Luận văn Chất lượng Nguồn nhân lực Việt Nam. Thực trạng và giải pháp

Công nghiệp hoá là quá trình tất yếu mà sớm hay muộn các nước đang phát triển đều phải trải qua để chuyển từ xã hội nông nghiệp lạc hậu lên xã hội công nghiệp lạc hậu trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, do sự tác động và chi phối của bối cảnh thời đại và điều kiện của đất nước, quá trình công nghiệp hoá ở nước ta hiện nay có những điểm khác so với công nghiệp hoá trước đây. Đó là: công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hoá, công nghiệp hoá trong điều kiện hội nhập quốc tế, CNH - HĐH được thực hiện trong điều kiện kinh tế thị trường trong đó điểm khác cơ bản, có tính chất bao trùm là CNH - HĐH ngày nay chuyển từ việc chủ yếu khai thác nguồn lực tự nhiên sang nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn tiềm năng trí tuệ, “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. NNL vừa là khách thể được khai thác triệt để cả về thể lực và trí lực trong quá trình CNH - HĐH, đồng thời cũng chính là đối tượng mà công cuộc CNH - HĐH phải hướng vào phục vụ, đầu tư và phát triển. Tuy nhiên, NNL ở nước ta hiện nay bên cạnh những ưu thế như lực lượng lao động dồi dào, con người Việt Nam cần cù, chịu khó, thông minh và sáng tạo thì những hạn chế của nó cũng không phải là nhỏ, nhất là về trình độ chuyên môn nghề nghiệp, kỹ năng lao động, thể lực và văn hoá lao động công nghiệp; thêm vào đó cơ cấu bậc đào tạo và sự phân bổ giữa các ngành. vùng kinh tế lại không đồng đều, việc khai thác và sử dụng số lao động đã qua đào tạo, có trình độ lại bất hợp lý và kém hiệu quả. Xuất phát từ quan điểm nâng cao chất lượng NNL đồng nghĩa với việc phát triển toàn diện con người và hệ thống giáo dục đào tạo giữ vai trò quyết định để thực hiện điều đó; dựa trên thực trạng chất lượng NNL ở Việt Nam hiện nay; trong luận văn đã phân tích và đưa ra một số giải pháp, định hướng nhằm từng bước nâng cao chất lượng NNL phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH và sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Để thực hiện được điều này, cần nhanh chóng thực hiện đồng bộ các giải pháp về giáo dục và đào tạo, về chăm sóc sức khoẻ, nâng cao chất lượng dân số, cải thiện môi trường sống, về tạo việc làm, về tổ chức khai thác lực lượng lao động , về hệ thống các động lực kích thích tính tích cực của con người

doc66 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1590 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chất lượng Nguồn nhân lực Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên năng lực sở trường của người lao động không được sử dụng và phát huy; vì thế hiệu quả sử dụng lao động không cao, làm lãng phí các nguồn lực khác thậm chí còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng khó lường. Mặt khác, cơ cấu của lực lượng lao động theo trình độ chưa phù hợp với cơ cấu của nền kinh tế, do đó không đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH - HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Theo nhà kinh tế học F.M.Harbison: “Cơ cấu của lực lượng lao động theo trình độ tốt nhất phải là 1 kỹ sư/4 kỹ thuật viên/20 công nhân lành nghề/60 công nhân bán lành nghề và 15 lao động giản đơn. Thế nhưng hiện nay, cơ cấu này của ta là3,67kỹ sư/3,6 1kỹ thuật viên/6,82công nhân kỹ thuật đào tạo dài hạn/2,85 công nhân kỹ thuật đào tạo ngắn hạn/82,95 lao động giản đơn( Hội thảo chiến lược và quy hoạch phát triển đất nước bước vào thế kỷ 21, H, 9-2003 và Điều tra lao động việc làm 2003, Nxb Thống kê, H, 2003). Như vậy, chúng ta đang thừa rất nhiều lao động phổ thông, song lại thiếu rất nhiều lao động có chuyên môn kỹ thuật. Qua điều tra 1000 doanh nghiệp của Sở khoa học, Công nghệ và môi trường Thành phố Hồ Chí Minh năm 2003 cho thấy: các doanh nghiệp nhà nước thiếu 43,5% lao động chuyên gia kỹ thuật, trong khi đó lại thừa 30% lao động phổ thông, còn các doanh nghiệp liên doanh tư nhân thì thiếu 30% lao động chuyên gia kỹ thuật và thừa 17% lao động phổ thông. Mặt khác đội ngũ lao động có chuyên môn kỹ thuật thuật của ta lại không được sử dụng hợp lý, nên hiệu quả sử dụng lại càng thấp. Hầu hết cán bộ có trình độ chuyên môn kỹ thuật lamd việc ở các cơ quan hành chính và sự nghiệp ( chiếm 67,3%), ở khu vực sản xuất kinh doanh rất thấp ( 32,7%), trong số đó chủ yếu lại làm công tác quản lý , số trực tiếp phụ trách kỹ thuật sản xuất “ đếm trên đầu ngón tay”. Riêng đội ngũ cán bộ có trình độ tiến sỹ thì có tới 70,98% làm việc ở khu vực sự nghiệp ( trường, viện, bệnh viện); 21,64% ở khu vực hành chính ( Tổ chức chính quyền, Đảng, Đoàn thể, Hội) và chỉ có 7,38% làm việc tại các doanh nghiệp. Những bất cập trong phân bổ và sử dụng lao động nói trên chứng tỏ tính phù hợp giữa trình độ năng lực của người lao động với yêu cầu của công việc chưa được đảm bảo và do đó chắc chắn hiệu quả sử dụng lao động sẽ không cao. Thứ ba, năng suất lao động hay hiệu quả hoạt động thấp. Năng suất lao động- một chỉ tiêu chất lượng quan trọng hàng đầu( tính bằng GDP chia cho số lao động) tính theo giá thực tế năm 2005 ước đạt 19.617 nghìn đồng, tương đương với 1.240,2 USD, thuộc loại thấp so với các nước trong khu vực và trong thế giới. Năng suất lao động trong nhóm ngành nông- lâm nghiệp- thuỷ sản còn thấp hơn nhiều, chỉ có 7.216 nghìn đồng, tương đương với 456,2 USD. Năng suất lao động nhóm ngành công nghiệp – xây dựng cao nhất đạt 44.971 nghìn đồng, tương đương với 1.866,5 USD. Năng suất lao động của nhóm ngành dịch vụ tuy gấp 4,1 lần nhóm ngành nông - lâm nghiệp - thuỷ sản nhưng chỉ bằng 2/3 của nhóm ngành công nghiệp - xây dựng, chủ yếu là do nhóm ngành dịch vụ tập trung vào ngành thương nghiệp, trong đó buôn bán nhỏ là chủ yếu do dịch vụ vẫn là hoạt động mang tính kiêm nhiệm ngoài giờ, trong lúc nông nhàn, do số lao động tập trung vào ngành y tế, giáo dục, văn hóa có giá trị tăng thêm thấp ( xem Bảng 2.7). Bảng 2.7. Năng suất lao động theo giá thực tế. Đơn vị: Nghìn đồng, USD Năng suất lao động theo giá thực tể trong các nhóm ngành Tiền Việt Nam( nghìn đồng ) Tiền đôla (USD ) + Nông - lâm nghiệp - thuỷ sản 7.216 456,2 + Công nghiệp – xây dựng 44.971 1.866,5 + Dịch vụ 29.585,6 1.870,42 (Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam 2005- 2006). Nếu tính theo giá so sánh. thì tốc độ tăng năng suất lao động bình quân năm trong thời kỳ 2001- 2005 đạt 4,8% trong đó nhóm ngành nông - lâm nghiệp - thuỷ sản ( nhóm ngành có số lao động đông nhất ) tăng 4%, nhóm ngành công nghịêp - xây dựng chỉ tăng xấp xỉ 1%, nhóm ngành dịch vụ chỉ tăng 1,2% ( xem Bảng 2.8). Bảng 2.8: Năng suất lao động tính theo giá so sánh 2001 -2005. Đơn vị: % Năng suất lao động tính theo giá so sánh trong các nhóm ngành Tốc độ + Nông – lâm nghiệp – thuỷ sản 4 + Công nghiệp – xây dựng 1 + Dịch vụ 1,2 (Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam 2005 – 2006). Như vậy có thể nói, trong những năm gần đây, chúng ta rất quan tâm đến việc tạo việc làm cho người lao động, nhưng lại chưa quan tâm thích đáng đến hiệu quả của nó ( năng suất lao động ). Một thực tế là đa số lao động nông nghiệp là lao động phổ thông ( hơn 90%) không qua đào tạo. Tư liệu sản xuất chính của họ vẫn chỉ là con trâu, cái cuốc, năng suất lao động rất thấp. Mặt khác, cộng với giá cánh kéo giữa hàng nông sản và hàng công nghiệp ngày càng tăng đã làm cho thu nhập của họ lại càng thấp hơn so với thu nhập cuả lao động trong khu vực nông nghiệp. 