Ngày nay vấn đề bảo hộ quyền SHTT đang nổi lên như là một trong những điểm mấu chốt của các mối quan hệ kinh tế - thương mại được nhiều quốc gia quan tâm. Trong những năm qua, trên thế giới đã có những quan điểm khác nhau, song việc bảo hộ quyền SHTT trên phạm vi quốc tế cũng như ở mỗi quốc gia đều gắn liền với pháp luật và cơ chế điều chỉnh pháp luật. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền SHTT có vai trò quan trọng trong việc góp phần thúc đẩy các hoạt động sáng tạo, đổi mới kỹ thuật, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế, khuyến khích các hoạt động nghiên cứu, triển khai đầu tư và chuyển giao công nghệ, bảo vệ lợi ích quốc gia. Ở Việt nam, cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền SHTT đã có những bước tiến đáng kể nhưng vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý, những tồn tại cần phải được đổi mới và hoàn thiện. Đây là đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước mà đường lối Đại hội VIII của Đảng đã vạch ra, là đòi hỏi khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, là đòi hỏi của thị trường công nghệ, của chính sách kinh tế đối ngoại hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực của chúng ta hiện nay. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền SHTT là một quá trình thường xuyên, liên tục để Việt nam hoà nhập vào cộng đồng quốc tế, xây dựng đất nước Việt nam ngày càng hạnh phúc và phồn vinh.
80 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1541 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chế định về quyền số hóa thông tin liên quan đến thương mại của WTO và việc hoàn thiện các quy định tương ứng của Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĩa hình, tổ chứ phát thanh, truyền hình xuất phát từ quan điểm coi các quyền, nghĩa vụ của cá nhân và tổ chức nói trên cũng là các quyền, nghĩa vụ dân sự cá liên quan trực tiếp với các quy định về quyền tác giả và chịu sự chi phối của các quy định đó.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự thì người biểu diễn bao gồm cá nhân, tổ chức biểu diễn, người dàn dựng, đạo diễn chương trình ca, múa , nhạc, chương trình phát thanh, truyền hình, đạo diễn, diễn viên sân khấu và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác.
Người biểu diễn có nghĩa vụ khi sử dụng tác phẩm chưa công bố của người khác phải xin phép và trả thù lao cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm, trừ trường hợp biểu diễn các tác phẩm sân khấu và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền, cổ động ở nơi công cộng. Nếu vi phạm các nghĩa vụ nói trên, người biểu diễn phải bồi thường thiệt hại cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm (Điều 774).
Người biểu diễn không chỉ có nghĩa vụ mà còn có các quyền nhân thân và tài sản bao gồm các quyền được giới thiệu tên khi biểu diễn; được bảo hộ hình tượng biểu diễn; cho hoặc không cho người khác phát thanh, truyền hình trực tiếp chương trình biểu diễn của mình; cho hoặc không cho người khác ghi âm, ghi hình chương trình biểu diễn và làm các bản sao để phổ biến; quyền được hưởng thù lao từ việc cho người khác sử dụng chương trình biểu diễn nếu việc sử dụng chương trình này nhằm mục đích kinh doanh; quyền yêu cầu cá nhân, tổ chức chấm dứt hành vi vi phạm các quyền, lợi ích của mình. Đối với tổ chức sản xuất băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình khi sử dụng tác phẩm để sản xuất chương trình của mình phải có nghĩa vụ giao kết hợp đồng bằng văn bản với tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm, nếu tác phẩm chưa được công bố. Nếu sử dụng tác phẩm đã được công bố thì phải ghi tên tác giả, người biểu diễn, bảo đảm sự toàn vẹn nội dung tác phẩm và phải trả thù lao cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm hoặc người biểu diễn chương trình.
Ngoài các nghĩa vụ trên, tổ chức sản xuất băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình còn có các quyền như: cho hoặc không cho cá nhân hoặc tổ chức khác nhân bản, phát hành sản phẩm của mình; hưởng lợi khi sản phẩm được sử dụng; được bảo hộ quyền tác giả trong thời hạn 50 năm kể từ ngày sản phẩm được công bố lần đầu; được quyền chuyển giao các quyền của mình cho tổ chức khác trong thời hạn bảo hộ.
Việc ra đời luật về quyền tác giả trong Bộ luật Dân sự là một tiến bộ mới trong quá trình phát triển hệ thống pháp luật ở Việt nam.
3. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về quyền SHTT tại các Toà án Việt nam
3.1. Các tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp
Theo quy định của Bộ luật Dân sự và Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ, Toà án nhân dân có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự các vụ án sau:
- Cá nhân khởi kiện tổ chức, cá nhân khác có hành vi cản trở, hạn chế quyền tự do sáng tạo và quyền sở hữu đối với sản phẩm trí tuệ của mình (Điều 47 Bộ luật Dân sự ).
- Chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá khởi kiện tổ chức, cá nhân khác có hành vi sử dụng bất hợp pháp tên gọi xuất xứ hàng hoá (Điểm b khoản 1 Điều 797 BLDS) hoặc sử dụng dấu hiệu tương tự gây nhầm lẫn (Khoản 2 Điều 40 Nghị định 63/CP).
- Tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp khởi kiện chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp về thù lao trong trường hợp tác giả không đồng thời là chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp (Khoản 1 Điều 798 và điểm b Khoản 1 Điều 800 BLDS).
- Chủ sở hữu, người sử dụng hợp pháp sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp khởi kiện người đã sử dụng trước sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp (Điều 801 BLDS) trong trường hợp họ mở rộng thêm phạm vi, khối lượng sử dụng so với ngày công bố đơn hoặc trong trường hợp do chuyển giao quyền sử dụng đó cho người khác.
- Tranh chấp hợp đồng dân sự về mua bán li - xăng.
- Tranh chấp về hợp đồng dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp.
- Tranh chấp quyền tác giả đối với đối tượng quyền sở hữu công nghiệp.
- Tranh chấp thừa kế quyền sở hữu công nghiệp.
- Tranh chấp giữa các chủ thể về quyền nộp đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
- Tranh chấp về việc trả thù lao và các khoản phí, lệ phí giữa Cục sở hữu công nghiệp với các chủ thể khác.
Theo số liệu thống kê của Cục sở hữu Công nghiệp trong 7 năm từ 1992 đến 1998 có 1480 đơn khiếu nại về việc cấp văn bằng bảo hộ, riêng năm 1998 có 393 vụ.
Từ năm 1992 đến năm 1998 có 679 vụ khiếu kiện về việc vi phạm quyền sở hữu công nghiệp, cụ thể:
- Có 5 vụ khiếu kiện về việc vi phạm sáng chế và giải pháp hữu ích.
- Có 128 vụ khiếu nại về việc vi phạm kiểu dáng công nghiệp.
- Có 564 vụ khiếu kiện về việc vi phạm nhãn hiệu hàng hoá.
Tuy nhiên con số thực tế của các vụ án vi phạm còn lớn hơn nhiều con số mà Cục sở hữu Công nghiệp đã thống kê được.
Sau khi được giao thẩm quyền xét xử các tranh chấp có liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp, Toà án đã xét xử:
Trong 3 năm (1995- 1997) Toà án đã thụ lý và giải quyết 18 vụ tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp trong đó 16 vụ về kiểu dáng công nghiệp và 2 vụ về nhãn hiệu hàng hoá.
Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ ngày 01/07/1996 đến 01/017/1999 đã thụ lý và xét xử 14/15 vụ, trong đó hoà giải thành 8 vụ, xét xử 6 vụ. Giải quyết bồi thường thiết hại 10 vụ, bồi thường thiệt hại tượng trưng 2 vụ, tạm đình chỉ 1 vụ, đình chỉ việc giải quyết vụ án 1 vụ. Tổng số án này chiếm chưa đến tỷ lệ 0,05% tổng số án dân sự đã thụ lý và xét xử tại Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đáng chú ý là trong 6 tháng đầu năm 1999 Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chưa giải quyết một vụ án nào liên quan đến xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp mà những năm trước đó loại án này chiếm tỷ lệ cao nhất so với các Toà án nhân dân cấp Tỉnh, thành phố trong cả nước.
3.2. Các tranh chấp về quyền tác giả
Theo quy định tại điều 759 BLDS, Điều 33 Nghị định 76/CP và Điều 10 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Toà án nhân dân có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự các tranh chấp và các yêu cầu , khiếu nại liên quan đến quyền tác giả đối với các trường hợp sau đây:
- Tranh chấp bản quyền tác giả giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tổ chức, giữa tổ chức với tổ chức.
- Tranh chấp về quyền đồng tác giả.
- Tranh chấp giữa tác giả (đồng tác giả) không đống thời là chủ sở hữu tác phẩm với chủ sở hữu tác phẩm không đồng thời là tác giả về các quyền nhân thân và quyền tài sản.
- Tranh chấp về quyền tác giả giữa tác giả (đồng tác giả) hoặc chủ sở hữu tác phẩm với tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc theo hợp đồng đã được ký kết giữa tác giả (đồng tác giả) với tổ chức , cá nhân đó.
- Tranh chấp giữa tác giả (đồng tác giả) hoặc chủ sở hữu tác phẩm với tổ chức điện ảnh, phát thanh , truyền hình, sân khấu hoặc các tổ chức biểu diễn các loại hình nghệ thuật khác.
- Tranh chấp giữa tác giả (đồng tác giả) hoặc chủ sở hữu tác phẩm với người biên soạn, người sưu tầm các tác phẩm đã công bố để làm thành tuyển tập ,hợp tuyển.
- Tranh chấp giữa tác giả (đồng tác giả) hoặc chủ sở hữu tác phẩm với người biểu diễn đối với tác phẩm chưa được công bố.
- Tranh chấp giữa tác giả (đồng tác giả) hoặc chủ sở hữu tác phẩm với tổ chức, cá nhân sản xuất băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình.
- Các tranh chấp về hợp đồng sử dụng tác phẩm.
- Các tranh chấp về thừa kế quyền tác giả.
- Tranh chấp về hợp đồng dịch vụ bản quyền tác giả.
- Tranh chấp giữa người cung cấp tài chính hoặc các điều kiện vật chất, kỹ thuật cần thiết cho việc xây dựng , phát triển phần mềm tin học với người thiết kế, xây dựng phần mềm máy tính về quyền tác giả đối với phần mềm tin học đó.
- Tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm, chủ sở hữu tác phẩm khởi kiện tổ chức, cá nhân vi phạm các quyền của họ hoặc khởi kiện các cơ sở sản xuất các sản phẩm ghi âm, ghi hình về việc sản xuất các băng âm thanh, băng hình , đĩa âm thanh, đĩa hình có tác phẩm chưa được công bố hoặc đã được công bố.
- Tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm, chủ sở hữu tác phẩm khởi kiện về việc đòi thanh toán tiền thù lao, tiền nhuận bút hoặc các lợi ích vật chất khác mà họ được hưởng khi tác phẩm của họ được phát hành hoặc được sử dụng hợp pháp.
- Tổ chức sản xuất băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình , đĩa hình (có chương trình) khởi kiện tổ chức , cá nhân khác nhân bản, phát hành sản phẩm của họ nhằm mục đích kinh doanh thu lợi trái pháp luật.
- Tổ chức phát thanh, truyền hình khởi kiện về việc tổ chức , cá nhân khác phát lại chương trình, làm các bản sao chương trình nhằm mục đích kinh doanh thu lợi trái pháp luật trong thời gian được bảo hộ.
- Người biểu diễn khởi kiện về việc tổ chức, cá nhân xuyên tạc hình tượng biểu diễn, ghi âm, ghi hình chương trình biểu diễn, làm các bản sao để phổ biến mà không được sự đồng ý của mình; về thù lao họ không được hưởng trong việc sử dụng chương trình biểu diễn nhằm mục đích kinh doanh hoặc đòi bồi thường thiệt hại.
- Các tranh chấp , yêu cầu , khiếu nại khác liên quan đến quyền tác giả mà pháp luật có quy định.
ở nước ta các tranh chấp về quyền tác giả có xu hướng ngày càng tăng. Cục bản quyền tác giả đã giải quyết hàng trăm vụ khiếu nại, vi phạm bản quyền tác giả trong đó có những vụ nổi bật như:
- Ai viết lời cho bài quốc ca. Một người ở Hải phòng khiều nại đến Cục bản quyền tác giả cho rằng nhạc sỹ Văn Cao không phải là tác giả của bài Tiến Quân Ca. Cục bản quyền tác giả sau 6 tháng xác minh đã xác định tác giả sáng tác nhạc và lời bài Quốc ca là nhạc sỹ Văn Cao.
- Người được uỷ nhiệm đi phát hành bộ phim nhựa "Vị đắng tình yêu" Tập 2 - Bộ phim hợp tác giữa Việt nam và Đài loan đã in lậu một bản phim nhựa đem đi chiếu, thu lợi bất chính 26 triệu đồng. Cơ quan chức năng đã xử lý thu hồi bộ phim in lậu, thu hồi 26 triệu đồng tiền thu lợi bất chính và phạt tiền 52 triệu đồng.
Có rất nhiều vụ vi phạm quyền tác giả như: tái bản sách, biểu diễn sân khấu, thu băng đĩa nhạc, băng hình... không xin phép tác giả, không trả nhuận bút cho tác giả...
Việc sao chụp nguyên sách nước ngoài để bán trên thị trường Việt nam đã trở nên phổ biến, gây nên sự bất bình của các tác giả và các nhà xuất bản nước ngoài, vi phạm nghiêm trọng quyền tác giả. Theo thống kê của Toà án nhân dân tối cao cho đến nay, Toà án chưa xét xử một vụ án hình sự nào về tội xâm phạm các quy định của quyền tác giả, quyền sáng chế, phát minh (Điều 126 Bộ luật Hình sự năm 1985).
Năm 1995 Toà án nhân dân có xét xử một vụ án hình sự về tội vi phạm các quy định về quyền xuất bản và phát hành sách, báo, ấn phẩm khác (Điều 215 BLHS).
Từ năm 1995 - 1999 Toà án chỉ xét xử 8 vụ án tranh chấp về quyền tác giả, chủ yếu tập chung ở TAND thành phố Hà nội và TAND thành phố Hồ chí minh.
II ) Những điểm khác biệt của pháp luật Việt nam về SHTT so với quy định tương ứng của WTO
Nhìn chung, Việt nam đã có một hệ thống văn bản pháp luật về SHTT khá đồng bộ và đầy đủ nhưng cần phải được hoàn thiện hơn nữa. So với Hiệp định TRIPs thì hệ thống pháp luật bảo hộ quyền SHTT của Việt nam còn có một số bất cập cần bổ sung sửa đổi.
