Luận văn Chế độ hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng và thực tiễn áp dụng tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Long Giang

Với nền kinh tế còn nghèo nàn thì việc hoà nhập nền kinh tế nước ta vào sự phát triền của nền kinh tế thế giới là rất cần thiết. Nó sẽ tạo ra cho chúng ta rất nhiều cơ hội để phát triển. Nhưng để có thể thực hiện việc này một cách nhanh chóng thì việc đầu tiên chúng ta cần làm là hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về kinh tế. Sự cải cách về pháp luật, việc tạo ra một hệ thống pháp luật vững chắc, chặt chẽ, tiến bộ sẽ tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể từ đó chúng ta có thể dễ dàng trong việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và lựa chọn đối tác, cũng như nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.

doc93 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chế độ hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng và thực tiễn áp dụng tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Long Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giúp cho quá trình thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng của Công ty được thuận lợi và làm tăng uy tín của Công ty trên thương trường. 2. Thực hiện các cam kết thoả thuận trong hợp đồng Một hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng được coi là thực hiện xong khi các bên thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ thoả thuận trong hợp đồng. Công ty trách nhiệm hữu hạn Long Giang trong quá trình hoạt động của mình luôn luôn tuân thủ thực hiện các cam kết trong hợp đồng, đồng thời trong khả năng có thể tạo điều kiện cho các đối tác thực hiện tốt công tác hợp đồng. Công ty bằng sự cố gắng của mình luôn tránh những rủi ro của việc vi phạm hợp đồng. Một mặt, công ty luôn cố gắng làm tốt công tác hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng từ khâu chuẩn bị cho đến khâu ký kết, nhằm tạo điều kiện cho mình cũng như phía đối tác thực hiện tốt các cam kết trong hợp đồng, mặt khác trong quá trình thực hiện hợp đồng Công ty luôn thông báo đồng thời nhận các thông tin của phía đối tác về các vướng mắc trong quá trình tiến hành thực hiện hợp đồng. Công ty tiến hành thi công và bàn giao công trình đúng theo điều khoản về thời gian thực hiện, hoàn thành.Trong quá trình thực hiện, Công ty căn cứ vào yêu cầu về số lượng, chất lượng, kỹ thuật theo hợp đồng đã ký với nhà thầu chính để tiến hành mua sắm nguyên vật liệu sao cho phù hợp, đáp ứng được yêu cầu về kỹ, mỹ thuật công trình, hoàn thành nghĩa vụ của mình trong hợp đồng. Trong hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng Công ty thường có những nghĩa vụ sau: + Tự bố trí đủ nhân lực, vật tư, thiết bị, máy móc phục vụ thi công để đảm bảo tiến độ toàn công trình theo yêu cầu của bên A. + Trình CATALOG của các thiết bị đưa vào thi công và công nghệ khoan cọc nhồi cho từng loại thiết bị đó (vì Công ty chủ yếu nhận thi công cọc khoan nhồi cho các công trình xây dựng). + Thi công khoan cọc nhồi theo đúng qui trình được duyệt. + Chịu trách nhiệm về chất lượng cọc. + Chịu trách nhiệm về chất lượng công trình và bảo hành theo quy định hiện hành. Với các sản phẩm không đảm bảo chất lượng không được chủ công trình chấp thuận nghiệm thu thì Công ty phải chịu toàn bộ chi phí đã làm ra sản phẩm đó kể cả các chi phí cho việc phải phá đi làm lại theo yêu cầu của Chủ công trình. + Phải tuân thủ các trình tự thi công, di chuyển thiết bị, vật tư trong phạm vi thi công của toàn bộ công trường theo quy định của bên A và không gây cản trở thi công các hạng mục công việc khác. + Tổ chức an ninh và bảo vệ khu vực mà Công ty thi công, tự bảo quản vật tư thiết bị của mình và của bên A giao cho, nếu mất mát phải đền bù theo giá hiện hành. + Chịu trách nhiệm an toàn về con người, máy móc, thiết bị phục vụ thi công. Đảm bảo vệ sinh môi trường và cảnh quan chung trong khu vực thi công, toàn bộ vật liệu thải phải được đổ tại vị trí quy định được bên A và Chủ công trình chấp thuận. + Thực hiện đầy đủ các thủ tục thi công, nghiệm thu thanh toán, hoàn công trình, mở sổ nhật ký để ghi chép quá trình thi công theo đúng trình tự, quy định trong xây dựng cơ bản. + Công ty phải mua bảo hiểm cho toàn bộ thiết bị thi công, công nhân viên, các phương tiện vận tải hàng hoá. + Công ty không được phép chuyển nhượng hoặc cho thầu lại khối lượng công việc đã nhận của bên A khi chưa có sự chấp thuận của bên A bằng văn bản và sự chấp thuận đó nếu có sẽ không làm giảm cho Công ty bất kỳ trách nhiệm hay nghĩa vụ nào theo hợp đồng. Với việc hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình cũng như hoàn thành tốt các thoả thuận trong hợp đồng, Công ty Long Giang luôn tạo được uy tín và niềm tin đối với các nhà thầu chính. Do đó, trong năm 2002, Công ty đã tiến hành ký kết và thực hiện khoảng 19 hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng với các nhà thầu chính. Các công trình xây dựng này được phân bổ trên cả ba miền đất nước: Bắc- Trung- Nam. Đó là các công trình: Khu vực miền Bắc: + Khu đô thị Trung Hoà- Nhân Chính( 05 nhà chung cư). + Cầu Quán Toan- Hải Phòng. + Cầu vượt B14- đường cao tốc Nội Bài- Hạ Long. + Khu chung cư cao tầng Dịch Vọng- Cầu Giấy. + Nhà chung cư B10- Kim Liên. + Nhà chung cư số 18 Yên Ninh- Ba Đình- Hà Nội. + Nhà chung cư Xuân La- Tây Hồ- Hà Nội. + Nhà C- Đại học Mỏ Hà nội. + Nhà chung cư 262 Nguyễn Huy Tưởng- Quận Thanh Xuân- Hà Nội. + Công trình Cục thuế Hà Nội( đường Giảng Võ- HN). Khu vực miền Trung: + Cầu Bàn Thạch- Tỉnh Phú Yên. + Cầu Trường Hà- Tỉnh Thừa Thiên Huế. + Cầu Thạch Tuấn- Tỉnh Phú Yên. Khu vực miền Nam: + Cầu Bình Phước- TP HCM. + Cầu Bến Lức- Tỉnh Long An. + Cầu Thủ Bộ- Tỉnh Long An. + Cầu Cả Chát Nhỏ- Tỉnh Bến Tre. + Cầu Cả Chát Lớn- Tỉnh Bến Tre. + Trụ sở Tổng công ty VINACONEX phía Nam( số 47- Điện Biên Phủ- Quận 10- TP HCM). Có thể thấy rằng Công ty Long Giang đang ngày càng phát triển hơn trong lĩnh vực kinh doanh xây dựng. Chính điều này sẽ giúp Công ty mở rộng quy mô hơn nữa về hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước. 3. