà” đã 
san sẻ chức năng của nó cho các kết từ khác thì tại sao vẫn còn hiện tượng đa 
chức năng của từ “mà” hay những cách dùng song song vẫn còn tồn tại. Mặc 
dù, tác giả bài viết này đã khẳng định: “Tuy nhiên, không phải vì thế mà gánh 
nặng của nó cân bằng với mối quan hệ giữa các nghĩa của những kết từ xuất 
hiện sau – khi mà trong từ vựng tiếng Việt đã có sự phân công ngữ nghĩa rõ 
ràng cho hàng loạt kết từ” [63;108]. Tán thành hướng lí giải thứ hai, chúng 
tôi cho rằng: Từ chức năng phổ biến là “từ đệm”, “mà” rất dễ kết hợp với các 
liên từ khác, tạo thành những tổ hợp như: để mà, nhưng mà... Trường hợp này 
giống như cách dùng từ đệm “thì” (nhất là trong văn nói) trong những tổ hợp 
sau: theo tôi nghĩ (thì), về vấn đề này (thì), vậy thì, thế thì (thường dùng trong 
văn nói, văn viết thường dùng vì vậy, như vậy)…. Do đặc trưng phong cách 
khẩu ngữ: ngữ điệu đóng vai trò quan trọng – thay thế cho dấu câu trong văn 
viết, và do đặc trưng “lời nói gió bay”, nên người phát ngôn cố gắng dùng từ 
chêm xen, từ đệm. 
Rồi dần dần, chức năng của từ đệm trong những tổ hợp “để mà, nhưng 
mà, vậy mà, nếu mà…” được đẩy ngang bằng với yếu tố chính, chúng được 
xem ngang hàng nhau, tương tự như sự tồn tại của những tổ hợp mà nó bao 
gồm những yếu tố gần hay đồng nghĩa trong tiếng Việt: tiêm chích, quần áo, 
sách vở, áo sống, tre pheo, khôn khéo… 
Và khi muốn rút gọn những tổ hợp kép “để mà, nhưng mà, vậy mà, nếu 
mà…”, người tạo ngôn có xu hướng lược bỏ một trong hai yếu tố. Và khi tỉnh 
lược, do nhân tố chủ quan về sở thích của người tạo ngôn – cho rằng hai yếu 
tố này có vai trò ngang nhau, nên một trong hai yếu tố bị lược bỏ. Tuy nhiên, 
về mặt phong cách cũng như thói quen sử dụng, “mà” vẫn tồn tại và được sử 
dụng trong đời sống sinh hoạt hằng ngày lẫn trong giao tiếp nghi thức, đặc 
biệt là ở những cú ngắn: 
Tôi mà buồn à? Giá đó mà rẻ à/sao? 
Tuy xa mà gần, tuy gần mà xa (+) (mà = nhưng) 
Không học bài mà đậu được sao (+) (mà + thì/nên) – chỉ kết quả 
Tuy nhiên, vấn đề sử dụng liên từ “mà” hay những liên từ còn lại trong 
phong cách nào còn tuỳ thuộc vào dụng ý, mục đích của người tạo ngôn và 
tác giả. Do vậy, mọi sự phân biệt chỉ mang tính chất tương đối. 
(4) (trang 102) 
 Cú tỉnh lược chứa “mà” 
Do lấy cú làm cơ sở để tìm hiểu về phép nối nên những trường hợp 
không phải là cú, tất sẽ không thuộc phạm vi của phép nối. Tuy vậy, chúng ta 
hãy xem xét những cách diễn đạt như: (Đi) tìm việc mà làm, đói mà chẳng muốn ăn, 
thấy mà thương, tốt mà rẻ, đã dốt mà lại lười, nói mà không làm,… Đây là những cú 
được tỉnh lược (thường là tỉnh lược chủ ngữ). 