2.3. Những bất cập của NNL Việt Nam trước yêu cầu của CNH - HĐH đất nước. Nhìn chung, chất lượng đội ngũ công chức những năm qua đã được củng cố và nâng lên một bước, song so với yêu cầu của CNH - HĐH thì quả là còn tồn tại nhiều bất cập: số công chức đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng và trình độ trên đại học còn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Đặc biệt là số công chức có trình độ về Tiếng Anh và tin học còn rất khiêm tốn do đó, chưa đáp ứng được yêu cầu CNH - HĐH đất nước và quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Mặt khác, số đông công chức được đào tạo trong môi trường và điều kiện làm việc theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp nên vẫn chịu ảnh hưởng nặng của cơ chế và cách làm việc kiểu công chức cũ “ sớm vác ô đi, tối vác về”, số được đào tạo theo quan điểm nhà nước pháp quyền; cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện định hướng XHCN còn ít, vì thế, tính năng động, khả năng thích ứng của công chức nói chung bị hạn chế. Các số liệu trong “ Báo cáo tình hình đội ngũ cán bộ công chức nhà nước năm 2003” của Bộ nội vụ cho thấy sự chênh lệch lớn về trình độ giữa các vùng và các cấp quản lý: Công chức ở cấp trung ương có trình độ khá hơn cấp tỉnh, cấp tỉnh khá hơn cấp huyện, các thành phố lớn khá hơn tỉnh lẻ, công chức ở miền núi có trình độ và năng lực rất thấp cả về chuyên môn lẫn hiểu biết về kinh tế – xã hội ở nơi đó. Có lẽ đây là lý do làm cho quá trình cụ thể hóa, triển khai thực hiện đồng bộ các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước tại các địa phương kém hiệu quả, thậm chí không có hiệu quả. Trong quá trình CNH - HĐH, đội ngũ công nhân công nghiệp là lực lượng trụ cột, tuy nhiên đội ngũ này ở nước ta vừa nhỏ về số lượng vừa yếu về chất lượng. Hiện tại, đội ngũ công nhân nước ta có khoảng 1,76 triệu người làm việc trong khu vực kinh tế quốc doanh, trong đó có khoảng gần 2 triệu công nhân kỹ thuật. Đây là lực lượng quan trọng, trực tiếp vận hành thiết bị, máy móc, các công nghệ hiện đại của các công nghệ hiện đại của các ngành kinh tế – kỹ thuật trong sự nghiệp CNH - HĐH. Tuy vậy, trong số công nhân ở khu vực quốc doanh, chỉ có khoảng 50% được đào tạo tại các trường dạy nghề, số còn lại được tuyển dụng bằng nhiều con đường khác nhau, không qua thử tay nghề. Đội ngũ trí thức, lực lượng nòng cốt trong quá trình CNH - HĐH tuy chưa nhiều nhưng những năm gần đây phát triển khá nhanh. Số lượng Tiến sỹ chuyên ngành, Tiến sỹ khoa học, phó Giáo sư, Giáo sư không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Đó là điều đáng mừng, là nguồn vốn quý giá của đất nước mà không phải nước đang phát triển nào cũng có khi bước vào CNH - HĐH. Tuy vậy, so với một số nước trong khu vực và so với yêu cầu cấp bách của sự nghiệp CNH - HĐH trong điều kiện ngày nay thì đội ngũ này vẫn còn chưa đủ. Điều đáng nói là đội ngũ trí thức nước ta không chỉ bé về số lượng mà nhìn chung chất lượng còn rất hạn chế. Chúng ta còn thiếu nhiều cán bộ đầu ngành, chuyên gia giỏi, đặc biệt là các chuyên gia về công nghệ. Thêm vào đó, có một số khá đông cán bộ khoa học có trình độ chuyên môn cao; đang còn “ độ chín” về mặt trí tuệ thì lại ở độ tuổi về hưu, điều đó dẫn đến nguy cơ hụt hẫng cán bộ trình độ cao và sự lãng phí chất xám lớn. Mặt khác do chính sách tiền lương, tiền thưởng cho cán bộ khoa học – công nghệ quá bất hợp lý, đời sống thiếu thốn, điều kiện môi trường làm việc khó khăn, nên không ít cán bộ không tập trung tâm lực cho công tác chuyên môn, hoặc chuyển sang công tác khác, thậm chí bỏ ra nước ngoài làm việc khiến cho tình trạng “ teo chất xám”, “ chảy chất xám” lên đến mức báo động. Hơn nữa, cơ cấu và phân bổ đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ ở nước ta còn mất cân đối, bất hợp lý, phần đông tập trung ở các trung tâm, thành phố lớn, còn ở các vùng nông thôn và miền núi thiếu trầm trọng. Tình hình trên làm cho sức mạnh của lực lượng trí thức nói chung, của đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ nói riêng bị hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của CNH - HĐH và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước Chương 3 Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam 3.1. Định hướng phát triển nguồn nhân lực NNL là một nguồn lực quan trọng nhất trong quá trình thực hiện CNH – HĐH cũng như quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Vì vậy, qua nghiên cứu thực trạng NNL chúng ta thấy NNL ở nước ta hiện nay có trình độ thấp kém, mất cân đối lớn về cơ cấu; phân bổ và sử dụng chưa hiệu quả. Để xây dựng, phát triển và sử dụng hiệu qủa NNL đáp ứng yêu cầu CNH – HĐH, cần quán triệt các định hướng cơ bản sau: 3.1.1 Cải thiện điều kiện dinh dưỡng thông qua nâng cao mức sống của người dân. Để xây dựng NNL đáp ứng được các yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước thì việc nâng cao sức khoẻ trong đó yếu tố nền tảng là cải thiện điều kiện dinh dưỡng rất cần thiết và cấp bách. Bên cạnh các biên pháp can thiệp trực tiếp thì định hướng quan trọng để thực hiện điều đó là nâng cao mức sống của người dân bằng việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, thúc đẩy xoá đói giảm nghèo và cải thiện cơ sở hạ tầng như cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường…Qua điều tra xã hội học cho thấy; người Việt Nam trong lứa tuổi lao động có thể lực thuộc loại trung bình thấp nhất thế giới. Vì vậy, hướng phát triển của chúng ta là phải tăng thể lực bao gồm: tăng chiều cao, cân nặng, tăng sức khoẻ, tăng khả năng làm việc. Phấn đấu tăng khẩu phần dinh dưỡng và cải thiện cơ cấu bữa ăn hàng ngày của nhân dân đạt mức năng lượng theo nhu cầu và từng bước hợp lý hoá cơ cấu dinh dưỡng, trong đó tăng tỷ lệ chất đạm, chất béo và giảm chất bột. Thực hiện tốt mức dinh dưỡng này sẽ là yếu tố quan trọng phát triển thể lực, nâng cao tầm vóc, chất lượng của con người Việt Nam. Phấn đấu đến năm 2010; giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống còn khoảng 20% và tăng tuổi thọ trung bình lên 71 tuổi. Ngoài ra, cần tạo điều kiện thuận lợi và tổ chức tốt việc nghỉ ngơi, vui chơi giải trí cho nhân dân; từ việc tham quan nghỉ mát, thưởng thức nghệ thuật đến tổ chức các lễ hội truyền thống… Như vậy, cùng với việc cải thiện đời sống vật chất, nhu cầu tinh thần của con người cũng không ngừng được nâng lên. Việc thoả mãn những nhu cầu đó vừa góp phần vào việc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất sức lao động, vừa nâng cao thể lực của con người. 