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng tại Công ty Khi có vi phạm hợp đồng bên vi phạm hợp đồng sẽ phải chịu phạt vi phạm hợp đồng. Trong quá trình ký kết hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng Công ty và phía đối tác cùng đàm phán mức phạt vi phạm hợp đồng. Điều khoản này được ghi rõ trong hợp đồng và phù hợp với quy định của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày 25/09/1989. Trong hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng của Công ty, điều khoản thưởng phạt hợp đồng thường được quy định cụ thể như sau: - Điều khoản thưởng: Do hai Công ty tự thoả thuận phù hợp với tình hình thực tế và tình hình kinh tế xã hội. Nhưng nhìn chung, điều khoản thưởng do thực hiện tốt hợp đồng giữa Công ty và đối tác cần phải xem xét thêm. Khái niệm "thực hiện tốt hợp đồng" là một khái niệm không có cơ sở khoa học. Thế nào là thực hiện tốt hợp đồng? Sau khi hợp đồng được ký kết và có hiệu lực, các bên phải thực hiện đúng hợp đồng và nếu thực hiện đúng hợp đồng là bình thường. Còn nếu các bên thực hiện không đúng, không đầy đủ hoặc không thực hiện hợp đồng là vi phạm hợp đồng. Thực hiện đúng hợp đồng là nghĩa vụ của các bên, do đó nó hoàn toàn là bình thường, chẳng có lý do gì để thưởng cả, còn bên nào vi phạm hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm vật chất. Vì vậy, khi các bên thoả thuận với nhau mức tiền thưởng theo tỷ lệ phần trăm giá trị hợp đồng hoặc bằng một số tiền tuyệt đối (Điều 13 Nghị định 17-HĐBT ngày 16-1-1990) đã dẫn đến tình trạng làm cho giá thành công trình cao hơn vì chẳng ai bỏ tiền túi ra thưởng mà đều lấy từ công trình. đặc biệt là các công trình của Nhà nước. Do đó trong quan hệ hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng giữa Công ty với các doanh nghiệp nhà nước không nên có điều khoản tuỳ nghi này vì sự "tuỳ nghi" đó có thể dẫn đến sự "tuỳ tiện" làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước. - Điều khoản phạt: do Công ty Long Giang thường là nhà thầu phụ (bên B) nên điều khoản về phạt vi phạm chủ yếu được quy định như sau: + Nếu bên B không hoàn thành công trình đúng thời hạn hợp đồng do nguyên nhân chủ quan thì bị phạt theo quy định hiện hành (từ 2% đến 12% giá trị phần hợp đồng vi phạm). + Nếu bên B không đảm bảo chất lượng phải chịu bù đắp mọi tổn thất do việc sửa chữa lại và phải chịu phạt giá trị dự toán phần không đảm bảo chất lượng. + Nếu thi công vì lý do nào đó bên B bỏ dở thì bên A sẽ giữ lại 30% kinh phí và coi đó như là khoản đền bù thiệt hại. + Nếu bên B thi công không đạt yêu cầu theo bảng tiến độ do bên A cấp và không chứng tỏ được đơn vị mình sẽ hoàn thành công việc đúng tiến độ chung thì bên A có quyền đơn phương huỷ bỏ hợp đồng thay thế bằng một nhà thầu khác có đủ năng lực thực hiện mà bên B không được khướu nại và không được thanh toán khối lượng đã làm ra. + Nếu bên A vi phạm nghĩa vụ thanh toán thì bị phạt hợp đồng theo mức lãi xuất tín dụng quá hạn của Ngân hàng Nhà nước tính từ ngày hết thời hạn thanh toán. Nhìn chung điều khoản về phạt vi phạm hợp đồng mà Công ty cùng đối tác thoả thuận nhằm củng cố quan hệ hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, nâng cao ý thức tôn trọng hợp đồng của cả hai bên, phòng ngừa hành vi vi phạm hợp đồng và khôi phục lợi ích của bên bị vi phạm. 4. Các biện pháp giải quyết tranh chấp kinh tế tại Công ty Các tranh chấp phát sinh trong quan hệ hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng thường là các tranh chấp về việc chấp hành không nghiêm chỉnh các điều khoản mà hai bên thoả thuận trong hợp đồng. Trong quá trình hoạt động của Công ty Long Giang hầu như không xảy ra tranh chấp gì lớn vì Công ty luôn cố gắng tránh việc vi phạm hợp đồng và luôn tuân thủ thực hiện các cam kết trong hợp đồng. Khi có tranh chấp xảy ra, Công ty thường có các biện pháp giải quyết như sau: + Cùng nhau tiến hành thương lượng trên tinh thần hợp tác, xây dựng nhằm tiến tới thống nhất biện pháp giải quyết sao cho hợp lý. + Nếu thương lượng không được thì vụ việc sẽ được giải quyết theo thủ tục tố tụng Toà án. Và đối với từng hợp đồng giao nhận thầu phụ cụ thể thì sẽ có quy định giải quyết theo thủ tục tố tụng Toà án ở đâu? đã được thoả thuận và ghi rõ trong hợp đồng. Tuy nhiên, trong xu hướng quan hệ hợp đồng ngày nay, các chủ thể đều không muốn sử dụng các biện pháp tài phán để giải quyết tranh chấp mà chủ yếu đều sử dụng biện pháp thương lượng. Không nằm ngoài xu thế đó, nhằm giữ gìn các quan hệ làm ăn tốt đẹp, Công ty Long Giang cũng chỉ dùng biện pháp thương lượng để giải quyết tranh chấp mà thôi. Từ trước tới nay, chưa có trường hợp nào Công ty phải nhờ đến Toà án kinh tế hoặc Trọng tài kinh tế để giải quyết tranh chấp. 5. Thanh lý hợp đồng Thanh lý hợp đồng là thủ tục cuối cùng để các bên chấm dứt quan hệ hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng. Theo quy định của pháp luật, hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng của Công ty Long Giang sẽ được thanh lý trong những trường hợp sau: - Hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng được thực hiện xong. - Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng đã hết và không có sự thoả thuận kéo dài thời hạn đó. - Hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng bị đình chỉ thực hiện hoặc huỷ bỏ. - Trường hợp chuyển giao hợp đồng, nếu có yêu cầu của các bên có quan hệ Hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng, hợp đồng cũng phải thanh lý. - Khi một bên ký hợp đồng là pháp nhân phải giải thể. Khi thanh lý hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng, Công ty cùng đối tác cùng tiến hành lập biên bản thanh lý hợp đồng. Trong biên bản xác định rõ mức độ thực hiện nội dung công việc đã thoả thuận trong hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng của các bên. Công ty Long Giang đã hoàn thành công trình với đầy đủ các yêu cầu về số lượng, chất lượng mỹ, kỹ thuật hay chưa; đối tác đã thanh toán số tiền ứng trước hay chưa. Từ đó mới xác định nghĩa vụ của các bên sau khi thanh lý hợp đồng. Thông thường, sau khi thanh lý hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng, bên A hoặc chủ công trình phải thanh toán nốt số tiền còn lại cho công ty Long Giang vào một ngày nhất định nào đó. Từ khi các bên ký vào biên bản thanh lý hợp đồng, quan hệ hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng được coi như chấm dứt. Riêng quyền của Công ty và nghĩa vụ của bên A (Chủ công trình) trong việc thanh toán số tiền còn lại được xác nhận trong biên bản thanh lý hợp đồng vẫn có hiệu lực pháp luật cho đến khi các quyền và nghĩa vụ đó được thực hiện. Chương III - Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc áp dụng pháp luật về hợp đồng giao nhận thầu xây dựng tại Công ty Long Giang I. Đánh giá tình hình thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng tại công ty 1.Những thành tựu mà Công ty đạt được trong thực hiện hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng Thứ nhất Về công tác tổ chức, quản lý thực hiện hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng: Công ty đã áp dụng hình thức giám sát, giao cho chỉ huy công trình chỉ đạo thi công để nâng cao năng suất lao động của công nhân, tạo điều