Cú thứ nhất “Tìm việc mà làm” là một lời mệnh lệnh nên ngôi thứ hai 
được lược bỏ. Đúng ra phải là “(Mày đi) tìm việc mà (mày) làm đi”. Và sự 
tỉnh lược này không gây khó hiểu đối với người đọc; do đó, nó vẫn được xem 
là một cú hoàn chỉnh. Cú thứ hai lại thể hiện cảm xúc của người nói, nên chủ 
ngữ có thể ẩn. Những cách diễn đạt còn lại đều là nhận định của người nói 
trước sự việc, hiện tượng, hay một nhân vật thứ ba; do đó, chủ ngữ hiểu ngầm 
là “nó”. Đặc biệt, một số câu tục ngữ, thành ngữ đều có chủ ngữ ẩn nên và 
chúng tôi tán thành chức năng cú của những cách diễn đạt đã nêu. Tóm lại, 
những ví dụ trên đều là có thể đảm nhiện chức năng của một cú. 
Nguyễn Thị Nhung cho rằng 2 ví dụ: khó mà biết được tại sao, dễ gì mà 
làm được là “thuyết minh cho ý vừa nói đến”; nhưng chúng tôi lại nghĩ theo 
một hướng khác. Đó là những từ đệm (từ chêm xen) trong ngôn ngữ nói, để 
gây ấn tượng, dễ hiểu và tạo tính vần nhịp cho câu nói – giống như cách dùng 
“mà” trong “Nói cho mà biết, rủi mà mưa thì ướt hết”. Để minh chứng cho 
chức năng từ đệm – chêm xen của “mà” trong 4 ví dụ trên, chúng ta thử bỏ 
chúng khỏi cú, và nhận thấy rằng ý nghĩa của cú không thay đổi; mặc dầu khi 
có “mà”, vần điệu dễ nghe hơn. 
(5) Biện pháp tách câu (trang 117 và 120): xem thêm giáo trình Tiếng Việt 
thực hành (1999) của Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), NXB ĐHQG HN, từ 
trang 214-218. 
(6) (trang 121) 
Tại sao không có sự tổ hợp “mặc dẫu” trong tiếng Việt? 
Theo Thái Kim Thành [75], “Dẫu” xuất hiện sớm nhất (“dù”, “dầu” là 
hai biến thể của “Dẫu”) và Dẫu mang sắc thái ý nghĩa nhấn mạnh hơn hai từ 
còn lại, nó “bộc lộ sự khẳng định cao của người phát ngôn với hiện thực được 
đề cập đến”. Nhưng chúng tôi lại không phân biệt theo tiêu chí xuất hiện sớm 
hay muộn. Và chúng ta cũng không có căn cứ về mặt tư liệu nào để khẳng 
định “dù”, “dầu” là hai biến thể của “Dẫu”. 
Theo chúng tôi, trường hợp tiếng “mặc” chỉ có thể kết hợp với 
“dầu”/”dù” để tạo ra tổ hợp “mặc dầu”/ “mặc dù” mà không có sự kết hợp 
với “dẫu” để tạo ra tổ hợp “mặc dẫu” không thể lí giải theo sự hoà phối về 
ngữ âm. Mặc dầu, theo bảng hệ thống thanh điệu, thanh nặng và ngã cùng 
nằm trong một hệ thống âm vực nhưng khả năng kết hợp thanh điệu của 
chúng lại không cao. 
Cao Không dấu Hỏi Sắc 
Thấp Huyền Ngã Nặng 
(nguyên tắc chung để tạo sự hài hoà vế thanh điệu trong từ láy: Những từ có thanh điệu cùng 
âm vực thì có thể kết hợp với nhau để tạo từ láy – trừ một vài trường hợp đặc biệt.) 