1. Những điểm khác biệt về sở hữu công nghiệp
1.1. Phạm vi bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá
Điều 15.1 của Hiệp định TRips quy định về các đối tượng có khả năng bảo hộ như một nhãn hiệu hàng hoá. So với quy định về phạm vi bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá được quy định tại điều 6.2 Nghị định 63/CP thì phạm vi bảo hộ của Việt nam hạn chế hơn so với quy định của Điều 16 Hiệp định TRips. Hiện nay, Việt nam chưa tiến hành bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá cho các đối tượng gồm: hình và hình học đơn giản, các chữ số, chữ cái, các chữ không có khả năng phát âm như một từ ngữ, chữ nước ngoài thuộc các ngôn ngữ không thông dụng trừ trường hợp các dấu hiệu này đã được sử dụng và đã được thừa nhận một cách rộng rãi, dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của hàng hoá thuộc bất cứ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên, nhiều người biết đến, dấu hiệu chỉ địa điểm, thời gian, phương pháp sản xuất, chủng loại, số lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị mang tính mô tả hàng hoá, dịch vụ và xuất xứ của hàng hoá, dịch vụ, dấu hiệu giống hoặc tương tự với dấu chất lượng, dấu điều tra, dấu bảo hành... của Việt nam, nước ngoài cũng như các tổ chức quốc tế; dấu hiệu, tên gọi , hình vẽ, biểu tượng giống hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với hình quốc huy, lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân, địa danh của Việt nam cũng như của nước ngoài. Để phạm vi bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của Việt nam phù hợp hơn với quy định của TRips, chúng ta cần mở rộng phạm vi các quy định của Điều 6.2 Nghị định 63/CP.
Theo thống kê của các cơ quan chức năng thì nhãn hiệu hàng hoá là đối tượng được sử dụng nhiều nhất và dễ nhận biết nhất đối với quá trình thương mại hoá của hàng hoá và dịch vụ. Việc mở rộng phạm vi bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại Việt nam theo quy định của TRips là cần thiết. Trên cơ sở này Việt nam sẽ có một hệ thống nhãn hiệu háng hoá đa dạng, phong phú tham gia vào thị trường hàng hoá, dịch vụ. Qua đó kích thích được tâm lý người tiêu dùng, đẩy mạnh hoạt động thương mại phát triển, hạn chế được các gian lận thương mại như hàng giả, nhái mẫu mã kiểu dáng. Tuy nhiên sẽ gặp khó khăn trong công tác quản lý và xử lý vi phạm trong khi hệ thống các cơ quan bảo hộ của Việt nam còn non trẻ, ít kinh nghiệm.
1.2. Phạm vi bảo hộ chỉ dẫn địa lý
Điều 22.1 của Hiệp định TRIPs quy định về phạm vi bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Các quy định về bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Việt nam được quy định tại Điều 7.1 Nghị định 63/CP chỉ quy định bảo hộ đối với tên gọi xuất xứ háng hoá. Việt nam không bảo hộ chỉ dẫn địa lý đối với các đối tượng như các chỉ dẫn xuất xứ không phải là tên địa lý; các dấu hiệu mang tính chất biểu tượng của nước, địa phương là nơi xuất xứ của hàng hoá nhưng không phải là tên địa lý của nước, địa phương đó. Như vậy, phạm vi bảo hộ chỉ dẫn địa lý của hệ thống luật sở hữu công nghiệp Việt nam hẹp hơn so với quy định của Điều 22 Hiệp định TRIPs.
Điều 23 Hiệp định TRIPs yêu cầu có quy định bảo hộ bổ sung đối với các chỉ dẫn địa lý dùng cho rưọu vang và rượu mạnh. Các quy định này hiện chưa có trong hệ thống pháp luật sở hữu công nghiệp của Việt nam. Theo quy định của TRips thì các chỉ dẫn địa lý bao gồm cả các chỉ dẫn địa lý dùng cho rượu vang và rượu mạnh cần phải được đưa vào hệ thống luật của Việt nam.
Việc bảo hộ không đầy đủ đối với chỉ dẫn địa lý sẽ dẫn tới tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong thị trường thương mại của Việt nam. Khi bảo hộ đầy đủ lĩnh vực này, Việt nam sẽ có cơ sở để tham gia vào một thị trường thương mại tự do và đón nhận được nhiều sản phẩm có chất lượng và được thế giới công nhận. Đồng thời tạo ra được tính cạnh tranh cao đối với các sản phẩm có mặt tại Việt nam.
1.3. Quy định bảo hộ giống cây trồng
Điều 27.3b của Hiệp định TRIPs quy định "việc bảo hộ giống cây trồng phải được thực hiện bằng hệ thống Patent hoặc bằng một hệ thống riêng hữu hiệu, hoặc bằng sự kết hợp giữa hai hệ thống đó dưới bất kỳ hình thức nào". Theo quy định của Việt nam tại Thông tư số 1608/NN/UBKHKTNN ngày 23/12/1982 của Liên Bộ Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước - Bộ Nông nghiệp về đăng ký và bảo hộ sáng chế cho giống cây trồng và giống con gia súc gia cầm mới thì Giấy chứng nhận tác giả giống cây trồng chỉ trao quyền về tinh thần và quyền nhận thù lao cho tác giả, trong khi quyền sở hữu đối với giống cây trồng thuộc về Nhà nước. Điều này chưa phù hợp với tinh thần của TRips coi quyền SHTT là quyền tư hữu. Do vậy, vấn đề bảo hộ giống cây trồng tại Việt nam nên được xem xét theo hướng công nhận quyền sở hữu giống cây trồng thuộc về tác giả theo tinh thần của Hiệp định TRIPs.
Việc sửa đổi quy định này hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Thông tư số 01/NN - KCM ngày 25/05/1994 của Liên Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm - Bộ Khoa học Công Nghệ và Môi trường về hướng dẫn việc trả thưởng khuyến khích cho tác giả của các giống cây trồng và giống con gia súc mới. Đống thời nó cũng rất phù hợp với hoàn cảnh Việt nam là một nước nông nghiệp đang rất cần những thành tựu nghiên cứu mới để phát triển khoa học kỹ thuật trong trồng trọt và chăn nuôi, tạo ra được nhiều sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao, phục vụ tiêu dùng nội địa cũng như xuất khẩu. Khi còn ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này thì việc Việt nam tham khảo để sử dụng hệ thống UPOV (Hệ thống bảo hộ giống cây trồng mới) đang được nhiều nước áp dụng hữu hiệu được xem là một giải pháp hiện thực.
1.4. Quy định bảo hộ đối với chủng vi sinh
Điều 27.3b của Hiệp định TRIPs quy định về chủng vi sinh. Mặc dù các chủng vi sinh là đối tượng được cấp Patent theo luật của Việt nam, nhưng hiện nay chưa có quy định hoặc thủ tục về việc hướng dẫn nộp đơn, xét nghiệm hoặc yêu cầu nộp lưu đối với lĩnh vực công nghệ đặc biệt này.
1.5. Thiết kế bố trí mạch tích hợp
Mục VI Hiệp định TRIPs quy định các thành viên phải bảo hộ thiết kế bố trí mạch tích hợp theo các điều khoản của Hiệp ước về quyền sở hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp (IPIC) và theo các quy định của chính TRIPs. Hiện nay Việt nam chưa có các quy định về bảo hộ bố trí thiết kế mạch tích hợp trong hệ thống luật bảo hộ SHTT hay bất kỳ một hệ thống luật nào khác. Vì vậy , Việt nam cần phải ban hành ngay các quy định pháp luật về bảo hộ bố trí thiết kế mạch tích hợp.
Đây là một trong những lĩnh vực quan trọng trong ngành công nghiệp điện tử của mỗi quốc gia. Nhu cầu bảo hộ của đối tượng này là rất lớn và ngày càng tăng cùng với sự phát triển của lĩnh vực công nghệ thông tin. Vì vậy, khi bảo hộ đối tượng này Việt nam sẽ có cơ hội để phát triển ngành công nghiệp điện tử trong nước, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hóa.