kiện tăng thêm thu nhập cho người lao động (phụ cấp sản phẩm, phụ cấp tiền ăn) khiến họ an tâm làm việc. Từ đó, nâng cao lòng nhiệt tình, hăng say lao động của mỗi người công nhân, đảm bảo được tiến độ, các chỉ tiêu kỹ thuật và chất lượng thi công công trình, nâng cao hiệu quả của công tác thực hiện hợp đồng cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Với 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực xây dựng, Công ty đã lựa chọn được những cán bộ chỉ huy giỏi, có kiến thức tổng hợp, hiểu sâu về kỹ thuật, có nhiều kinh nghiệm trong thi công và xử lý các tình huống phức tạp về kỹ thuật, trực tiếp tham gia và giám sát việc thi công công trình. Bên cạnh đó, hệ thống trang thiết bị phục vụ thi công của Công ty ngày càng được bổ sung đáp ứng được các yêu cầu của thị trường. Nhìn chung, Công ty đã có nhiều cố gắng cải tiến rõ rệt về mặt tổ chức, quản lý thực hiện hợp đồng, nâng cao thu nhập cho người lao động, tạo nhiều kiện thuận lợi trong việc ký kết hợp đồng tiếp theo của Công ty. Thứ hai Về quản lý chất lượng công trình: Chất lượng công trình là một yếu tố đặc biệt quan trọng trong ba yếu tố mà chủ đầu tư dùng để xét thầu, và đồng thời đó cũng là một trong những điều khoản quan trọng được thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng. Trong xây dựng cơ bản, có rất nhiều chỉ tiêu để đánh giá chất lượng công trình vì một công trình xây dựng thường bao gồm nhiều hạng mục công trình tạo nên như: nền móng, xây, lắp đặt, điện nước..... Nội dung của quản lý chất lượng công trình trong xây dựng cơ bản bao gồm: Kế hoạch hoá chất lượng công trình. Theo dõi, kiểm tra, giám sát quá trình sản xuất thi công. Hoàn thiện chất lượng sản phẩm. Thực tế ở Công ty Long Giang, viêc thi công xây dựng các công trình, chất lượng công trình phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị thi công, trình độ chuyên môn tay nghề của công nhân. Do đó, công tác quản lý chất lượng công trình rất quan trọng, nếu lơ là sẽ dẫn đến những hậu quả không thể lường hết được. Thiệt hại xảy ra thì Công ty phải chịu hoàn toàn trách nhiệm, nhưng không chỉ có vậy Công ty sẽ còn bị giảm uy tín trên thị trường xây dựng. Xác định rõ vấn đề này, Công ty coi chất lượng công trình là một trong những mục tiêu hàng đầu, điều kiện tất yếu dẫn đến sự tồn tại và phát triển của Công ty. Công ty đã thực hiện triệt để các quy trình, quy phạm, định mức kinh tế kỹ thuật hiên hành như: + Quyết định số1242/1998/ QĐ- BXD ngày 25/11/1998 của Bộ xây dựng về việc ban hành định mức dự toán xây dựng cơ bản. + Quyết định số 439/ BXD- CSXD ngày 25/09/1997 của Bộ xây dựng về việc ban hành quy chuẩn xây dựng Việt Nam. Trong công tác nghiệm thu công trình, đòi hỏi phải có sự chính xác cao, Công ty thường áp dụng nghiệm thu từng phần công việc và thấy cách nghiệm thu này có hiệu quả hơn phương pháp nghiệm thu một lần khi công trình hoàn thành thi công. Bởi vì thực hiện theo cách này, Công ty sẽ tránh được tình trạng phải xử lý những sai sót mà công đoạn trước chưa khắc phục hết. Cán bộ kỹ thuật và chỉ huy công trình luôn bám sát hiện trường để chỉ đạo thi công, giám sát kỹ thuật, hướng dẫn công nhân thực hiện đúng quy trình kỹ thuật. Sau mỗi công đoạn phải có sự nghiệm thu nghiêm túc, dứt điểm.Tuỳ theo mức độ các công việc thi công mà Công ty sẽ tổ chức nghiệm thu theo các cấp khác nhau. Chính việc luôn chú trọng đến chất lượng công trình trong thực hiện hợp đồng, Công ty đã xây dựng được các công trình đạt yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng cao, có tính thẩm mỹ, phát huy tính hiệu quả của các công trình xây dựng. Những thành công này chứng tỏ sự cố gắng vượt bậc của Công ty nhằm góp phần và khẳng định uy tín của Công ty trên thị trường xây dựng, được chủ đầu tư và các nhà thầu chính đánh giá cao. 2. Những hạn chế trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng tại công ty Mặc dù trong công tác thực hiện hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng Công ty đã có nhiều cố gắng và đã đạt được những thành tích đáng kể. Song Công ty vẫn còn nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu, xem xét lại, khắc phục để nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác thực hiện hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng. Những hạn chế chủ yếu là: Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ra đời được một thời gian khá dài, hoàn cảnh nền kinh tế đất nước ta rất khác so với hiện nay. Thực tế hiện nay, nền kinh tế đã phát triển đa dạng và phong phú hơn rất nhiều, có một số đặc điểm kinh doanh mới nảy sinh làm xuất hiện các quan hệ kinh tế phức tạp hơn, khó nắm bắt hơn. Những vấn đề mới nảy sinh mà Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế chưa nắm bắt được đã tạo ra những thiếu sót của chính Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, cũng như gây ra một số khó khăn cho công tác hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng tại các doanh nghiệp mà điển hình là Công ty trách nhiệm hữu hạn Long Giang. Trong hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng của Công ty, Công ty Long Giang chủ yếu ký kết hợp đồng với các đối tác là nhà thầu chính (có đầy đủ tư cách pháp nhân), nên khi Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng cùng với Quy chế đấu thầu ra đời đã gây ra sự khó khăn trong việc lựa chọn nguồn luật điều chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng mà Công ty đã và sẽ ký kết. Vấn đề đặt ra là: Nguồn luật để điều chỉnh về hoạt động hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng sẽ là nguồn nào? Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế hay Nghị định 88/CP về Quy chế đấu thầu. Về cơ bản việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, Nghị định 88/CP về Quy chế đấu thầu lại là cơ sở cho các bên lựa chọn đối tác trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, đồng thời đó cũng là cơ sở để các bên tiến hành thương thảo hoàn thiện nội dung của hợp đồng. Điều này tạo ra sự lúng túng trong cách xác định luật điều chỉnh trong căn cứ pháp lý áp dụng trong công tác hợp đồng giao nhận thầu xây dựng tại Công ty, gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng của Công ty. Bên cạnh những khó khăn do khách quan mang lại trong công tác hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, Công ty còn gặp phải những khó khăn, tồn tại của chính mình. Đó là những hạn chế về: + Công ty chủ yếu tham gia ký kết hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng với các nhà thầu chính, Công ty chỉ là thầu phụ(bên B), do đó Công ty mới chỉ tạo được uy tín với các nhà thầu chính mà chưa tạo được vị thế cũng như tên tuổi của mình trong lĩnh vực đấu thầu. Cho nên, khả năng Công ty tham gia đấu thầu là ít và khả năng trúng thầu thấp. Từ khi thành lập đến nay, Công ty mới chỉ trúng thầu có 2 công trình xây dựng( công trình toà tháp Hoà Bình và công trình khách sạn Hoàn Kiếm). Sự cạnh tranh trên thị trường diễn ra gay gắt làm cho thị trường của Công ty có nguy cơ bị thu hẹp. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp xây dựng mới được thành lập đều có khả năng cạnh tranh cao. + Do năng lực tài chính còn hạn chế, trang thiết bị thi công mặc dù đã được bổ sung nhưng vẫn chưa đủ mạnh, trình độ của cán bộ quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác đấu thầu nên Công ty thường chỉ là nhà thầu phụ cho các nhà thầu lớn trong nước như VINACONEX, Tổng công ty xây dựng Hà nội...mà ít tham gia đấu thầu, mất đi một cơ hội có thể trúng thầu tiến hành ký kết và thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng với các doanh nghiệp khác.Mặt khác, mặt tài chính của Công ty hoạt động chưa thực sự hiệu quả. Trong thời gian qua, việc thực hiện các hợp đồng giao nhận thầu xây dựng do chưa có biện pháp chỉ đạo sâu sát, thường xuyên nên một số công trình còn chậm và giải pháp thu hồi công nợ chưa thực sự hiệu quả nên chưa tận thu được ở các công trình đã thi công và tồn đọng nợ. Điều này làm ảnh hưởng không tốt tới vấn đề tài chính của Công ty. Hơn nữa, trong bối cảnh hiện nay, khi mà đồng vốn thường quay vòng với tốc độ chóng mặt, không phải bất kỳ một chủ công trình nào cũng có sẵn trong tay nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản mà phải đều huy động từ nhiều nguồn khác. Do đó, số lượng vốn và thời gian vay phụ thuộc vào các tổ chức tín dụng, nhiều khi muốn có ngay cũng không được. Từ thực tế ấy, với những công trình lớn, thời gian thi công lớn, Công ty thường bị gặp khó khăn trong khâu chuẩn bị vốn phục vụ cho thi công. + Trong công tác thi công, quản lý chất lượng công trình của Công ty, ở một số khâu trong các công trình đôi lúc còn chưa được đảm bảo. Cán bộ kỹ thuật, chỉ huy công trường, đội truởng thi công nhiều khi không bám sát hiện trường nên sự sai sót trong thi công có lúc xảy ra làm tăng những chi phí không cần thiết, giảm lợi nhuận của Công ty. + Việc quản lý, sử dụng và đầu tư máy móc thiết bị chưa hợp lý. Hầu hết các công trình đều do chủ đầu tư hoặc nhà thầu chính cung cấp vật tư cho thi công. Do đó, Công ty không có sự chủ động trong việc cung cấp vật tư xây dựng, làm giảm tiến độ thi công công trình. Mặt khác, việc sử dụng máy móc, thiết bị thi công hiệu quả thấp dẫn đến chi phí sản xuất lớn và là một trong những nguyên nhân chính khiến cho một số công trình bị lỗ, nợ đọng kéo dài. Nếu như tình trạng này kéo dài chắc chắn Công ty làm ăn sẽ không hiệu quả, đồng thời sẽ đánh mất uy tín của mình đối với các chủ đầu tư và các nhà thầu chính cũng như với các tổ chức tín dụng mà Công ty thường tiến hành hợp tác làm ăn. + Nguyên vật liệu trong xây dựng là một trong những yếu tố quan trọng của quá trình thi công, có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và tiến độ thi công công trình. Trong thi công xây dựng, Công ty sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu cần thiết như: xi măng, sắt thép, cát, sỏi, gạch.... Tuy nhiên công tác bảo quản những nguyên vật liệu này chưa được coi trọng nên khi có sự cố về nguyên vật liệu đã làm giảm tiến độ thi công và có thể gây ảnh hưởng tới chất lượng công trình. + Công ty cũng gặp một số khó khăn, hạn chế về vấn đề nhân lực. Mặc dù Công ty đã lựa chọn, tuyển dụng được những cán bộ giỏi, có trình độ năng lực chuyên môn cao trực tiếp tham gia vào công tác thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng nhưng số lượng cán bộ đủ tiêu chuẩn vẫn còn thiếu nên đôi lúc chưa đáp ứng được yêu cầu khắt khe của các chủ đầu tư và các nhà thầu chính, nhất là các chủ đầu tư nước ngoài nên Công ty ít tham gia ký kết hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng với các đối tác nước ngoài. Bên cạnh đó, trình độ của cán bộ công nhân viên trong Công ty còn chưa toàn diện về các mặt nghiệp vụ, pháp luật, ngoại ngữ và kinh nghiệm thực tế. Vì Công ty mới được thành lập khoảng 10 năm, đội ngũ cán bộ vẫn còn trẻ nên còn thiếu kinh nghiệm. Do vậy khi thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng Công ty sẽ gặp nhiều khó khăn hơn các nhà thầu khác, thể hiện ngay ở khâu lựa chọn người giám sát, chỉ huy thực hiện công trình. + Việc quản lý người lao động của Công ty còn gặp nhiều khó khăn. Do đặc điểm của sản xuất xây dựng có tính di động, thay đổi theo thời vụ, nên lao động trong Công ty cũng luôn không ổn định, phải làm việc ngoài trời và luôn phải thay đổi địa điểm làm việc. Công ty thường xuyên phải thuê thêm lao động hợp đồng vì vậy lượng lao động sử dụng bình quân trong năm của Công ty luôn vượt quá số lao động chính thức. + Tình trạng vừa thiết kế, vừa thi công vẫn còn tồn tại, đôi khi Công ty có biểu hiện nhận công trình để giữ việc, thiếu tập trung dứt điểm nên thời gian thi công một số công trình còn bị kéo dài dẫn đến khối lượng xây dựng dở dang tăng lên, gây lãng phí và kém hiệu quả. + Năng suất lao động còn chưa cao, hiệu suất sử dụng thiết bị chỉ dạt trung bình từ 60 - 70%. Số giờ làm việc của một ca máy chỉ đạt hệ số 0,5 đến 0,6 . Giá thành công trình so với dự toán ban đầu thường vượt từ 1,5 đến 2 lần. Với những tồn tại nêu trên, tựu trung lại làm giảm khả năng thực hiện hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng của Công ty và khiến cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty ngày càng kém hiệu quả trong môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng không chỉ trong nước mà xu thế cạnh tranh trên toàn thế giới sẽ diễn ra trong một thời gian không xa nữa. II. một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác hợp đồng giao nhận thầu xây dựng tại công ty Long giang 1. Kiến nghị với Nhà nước Nhà nước là một thiết chế đặc biệt có chức năng riêng, đó là việc quản lý nền kinh tế bằng pháp luật. Pháp luật với ý nghĩa là những nguyên tắc xử sự chung do Nhà nước đặt ra, có vai trò tạo dựng các quan hệ kinh tế, nhưng đồng thời là nguồn để điều chỉnh nó theo đúng mục đích, vì vậy trong phần này em xin đưa ra một số kiến nghị nhằm khắc phục những khó khăn của hệ thống pháp luật về hợp đồng giao nhận thầu xây dựng hiện nay. Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Theo quy định của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì chủ thể của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng có thể là pháp nhân với pháp nhân hoặc pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Nhưng theo quy định của Quy chế đấu thầu thì hợp đồng giao nhận thầu xây dựng chỉ có thể được ký kết giữa các pháp nhân với nhau (cụ thể là Bên mời thầu và Nhà trúng thầu). Vậy khi hợp đồng được ký kết giữa một pháp nhân với một cá nhân đăng ký kinh doanh xây dựng thì có được coi là chủ thể của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng hay không? Nếu áp dụng Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì đó đương nhiên là chủ thể của hợp đồng nhưng nếu áp dụng Quy chế đấu thầu thì đó lại không phải là chủ thể của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Hơn nữa, hợp đồng được ký kết giữa hai cá nhân có đăng ký kinh doanh xây dựng hay ngay cả trường hợp hai doanh nghiệp xây dựng tư nhân ký kết hợp đồng với nhau nhằm mục đích kinh doanh cũng không được coi là hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, vì không có một bên là pháp nhân. ở đây, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế cũng như Quy chế đấu thầu đã lấy tư cách pháp nhân làm căn cứ để xác định tư cách chủ thể của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Điều đó hoàn toàn vô lý, càng vô lý hơn khi nền kinh tế thị trường phát triển, có nhiều chủ thể kinh doanh mới ra đời. Bên cạnh những chủ thể kinh doanh truyền thống có tư cách pháp nhân như Doanh nghiệp Nhà nước, Hợp tác xã.... còn có rất nhiều chủ thể không có tư cách pháp nhân như Doanh nghiệp tư nhân, Công ty hợp danh, hộ kinh doanh cá thể... Mặt khác, các chủ thể kinh doanh mới này nếu có đăng ký kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực nhận thầu xây dựng, có đủ năng lực về kỹ thuật và tài chính đáp ứng được yêu cầu của gói thầu thì tại sao lại không được tham gia đấu thầu? để trở thành chủ thể của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng theo Quy chế đấu thầu. Chúng ta muốn tạo nên một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp, trước hết các chủ thể kinh doanh đó phải hoàn toàn bình đẳng với nhau trong các quan hệ pháp luật. Muốn được như vậy, theo em cần sửa đổi khái niệm về nhà thầu và nên quy định "Nhà thầu là cá nhân hoặc tổ chức kinh tế có đủ tư cách tham gia đấu thầu" đồng thời không nên quy định cứng nhắc các bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng giao nhận thầu xây dựng phải là pháp nhân mà chỉ nên quy định Hợp đồng giao nhận thầu xây dựng là hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể kinh doanh xây dựng. Thứ hai, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế đã quy định về vấn đề người đại diện và uỷ quyền, tuy nhiên các quy định này chưa chặt chẽ, tạo ra nhiều khe hở và trong nhiều trường hợp tạo cho các bên tham gia ký kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng dễ trốn tránh trách nhiệm của mình. Theo Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế và Nghị định 17-HĐBT ngày 16-1-1990 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì người ký kết hợp đồng kinh tế (cũng là người ký kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng) phải là đại diện hợp pháp của pháp nhân hoặc người đứng tên đăng ký kinh doanh (Điều 9 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế). Đại diện hợp pháp của pháp nhân là người được bổ nhiệm hay được bầu vào chức vụ đứng đầu pháp nhân đó và đương giữ chức vụ đó (Điều 5 khoản 2 Nghị định 17). Người đứng tên đăng ký kinh doanh là người đã đứng tên xin giấy phép kinh doanh, được cấp giấy kinh doanh và đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan có thẩm quyền theo đúng quy định về đăng ký kinh doanh. Đại diện hợp pháp của pháp nhân hoặc người đứng tên trong đăng ký kinh doanh có thể uỷ quyền bằng văn bản cho người khác thay mình ký kết hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng. Vấn đề cần bàn ở đây là khái niệm "Đại diện hợp pháp của pháp nhân". Nếu hiểu đại diện hợp pháp theo Điều 5 Nghị định 17 thì phải chăng những người đại diện theo uỷ quyền là không hợp pháp? Nếu không phải là đại diện hợp pháp của pháp nhân thì làm sao có thể ký kết hợp đồng kinh tế cho pháp nhân được. Em đồng ý với quan niệm của một số tác giả cho rằng khái niệm "Đại diện hợp pháp" ở đây dùng chưa chính xác. Cụ thể hơn, theo em là chưa đủ. Đại diện hợp pháp của pháp nhân chính là người có quyền đại diện cho pháp nhân trong một quan hệ cụ thể. Người được uỷ quyền có quyền đại diện cho pháp nhân trong việc ký kết hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng cho pháp nhân. Hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng do người được uỷ quyền ký kết đúng nội dung uỷ quyền làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho pháp nhân. Trong quan hệ này, người được uỷ quyền là đại diện hợp pháp của pháp nhân. Do vậy nên quy định là: Người có thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng cho pháp nhân là đại diện theo pháp luật của pháp nhân hoặc đại diện theo sự uỷ quyền. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân chính là người đứng đầu của pháp nhân (Hay còn gọi là đại diện đương nhiên, đại diện chính thức). Đại diện theo sự uỷ quyền là người được người đại diện theo pháp luật uỷ quyền. Đại diện hợp pháp bao hàm cả đại diện theo pháp luật và cả đại diện theo sự uỷ quyền. Nhưng đại diện theo pháp luật khác đại diện theo uỷ quyền ở chỗ: Đại diện theo pháp luật của pháp nhân có quyền đại diện cho pháp nhân trong tất cả các mối quan hệ còn đại diện theo sự uỷ quyền thì chỉ được đại diện trong những quan hệ nào được uỷ quyền. Hiểu như vậy theo em sẽ đầy đủ và chính xác hơn. Ngoài ra, quy định hiện hành còn có khiếm khuyết là không quy định rõ trách nhiệm đối với việc thực hiện hợp đồng là của người uỷ quyền hay của người được uỷ quyền. Do vậy, để khắc phục những thiếu sót của Điều 9 - Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và Điều 5 - Nghị định 17/HĐBT, pháp luật hợp đồng kinh tế cần có những quy định ràng buộc trách nhiệm của người đại diện trong việc ký kết hợp đồng kinh tế bao gồm: trách nhiệm tài sản, trách nhiệm hành chính và cả trách nhiệm hình sự để có thể ngăn chặn những tiêu cực có thể xảy ra. Mặt khác, cũng cần quy định trách nhiệm của người được uỷ quyền khi ký kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng trong trường hợp hành vi của họ có thể gây thiệt hại cho Nhà nước. Về vấn đề này để cho phù hợp với các quy định của Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế cần quy định thêm về thủ tục uỷ quyền ký kết hợp đồng kinh tế như người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh khi uỷ quyền cho người khác thay mình ký kết hợp đồng kinh tế phải làm hợp đồng uỷ quyền theo quy định của Bộ luật Dân sự. Theo quy định tại điều 585, điều 586 - Bộ luật Dân sự thì hợp đồng uỷ quyền là sự thoả thuận của các