Nghĩa là, trên lí thuyết, “mặc” thanh nặng có thể kết hợp với “dầu/dù” – 
thanh huyền, hay dẫu – một cách tự do, vì khả năng kết hợp và mức độ hài 
hoà thanh điệu giữa ba thanh điệu này là như nhau. Nhưng xét theo thực tế về 
sự hoà phối ngữ âm để tạo từ láy, chúng tôi nhận thấy rằng số lượng những từ 
láy có sự kết hợp thanh “nặng - ngã” là rất ít, và sự kết hợp này chỉ xảy ra ở 
một số “vần” nào đó. 
Từ láy “vỏn vẹn”, “nhỏ nhặt”, “quỷ quyệt”… là những ví dụ ngoại lệ 
điển hình. Theo đúng nguyên tắc, từ “vỏn” (trong “vỏn vẹn”), phải viết là dấu 
ngã mới đúng quy tắc hoà phối ngữ âm. Tương tự như vậy, thanh hỏi của từ 
“nhỏ” (trong “nhỏ nhặt”) và “quỷ” (trong “quỷ quyệt”) cũng phải được thay 
thế bằng thanh ngã. 
Hơn thế nữa, ba từ láy: Bền bỉ, nài nỉ, mình mẩy, phỉmh phờ.. lại là một 
minh chứng cho sự kết hợp hạn chế của thanh “ngã” và “huyền”. Nếu căn cứ 
theo đúng nguyên tắc hài hoà âm vực của thanh điệu, thì những thanh hỏi 
trong “bỉ”, “nỉ”, “mẩy” phải được thay thế bằng những thanh “ngã”. Không 
liên quan trực tiếp đến vấn đề mà chúng ta đề cập (mặc – mang thanh nặng 
không kết hợp được với “dẫu” – mang thanh ngã); nhưng qua đó, chúng ta 
nhận thấy rằng: thanh “ngã” chỉ có khả năng kết hợp hạn chế so với hai thanh 
lại trong hệ thống thanh điệu có âm vực thấp. Điều này, theo chúng tôi, cũng 
giải thích phần nào về sự vắng mặt của tổ hợp “mặc dẫu”. 
Căn cứ theo công trình “Cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại” của Hồ Lê [55], 
chúng tôi nhận thấy rằng: Sự kết hợp của thanh huyền-nặng (mà tổ hợp “mặc 
dầu” tuân theo qui luật hoà phối ngữ âm này) trong quá trình tạo từ láy lại rất 
phong phú. Chúng tôi thử thống kê ngẫu nhiên 500 từ láy đầu tiên (từ Tr130-
142) mà tác giả Hồ Lê liệt kê trong công trình đã dẫn thì có đến gần 70 trường 
hợp là sự kết hợp của hai loại thanh điệu âm vự thấp này. Chẳng hạn như: ái 
ngại, ồ ạt/ào ạt, bầu bạn, bịt mùng, mịt mùng, cầu cạnh, chằng chịt, chồm 
chộp, dồn dập, đậm đà, đầy đặn, đều đặn, đày đoạ, đần độn, gọn gàng, gần 
gũi, gầy guộc, già giặn, giẫy giụa, hèn hạ, hầu hạ, hối hận, hiền hậu, hội hè, 
hằn học, hẹp hòi, hồng hộc, kèn cựa, khờ khạo, lành lặn, lạc loài, lì lợm, lẹ 
làng, lành lặn, lặng lờ, lạ lùng, lạnh lùng, làm lụng, mặn mà, làng mạc, mềm 
mại, mịn màng, muộn màng, miếu mạo, muộn mằn, mập mờ, mù mịt, mời 
mọc, mặn mòi, nồng nặc, nặng nề, nhịp nhàng, nhẹ nhàng, nhọc nhằn, nhục 
nhằn, nhiều nhặn, nhầy nhụa, ngọt ngào, nghẹn ngào, ngặt nghèo, ngần ngại, 
ngập ngừng, ngại ngùng, ngượng ngùng, oằn oại, phờ phạc… 
Trong khi đó, chúng tôi chỉ thống kê được khoảng 20 từ láy có sự kết 
hợp hai thanh “nặng - ngã (ít hơn 3,5 lần tổ hợp ‘huyền –ngã”)”: bụ bẫm, bạc 
bẽo, cãi cọ, dạn dĩ, đẹp đẽ, gỡ gạc, gạ gẫm, gặp gỡ, hợm hĩnh, lặng lẽ, lạnh 
lẽo, lạc lõng, lọc lõi, lực lưỡng, mạnh mẽ, nhạt nhẽo, nhẹ nhõm, nghiệt ngã, 
ngỗ nghịch, ngặt nghẽo, õng ẹo. 