3.1.2 Xây dựng nền giáo dục theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và nhân văn hoá” Chuẩn hoá bao gồm các chương trình và nôi dung giảng dạy, sách giáo khoa, giáo trình và qui định kiểm tra, đánh giá chất lượng đặc biệt nhấn mạnh tiêu chí đánh giá sản phẩm cuối cùng của giáo dục là con người, là NNL. Thực hiện chuẩn hoá đội ngũ giáo viên, trang thiết bị dạy và học ở tất cả các cấp, các bậc học. Hiện đại hoá là cập nhật thời đại trên các mặt: nội dung, phương pháp, qui trình đào tạo nhằm phản ánh những thành tựu mới nhất của thế giới và phù hợp với sự tiến bộ của trang thiết bị dạy và học. Xã hội hoá là huy động lực lượng của toàn bộ xã hội cùng tham gia vào quá trình giáo dục – đào tạo, tạo điều kiện cho moi người dân đều được hưởng những thành quả do hoạt động giáo dục đem lại. Đây là một chiến lược coi sức mạnh của toàn xã hội là điều kiện tiên quyết để phát triển có hiệu quả sự nghiệp giáo dục – đào tạo một cách lâu dài chứ không phải là một giải pháp tình thế, có tính chất sách lược. Xã hội hóa giáo dục – đào tạo cần được hiểu là giáo dục cho mọi người, toàn dân được giáo dục suốt đời; là mọi người cho giáo dục ,vì giáo dục; là mọi người phải tự học, tự đào tạo qua thực tiễn. Xã hội hoá giáo dục – đào tạo sẽ làm cho giáo dục, đào tạo đáp ứng được những nhu cầu đa dạng, phong phú của xã hội, của từng ngành, từng địa phương, biến nhà trường từ một thể chế nhà nước thành một thể chế xã hội – nhà nước, một hệ thống mở đa dạng, mềm dẻo gắn liền với các quá trình kinh tế – xã hội. Nhờ vậy, nhà trường có thể phục vụ cho mọi thành phần kinh tế, mọi thành viên trong xã hội, đồng thời thu hút được nhiều thành viên trong xã hội, đồng thời thu hút được nhiều nguồn lực khác nhau tham gia xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo. Xã hội hóa giáo dục – đào tạo cũng tạo nên sự hài hoà, gắn kết giữa cá nhân và xã hội, giữa xã hội và ngành giáo dục – đào tạo. Xuất phát từ quan điểm về vai trò của giáo dục- đào tạo trong việc nâng cao chất lượng NNL, bên cạnh việc xây dựng nền giáo dục theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hoá, xã hội hoá” thì việc thực hiện “dân chủ hoá và nhân văn hoá” trong giáo dục – đào tạo là hết sức cần thiết và cấp bách. Dân chủ hoá giáo dục là động lực quan trọng thúc đẩy tính năng động, năng lực sáng tạo, tính tích cực xã hội của cả chủ thể và khách thể giáo dục; do đó, chất lượng giáo dục được nâng cao. Ngày nay, người ta coi sự bình đẳng về cơ hội học nghề là một trong những mục tiêu trọng yếu của dân chủ hoá giáo dục. Nghĩa là, Nhà nước đảm bảo sao cho mỗi người đều có cơ hội học tập thích đáng để có được một nghề nghiệp xứng đáng. Một xã hội càng có nhiều người như vậy thì sức mạnh xã hội sẽ càng được nâng lên. Nhân văn hoá giáo dục nhằm hướng tới việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh. Nó đòi hỏi quá trình giáo dục đem đến cho học sinh không chỉ kiến thức khoa học, trình độ học vấn mà còn hàng loạt phẩm chất cần thiết ở con người. Đó là niềm tin trên cơ sở hiểu biết,là tinh thần phê phán, tôn trọng sự thật và chân lý, thái độ trọng thực tiễn và hiệu quả, là những quan niệm đúng đắn về lẽ sống, các chuẩn mực đạo đức, các giá trị thẩm mỹ và thể chất; về cội nguồn văn hoá dân tộc, phương pháp tư duy lịch sử, sự kết hợp truyền thống và hiện đại, và về những định hướng giá trị trong con người Việt Nam cần vươn tới…Những yếu tố này sẽ tạo nên sức mạnh to lớn cho con người 3.1.3. Tạo điều kiện để người lao động phát huy được khả năng sáng tạo Chất lượng NNL nói chung và khả năng sáng tạo của NLL nói riêng không chỉ phụ thuộc vào quá trình giáo dục – đào tạo mà còn phụ thuộc vào quá trình sử dụng NNL. Việc sử dụng NNL, một mặt có thể làm cho chất lượng NNL tiếp tục được phát triển; nhưng mặt khác, có thể làm cho chất lượng NNL kém phát triển, thậm chí bị thui chột. Để nâng cao chất lượng NNL, việc sử dụng phải đảm bảo tạo điều kiện để NNL phát huy được khả năng sáng tạo, tiếp tục phát triển trình độ và năng lực của mình trong mọi không gian và thời gian. Có thể nói, vai trò quyết định của NNL suy cho cùng là ở năng lực sáng tạo; do đó phải tạo ra được môi trường tâm lý kích thích tinh thần sáng tạo của mỗi thành viên trong đơn vị; vì vậy, cần có cơ chế mở rộng thu hút các sáng kiến của mọi cá nhân. Ngoài những đóng góp ý kiến trực tiếp, mỗi công ty, đơn vị nên có những hòm phiếu để thu nhận các sáng kiến.Tất cả các sáng kiến dù lớn hay nhỏ đều được trân trọng, đánh giá khách quan và có chế độ động viên, khen thưởng kịp thời. Đồng thời, luôn khuyến khích lối tư duy sáng tạo; khích lệ, cổ vũ những tranh luận mang tính xây dựng giữa các nhà quản lý, giữa các nhân viên, giữa các nhà quản lý và nhân viên để tìm ra phương án tốt nhất. Không nên coi trọng hoạt động sáng tạo là lĩnh vực hoạt động độc quyền của các nhà phát minh, sáng chế, chuyên nghiệp; trái lại, cần quán triệt triết lý coi trọng nhân viên và tin tưởng vào khả năng vô hạn của con người, thực hiện phương châm quản lý “hướng vào con người”. Làm được như vậy sẽ có được đội ngũ các bộ , nhân viên giàu óc sáng tạo, dám mạnh dạn thực hiện những ý tưởng mới, tiến bộ trong sản xuất và kinh doanh. Khả năng sáng tạo của NNL có đặc tính là luôn ở dạng tiềm năng, không xây dựng được bằng những chỉ tiêu số lượng thuần tuý và luôn gắn với người chủ sở hữu. Chính vì vây, việc khai thác và sử dụng chúng không hề đơn giản. Phải biết tìm kiếm những mô hình, cách thức về tổ chức, quản lý sản xuất, những cải tiến về công nghệ, chế độ tiền lương…một cách hữu hiệu, thì việc sử dụng NNL mới tạo điều kiện tốt để khai thác khả năng sáng tạo đó. Mặt khác, lao động có khả năng sáng tạo là lực lượng lao động mà người sử dụng lao động không thể dùng áp lực để đạt được hiệu quả sử dụng cao. Đối với họ, một môi trường làm việc không có nhiều xung đột xã hội, các quan hệ sản xuất được dân chủ hoá và có nhiều cơ hội để khẳng định mình….là điều kiện lý tưởng để họ cống hiến, biến khả năng tiềm ẩn thành năng lực thực tế. Đây cũng chính là quá trình tự đào tạo, tiếp tục đào tạo rất cần thiết của NNL trong xu hướng phát triển mạnh mẽ của tri thức khoa học công nghệ hiện nay. Viêc tìm kiếm và đưa ra những mô hình giải pháp hợp lý về sử dụng NNL nhằm tạo điêu kiện để NNL phát huy được hết khả năng của mình, đặc biệt là khả năng sáng tạo; là một định hướng quan trọng trong việc nâng cao chất lượng NNL ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng NNL 3.2.1 Sử dụng hợp lý nguồn nhân lực hiện có Để nhanh chóng phát huy vai trò của NNL với tư cách là