bên, theo đó bên được uỷ quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên uỷ quyền, bên uỷ quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định khác. Hợp đồng uỷ quyền phải được lập thành văn bản, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định khác hợp đồng uỷ quyền phải có chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Theo đó, trong hợp đồng uỷ quyền này sẽ ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia ký kết hợp đồng uỷ quyền, cũng như trường hợp hợp đồng uỷ quyền chấm dứt. Thứ ba, về các quy định trách nhiệm vật chất do vi phạm hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ hợp đồng là rất phổ biến, là căn cứ pháp lý làm phát sinh thường xuyên, liên tục các quan hệ kinh tế về xây dựng. Vì vậy, để đảm bảo sự ổn định cho nền kinh tế quốc dân, sự an toàn, công bằng cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, đòi hỏi Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và ngay cả nội dung hợp đồng khi ký kết phải quy định chặt chẽ chế độ trách nhiệm pháp lý. Với vai trò to lớn của chế định trách nhiệm vật chất trong thực tiễn, pháp luật hợp đồng kinh tế nước ta hiện nay đã chú trọng quy định về vấn đề này một cách đầy đủ và chi tiết. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng còn nhiều vướng mắc cần được quy định lại cho phù hợp. Nhằm hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế cũng như pháp luật về hợp đồng giao nhận thầu xây dựng cần bổ sung vấn đề này như sau: Cần quy định chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng và chế tài tài sản đối với vi phạm hợp đồng giao nhận thầu xây dựng ở điều khoản số lượng. Vi phạm điều khoản này là vi phạm một điều khoản chủ yếu của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Do pháp luật về hợp đồng giao nhận thầu xây dựng chưa quy định nên người ta vẫn áp dụng chế tài tài sản đối với vi phạm này tương tự như vi phạm về thời gian thực hiện hợp đồng. Cách quy định này không hợp lý vì trong trường hợp bên giao thầu chỉ bàn giao một phần số lượng hàng hoặc một phần công việc, còn một phần nữa không thực hiện dẫn đến còn một phần hợp đồng không được thực hiện. Phần này không thể phạt ở mức cao nhất như không thực hiện hiện nay. Nhưng pháp luật về hợp đồng giao nhận thầu xây dựng hiện nay không quy định về hành vi không thực hiện một phần hợp đồng mà chỉ quy định về hành vi không thực hiện toàn bộ hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Vì vậy, nên quy định thêm điều khoản về vấn đề không thực hiện một phần hợp đồng để pháp luật về hợp đồng giao nhận thầu xây dựng có thể bao trùm hơn đối với những vấn đề phát sinh trong quan hệ hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Cần quy định lại mức phạt vi phạm hợp đồng. Theo Điều29 khoản2 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và Điều13 Nghị định17/HĐBT thì mức phạt vi phạm hợp đông do các bên thoả thuận nhưng không quá 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm. Sở dĩ có quy định như vậy là vì Pháp lệnh ra đời trong thời kỳ nền kinh tế chỉ tồn tại các xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã. Mục đích là hạn chế việc các đơn vị kinh tế Nhà nước áp dụng mức phạt vi phạm quá cao sẽ gây thiệt hại cho Nhà nước và làm cho kết quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế không phản ánh trung thực hoạt động của họ. Nhưng hiện nay, quy định này cần phải sửa đổi lại bởi vì trong nền kinh tế thị trường không chỉ tồn tại các đơn vị kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước mà còn tồn tại rất nhiều các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Vì vậy, pháp luật hợp đồng kinh tế không nên hạn chế mức tối đa của phạt vi phạm là 12%, vì mức phạt quá cao mà hai bên không thoả thuận được thì chắc chắn sẽ không được đưa vào hợp đồng. Mặt khác, khi các bên đã thoả thuận được mức phạt vi phạm tức là họ có khả năng chịu mức phạt đó nếu như vi phạm. Mức phạt vi phạm cao sẽ thúc đẩy các bên không vi phạm hợp đồng. Cần quy định lại chế tài xử lý vi phạm hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Điều 29 khoản 2 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: "bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm tiền phạt vi phạm hợp đồng và trong trường hợp có thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại...". Như vậy, đối với một hành vi vi phạm hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, chủ thể vi phạm có thể cùng lúc chịu hai chế tài là phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. Nguyên tắc của bồi thường thiệt hại là người vi phạm đã gây ra thiệt hại bao nhiêu sẽ phải bồi thường bấy nhiêu. Có thể nói việc bồi thường thiệt hại đã bù đắp toàn bộ những mất mát, thiệt hại cho chủ thể bị vị phạm. Nếu cộng thêm mức phạt vi phạm hợp đồng vào nữa thì đương nhiên chủ thể bị vi phạm sẽ được nhận thêm một khoản lợi về tài sản lớn hơn so với khoản lợi về tài sản mà ngưòi đó sẽ nhận được nếu hợp đồng được thức hiện như kế hoạch. Điều này là bất hợp lý. Trong khi đó, chế tài trong Luật Thương mại và Bộ Luật dân sự lại được quy định khác: + Luật Thương mại có bốn loại chế tài là: buộc thực hiện đúng hợp đồng; phạt vi phạm; bồi thường thiệt hại; và huỷ hợp đồng. Trong đó chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại không cùng được áp dụng. + Bộ Luật dân sự cũng có bốn loại chế tài là: buộc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ dân sự; bồi thường thiệt hại; phạt vi phạm; và huỷ bỏ hợp đồng. Trong đó, đối với mỗi hành vi vi phạm, chủ thể vi phạm không đồng thời bị áp dụng hai loại chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. So sánh với các quy định này ta thấy quy đinh của Luật Thương mại và Bộ Luật dân sự là hợp lý. Vì vậy, trong tương lai Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế cũng nên quy định lại theo tinh thần của Luật Thương mại và Bộ Luật dân sự để đảm bảo công bằng giữa các chủ thể của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Thứ tư, Điều 8 - Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế có quy định vấn đề hiệu lực hợp đồng kinh tế, nhưng chưa được trình bày một cách rõ ràng, chỉ mới được gián tiếp thể hiện dưới hình thức các quy định về hợp đồng kinh tế vô hiệu. Nhằm làm cho các quy định của pháp luật được rõ ràng dễ vận dụng và thực hiện trong cuộc sống, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế cần quy định các điều kiện của hiệu lực của hợp đồng như sau: + Hợp đồng có nội dung phù hợp với pháp luật, đạo đức và trật tự công cộng. + Người ký kết hợp đồng có đủ năng lực chủ thể tham gia hợp đồng kinh tế (mà ở đây ta quan tâm đến chủ thể của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng). + ý