Căn cứ vào hệ thống từ láy có sự kết hợp “nặng ngã” trên, chúng ta phát 
hiện một điều khá thú vị: những tiếng mang thanh “ngã” thường là những 
“âm tiết mở” hay những âm tiết có thuỷ âm là âm môi (như m), chỉ có 2 
trường hợp gieo vần “ênh/inh”. Phần vần thường tạo tổ hợp láy này là “eo”, 
không có vần “âu” (mặc dẫu) – dĩ nhiên, số lượng thống kê hạn chế, chúng 
tôi chưa dám khẳng định đìều này và cũng chưa lí giải được nguyên nhân của 
sự kết hợp này. 
Trong bảng thống kê những cặp vần tạo từ láy của Hồ Lê (Tr233 -239), 
chúng ta cũng không thấy cặp vần “ac –au” (mặc dẫu) mà chỉ thấy những cặp 
vần sau: “ăc-ăc”, “ăc-ua” và “au-au”. 
Thực tiễn hóa kiểm chứng qua ngữ điệu và phát âm, chúng ta cũng sẽ 
phát hiện một điều hiển nhiên rằng: phát âm tổ hợp “mặc dẫu” khó hơn nhiều 
so với tổ hợp “mặc dù” / “mặc dầu” hay “dù vậy” / “dầu vậy”. Chính cảm 
thức ngôn ngữ của người bản ngữ mách chúng ta những điều khoa học khó 
giải thích, và phần nào do tâm lí tiếp nhận. Bởi lẽ, khi phát âm đến tiếng cuối 
cùng của những tổ hợp ngôn ngữ làm chức năng nối kết, chúng ta thường hạ 
giọng ở cuối tổ hợp “giai đoạn buông” để nghỉ hơi; để rồi bắt đầu phát âm 
một cách trọn vẹn cú đi sau đó. Do đó, sự hài hòa về vần và thanh điệu sẽ để 
người nói/đọc có thể hạ giọng một cách dễ dàng. Và thực sự, thanh huyền lại 
thực hiện tốt chức năng này, tốt hơn thanh ngã rất nhiều. Thử phát âm từ 
“mặc dẫu” và xuống giọng ở tiếng “dẫu”, chúng ta sẽ thấy rất “ngượng 
miệng” và quả thật, rất khó để thực hiện hoạt động phát âm này. 
Tóm lại, dẫu không thể kết hợp với mặc để tạo thành “mặc dẫu”, là do sự 
kết hợp thanh điệu, sự hài hoà về ngữ âm qui định. 
 Một vấn đề nữa mà chúng tôi muốn bàn về công trình của Thái Kim 
Thành là sự khẳng định của tác giả về giọng định khẳng định hay sắc thái ý 
nghĩa nhấn mạnh của tiếng “dẫu” (trong tổ hợp “dẫu sao”) so với “dù” (“dù 
sao”) hay “dầu” (“dầu sao”). Thiết nghĩ, sắc thái ý nghĩa nhấn mạnh hay 
không còn tuỳ vào văn cảnh cụ thể cũng như tâm trạng, tâm lí, thể trạng..của 
người phát ngôn khi phát ra từ nối đó lẫn nội dung ý nghĩa của phần cú đi 
kèm. Thông thường giọng điệu khẳng định, quyết tâm hay không, phần lớn 
phụ thuộc vào nội dung mà cú đi sau từ nối thể hiện. 