2. Những điểm khác biệt về quyền tác giả
2.1. Phạm vi bảo hộ quyền tác giả
Điều 749 Bộ luật Dân sự Việt nam quy định về nội dung các tác phẩm không được Nhà nước Việt nam tiến hành bảo hộ quyền tác giả. Như vậy Điều 749 Bộ luật Dân sự đã diễn đạt không theo Điều 2 của Công ước Berne và do đó nó chưa phù hợp với quy định của Điều 9.1 Hiệp định TRIPs.
Trên thực tế, phạm vi bảo hộ quyền tác giả ở Việt nam sẽ được mở rộng và phù hợp hoàn toàn với TRIPs bằng cách loại bỏ khỏi Chương về quyền tác giả các ngăn cấm trong Điều 749 của Bộ luật Dân sự. Mục tiêu này có thể đạt được nếu như Việt nam xem xét sử dụng các quy định hoặc luật khác để thực hiện việc giới hạn phạm vi bảo hộ các đối tượng quyền tác giả. Điều này có thể hoàn toàn làm được trong bối cảnh các văn bản pháp luật về bảo hộ quyền tác giả của Việt nam chưa hoàn thiện và Thông tư hướng dẫn việc thực thi Nghị định 76/CP về quyền tác giả chưa ra đời. Sẽ có ngày càng nhiều đối tượng từ nước ngoài đăng ký bảo hộ quyền tác giả tại Việt nam. Bởi vậy, việc mở rộng phạm vi bảo hộ các đối tượng quyền tác giả là cần thiết và hoàn toàn có lợi trong bối cảnh Việt nam đang thực hiện tự do hoá thương mại. Chính điều này sẽ giúp chúng ta có được nhiều sản phẩm tinh thần để phục vụ cho nhu cầu trong nước. Tuy nhiên, việc chọn lọc, loại bỏ những sản phẩm không phù hợp với đạo đức và truyền thống văn hoá Việt nam vẫn cần phải được chú ý.
2.2. Về chương trình máy tính và các bộ sưu tập dữ liệu
Theo như quy định tại Điều 10 Hiệp định TRIPs thì chương trình máy tính và bộ sưu tập dữ liệu đã trở thành một trong các đối tượng thuộc lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả của Việt nam. Tuy nhiên, cho đến nay Việt nam vẫn chưa có một quy định chi tiết nào hướng dẫn việc bảo hộ đối với đối tượng này. Điều này sẽ gây khó khăn trong công tác thực thi bảo hộ quyền tác giả tại Việt nam trong khi đây đang là mối quan ngại của các thành viên WTO đối với các nước đang xin gia nhập.
Chương trình máy tính và các bộ sưu tập là một loại đối tượng có tính chất khá phức tạp. Chúng phải luôn được cài đặt trong máy tính ngay cả khi để sử dụng hợp pháp. Vì thế, việc sao chép các chương trình này là rất dễ dàng. Mặc dù vậy , nếu việc sao chép một chương trình máy tính lại được coi là một bước cần thiết trong việc khai thác, vận hành một chương trình khác có liên quan và không sử dụng vào mục đích khác thì không bị coi là xâm phạm bản quyền đối với một chương trình máy tính. Ngoài ra các chương trình máy tính lại có nhiều dạng thể hiện khác nhau như thuật toán , mã nguồn , mã máy... nên không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng xác định được một dạng thể hiện chương trình máy tính cụ thể nào đó đã bị sao chép hay chỉ là ý tưởng của chương trình đó bị sao chép (ý tưởng thì không được bảo hộ quyền tác giả). Qua đó, chúng ta có thể thấy được tính chất phức tạp trong việc bảo hộ đối tượng này. Việc ban hành một văn bản hướng dẫn bảo hộ đối tượng này là cần thiết và cấp bách trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Nó sẽ giúp cho việc bảo hộ các chương trình máy tính và các bộ sưu tập dữ liệu thuận lợi và chính xác hơn. Đồng thời hạn chế việc ăn cắp bản quyền và tạo điều kiện cho ngành công nghiệp phần mềm của Việt nam phát triển. Thêm nữa nó khuyến khích các công ty máy tính nước ngoài đầu tư nhiều hơn vào ngành công nghiệp non trẻ mang lại giá trị gia tăng to lớn này của Việt nam, góp phần vào việc thực hiện chiến lược của Chính phủ coi công nghệ thông tin là một ngành mũi nhọn trong tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước.
2.3. Các tác phẩm khuyết danh và bí danh
Điều 9.1 Hiệp định TRIPs và Điều 15.3 của Công ước Berne quy định nhà xuất bản có ghi trên tác phẩm được xem là đại diện của các tác giả và có thẩm quyền bảo hộ và thự c thi các quyền của tác giả đối với các tác phẩm khuyết danh và bí danh. Quyền này của nhà xuất bản sẽ chấm dứt khi tác giả tiết lộ danh tính và chứng minh mình là tác giả.
Các quy định về bảo hộ quyền tác giả của Việt nam lại chưa đề cập đến vấn đề này và như vậy nó chưa hoàn toàn phù hợp với Hiệp định TRIPs. Việc bổ xung quy định này sẽ là cần thiết nhằm hoàn thiện công tác bảo hộ quyền tác giả tại Việt nam.
3. Khác biệt về chế độ đãi ngộ quốc gia
Hiệp định TRIPs quy định mỗi thành viên của WTO phải dành cho các công dân của các nước thành viên chế độ đối xử như quốc gia đó dành cho công dân của nước mình về việc bảo hộ quyền SHTT. Nói một cách khác, quy định muốn nói đến nghĩa vụ của một nước thành viên WTO bất kỳ phải đối xử với những người nứơc ngoài từ những nước thành viên WTO khác theo một phương thức giống như nước thành viên WTO đó dành cho công dân của nước mình. Cơ sở của nguyên tắc này là mọi nước thành viên phải bình đẳng trong đối xử công dân đối với việc bảo hộ quyền SHTT không phân biệt biên giới quốc gia.
Trong thực tế hiện nay, chế độ phí và lệ phí trong hệ thống bảo hộ SHTT của Việt nam vẫn chưa phù hợp với quy định của TRips về đãi ngộ quốc gia. Tồn tại hai hệ thống phí và lệ phí sở hữu trí tuệ cho công dân Việt nam và người nước ngoài. Đây là một điểm không phù hợp với TRIPs mà Việt nam cần thay đổi khi gia nhập WTO. Tuy nhiên, sự điều chỉnh này sẽ làm ngân sách Nhà nước bị thất thu một khoản tài chính không nhỏ. Đồng thời, lượng đơn xin đăng ký bảo hộ các đối tượng SHTT tại Việt nam có thể sẽ tăng lên gây khó khăn cho công tác quản lý vẫn còn đang non yếu của Việt nam.
4. Khác biệt về chế độ đãi ngộ tối huệ quốc
Hiện nay, Việt nam đã có hợp tác song phương về quyền SHTT với một số nước. Một số văn bản song phương đã được ký kết như Hiệp định về quyền tác giả đối với Hoa Kỳ, Hiệp định hợp tác về quyền sở hữu công nghiệp đối với Thái Lan, Pháp. Tuy nhiên, cho đến nay Việt nam đều đối xử bình đẳng với tất cả các nước trong vấn đề bảo hộ quyền SHTT mà không hề có đãi ngộ tối huệ quốc cho bất kỳ một quốc gia nào .
5. Khác biệt về thực thi và triển khai các quy định về SHTT
Trong khi có thể không mấy khó khăn để Việt nam tạo được ra một khung pháp luật về bảo hộ SHTT phù hợp với TRIPs thì việc thực thi trên thực tế lại là một vấn đề khó khăn hơn nhiều. Một hệ thống pháp luật chỉ thực sự là tốt nếu nó được thực thi tốt.