chí của các bên tham gia ký kết hợp đồng hoàn toàn tự nguyện. + Hình thức của hợp đồng phù hợp với những quy định của pháp luật. Một hợp đồng thoả mãn các điều kiện trên thì sẽ có hiệu lực pháp lý. Việc quy định các điều kiện để hợp đồng kinh tế có hiệu lực sẽ làm cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng trong quá trình ký kết ít mắc sai phạm hơn, đồng thời cũng giúp cho cả cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp dễ dàng hơn trong quá trình phán xử. 2. Kiến nghị với Công ty Trong thời gian thực tập tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Long Giang, qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, tôi thấy việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng ở Công ty có nhiều thành tựu đáng kể. Song bên cạnh những thành tựu, việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng của Công ty vẫn còn nhiều điều bất cập cần giải quyết. Sau đây, tôi xin đề nghị một số giải pháp mang tính cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả công tác hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng tại Công ty: Thứ nhất, là những biện pháp để nâng cao năng lực tài chính của Công ty. Để thực hiện hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng, vấn đề tài chính là yếu tố khá quan trọng. Để giải quyết vấn đề tạo vốn nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh và tăng khả năng hoàn thành công việc đúng thoả thuận, Công ty cần tiến hành hiệu quả một loạt biện pháp nhằm tận dụng triệt để các cơ hội làm tăng nguồn vốn kinh doanh của Công ty, đặc biệt là trong thời gian tới như sau: + Tận thu vốn của các chủ đầu tư bằng biện pháp thi công dứt điểm, đối chiếu thanh toán kịp thời khi khối lượng hoàn thành nhằm tăng vòng quay của vốn và không để nợ quá hạn thông qua các biện pháp " mềm, dẻo". + Xây dựng mối quan hệ bền vững, tốt đẹp với các tổ chức tín dụng để tranh thủ sự trợ giúp vốn xây dựng và thực hiện cơ chế vay vốn nội bộ để tăng nguồn vốn sản xuất kinh doanh của Công ty. Đồng thời, xây dựng mối quan hệ hợp tác làm ăn lâu dài với các nhà thầu lớn trong nước như VINACONEX, Tổng công ty xây dựng Hà Nội, Công ty cầu 14.......... Như vậy, khi nguồn vốn kinh doanh của Công ty tăng, Công ty có thể tham gia thực hiện các hợp đồng giao thầu xây dựng có giá trị lớn và có thể vốn để thuê trang thiết bị thi công hiện đại, đẩy nhanh tiến độ thi công công trình. Thứ hai, trên cơ sở kiểm tra số, chủng loại, chất lượng, cơ cấu các loại tài sản, vật tư, thiết bị, có kế hoạch điều động sắp xếp và đầu tư thích hợp từng loại trang thiết bị thi công, dụng cụ quản lý, dụng cụ cầm tay phù hợp với nhiệm vụ thi công từng công trình để phát huy hiệu quả đầu tư, tăng năng lực sản xuất. Khi năng lực về máy móc thiết bị của Công ty được nâng cao thì sẽ tăng được năng lực cạnh tranh trong thi công với các nhà thầu phụ khác, đồng thời sẽ khiến các nhà thầu chính cũng như chủ đầu tư an tâm hơn về chất lượng công trình mà Công ty tiến hành thực hiện. Việc quản lý vật tư chặt chẽ, hợp lý còn giúp cho Công ty trong việc nâng cao chất lượng quản lý nói chung, góp phần xây dựng Công ty ngày càng một lớn mạnh là một kế hoạch chủ yếu trong năm 2003 của lãnh đạo Công ty và đó cũng là một mục tiêu lâu dài. Thứ ba, xây dựng một hệ thống chuyên trách về Marketing trong Công ty nhằm thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, xây dựng kế hoạch dự báo giá cả linh hoạt để có thể ứng biến kịp thời với sự biến động của thị trường. Trên thực tế, nước ta mới trải qua hơn chục năm phát triển theo cơ chế thị trường, nhưng công tác Marketing đã trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho các nhà kinh doanh. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp, dù ít dù nhiều cũng đã chú ý đến công tác này. Marketing tạo ra chất lượng, hiệu quả, giá cả, sự phục vụ phù hợp với yêu cầu thị trường. Công tác Marketing trong xây dựng cơ bản thực ra cho đến nay vẫn chưa định hình một cách cụ thể ở bất kỳ một doanh nghiệp xây dựng nào ở Việt Nam. Các doanh nghiệp thường tuỳ theo các nhận thức của mình mà tổ chức hoạt động Marketing. Trên thực tế, công tác này có tồn tại một số hoạt động ngầm bị pháp luật cấm, nhưng các doanh nghiệp vẫn tìm mọi cách để thực hiện nhằm giành giật ưu thế cho mình. Mức độ hoạt động này phụ thuộc vào quy mô, tầm vóc, mối quan hệ với các cấp, các ngành của mỗi doanh nghiệp xây dựng. Công tác Marketing trong xây dựng cơ bản thường bao gồm các nội dung sau: + Thu thập các thông tin về tình hình biến động giá cả của thị trường để có biện pháp điều chỉnh giá hợp lý cũng như việc thông tin kịp thời cho chủ đầu tư và nhà thầu chính biết để đàm phán, thoả thuận nhằm tránh các rủi ro cho Công ty. + Thu thập các thông tin về tình hình xây dựng cơ bản trên thị trường( trong và ngoài nước) để có biện pháp điều chỉnh, bổ sung kịp thời các yếu tố, nguồn lực phục vụ công tác thi công sao cho phù hợp nhất với điều kiện thực tế của Công ty. + Thu thập các thông tin về đối thủ cạnh tranh trong hợp đồng giao nhận thầu phụ ( về năng lực tài chính, kỹ thuật, kinh nghiệm.....) để có biện pháp đề xuất, ứng phó kịp thời nhằm nâng cao khả năng được chọn làm nhà thầu phụ cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Thứ tư, cần tăng cường các biện pháp nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ của Công ty trên tất cả các mặt như: ngoại ngữ, pháp luật và cả kinh nghiệm thực tế. Mục tiêu đặt ra là phải có những cán bộ giỏi chuyên môn nghiệp vụ và hiểu biết sâu sắc cũng như có khả năng phân tích chính xác tình hình thực tế trong và ngoài nước. Để nâng cao kiến thức về pháp luật kinh doanh cho đội ngũ cán bộ Công ty có thể thực hiện các biện pháp sau: + Tổ chức đào tạo tại chỗ cho đội ngũ cán bộ công nhân viên. + Cử các cán bộ chuyên môn đi học nâng cao ngiệp vụ tại các trung tâm đào tạo như các trường Đại học, các vụ, viện... + Tham gia xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật tại Công ty. Cuối cùng, để thực hiện hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng một cách nhanh chóng và hiệu quả, Công ty cần hoàn thiện các điều khoản hợp đồng phù hợp với đặc điểm kinh doanh của mình, xây dựng các điều khoản "mở" có tính linh động để có thể thích ứng với tình hình thực tế khi tiến hành đàm phán ký kết mà vẫn đúng pháp luật. kết luận Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, sự phát triển nền kinh tế thế giới và các nước trong khu vực đã đặt ra cho chúng ta nhiều thử thách cũng như những triển vọng mới. Vì thế chúng ta cần phải phát triển công nghiệp, công nghệ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để nhanh chóng hoà nhập vào sự phát