nguồn lực cơ bản của sự nghiệp CNH – HĐH ; vấn đề thiết thực và cấp bách hiện nay là phải tìm cách sử dụng có hiệu quả NNL hiện có để phát triển và thực hiện mục tiêu CNH – HĐH đến năm 2010 và 2020. Sử dụng hợp lý NNL hiện có đòi hỏi phải có những giải pháp tổng hợp liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực: Thứ nhất, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Phấn đấu tuyển dụng lao động nhất là lao động trí tuệ vào hoạt động sản xuất xã hội là vấn đề lớn và rất quan trọng đối với mọi quốc gia. Vấn đề này càng trở nên cấp thiết đối với nước ta, một nước có nền sản xuất còn lạc hậu, tổng sản phẩm quốc dân vào loại rất thấp; lực lượng lao động thường trực ngày càng đông đảo, lại đang bước vào thời kì CNH – HĐH. Vì vậy, tạo ra nhiều việc làm có hiệu quả cho người lao động, phấn đấu để tỷ lệ lao động có việc làm ngày càng tăng là nhiệm vụ thiết yếu và trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội ở nước ta hiện nay. Đại hôi Đảng lần thứ VIII đã nhấn mạnh: “Bảo đảm công ăn, việc làm cho dân là một mục tiêu xã hội hàng đầu, không để thất nghiệp trở thành căn bệnh kinh niên” (Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam ). Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, chính sách lao động và việc làm phải hướng vào việc khai thác triệt để, hợp lý, có hiệu quả nguồn lao động của đất nước mà tư tưởng cơ bản là bảo đảm và tạo điều kiện cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm. Điều này đòi hỏi phải xã hội hoá việc làm, đồng thời nhà nước phải tạo môi trường, điều kiện thuận lợi về pháp lý, kinh tế, xã hội để người lao động bình đẳng trong cơ hội tòm kiếm việc làm, bảo vệ quyền tự do lao động của chính họ. Với tinh thần đó, tích cực tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động bằng cách phát triển sản xuất, duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, mở thêm nhiều ngành nghề mới, phát triển dịch vụ và du lịch, khuyến khích mọi cá nhân, mọi thành phần kinh tế tự tạo việc làm và đầu tư tự tạo việc làm. Bên cạnh đó, mở rộng hơn nữa các trung tâm dạy nghề và xúc tiến việc làm với việc thông tin rông rãi dưới nhiều hình thức và nhu cầu việc làm, khả năng cung ứng lao động. Chẳng hạn, phát triển mạnh “ chợ lao động” trên các phương tiện thông tin đại chúng; vì thực tế cho thấy hình thức này có tác dụng tốt để cung – cầu gặp nhau. Nên có chính sách ưu tiên cho việc phổ cập loại thông tin này. Đồng thời cần tạo nên sự liên thông giữa người sử dụng và nơi đào tạo, tạo điều kiện thuận lợi để những thông tin về nhu cầu lao động đến với các trường đại học, các cơ sở, các trung tâm đào tạo. Các trung tâm dịch vụ việc làm không chỉ có chức năng môi giới tạo việc làm, cung cấp nhân lực cho cơ sở sử dụng lao động mà còn phải trở thành trung tâm nghiên cứu, điều tra tình hình cầu lao động, làm cầu nối giữa đào tạo với sử dụng lao động để tạo điều kiện cho thị trường lao động có tác dụng gắn kết nhanh giữa cung và cầu lao động, tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp về cung – cầu lao động, nhờ đó mà hạn chế lãng phí lao động, góp phần khai thác triệt để và sử dụng có hiệu quả NNL. Ngoài ra, tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu lao động với nhiều hình thức trên cơ sở kết hợp lợi ích đất nước với lợi ích người lao động, đặt nó trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội chung. Xuất khẩu lao động không chỉ là giải pháp quan trọng nhằm giải quyết việc làm, tăng nguồn thu nhập cho cá nhân và đất nước, mà nó còn là con đường để đào tạo NNL. Thứ hai, sử dụng có hiệu quả NNL đã qua đào tạo. NNL đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật nước ta hiện nay còn ít về số lượng nhưng lại chưa phát huy có hiệu quả. Vì vậy, để tận dụng hết khả năng và nâng cao hiệu quả làm việc của lao động đã qua đào tạo, trước hết cần phát triển thị trường lao động một cách hoàn chỉnh. Những thông tin chính xác, đầy đủ của thị trường lao động sẽ giúp người lao động và người sử dụng lao động điều chỉnh quan hệ cung – cầu một cách giả tạo gây nên sự lãng phí chất xám hoặc sử dụng không đúng người, đúng việc. Bên cạnh đó, đối với các nhà khoa học, nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện để họ có thể giao tiếp khoa học và tiếp cận với những thông tin khoa học trong và ngoài nước một cách rộng rãi. Vì trong khoa học, thông tin là nguồn lực quan trọng nhất thúc đẩy động cơ sáng tạo. Bên cạnh đó,Nhà nước cũng cần tạo điều kiện cho các nhà khoa học được quyền nghỉ ngơi để bồi dưỡng nâng cao trình độ định kỳ; nhưng vẫn giữ được công việc theo thoả thuận với người sử dụng lao động. Mặt khác, việc giải quyết tình trạng thiếu trầm trọng cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng ở nông thôn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, cùng biên giới hải đảo là một vấn đề lớn. Vì vậy, một mặt phải có nhiều chính sách ưu đãi đào tạo tại chỗ, đào tạo theo điạ chỉ đối với nguồn cán bộ này. Mặt khác, phải tạo điều kiện để họ dễ dàng di chuyển từ thành phố đến những vùng này và ngược lại. Trong đó cần đặc biệt chú ý tạo điều kiện để họ có thể dễ dàng quay trở về hoà nhập được với cuộc sống thành phố; vùng xuôi và tiếp tục học tập, nâng cao trình độ sau khi đã làm việc một số năm ở đó, như chính sách ưu tiên tìm việc làm, ưu tiên trong việc học tập…Điều này có vẻ như một nghịch lý, nhưng nó lại phù hợp với thực tiễn, vì số người có ý định ở lại lâu dài tại nông thôn, miền núi xa xôi không phải là nhiều. Thực tiễn hiện nay đã chỉ ra rằng sinh viên tốt nghiệp sẵn sàng đến làm việc ỏ nông thôn, miền núi nếu họ biết rằng đây là một điều kiện để họ dễ dàng quay trở lại thành phố, miền xuôi và tiếp tục được học tập, nâng cao trình độ. Thứ ba, thu hút và sử dụng nhân tài của đất nước. Nếu con người là vốn quí thì nhân tài là vốn quí nhất trong các nguồn vốn.Trong bất kì giai đoạn lịch sử nào, ở bất kì quốc gia nào, đều có nhân tài (trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự, khoa học…) có thể tạo nên sự phát triển mang tính bước ngoặt cho quốc gia mình; thậm chí cho cả thế giới. Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang cần một sự phát triển nhảy vọt để thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, theo kịp với trình độ phát triển của thế giới đương đại. Vì vậy, việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân tài của đất nước có ý nghĩa hết sức to lớn. Đối với những nhân tài, điều quan trọng nhất là nhu cầu tự khẳng định và tự thực hiện nhân cách. Trong nhiều trường hợp nó còn mạnh hơn cả nhu cầu vật chất. Lợi ích vật chất không chiếm vị trí hàng đầu, ngược lại; những lợi ích chính trị, tinh thần và đặc biệt là những mong mỏi có được điều kiện thuận lợi để lao động sáng tạo mới là điều có sức cuốn hút mãnh liệt đối với nhân tài. Bởi vậy, chính sách khôn ngoan nhất để thu hút và sử dụng tài năng là tạo ra môi trường làm việc đầy đủ và thuận lợi nhất cho họ, tạo điều kiện để họ tự thực hiện và khẳng định nhân cách thông qua lao động sáng tạo. Một nhà khoa học Việt Nam đã từng phát biểu: “Xét về mặt kinh tế; sử dụng nhân tài thì lãi suất là lam sao để người tài dùng tài của mình trong 100% thời gian làm việc của họ, dù có phải tốn kém ít nhiều để họ làm được như vậy; và lỗ nhất là để cho họ chỉ dùng tài trong một tỷ lệ rất thấp thời gian làm việc, thậm chí không sử dụng để cái tài chảy đi chỗ khác”. Cùng với việc tạo điều kiện để cho họ làm việc, được lao động sáng tạo, thì chế độ đãi ngộ vật chất thoả đáng cũng là vấn đề có ý nghĩa thiết thực hiện nay nhằm bảo vệ và phát huy NNL quý giá này. Thứ tư, giải quyết việc làm và sử dụng hợp lý NNL ở nông thôn. Phải khai thác triệt để mọi tiềm năng của nền nông nghiệp nhiệt đới để tăng thêm thời gian lao động, tạo thêm việc làm cho người nông dân. Hiện nay, nhà nước ta vẫn mang nặng tính thuần nông. Trong cơ cấu cây trồng, cây lương thực chiếm nhiều nhất (78% diện tích trồng cây), rau màu và cây công nghiệp lâu năm mới chỉ chiếm 15%, cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi vẫn chênh lệch khá lớn: trồng trọt khoảng 70%, chăn nuôi khoảng 30%. Vì vậy, nếu có sự thay đổi cơ cấu cây trồng như giảm trồng cây lương thực, tăng sản xuất rau màu, hoa quả và phát triển chăn nuôi thì sẽ tăng thêm thời gian lao động và việc làm ngay tại địa phương. Ngoài ra, nếu những tiềm năng về đất trống, đồi núi trọc, tài nguyên thiên nhiên được khai thác tốt ở các địa phương thì cũng sẽ tạo ra một khối lượng việc làm rất lớn. Nhà nước cần khuyến khích, hỗ trợ nhiều hơn nữa đối với các dự án phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng ngập mặn ven biển… Các dự án này không những góp phần giảm bớt sức ép về việc làm ở nông thôn, mà còn làm tăng của cải xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân. 3.2.2 Đẩy nhanh quá trình cải cách giáo dục – đào tạo. Có thể nói, nếu như NNL quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia, thì giáo dục – đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định con người, là nền tảng của chiến lược con người. Với tư cách là động lực phát triển kinh tế – xã hội, giáo dục –đào tạo chuẩn bị con người cho sự phát triển bền vững trên tất cả các lĩnh vực, cho lợi ích hiện tại và tương lai cua đất nước. G.S, T.S sử học người Mỹ Paul Kenedy; trong cuốn sách “Chuẩn bị cho thế kỷ XXI” nhấn mạnh rằng, một trong ba yếu tố then chốt trong mọi nỗ lực chung của tất cả các quốc gia ( cả phát triển và đang phát triển ) để chuẩn bị cho thế kỷ XXI là : “nâng cao vai trò của giáo dục”. ở Việt Nam hiện nay, chất lượng NNL còn thấp, nền giáo dục còn nhiều bất cập trước đòi hỏi phát triển kinh tế tri thức(trên 50% lao động chưa tốt nghiệp trung học cơ sở và có chưa đầy 20% lao động được đào tạo; trong đó khoảng 14% được đào tạo dài hạn). Điều này đòi hỏi phải không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, khắc phục tình trạng “học lấy bằng”, nặng về quản lý đầu vào, nhẹ quản lý đầu ra; chỉ chú trọng vào bằng cấp mà bỏ qua trình độ chuyên môn, tay nghề, năng lực…Điều này không chỉ xảy ra trong quá trình học mà ngay cả trong công tác tuyển dụng dẫn đến tình trạng tiêu cực khi những người có năng lực thực sự lại phải nhường chỗ cho người không có năng lực hoặc năng lực kém không đủ khả năng đảm nhận công việc được giao. Bên cạnh đó, cần hết sức chú trọng công tác hướng nghiệp, dạy nghề, tập trung vào mục tiêu nhân lực. Phương hướng hiện nay là phải làm sao cho toàn bộ nền giáo dục thích ứng với nhu cầu và đòi hỏi của sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội đất nước; giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển giáo dục theo kế hoạch và theo yêu cầu của thị trường lao động. Do đó, hệ thống giáo dục cần coi trọng hướng nghiệp, dạy nghề, tập trung vào mục tiêu nhân lực. Đại hội đảng lần thứ IX nêu lên mục tiêu: tăng lao động trong công nghiệp, xây dựng và dịch vụ lên 50% vào năm 2010, giảm lao động nông, lâm, ngư nghiệp cả về số tuyệt đối và tỷ trọng từ 61,3% ( năm 2000 ) xuống còn 50% ( năm 2010 ). Một nhiệm vụ lớn đặt ra trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và cho các cơ sở đào tạo trong cả nước hiện nay là phải đổi mới cơ cấu đào tạo trên cơ sở cơ cấu lại trình độ lực lượng lao động, cơ cấu ngành chuyên môn, cơ cấu xã hội của đội ngũ người học, cơ cấu vùng miền. Trong những năm tới, cần nỗ lực nâng cao tỷ lệ lao động đã qua đào tạo với cơ cấu: Đại học : 1; trung học chuyên nghiệp:5 ; công nhân kỹ thuật :10. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng khắc phục tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”, người “ thiết kế” nhiều hơn người “thi công” như hiện nay theo hướng gắn việc hình thành các khu công nghiệp, khu công nghệ cao với hệ thống các trường đào tạo nghề trên điạ bàn cả nước; mở rộng các hình thức đào tạo nghề đa dạng, linh hoạt, năng động, đạt số học sinh công nhân kỹ thuật tăng 11- 12 %/ năm trong giai đoạn 2000 – 2005. Xây dựng hoàn chỉnh, phát triển các trường đại học và cao đẳng theo mạng lưới hợp lý để hình thành một số trường đại học có chất lượng đào tạo ngang tầm với nhưng trường đại học tiên tiến trong khu vực. Đặc biệt chú trọng đào tạo chất lượng cao một số trường công nghệ, kinh tế và quản lý Nhà nước để đáp ứng nhu cầu nhân lực và nhân tài của đất nước. Tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy và phương thức đào tạo đội ngũ lao động, đặc biệt là trong các ngành kinh tế, kỹ thuật mũi nhọn, công nghệ cao…Gắn việc hình thành các khu công nghệ cao với hệ thống các trường đào tạo nghề, phát triển nhanh và phân bố hợp lý hệ thống trường dạy nghề trên địa bàn cả nước; mở rộng các hình thức đào tạo nghề đa dạng, linh hoạt, năng động. Chuyển trọng tâm của giáo dục từ trang thiết bị kiến thức sang bồi dưỡng rèn luyện phương pháp tư duy, phương pháp giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, thích nghi với sự phát triển, kiên quyết khắc phục phương pháp giảng dạy cũ, lạc hậu “thầy giảng, trò chơi”, chương trình học phải hiện đại nhưng tinh giản…Trang bị cho người học những kiến thức cơ bản nhất, và giúp người học biết nhân lên vốn tri thức cho mình, hướng dẫn người học tiếp thu tri thức mới, tăng cường sự hợp tác giữa thầy giáo và sinh viên. Sử dụng công nghệ mới nhất là công nghệ thông tin trong giảng dạy. Đổi mới mạnh mẽ hệ thống quản lý giáo dục, tập trung vào vấn đề quản lý chất lượng, xây dựng hệ thống chất lượng đào tạo, tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiên quyết chống bệnh thành tích đang ngăn cản con đường đi tới chất lượng. Trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước, một thực tế chúng ta cần nhận thấy là, con người Việt Nam vốn thông minh