Cùng với việc phát triển mạnh mẽ các quan hệ kinh tế đối ngoại, hợp tác đầu tư của Việt nam như hiện nay, việc thực thi quyền SHTT sẽ là thách thức lớn đối với Chính phủ Việt nam cả trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế. Vấn đề này ngày càng được quan tâm nhiều hơn từ phía Nhà nước, các doanh nghiệp cũng như toàn xã hội. Do phạm vi bảo hộ các đối tượng SHTT rất rộng, cũng như công tác bảo hộ phải được đảm bảo bằng hệ thống hành chính truyền thống hiện hành nên việc đặt ra các chuẩn mực tối thiểu cho việc thực thi quyền SHTT là rất khó. Chính vì vậy mà quyền thực thi SHTT hiện nay của Việt nam còn nhiều điều cần phải xem xét khi tham gia TRIPs.
Xem xét hệ thống các quy định để đảm bảo thực thi quyền SHTT tại Việt nam hiện nay, chúng ta thấy còn những khoảng cách lớn so với yêu cầu của TRIPs như sau:
- Các Điều 42 đến Điều 48 và Điều 50 của Hiệp định TRIPs quy định về các thủ tục dân sự đối với việc thực thi quyền SHTT. Công văn số 97-KHXX ngày 21/08/1997 của Toà án Nhân dân Tối cao về thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp quy định các tranh chấp về quyền SHTT tại Việt nam thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp tỉnh , thành phố trực thuộc Trung ương. Nếu một trong hai bên đương sự là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thì tranh chấp sẽ do toà án Hà nội hoặc Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết theo yêu cầu của nguyên đơn.
Tuy hiện nay Việt nam đã có những quy định về thủ tục xét xử dân sự đối với các hành vi vi phạm quyền SHTT, nhưng trong thực tế có rất ít các vi phạm về quyền SHTT được giải quyết tại Toà án do hình thức này chỉ mới xuất hiện tại Việt nam, chưa tạo thành thói quen trong xã hội. Điều này gây ra những khó khăn không nhỏ cho công tác thực thi của Việt nam theo yêu cầu của TRIPs. Bên cạnh đó, các nhà doanh nghiệp đều không mong muốn các vi phạm về SHTT bị đem ra công khai tố tụng trước toà. Điều đó sẽ làm mất tín nhiệm và triển vọng kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhận thức chung cũng cho rằng các thủ tục tố tụng thường quá phức tạp và tốn kém.
Đồng thời, với tính chất là quyền được xác lập bởi Bộ luật Dân sự, quyền SHTT phải được bảo hộ thông qua các thủ tục tố tụng dân sự. Tuy vậy cho đến nay, Việt nam vẫn chưa có Bộ luật tố tụng dân sự để các cơ quan chức năng có thể thực hiện được các thủ tục tố tụng cần thiết trong việc thực thi quyền SHTT.
- Điều 49 của TRips quy định trong những trường hợp nhất định, các thủ tục hành chính có thể thay thế các thủ tục dân sự trong chừng mực mà hai loại thủ tục đó tương đương về bản chất. Có thể thấy đây là một quy định khá quan trọng của TRips đối với vấn đề thực thi quyền mà Việt nam chưa đáp ứng được do hiện tại vẫn thiếu các quy định và thủ tục xử phạt hành chính đối với các hành vi xâm phạm quyền SHTT.
- Mục IV từ Điều 51 đến Điều 60 của TRIPs quy định về các yêu cầu đặc biệt liên quan đến các biện pháp kiểm soát biên giới. Các biện pháp kiểm soát biên giới được quy định trong TRips chủ yếu liên quan đến hàng hoá mang nhãn hiệu và hàng hoá được bảo hộ bản quyền. Nội dung chính của nguyên tắc này là chủ bản quyền hoặc chủ nhãn hiệu hàng hoá chủ động yêu cầu Hải quan thu giữ hàng hoá xâm phạm, hoặc cơ quan Hải quan thu giữ hàng hoá xâm phạm và sau đó chủ nhãn hiệu hàng hoá hoặc chủ bản quyền liên quan yêu cầu cơ quan Hải quan thu giữ hàng hoá đó.
Các nguyên tắc của TRIPs trong phần này tuy khá đơn giản nhưng lại thấy rõ ràng việc thực thi các quy định này đối với một nước như là Việt nam lại không phải là việc dễ dàng. Hải quan Việt nam là cơ quan duy nhất có khả năng, thẩm quyền và trách nhiệm kiểm soát thương mại đối với quyền SHTT tại biên giới. Do vậy, nó là một trong những cơ quan giữ vai trò quan trọng bậc nhất đối với việc bảo hộ một cách hiệu quả quyền SHTT. Nhưng hiện tại vai trò và khả năng của cơ quan này lại chưa được phát huy trọn vẹn do vẫn chưa có các quy định pháp lý đầy đủ giao quyền kiểm soát về SHTT cho Hải quan, nhất là thẩm quyền sử phạt vi phạm hành chính về SHTT trong hoạt động xuất nhập khẩu; chưa có các quy định về thủ tục hành chính trong việc kiểm soát biên giới trong lĩnh vực SHTT.
Mục V Điều 61 Hiệp định TRIPs đề cập đến các chế tài hình sự có tính chất bắt buộc áp dụng đối với các hành vi cố ý làm giả nhãn hiệu hàng hoá và hàng xâm phạm bản quyền với quy mô thương mại. Chế tài hình sự áp dụng cho việc thực thi quyền SHTT tại Việt nam quy định tại Điều 167 Bộ luật Hình sự đối với hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả. Tuy nhiên khung phạt cho loại tội này lại quá rộng gây khó khăn cho việc định hình phạt một cách phù hợp và nhất quán.
Tuy còn nhiều điểm chưa phù hợp với Hiệp định TRIPs nhưng hệ thống pháp luật về SHTT của Việt nam trong những năm qua đã đạt được những thành tựu nhất định góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, thương mại phát triển. Việt nam còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật SHTT cho phù hợp với những yêu cầu và thông lệ quốc tế, khó khăn lớn nhất đối với Việt nam là các biện pháp để thực thi khuôn khổ pháp lý đó. Tuy nhiên , đây cũng chính là cơ hội và thách thức để Việt nam tự khẳng định vị thế của mình trên phạm vi quốc tế.
Chương III
Hoàn thiện pháp luật Việt nam về SHTT tiến tới gia nhập WTO
I ) Phương hướng hoàn thiện
Xuất phát từ thực trạng của cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ SHTT của nước ta hiện nay, căn cứ vào các đòi hỏi khách quan phải đổi mới, việc hoàn thiện pháp luật Việt nam về SHTT có các phương hướng cơ bản sau đây:
1. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền SHTT
Cho đến nay, hệ thống pháp luật về quyền SHTT của Việt nam đã được nhiều lần sửa đổi và đã gần gũi hơn nhiều với các văn bản pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên trong hệ thống pháp luật của chúng ta vẫn còn tồn tại một số bất cập mà việc sửa đổi và bổ sung những bất cập này là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Nó cũng phù hợp với đường lối chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay đó là mở rộng và hội nhập hơn nữa với nền kinh tế thế giới. Và với tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật như vũ bão hiện nay, việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền SHTT là điều kiện tiên quyết để Việt nam có được công nghệ mới, tạo đà cho việc theo kịp các nền kinh tế phát triển.