triển chung. Với nền kinh tế còn nghèo nàn thì việc hoà nhập nền kinh tế nước ta vào sự phát triền của nền kinh tế thế giới là rất cần thiết. Nó sẽ tạo ra cho chúng ta rất nhiều cơ hội để phát triển. Nhưng để có thể thực hiện việc này một cách nhanh chóng thì việc đầu tiên chúng ta cần làm là hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về kinh tế. Sự cải cách về pháp luật, việc tạo ra một hệ thống pháp luật vững chắc, chặt chẽ, tiến bộ sẽ tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể từ đó chúng ta có thể dễ dàng trong việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và lựa chọn đối tác, cũng như nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Lĩnh vực xây dựng là một lĩnh vực quan trọng, liên quan đến hầu hết các nghành kinh tế kỹ thuật khác. Vì vậy, việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư xây dựng là vấn đề cần thiết. Bài viết này đã nghiên cứ tổng quát chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng như khái niệm, đặc điểm, các nguyên tắc ký kết, cách thức ký kết, cũng như các nội dung cần thoả thuận trong hợp đồng giao nhận thầu xây dựng khi ký kết..... một số vấn đề khác có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng. Trên cơ sở phân tích và đánh gía thực trạng áp dụng chế độ pháp lý đó tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Long Giang, bài viết có đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần cho việc sửa đổi và hoàn thiện pháp luật về đầu tư xây dựng - hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng. Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian khảo sát thực tế chưa nhiều nên bài viết không tránh khỏi những thiếu xót. Em mong được sự giúp đỡ góp ý của thầy cô giáo, bạn bè và các anh chị trong Phòng Dự án Công ty Long Giang để bài viết được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn! danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Luật kinh doanh - Nhà xuất bản Thống Kê. 2. Giáo trình Luật kinh tế - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 3. Giáo trình Luật doanh nghiệp, Luật hợp đồng, Luật lao động - Trường ĐHQL&KD 4. Bộ luật Dân sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 28/10/1995 5. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày 25/09/1989 6. Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/03/1994 7. Nghị định số 17 - HĐBT ngày 16/01/1990 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 8. Nghị định số 52/CP ngày 08/07/1999 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng 9. Nghị định số 12/2000/NĐ- CP ngày 05/05/2000 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/CP ngày 08/07/1999 10. Nghị định số 88/CP ngày 01/09/1999 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đấu thầu 11. Nghị định số 14/2000/NĐ- CP ngày 05/05/2000 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu ban hành trong Nghị định số 88/CP ngày 01/09/1999 12. Quyết định số 18 - HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh 13. Quyết định số 204- TTg ngày 28/04/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam 14. Quyết định số 14- TTg ngày 16/02/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc mở rộng thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam 15. Thông tư số 108/TT-PC ngày 19/05/1990 hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và Nghị định số 17- HĐBT ngày 16/01/1990 16. Thông tư số 109/TT- PC ngày 24/05/1990 hướng dẫn thực hiện Quyết định 18- HĐBT ngày 16/01/1990 17. Thông tư số 04/2000/TT-BKH ngày 26/05/2000 hướng dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu 18. Thông tư số 14/2000/TT-BXD ngày 13/11/2000 hướng dẫn việc xử lý việc chuyển đổi quản lý các dự án đầu tư và xây dựng theo Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 05/05/2000 19. Tạp chí Xây dựng số 3/2003 20. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật- Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, các số năm 1998, 1999  mục lục trang Mở đầu 1 Chương I - cơ sở pháp lý của hợp đồng giao nhận thầu xây dựnG 3 I. Hoạt động đầu tư xây dựng và hợp đồng giao nhận thầu xây dựng 3 1. Đặc điểm và vai trò của hoạt động đầu tư xây dựng trong nền kinh tế quốc dân 3 2. Hợp đồng giao nhận thầu xây dựng 8 II. Chế độ ký kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng 15 1. Nguyên tắc ký kết Hợp đồng giao nhận thầu xây dựng 15 2. Chủ thể ký kết hợp đồng 18 3. Hình thức và nội dung của Hợp đồng giao nhận thầu xây dựng 21 4. Thủ tục ký kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng 27 iii. chế độ thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng 29 1.Các nguyên tắc thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng 29 2. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp hợp đồng giao nhận thầu xây dựng 32 3. Trách nhiệm pháp lý trong chế độ thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng 34 4. Giải quyết tranh chấp hợp đồng giao nhận thầu xây dựng 38 Chương II - Công ty trách nhiệm hữu hạn long giang và thực tiễn áp dụng hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng 42 I. giới thiệu chung về công ty trách nhiệm hữu hạn long giang 42 1. Quá trình hình thành và phát triển 42 2. Hệ thống tổ chức và bộ máy của Công ty 43 3. Đặc điểm về lao động ở Công ty 46 4. Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty 49 II. Thực tiễn áp dụng hợp đồng giao nhận thầu xây dựng tại Công ty long giang 53 1. Tình hình tham gia đấu thầu tại Công ty 53 2. Ký kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng tại Công ty 56 III. tình hình thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng tại Công ty Long Giang 63 1. Thực hiện các nguyên tắc thực hiện hợp đồng 63 2. Thực hiện các cam kết thoả thuận trong hợp đồng 64 3. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng tại Công ty 67 4. Các biện pháp giải quyết tranh chấp kinh tế tại Công ty 69 5. Thanh lý hợp đồng 70 Chương III - Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc áp dụng pháp luật về hợp đồng giao nhận thầu xây dựng tại Công ty Long Giang 72 I. Đánh giá tình hình thực hiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng tại công ty..... 72 1.Những thành tựu mà Công ty đạt được trong thực hiện hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng 72 2. Những hạn chế trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng tại công ty 74 II. một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác hợp đồng giao nhận thầu xây dựng tại công ty Long giang 78 1. Kiến nghị với Nhà nước 78 2. Kiến nghị với Công ty 85 Kết luận 89 danh mục tài liệu tham khảo 90

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34442.doc
Tài liệu liên quan