và hiếu học, thế nhưng về mặt bằng dân trí, chất lượng trí tuệ của người lao động, của đội ngũ trí thức của nước ta nhìn chung còn thấp. Nhận thức được điều này nên Đảng ta đã coi giáo dục và đào tạo là “quốc sách hàng đầu”, là phương tiện đắc lực để phát triển trí tuệ, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, trang bị kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động, tạo ra nguồn lao động có chất lượng cao, có năng lực sáng tạo, có khả năng thích ứng nhanh và kỹ năng lao động giỏi phục vụ sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. Từ đó, Đảng ta đã khẳng định: “đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản, quan trọng nhất cho sự phát triển toàn diện của đất nước” , “gắn chiến lược phát triển giáo dục với chiến lược phát triển khoa học – công nghệ”, “ đồng thời gắn cả hai nhiệm vụ trọng yếu này với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của cả nước, từng vùng và từng ngành kinh tế”. Đặc biệt cần nâng cao hiệu quả của giáo dục – đào tạo bằng cách gắn đào tạo với sử dụng NNL. Cần khắc phục tình trạng bất cập giữa đào tạo với thị trường lao động dẫn đến hiện tượng sản phẩm đào tạo ra vừa thừa lại vừa thiếu như hiện nay. Sự bất cập này chẳng những không đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng lao động, làm giảm hiệu quả của giáo dục và đào tạo, mà còn gây nên sự lãng phí đáng tiếc nhất là khi nguồn vốn đầu tư cho giáo dục – đào tạo còn quá ít ỏi…Do vậy, phải trên cơ sở nghiêm túc rà soát lại mà đưa ra một kế hoạch, quy hoạch đào tạo hợp lý theo theo lĩnh vực và theo bậc đào tạo, kể cả đào tạo lại, đặc biệt là phải có chiến lược giáo dục – đào tạo hữu hiệu đáp ứng được yêu cầu của CNH – HĐH. Chiến lược này phải gắn với thị trường lao động trong thời kỳ CNH – HĐH, phải mang trong mình chức năng dự báo, đón đầu được các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội như nhiều nước đã làm. Như vậy có thể nói, giải pháp quan trọng nhất để nâng cao chất lượng NNL, phát huy nguồn lực con người Việt Nam đó là phát triển giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ, nâng cao trình độ dân trí, phải coi đầu tư cho giáo dục là quốc sách hàng đầu, là đầu tư cơ bản, là nôi dung chủ yếu của chiến lược đầu tư cho phát triển. Trong kết luận của Hội nghị Trung ương 6 và Nghị quyết Trung ương 9 ( khoá IX ) đã nêu: “Điều chỉnh cơ cấu đào tạo, tăng nhanh dạy nghề và trung học chuyên nghiệp. Hiện đại hoá một số trường dạy nghề nhằm chuẩn bị một đội ngũ công nhân bậc cao có trình độ tiếp thu và sử dụng công nghệ mới, công nghệ cao” ( Đảng cộng sản Việt Nam. Kết luận Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 khoá IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2002, tr .129 ). Và để khai thác tiềm năng to lớn của con người, Việt Nam cần triển khai mạnh trong thực tiễn quan điểm giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ làm quốc sách hàng đầu mà khâu then chốt là phát triển NNL chất lượng cao và ứng dụng nhanh các tiến bộ khoa học và công nghệ vào thực tiễn sản xuất và đời sống. 3.2.3 Quan tâm chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng dân số, cải thiện môi trường sống cho con người. Để nâng cao chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu CNH – HĐH đất nước, bên cạnh các giải pháp về giáo dục – đào tạo, Nhà nước cần quan tâm đúng mức các vấn đề về y tế và chăm sóc sức khoẻ, vấn đề nâng cao chất lượng dân số cũng như những vấn đề cải thiện môi trường sống cho con người ở nước ta. Vấn đề chăm sóc sức khoẻ, tăng cường thể chất cho các thế hệ người Việt Nam luôn được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân ta. Trong những năm gần đây, dù đã có những cải thiện rõ rệt nhưng tầm vóc và thể lực người lao động Việt Nam vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực. Do đó, việc chăm sóc sức khoẻ cho mọi người, nâng cao thể lực cho người lao động vẫn vừa là vấn đề câps thiết, vừa là vấn đề cơ bản và lâu dài. Sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ đòi hỏi tất cả mọi người đều cần được chăm sớc chu đáo. Song hướng ưu tiên và quan tâm hàng đầu phải là chăm sóc sức khoẻ trẻ em, vì có chăm sóc tốt sức khoẻ cho trẻ em thì mới có được những người lao động khoẻ mạnh trong tương lai. Đây không chỉ là vấn đề bức xúc mà còn là sự chuẩn bị cần thiết NNL cho bước phát triển tiếp theo, là điều kiện, là tiền đề quan trọng tạo ra sự khoẻ mạnh về mặt thể lực cho người lao động – vốn quí để tạo ra tài sản trí tuệ và tinh thần cho xã hội. Do đó, cần có những chính sách cụ thể như đảm bảo cung cấp đủ với cơ cấu dinh dưỡng hợp lý, trước hết là nhằm phòng và chống suy dinh dưỡng của phụ nữ mang thai, trẻ em dưới 5 tuổi; thực hiện tốt hơn nữa chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ em , kiểm tra sức khoẻ định kỳ cho trẻ em tiểu học, trung học cơ sở. Ngoài việc ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em, cần chú ý những chính sách như thu hút và sử dụng có hiệu quả nhiều nguồn lực khác nhau, đầu tư cho công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ trong đó đầu tư của nhà nước phải giữ vai trò chính. Mặt khác, phải dựa trên cơ sở tính đến tất cả các yếu tố tác động đến sức khoẻ con người để hoạch định chính sách, đề ra các biện pháp chăm sóc sức khoẻ một cách toàn diện, lâu dài chứ không đơn giản chỉ chữa bệnh, phòng bệnh. Nhưng quan trọng hơn cả là các chính sách và giải pháp đó phải được cụ thể hoá, hiện thực hoá trong thực tế đời sống với sự theo dõi sát sao, sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ban, ngành chức năng và liên quan từ cấp trung ương đến cấp cơ sở. Bên cạnh các chính sách về y tế, cần quan tâm hơn nữa đến chính sách dân số vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của con người Việt Nam. Kinh nghiệm cho thấy không chỉ ở các nước phát triển mà ngay cả ở nước ta, những người có mức sống khá và trình độ học thức cao thường không có nhu cầu sinh nhiều con nhưng lại rất quan tâm đến chất lượng sống. Vì vậy, trong chính sách dân số cần kết hợp vấn đề hạn chế về số lượng với việc cải thiện, nâng cao chất lượng dân số. Sức khoẻ con người không chỉ là sức khoẻ cơ bắp mà còn là sức khoẻ tinh thần, nó chịu ảnh hưởng trực tiếp của môi trường tự nhiên, môi trường xã hội lẫn môi trường tình cảm. Để có môi trường sống trong đó con người và tự nhiên gắn kết hài hoà và bảo vệ lẫn nhau thì bên cạnh việc xử lý nghiêm túc các cơ sỏ gây ô nhiễm huỷ hoại môi trường, tăng cường việc kiểm tra giám sát việc bảo vệ môi trường… cần xây dựng một đội ngũ cán bộ có trình độ cao, các chuyên gia khoa học công nghệ để bảo vệ môi trường. Mặt khác cần đưa nội dung giáo dục, bảo vệ môi trường vào chương trình giáo dục quốc dân nhằm ngăn chặn từng gốc nạn ô nhiễm môi trường. Cùng với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội cũng có ảnh hưởng lớn và nhiều mặt đến sự phát triển của con người. Như vậy, việc quan tâm hơn nữa vấn đề chăm sóc sức khoẻ của nhân dân, nâng cao dần và liên tục chất lượng dân số, cải thiện môi trường sống cho con người là một trong nhưng hướng, những nhiệm vụ quan trọng mà các cấp, các ngành, toàn Đảng, toàn dân phải thực hiện nhằm nâng cao chất lượng NNL, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. 