Với các yêu cầu nêu trên, hiện nay Việt nam cần ban hành, bổ sung các văn bản pháp luật còn thiếu để tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực thi quyền SHTT tại Việt nam. Ngoài những quy định về SHTT trong Bộ luật Dân sự, Việt nam cần có một luật riêng về SHTT cho phù hợp với hệ thống pháp luật chung của thế giới. Luật mới này phải gần hơn với các luật, các Công ước, Hiệp ước quốc tế; khuyến khích sự sáng tạo và ứng dụng công nghệ mới, bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, công bằng, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của người tiêu dùng. Chính phủ cũng cần xem xét việc Việt nam tham gia một cách đầy đủ, tích cực hơn nữa vào các văn bản pháp luật quốc tế về SHTT như: Công ước Berne, Hiệp định Trips..., vì đây chính là bước đi cần thiết để Việt nam tiến tới hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
2. Đổi mới và hoàn thiện bộ máy thực thi bảo hộ quyền SHTT
Tình hình vi phạm nghiêm trọng quyền SHTT ở Việt nam hiện nay ngoài sự thiếu hiểu biết về pháp luật của người dân, sự lỏng lẻo thiếu sót của hệ thống pháp luật còn có phần trách nhiệm không nhỏ của bộ máy thực thi bảo hộ quyền SHTT. Sự yếu kém về chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ quản lý và việc không thống nhất trong quá trình thực thi bảo hộ quyền SHTT của các Bộ, ngành hữu quan là nguyên nhân không nhỏ trong việc vi phạm này. Do vậy, việc đổi mới và hoàn thiện bộ máy thực thi bảo hộ quyền SHTT là đòi hỏi cấp bách trong quá trình cải cách kinh tế ở Việt nam hiện nay.
Các bộ có trách nhiệm thực thi quyền SHTT đó là: Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Bộ Văn hoá - Thông tin, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan, Bộ Thương mại. Cơ quan có thẩm quyền thực hiện các thủ tục pháp lý liên quan đến việc xác lập và bảo hộ quyền SHTT là Cục sở hữu Công nghiệp thuộc Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường và Cục Bản quyền Tác giả thuộc Bộ Văn hoá - Thông tin.
Để đáp ứng yêu cầu về thực thi quyền SHTT trong nền kinh tế thị trường như hiện nay đòi hỏi các Bộ, các ngành liên quan cần đổi mới tổ chức và hoạt động của mình theo hướng phát triển cơ cấu. Tăng cường về số lượng và chất lượng cho cán bộ quản lý. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng của các Bộ, ngành, tạo ra một hệ thống liên lạc thông suốt giữa các cơ quan hữu quan giúp cho việc thực thi quyền SHTT được tiến hành đồng bộ và thuận lợi. Ban hành các thông tư liên bộ hướng dẫn thực thi quyền SHTT.
Ngoài ra, Chính phủ cũng cần hỗ trợ cho việc thành lập các hiệp hội, các tổ chức đại diện SHTT như: Hội sở hữu công nghiệp Việt nam, Hội quảng cáo Việt nam, Hiệp hội phim ảnh Việt nam, Hiệp hội âm nhạc Việt nam... Các hiệp hội này ra đời sẽ hỗ trợ các cơ quan của Chính phủ trong việc thực thi quyền SHTT một cách có hiệu quả.
3. Đổi mới cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hộ quyền SHTT
Hiện nay, việc giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hộ quyền SHTT ở Việt nam còn bị đánh giá là quá phiền phức, tốn nhiều thời gian của các bên đương sự. Do đó dẫn đến tình trạng tồn đọng một số lượng lớn hồ sơ các vụ kiện chưa được giải quyết. Để cải thiện tình hình này, Việt nam cần mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án, trao quyền rộng rãi hơn cho các cơ quan Hải quan trong việc kiểm soát biên giới, nâng cao các biện pháp xử phạt nhằm giảm bớt sự vi phạm.
II ) Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt nam về SHTT
1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh nội dung quyền SHTT
Như đã nêu ở trên, ngoài Bộ luật Dân sự có hiệu lực từ ngày 01/07/1996 Việt nam cần xây dựng một luật mới về SHTT. Luật này cần đảm bảo những yêu cầu sau:
- Luật mới về SHTT phải thừa kế và phát triển các hệ thống pháp luật đã có về SHTT.
- Luật mới về SHTT phải tiếp thu những kinh nghiệm thực tiễn áp dụng pháp luật trong thời gian qua kể cả những khía cạnh thành công và không thành công và thể hiện sự đổi mới quan hệ pháp luật và chế tài áp dụng pháp luật.
- Luật mới về SHTT phải gần hơn với các luật, các công ước hiệp ước quốc tế. Từ thực tiễn nước ta chuyển từ cơ chế quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, quyền SHTT từ chỗ phần lớn thuộc về Nhà nước nay chuyển sang sở hữu tư nhân, việc nước ta phải điều chỉnh pháp luật cho phù hợp với luật pháp quốc tế về SHTT là bước đi thích hợp để Việt nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại quốc tế. Do vậy luật pháp của chúng ta phải gần gũi hơn với luật pháp quốc tế thì mới thúc đầy mạnh mẽ quá trình đầu tư kinh tế, thương mại.
- Luật mới về SHTT phải đầy đủ và cụ thể hơn tạo ra cơ sở pháp lý đầy đủ để bảo hộ quyền SHTT. Điều này là cần thiết vì hiện nay Bộ luật Dân sự chủ yếu là các quy định liên quan đến các khía cạnh dân sự của SHTT. Những quy định về thủ tục hành chính nhất là thủ tục xác lập quyền SHTT bằng biện pháp hành chính cũng như các quy định về trình tự tố tụng liên quan tới SHTT, các biện pháp kiểm soát biên giới (là những quy định có tầm quan trọng hàng đầu đối với việc bảo hộ SHTT) đều không có trong Bộ luật Dân sự hoặc chỉ có trong các văn bản dưới luật thì pháp luật sẽ kém có hiệu lực và dẫn đến việc thực thi sẽ gặp nhiều khó khăn. Luật mới về SHTT phải đủ cụ thể để tránh việc vận dụng tuỳ tiện trong việc thừa nhận quyền và xử lý tranh chấp.
- Luật mới về SHTT phải khuyến khích sự sáng tạo và ứng dụng công nghệ mới, bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, công bằng, chống mọi hành vi cạnh tranh thiếu trung thực, làm hàng giả, bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, của người tiêu dùng.
Những nội dung đề nghị đổi mới trong Luật về SHTT so với các quy định của Bộ luật Dân sự và pháp luật hiện hành:
* Về đối tượng SHTT: Trong Bộ luật Dân sự, Điều 749 quy định về các tác phẩm không được Nhà nước bảo hộ. Điều này không phù hợp với nội dung của Công ước Berne, do đó trong Luật mới về SHTT nên được sửa lại như sau: "Nhà nước không bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm trái với luật pháp hay đạo đức xã hội hoặc có hại cho an ninh quốc gia và lợi ích công cộng".
* Về thời hạn bảo hộ: Điều 791 (BLDS) quy định các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ trong thời hạn văn bằng bảo hộ có hiệu lực và được gia hạn theo quy định của pháp luật những lại không quy định cụ thể thời hạn có hiệu lực và gia hạn của văn bằng bảo hộ. Vì vậy, trong Luật mới nên quy định cụ thể như sau: Thời hạn hiệu lực văn bằng bảo hộ là 20 năm đối với sáng chế, 10 năm đối với giải pháp hữu ích và 5 năm đối với kiểu dáng công nghiệp (có thể giới hạn thêm một lần 5 năm nữa).