 Cả ba liên từ “dù”, “dẫu”, “dầu” đều mang thái độ khẳng định. Bởi lẽ, 
khi dùng cấu trúc có liên quan đến những liên từ này, người nói thường thể 
hiện sự “chấp nhận, đánh đổi”. 
Dẫu cho trăm thân này có phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này có goi strong da ngừa, ta 
cũng vui lòng. (Trần Quốc Tuấn) 
Liên từ “dù”, “dẫu”, “dầu” thực hiện sự phủ định mệnh đề điệu kiện đi 
sau chúng và khẳng định kết quả là tất yếu. Sự khẳng định này phần nào 
mang tính chủ quan. Qua đó nó thể hiện niềm tin cũng như sự quyết tâm của 
người phát ngôn. 
Vd: Chàng kén thiếp để làm vợ đâu phải để làm thơ ? Đạo vợ lại là đạo lớn, e rằng 
đem hết trí lực chu toàn chưa chắc đã trọn, đâu dám lấy chuyện thơ văn mà làm chểnh 
mảng. Dù chàng ép nài bao nhiêu, thiếp cũng đành cam chịu lỗi. (VH, BM) 
Trong ví dụ vừa nêu, sau “dù” là một mệnh đề nêu điều kiện “chàng (có) 
ép nài bao nhiêu”. Nhưng cấu trúc “dù” đã phủ định điều kiện đó (bất chấp 
mọi điều kiện) để khẳng định kết quả “thiếp cũng đành cam chịu lỗi”. 
Thật sự là chúng ta có thể thay thế các liên từ cho nhau, mà sắc thái ý 
nghĩa của phát ngôn không thay đổi. Ta có phát ngôn sau: 
Sự việc không thành. Nhưng dẫu sao, anh cũng đã giúp tôi rất nhiều. Tôi chân thành 
cảm ơn anh (giọng nhẹ nhàng, tình cảm pha chút trầm buồn). (+) 
Chúng ta hoàn toàn có thể thay thế “dẫu sao” băng “dầu sao” và giọng 
điệu hay sắc thái của phát ngôn không thay đổi. 
+ Sự việc không thành. Nhưng dầu sao, anh cũng đã giúp tôi rất nhiều. Tôi chân 
thành cảm ơn anh (giọng cũng nhẹ nhàng, tình cảm; pha chút trầm buồn). (+) 
+ Dẫu mọi chông gai đang đón chờ phía trước, dù có hy sinh tính mạng, chúng ta 
cũng quyết tâm chiến đấu bảo vệ nền độc lập đến cùng. (+) 
+ Dẫu cho trăm thân này có phơi ngoài ngọn cỏ, nghìn xác này có trói trong da 
ngựa, ta cũng vui lòng. (TQT) 
(Mệnh đề chứa “dẫu” hay “dù” đều có khả năng thể hiện giọng khẳng 
định, mang sắc thái ý nghĩa nhấn mạnh). 
Ở ví dụ 1, chúng ta cũng có thể thay thế “dẫu sao” bằng “dù sao”, nhưng 
sẽ có sự khác biệt nhỏ về mặt phong cách. “Dù sao” có thể được xem là tiêu 
thể của hai biến thể còn lại, mang sắc thái trang trọng và thường được dùng 
trong giao tiếp nghi thức và cả cuộc sống thường nhật (cả trong ca dao). 
Nhưng để tạo sự gần gũi thân mật, người ta hay dùng “dẫu sao” hay “dầu 
sao” hơn. Ở đây, giá trị về mặt phong cách của “dù sao” tương tự như “dù” và 
những tổ hợp “dẫu sao”, “dầu sao” có giá trị như dẫu và dầu. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
LVNNH007.pdf