3.2.4 Cải tiến chính sách đào tạo, và sử dụng lao động chuyên môn kỹ thuật. Vấn đề sửa đổi, hoàn thiện chính sách sử dụng, bồi dưỡng nhân lực để phát huy tối đa năng lực và khả năng cống hiến của họ cho công việc có vai trò rất quan trọng bởi nó tác động trực tiếp vào NNL. Để tạo chuyển biến một cách có hiệu quả, có thể sử dụng kết hợp những giải pháp sau: Thứ nhất, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ thuật. Hiện nay, hầu hết số cán bộ chuyên môn kỹ thuật cao đều có tuổi đời khá lớn. Số còn lại chiếm phần đông nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học. Mặt khác, sự phát triển của khoa học kỹ thuật trên thế giới, sự chuyển đổi sang cơ chế thị trường đã khiến đội ngũ chuyên môn kỹ thuật có những hẫng hụt nhất định. Từ thực tế đó đặt ra yêu cầu phải đào tạo và đào tạo lại thì mới đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. Để thực hiện điều này, hàng loạt vấn đề từ cải tiến mục tiêu, đổi mới nội dung, chương trình giảng dạy, nâng cao đội ngũ chất lượng giáo viên đến tổ chức sắp xếp các trường cần được giải quyết. Trong những năm trước mắt cần tập trung giải quyết những nội dung sau: Một là, cải tiến mục tiêu đào tạo. Đây là vấn đề quan trọng nhất, quyết định nhiều đến chất lượng đào tạo, nó xác định sản phẩm đào tạo có đặc thù riêng với mỗi trường đại học. Từ mục tiêu này xây dựng nội dung chương trình giảng dạy thích hợp thích hợp, xuyên suốt. Ngoài ra để đáp ứng nhu cầu của thời đại công nghệ phải gắn đào tạo với thực tiễn sản xuất, nhu cầu xã hội. Hai là, đổi mới nội dung chương trình giảng dạy giảng dạy. Các nội dung chương trình của các trường đại học đều cần xem xét, đổi mới cho phù hợp với mục tiêu đào tạo, thích ứng với cơ chế thi trường và phát triển của khoa học công nghệ. Trong chương trình học bổ sung những kiến thức mới, phần học mang tính thực hành để khi ra trường có thể vận dụng ngay kiến thức được đào tạo. Ngoài ra, có thể ký hợp đồng đào tạo với cơ sở sử dụng nhân lực khoa học kỹ thuật nhằm giúp học viên gắn với thực tế, hiểu nhu cầu công việc, kiến thức cần phải có, tạo điều kiện khi ra trường phát huy tốt năng lực, vốn tri thức. Giải pháp này cũng rất có ích trong việc huy động nguồn vốn tài chính hỗ trợ cho học viên và nhà trường trong quá trình học tập, đào tạo. Ba là, quy hoạch mạng lưới trường. Sắp xếp lại các trường đại học theo các lĩnh vực khoa học phù hợp với điều kiên lãnh thổ. Mặt khác, các cơ sở đào tạo cũng cần phải sắp xếp lại tổ chức cho hợp lý, có như vậy mới nâng cao được chất lượng đào tạo. Các tổ chức này nên chia thành 3 hệ thống cơ bản là hệ thống giảng dạy và nghiên cứu khoa học, hệ thống quản lý và điều hành, hệ thống phục vụ giang dạy. Trong đó đặc biệt nâng cao hệ thống giảng dạy và nghiên cứu khoa học vì nó quyết định chất lượng của đối tượng đào tạo. Để khắc phục nguy cơ hụt hẫng giảng viên giỏi, cần có chính sách khuyến khích, thu hút sinh viên tốt nghiệp giỏi các trường đại học, cao đẳng gia nhập đội ngũ giảng viên. Đào tạo trên đại học là rất cần thiết nhằm nâng cao chất lượng cán bộ chuyên môn kỹ thụât nói chung và chất lượng cán bộ giảng dạy nói riêng. Các trường đại học, các viện nghiên cứu cần đào tạo mở rộng đào tạo cán bộ có trình độ này với những phương thức đào tạo hợp lý. Ưu tiên gửi giảng viên đại học, cao đẳng đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài bằng nhiều nguồn kinh phí. Bốn là, đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ chuyên môn kỹ thuật đáp ứng nhiệm vụ của giai đoạn mới, đào tạo lại và bồi dưỡng thường xuyên là yêu cầu tất yếu, rất cấp bách của công tác đào tạo. Nhưng để đào tạo một cách có hiệu quả, cần có quy hoạch, chương trình, nội dung phù hợp, tổ chức đào tạo khoa học riêng cho mỗi loại cán bộ chuyên môn kỹ thuật và tiến hành làm thường xuyên. Các cơ sở đào tạo có thể áp dụng nhiều hình thức đào tạo lại như tập trung, tại chức, học từ xa phù hợp với điều kiện công tác của học viên. Cũng như các nội dung đào tạo khác, cần tằn cường viêc trao đổi trực tiếp giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo để chương trình, nội dung đào tạo phù hợp với thực tế. Mở rộng các hình thức đào tạo theo địa chỉ, đào tạo tại chỗ cho các vùng nông thôn, miền núi, vung sâu. Phương thức này gắn đào tạo với sử dụng, khắc phục tình trạng mất cân đối trong phân bổ và sử dụng NNL đã qua đào tạo như hiện nay. Mặt khác có thể thử nghiệm phương án Nhà nước tuyển và đảm bảo kinh phí đào tạo nhưng học sinh phải tuân theo sự phân công của nhà nước trong thời gian nhất định thông qua hợp đồng lao động. Điều này không chỉ giúp vùng khó khăn có cán bộ mà còn tạo cơ hội cho người nghèo được đào tạo, có việc làm. Thứ hai, sử dụng NNL có chuyên môn kỹ thuật Chính sách quản lý, sử dụng lao động chuyên môn kỹ thuật ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tinh thần, vật chất của họ, trực tiếp nâng cao năng suất lao động của NNL. Tuỳ theo điều kiện cụ thể, một số giải pháp sau có thể nghiên cứu áp dụng để phát huy tối đa năng lực làm việc của số lao động này như : xây dựng quy hoạch sử dụng trên phạm vi quốc gia và từng ngành, làm cơ sở cho chính sách đào tạo bồi dưỡng thích hợp với từng đối tượng; cải tiến chính sách, chế độ trong việc sử dụng nguồn lực có chuyên môn kỹ thuật đặc biệt đội ngũ nhân lực có trình độ cao nhằm tạo điều kiện và môi trường làm việc thuận lợi đồng thời với các chế độ đãi ngộ vật chất để phát huy tối đa chất xám, năng lực của đội ngũ này. Nhà nước cần đổi mới chính sách sử dụng, chế độ kiêm nhiệm, kiêm chức để tạo điều kiện cho NNL đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật có cơ hội làm việc rộng rãi. Các doanh nghiệp có thể kí kết hợp đồng với cán bộ khoa học kỹ thuật là công chức Nhà nước trong những công việc mà quy chế công chức không cấm. Gần đây chúng ta nói nhiều đến tình trạng mất chất xám tại chỗ do việc người lao động có chuyên môn cao rời bỏ khu vực nhà nước sang làm việc cho các cơ sở tư nhân hoặc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Điều đáng lo ngại ở đây là những người có chuyên môn kỹ thuật không được sử dụng đúng ngành nghề, không có điều kiện làm việc có hiệu quả. Nếu họ phát huy được năng lực nghề nghiệp thì dù trong hoặc ngoài khu vực nhà nước vẫn có sự đóng góp nhất định cho sự phát triển đất nước. Do vậy, thay vì tìm cách ngăn cản họ làm việc cho khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, nhà nước nên sớm