* Về thủ tục xác lập quyền: Đây là phần nội dung lớn nhất trong Luật mới về quyền SHTT. Các điều trong luật mới bắt buộc phải chi tiết đến mức tạo ra cho các văn bằng bảo hộ hiệu lực pháp lý đầy đủ của một văn bằng bảo hộ quyền được xác nhận theo luật. Nội dung của phần này được quy định tuân theo nguyên tắc đơn giản hoá thủ tục, bãi bỏ các thủ tục phiền hà và khác biệt với thủ tục thường có tại các nước khác, cố gắng phù hợp với các điều ước mà nước ta đang là thành viên hoặc chuẩn bị tham gia. Trong đó có một số điểm cụ thể như sau:
- Quyền nộp đơn cần được quy định rõ thêm nhất là đối với nhãn hiệu hàng hoá và đối với việc nộp đơn ra nước ngoài.
- Trình tự xem xét đơn sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp cần bổ sung khâu công bố trước khi cấp bằng để nâng cao độ tin cậy của văn bằng, giảm bớt số văn bằng được cấp nhưng không đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ do thiếu thông tin dữ liệu.
- Trình tự xét nghiệm sáng chế chuyển từ chế độ xét nghiệm nội dung bắt buộc đối với tất cả các đơn sáng chế sang chế độ xét nghiệm theo yêu cầu để giảm bớt tải trọng và chi phí xét nghiệm.
- Các quy định về điều kiện duy trì hiệu lực bảo hộ văn bằng bảo hộ nhãn hiệu cần được làm rõ hơn, chặt chẽ và phù hợp hơn nhất là đối với nhãn hiệu không được sử dụng liên tục hoặc sáng chế bị huỷ bỏ quyền sở hữu.
* Về chế độ đãi ngộ tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia cần được quy định cụ thể trong phần các quy định chung và các nguyên tắc cơ bản của Luật mới về SHTT.
Ngoài ra, Việt nam cũng cần phải từng bước tham gia đầy đủ và sâu rộng hơn vào hệ thống các công ước quốc tế về SHTT bằng cách quy định trong Luật về SHTT các điều khoản thi hành các công ước quốc tế mà Việt nam đã tham gia hoặc ký kết. Việc trở thành thành viên của các công ước này là điều kiện quan trọng để có được thành công trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực kinh tế.
2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về bộ máy thực thi bảo hộ quyền SHTT
ở Việt nam cơ quan có thẩm quyền thực hiện các thủ tục pháp lý liên quan đến việc xác lập và bảo hộ quyền SHTT là Cục sở hữu Công nghiệp và Cục Bản quyền Tác giả và các Bộ ngành liên quan. Tiến hành hoàn thiện các quy định pháp luật về bộ máy thực thi bảo hộ quyền SHTT chính là việc quy định đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cơ quan này.
Đối với Cục sở hữu Công nghiệp: Do nhu cầu của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước cùng với việc phát triển mạnh mẽ kinh tế đối ngoại và đầu tư nước vào Việt nam, số lượng đơn đăng ký các đối tượng SHTT của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước ngày càng tăng làm cho tải trọng công việc của Cục sở hữu Công nghiệp ngày càng lớn. Trước tình hình đó, cơ cấu tổ chức của Cục sở hữu Công nghiệp sẽ phải thay đổi theo xu hướng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đó là việc tăng cường số lượng cán bộ nhân viên trong đó phải có 70% là cán bộ đảm nhận công tác xét nghiệm các đối tượng sở hữu công nghiệp; cân đối giữa các xét nghiệm sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá. Trung tâm thông tin tư liệu sở hữu công nghiệp phải phát triển và đáp ứng ngày càng nhanh cho các nhu cầu tra cứu cũng như nghiên cứu và xét nghiệm đơn, áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, nối mạng với hai trung tâm lớn là Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh và với các Bộ ngành liên quan như Bộ Thương mại, Tổng cục Hải quan, Công an kinh tế... Các phòng đăng ký đơn với phòng chuyên môn phải được nối mạng với nhau để tạo thành một hệ thống thông tin sở hữu công nghiệp hoàn chỉnh phục vụ cho việc quyết định cấp văn bằng bảo hộ chính xác và có độ tin cậy cao. Một trong những vấn đề vô cùng quan trọng là phải nâng cao nhận thức và tầm quan trọng về bảo hộ quyền SHTT thông qua việc tăng cường công tác đào tạo, mở các lớp bồi dưỡng lý luận về pháp luật, tổ chức các Hội thảo quốc tế cho cán bộ của các đơn vị hữu quan.
Đối với Cục Bản quyền Tác giả: Cần phải tăng cường số lượng và chất lượng cán bộ thông qua việc mở các lớp đào tạo chuyên ngành, tổ chức các cuộc Hội thảo quốc tế có sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài nhiều kinh nghiệm. Thiết lập một mạng lưới thông tin rộng rãi không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà còn cần tiến tới nối mạng với các Hiệp hội, tổ chức quốc tế đại diện cho quyền tác giả.
Đối với các Bộ các ngành, để đổi mới và hoàn thiện hoạt động bảo hộ quyền SHTT, cần phải có sự phối hợp đồng bộ và có hiệu quả cao giữa các cơ quan bảo hộ pháp luật, giải quyết nghiêm minh các vụ vi phạm. Các đơn vị thuộc Bộ ngành đó phải tuân thủ pháp luật về bảo hộ SHTT, tổ chức đào tạo và bồi dưỡng cán bộ chuyên trách, xây dựng các chức năng nhiệm vụ về SHTT thuộc ngành mình. Thiết lập hệ thống thông tin tra cứu cập nhật cho tất cả các đơn vị thực thi pháp luật: Hải quan, thương mại, đầu tư, công an kinh tế của các địa phương...Có như vậy mới xử lý nhanh chóng và kịp thời các vụ việc có liên quan đến tranh chấp, vi phạm quyền SHTT. Ngoài ra, các cơ quan nói trên cũng cần phải thống nhất ban hành một thông tư liên bộ tạo điều kiện cho việc thực thi quyền SHTT được tiến hành một cách thuận lợi.
Ngoài các tổ chức Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức đại diện SHTT cũng có vai trò hết sức quan trọng. ở các nước có nhiều Hiệp hội và Hội ra đời: như Hiệp hội đại diện Patent châu á (APAA), Hiệp hội nhãn hiệu hàng hoá cộng đồng châu Âu (ECTA), Hội nhãn hiệu hàng hoá quốc tế (INTA)... Các Hội và Hiệp hội này có điều lệ cương lĩnh rõ ràng và hoạt động rất mạnh nhằm hỗ trợ các cơ quan của Chính phủ bảo đảm việc thực thi có hiệu quả việc bảo hộ quyền SHTT. Nguồn tài chính của Hội là do các hội viên đóng góp. Do đó sự phát triển hoàn thiện hệ thống bộ máy bảo hộ quyền SHTT phải kể đến việc thành lập và đi vào hoạt động của các tổ chức phi Chính phủ. Nhà nước cần phải khuyến khích và tạo điều kiện thành lập các Hội đại diện cho SHTT như: Hội sở hữu công nghiệp Việt nam, Hội quảng cáo Việt nam, Hiệp hội phim ảnh Việt nam, Hội âm nhạc Việt nam...Các tổ chức này đóng một vai trò hết sức quan trọng, góp phần hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước trong việc xác lập và bảo hộ quyền SHTT.
3. Kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm về bảo hộ quyền SHTT
Nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm về bảo hộ quyền SHTT, cần bổ sung vào pháp luật các nội dung sau đây:
- Quy định biện pháp khẩn cấp tạm thời: trong qua trình giải quyết vụ án, Toà án tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện kiểm sát, của đương sự có thể áp dụng những biện pháp cần thiết để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự hoặc để bảo vệ bằng chứng (như kê biên sản phẩm đã sản xuất lưu thông vi phạm quyền sở hữu công nghiệp, buộc người sản xuất đình chỉ những việc đó). Quyết định của Toà án phải thi hành ngay nhưng đương sự có quyền khiếu nại và Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Chánh án Toà án xem xét lại quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời.