có qui định buộc người sử dụng phải trả cho nhà nước một khoản bù đắp những chi phí đào tạo… Mặt khác, phải tăng cường hợp tác quốc tế. Đây là một trong những chiến lược để tận dụng nguồn tài chính, cơ sở vật chất công nghệ cao, chuyên gia giỏi cho công tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và đào tạo đại học. Việc đầu tư cho giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp rất tốn kém, vì vậy cần tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế cho ngành như: Nhà nước cần có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào việc xác định lai mục tiêu đào tạo cho các văn bằng sau đại học: thạc sỹ theo khóa học, thạc sỹ nghiên cứu va tiến sỹ. Khuyến khích các cơ sở đào tạo liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngoài để nhanh chóng hoà nhập, tiếp cận với chuẩn đào tạo khu vực và thế giới cũng như tham gia đào tạo nhân lực cho các nước trong khu vực. Tranh thủ các dự án viện trợ, kể cả các dự án tư vấn phát triển ngành để xây dựng hệ thống chính sách đồng bộ và đưa công tác thông tin quản lý vào nề nếp. Trao đổi, học tập kinh nghiệm của các nước trong khu vực, các nước công nghiệp phát triển. Có thể nói, việc phân chia các giải pháp trên đây chỉ có ý nghĩa tương đối bởi chúng có mối quan hệ qua lại với nhau, tác động lẫn nhau.Do vậy, thực hiện đồng bộ các giải pháp đó là điều hết sức cần thiết nâng để nâng cao chất lượng NNL đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp CNH- HĐH hiện nay Kết luận Công nghiệp hoá là quá trình tất yếu mà sớm hay muộn các nước đang phát triển đều phải trải qua để chuyển từ xã hội nông nghiệp lạc hậu lên xã hội công nghiệp lạc hậu trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, do sự tác động và chi phối của bối cảnh thời đại và điều kiện của đất nước, quá trình công nghiệp hoá ở nước ta hiện nay có những điểm khác so với công nghiệp hoá trước đây. Đó là: công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hoá, công nghiệp hoá trong điều kiện hội nhập quốc tế, CNH - HĐH được thực hiện trong điều kiện kinh tế thị trường…trong đó điểm khác cơ bản, có tính chất bao trùm là CNH - HĐH ngày nay chuyển từ việc chủ yếu khai thác nguồn lực tự nhiên sang nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn tiềm năng trí tuệ, “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. NNL vừa là khách thể được khai thác triệt để cả về thể lực và trí lực trong quá trình CNH - HĐH, đồng thời cũng chính là đối tượng mà công cuộc CNH - HĐH phải hướng vào phục vụ, đầu tư và phát triển. Tuy nhiên, NNL ở nước ta hiện nay bên cạnh những ưu thế như lực lượng lao động dồi dào, con người Việt Nam cần cù, chịu khó, thông minh và sáng tạo…thì những hạn chế của nó cũng không phải là nhỏ, nhất là về trình độ chuyên môn nghề nghiệp, kỹ năng lao động, thể lực và văn hoá lao động công nghiệp; thêm vào đó cơ cấu bậc đào tạo và sự phân bổ giữa các ngành. vùng kinh tế lại không đồng đều, việc khai thác và sử dụng số lao động đã qua đào tạo, có trình độ lại bất hợp lý và kém hiệu quả. Xuất phát từ quan điểm nâng cao chất lượng NNL đồng nghĩa với việc phát triển toàn diện con người và hệ thống giáo dục đào tạo giữ vai trò quyết định để thực hiện điều đó; dựa trên thực trạng chất lượng NNL ở Việt Nam hiện nay; trong luận văn đã phân tích và đưa ra một số giải pháp, định hướng nhằm từng bước nâng cao chất lượng NNL phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH và sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Để thực hiện được điều này, cần nhanh chóng thực hiện đồng bộ các giải pháp về giáo dục và đào tạo, về chăm sóc sức khoẻ, nâng cao chất lượng dân số, cải thiện môi trường sống, về tạo việc làm, về tổ chức khai thác lực lượng lao động , về hệ thống các động lực kích thích tính tích cực của con người… Danh mục tài liệu tham khảo 1. Phạm Thị Thanh An. Phát huy tính tích cực của con người Việt Nam trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, báo Triết học số 3 ( 121), tháng 6 – 2001 2. Vũ Huy Chương. Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực tiến hành CNH - HĐH, Nxb Chính trị quốc gia, 2003. 3. Nguyễn Hữu Dũng. Về nhiệm vụ phát triển việc làm giai đoạn 2006 – 2010 . Tạp chí Lý luận chính trị, số 4/ 2004, tr 69 – 70. 4. Phạm Minh Hạc. Vấn đề con người trong sự nghiệp CNH - HĐH. Nxb Chính trị quốc gia Hà nội ( 1996 ). 5. Phạm Minh Hạc (chủ biên). Con người Việt Nam: mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội, mã số KX – 07. 6. Nguyễn Đình Hoà. Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và đẩy mạnh CNH - HĐH, Tạp chí cộng sản số 7/ 2004. 7. Vũ Thành Hưởng. Một số vấn đề bức xúc trong việc gắn đào tạo với sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay. Tạp chí kinh tế và phát triển, tr 49. 8. Phạm Khiêm ích và Nguyễn Đình Phan. CNH - HĐH ở Việt Nam và các nước trong khu vực, tr 22. 9. Phan Văn Khải. Tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp với các nhà khoa học công nghệ và các cơ quan chính phủ. Tạp chí nghiên cứu và trao đổi tháng 4/ 2004, tr 322. 10. Đoàn Văn Khái. Nguồn lực con người trong quá trình CNH - HĐH ở Việt Nam . Nxb Lý Luận Chính trị, 2005 11. Vũ Thị Mai. Vấn đề khai thác và sử dụng hợp lý nguồn lực con người, Tạp chí kinh tế và phát triển, tr 53. 12. Dương Ngọc. Lao động – vấn đề nổi cộm nhất. Thời báo kinh tế Việt Nam. 13. Võ Hồng Phúc. Xây dựng nền kinh tế Việt Nam năng động và bền vững trong điều kiện hội nhập quốc tế. Nxb Chính trị quốc gia, 2004, tr18 14. Hoàng thị Sáu. Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân ở nước ta: Thành tựu, vấn đề đặt ra và giải pháp. Tạp chí Lý luận chính trị số 10 – 2003, tr 57,58. 15. Trương Thị Minh Sâm. Những luận cứ khoa học của việc phát triển nguồn nhân lực công nghiệp cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Nxb Khoa học xã hội Hà nội, 2003. 16. Lưu Ngọc Trịnh. Nguồn nhân lực trong quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức ở Nhật Bản. Tạp chí Kinh tế thế giới, số 11 – 2003. 17. Nguyễn Khắc Trương. Công tác đào tạo đại học, cao đẳng và ngành nghề về phát triển nguồn nhân lực ở nước ta. Tạp chí Lý luận chính trị số 7/ 2003. 18. Đảng Cộng sản Việt Nam, kết luận Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ 6 khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2002, tr 19. 19. Số liệu thống kê Lao động việc làm, Bộ Lao động và thương binh xã hội , 2004. 20. Thời báo kinh tế Việt Nam 2004 – 2005. 21. Thời báo kinh tế Việt Nam 2005 – 2006. 22. Tổng hợp từ số liệu thống kê lao động và việc làm năm 2000, 2005. 23. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đảng cộng sản Việt Nam. Danh mục chữ cái viết tắt NNL : Nguồn nhân lực CNH - HĐH : Công nghiệp hoá - hiện đại hoá Mục lục Trang Mở đầu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36335.doc
Tài liệu liên quan