- Quy định phương pháp hoà giải: trước khi xét xử tại Toà án nên tiến hành hòa giải tranh chấp giữa tổ chức, cá nhân được bảo hộ và bên vi phạm quyền SHTT. Nếu hoà giải thành công và sau một thời hạn là 15 ngày mà các đương sự không thay đổi ý kiến hoặc Viện kiểm sát không phản đối sự thoả thuận đó thì Toà án ra quyết định công nhận sự hoà giải giữa các bên. Trong trường hợp ngược lại thì Toà án đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục tố tụng.
- Đổi mới việc xét xử các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo hướng tăng nặng hình phạt. Toà án xử phạt các hành vi vi phạm theo khung phạt của luật hình sự:
+ Khung 1 (cấu thành cơ bản) có mức phạt tù từ 2 đến 10 năm.
+ Khung 2 (cấu thành tăng nặng) có mức phạt tù từ 7 đến 15 năm áp dụng trong các trường hợp sau:
- Hàng giả là lương thực, thực phẩm , thuốc chữa bệnh, phòng bệnh, vật liệu xây dựng, phân bón, thuốc trừ sâu.
- Có tổ chức hoặc có tính chuyên nghiệp, hàng giả có số lượng lớn.
+ Khung 3 (cấu thành đặc biệt tăng nặng) có mức phạt tù từ 13 đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình trong trường hợp gây chết người.
- Mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án trong việc bảo hộ quyền SHTT.
Hiện nay do chế độ thực thi quyền SHTT chưa đạt được hiệu quả cao vì vậy cẩn phải thiết lập một chế độ thực thi quyền SHTT một cách toàn diện thông qua mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án trong việc bảo hộ quyền SHTT. Toà án có quyền ra lệnh khẩn cấp tạm thời. Toà án có quyền tiến hành các thủ tục thực thi để cho phép việc kiện có hiệu quả chống lại bất kỳ hành vi vi phạm quyền SHTT nào. Toà án đòi hỏi phải bồi thường nhanh chóng để ngăn ngừa các vi phạm và các khoản bồi thường để ngăn ngừa những vi phạm tiếp theo. Các thủ tục này của Toà án được áp dụng theo một cách nào đó để tránh tạo ra các hàng rào đối với hoạt động thương mại hợp pháp. Các thủ tục của Toà án liên quan đến việc thực thi quyền SHTT phải hợp lý và công bằng, các thủ tục đó không được phức tạp hoá một cách không cần thiết hoặc tốn kém, hoặc đòi hỏi những hạn chế về thời gian một cách bất hợp lý. Ngoài ra Toà án có quyền ra lệnh rằng các hàng hoá được phát hiện có liên quan đến vi phạm, phải đưa ra khỏi vòng lưu thông thương mại mà không có bất kỳ một sự bồi hoàn nào, để có thể tránh bất cứ thiệt hại nào có thể gây ra cho chủ sở hữu.
- Trao quyền rộng rãi hơn cho các cơ quan Hải quan trong việc kiểm soát biên giới nhằm bảo hộ quyền SHTT.
Hải quan có quyền tạm giữ hàng hoá bị nghi nghờ là hàng giả hoặc hàng vi phạm quyền SHTT trên đường vận chuyền căn cứ vào yêu cầu của chủ sở hữu quyền hoặc tự mình chủ động tiến hành theo các quy định của pháp luật. Điều này hoàn toàn phù hợp với các quy định của các văn bản pháp luật quốc tế. Ngoài việc áp dụng biện pháp tạm giữ hàng hoá bị nghi nghờ là hàng giả hoặc vi phạm quyền Hải quan còn có quyền tạm giữ hàng hoá trong các trường hợp vi phạm khác về quyền SHTT như trong trường hợp hàng hoá mang dấu hiệu trang trí bên ngoài xâm phạm quyền đối với một kiểu dáng công nghiệp đã được đăng ký hoặc trường hợp hàng hóa có liên quan đến hoạt động sản xuất hàng hoá xâm phạm quyền đối với một quy trình đã được cấp bằng sáng chế. Việt nam cũng cần phối hợp với Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) để giải quyết và thực thi quyền SHTT.
Ngoài các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về SHTT, tác giả cũng kiến nghị đổi mới nội dung quản lý Nhà nước đối với các hoạt động bảo hộ quyền SHTT ở các ngành và các địa phương.
Quản lý Nhà nước các hoạt động bảo hộ quyền SHTT ở các ngành và các địa phương cần phải đổi mới nội dung theo các hướng sau đây:
- Theo dõi tình hình các văn bản pháp luật về SHTT tại địa phương, kiến nghị các biện pháp cụ thể hoá việc vận dụng các chính sách của Nhà nước về bảo hộ quyền SHTT và tổ chức thực hiện các chính sách đó.
- Xây dựng hệ thống quản lý Nhà nước các hoạt động bảo hộ quyền SHTT ở các địa phương và thực hiện các biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả của hệ thống đó.
- Tổ chức tuyên truyền chính sách pháp luật về bảo hộ quyền SHTT.
- Tư vấn, tổ chức công tác thông tin về SHTT.
- Góp phần thẩm định các dự án đầu tư, chuyển giao công nghệ.
Kết luận
Ngày nay vấn đề bảo hộ quyền SHTT đang nổi lên như là một trong những điểm mấu chốt của các mối quan hệ kinh tế - thương mại được nhiều quốc gia quan tâm. Trong những năm qua, trên thế giới đã có những quan điểm khác nhau, song việc bảo hộ quyền SHTT trên phạm vi quốc tế cũng như ở mỗi quốc gia đều gắn liền với pháp luật và cơ chế điều chỉnh pháp luật. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền SHTT có vai trò quan trọng trong việc góp phần thúc đẩy các hoạt động sáng tạo, đổi mới kỹ thuật, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế, khuyến khích các hoạt động nghiên cứu, triển khai đầu tư và chuyển giao công nghệ, bảo vệ lợi ích quốc gia. ở Việt nam, cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền SHTT đã có những bước tiến đáng kể nhưng vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý, những tồn tại cần phải được đổi mới và hoàn thiện. Đây là đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước mà đường lối Đại hội VIII của Đảng đã vạch ra, là đòi hỏi khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, là đòi hỏi của thị trường công nghệ, của chính sách kinh tế đối ngoại hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực của chúng ta hiện nay. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền SHTT là một quá trình thường xuyên, liên tục để Việt nam hoà nhập vào cộng đồng quốc tế, xây dựng đất nước Việt nam ngày càng hạnh phúc và phồn vinh.
Tài liệu tham khảo
1. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, 1992.
2. Bảo hộ có hiệu quả quyền SHCN giải quyết vi phạm quyền SHCN. Tài liêu hội thảo, Văn phòng quốc tế WIPO xuất bản, Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
3. Các văn bản pháp luật về sáng kiến và SHCN. Cục sáng chế, Uỷ ban Khoa học Nhà nước, Hà Nội, 1992.
4. Về các biện pháp xử lý đối với hành vi vi phạm quyền SHTT. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 12, Bộ Tư pháp, 1994.
5. Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, 1995.
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt nam. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
7. Hệ thống pháp luật về SHTT của Việt nam. Tài liệu hội thảo, Cục sở hữu Công nghiệp, Hà Nội, 1996.
8. Các văn bản pháp luật về SHCN. Bộ Công nghiệp, Vụ quản lý công nghệ và chất lượng sản phẩm, 1999.
9. Các văn bản pháp luật về quyền tác giả. Bộ Công nghiệp. Vụ quản lý công nghệ và chất lượng sản phẩm, 1999.
10. Báo cáo Dự án VIE/95/024.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36789.doc