MỤC LỤC
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ CHẾ ĐỘ
PHÁP LÝ VỀ VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN 4
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của công ty cổ phần . 4
1.1.1 Sự ra đời của công ty và luật công ty 4
1.1.1.1 Khái niệm chung về công ty . 4
1.1.1.2 Sự ra đời của công ty và luật công ty 5
1.1.2 Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần trên thế giới 7
1.1.3 Sự hình thành và phát triển các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam . 9
1.2 Khái niệm và bản chất pháp lý của công ty cổ phần 12
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm pháp lý của công ty cổ phần 12
1.2.1.1 Khái niệm 12
1.2.1.2 Đặc điểm . 12
1.2.2 Những lợi thế và hạn chế của công ty cổ phần 14
1.2.3 Vai trò, ý nghĩa của công ty cổ phần 16
1.3 Khái quát chế độ pháp lý về vốn trong công ty cổ phần 18
1.3.1 Một số khái niệm về vốn 18
1.3.1.1 Vốn điều lệ 18
1.3.1.2 Vốn pháp định . 18
1.3.1.3 Vốn thuộc chủ sở hữu . 19
1.3.1.4 Vốn kinh doanh . 19
1.3.2 Quan niệm về vốn ở Việt Nam 20
1.3.3 Các tính chất của vốn . 21
1.3.3.1 Tính chất kinh tế của vốn 21
1.3.3.2 Tính chất pháp lý của vốn . 21
Chương 2: CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP . 23
2.1 Cơ cấu vốn trong công ty cổ phần 23
2.1.1 Cổ phiếu . 23
2.1.2 Trái phiếu . 24
2.1.3 Chứng chỉ quỹ đầu tư . 24
2.1.4 Chứng khoán khác . 25
2.2 Hình thành vốn trong công ty cổ phần 25
2.2.1 Một số quy định về góp vốn thành lập công ty cổ phần theo Luật
doanh nghiệp 25
2.2.1.1 Chủ thể góp vốn 26
2.2.1.2 Tài sản góp vốn . 29
2.2.2 Hình thành vốn trong công ty cổ phần . 34
2.2.2.1 Một số quy định về việc hình thành vốn ban đầu vào công ty cổ phần . 34
2.2.2.2 Giai đoạn huy động thêm vốn . 35
2.3 Các hình thức huy động vốn trong công ty cổ phần . 38
2.3.1 Vốn góp của cổ đông 38
2.3.2 Phát hành cổ phiếu . 39
2.3.2.1 Khái niệm về cổ phiếu 39
2.3.2.2 Đặc điểm của cổ phiếu 40
2.3.2.3 Các loại cổ phiếu . 42
2.3.2.4 Điều kiện phát hành cổ phiếu 46
2.3.3 Phát hành trái phiếu . 47
2.3.3.1 Khái niệm về trái phiếu . 47
2.3.3.2 Đặc điểm của trái phiếu 48
2.3.3.3 Các loại trái phiếu . 49
2.3.3.4 Điều kiện phát hành trái phiếu 50
2.4 Cơ chế quản lý vốn trong công ty cổ phần 52
2.4.1 Chào bán và chuyển nhượng cổ phần 52
2.4.2 Mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông 58
2.4.3 Mua lại cổ phần theo quyết định của công ty 60
2.4.4 Trả cổ tức .60
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM .63
3.1 Thực tiễn hoạt động của công ty cổ phần 63
3.2 Thực trạng huy động vốn trong công ty cổ phần 71
3.3 Một số giải phápnhằm hoàn thiện chế độ pháp lý về vốn trong công ty
cổ phần .74
Kết luận .82
Danh mục tài liệu tham khảo.
91 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1892 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chế độ pháp lý về vốn trong công ty cổ phần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đang ngày càng được nâng cao. Nó bước đầu khơi dậy, tạo không
SVTH:Trần Văn Luận 73
130 Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) & Tổ chức Hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ): 6 năm thi hành
Luật doanh nghiệp – Những vấn đề nổi bật và bài học kinh nghiệm, Hà Nội 2006.
MSSV:5044045
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD:Th.S. Dương Kim Thế Nguyên
khí phấn chấn đi kinh doanh, khuyến khích và cổ vũ được tinh thần kinh doanh, ý chí
làm giàu cho mình và cho đất nước, củng cố và tăng thêm được lòng tin của người đầu
tư và kinh doanh vào đường lối đổi mới của Đảng, luật pháp và chính sách của Nhà
nước.
- Góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất và tăng trưởng kinh tế. Thực
tế cho thấy, Luật doanh nghiệp đã đóng vai trò quan trọng trong việc giải phóng và
phát triển được sức sản xuất, huy động và phát huy được nội lực vào xây dựng và phát
triển kinh tế xã hội. Qua đó, góp phần đáng kể vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế,
tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách, tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo và
giải quyết các vấn đề xã hội khác.
- Thúc đẩy mạnh mẽ việc hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bằng việc đơn giản hoá thủ tục thành lập
doanh nghiệp, bãi bỏ hàng trăm giấy phép vá quy định pháp luật không còn phù hợp
về điều kiện kinh doanh và thiết lập một hệ thống văn bản mới, Luật doanh nghiệp và
việc thực hiện luật đã thực sự tạo ra bước đột phá trong cải cách hành chính, góp phần
hạn chế tham nhũng, nâng cao đáng kể tính nhất quán, tính thống nhất, minh bạch và
bình đẳng của khuân khổ pháp lý về kinh doanh ở nước ta. Luật doanh nghiệp và việc
thực hiện luật đã tạo ra bước tiến vượt bậc trong việc tạo ra “một sân chơi” bình đẳng,
không phân biệt đối xử đối với các loại hình doanh nghiệp. Đã và đang làm tăng đáng
kể mức độ cạnh tranh, một nhân tố cơ bản không thể thiếu của nến kinh tế thị trường.
Đồng thời, nó đang đặt ra yêu cầu thúc đẩy phát triển không chỉ thị trường sản phẩm,
dịch vụ mà cả các loại thị trường khác, nhất là thị trường vốn, thị trường lao động và
thị trường bất động sản. Từ đó, ngày càng có nhiều doanh nghiệp với các loại hình sở
hữu khác nhau chuyển sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
- Góp phần đổi mới một bước cơ bản phương thức và công cụ quản lý nhà nước
đối với doanh nghiệp. Với sự ra đời của Luật doanh nghiệp, phương thức quản lý theo
lối “năng lực quản lý đến đâu thì mở đến đó” đã từng bước được thay thế bằng “năng
lực quản lý phải được xây dựng, tăng cường đủ mức thúc đẩy và quản lý được quá
trình phát triển”. Phương thức quản lý nhà nước theo hướng kiểm tra, kiểm soát là chủ
yếu đang từng bước được thay thế bằng phương thức hợp tác và tạo điều kiện là chủ
yếu. Hiệu lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp đang ngày càng được nâng cao.
Với những nỗ lực và phối hợp có hiệu quả giữa các cơ quan có liên quan, hiện tượng
thành lập doanh nghiệp không nhằm mục đích kinh doanh, nhất là để mua bán hoá
đơn, đã được đẩy lùi về căn bản. Những thay đổi nói trên thúc đẩy thêm công cuộc cải
cách hành chính và nâng cao năng lực bộ máy hành chính nhà nước phù hợp hơn với
yêu cầu của thể chế kinh tế thị trường.
SVTH:Trần Văn Luận 74
MSSV:5044045
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD:Th.S. Dương Kim Thế Nguyên
Có thể nói chưa bao giờ chúng ta đạt được nhiều thành tựu trong việc tạo lập
môi trường kinh doanh như những năm từ 2000 đến nay. Luật doanh nghiệp, Luật đầu
tư, Luật chứng khoán, Luật hải quan, Luật thương mại, Luật đất đai, các văn bản
hướng dẫn của Chính phủ, Bộ, ngành…đã xác lập nên một môi trường pháp lý ngày
càng thuận lợi, thông thoáng, khuyến khích mọi người dân, mọi thành phần kinh tế đầu
tư, kinh doanh; huy động mọi nguồn lực của xã hội, cả trong nước và ngoài nước cho
mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội. Với nhiều chủ trương, chính sách, luật pháp được
ban hành, các loại hình doanh nghiệp trong đó có công ty cổ phần thực sự ngày càng
được tạo điều kiện thuận lợi hơn về mọi mặt để phát triển và mở rộng quy mô.
Đã có sự triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển các công ty cổ
phần.
Thực hiện mục tiêu về trợ giúp phát triển các loại hình doanh nghiệp nói chung
(trong đó có công ty cổ phần), doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng, trong thời gian qua,
ngành ngân hàng đã có những chuyển biến tích cực về tư tưởng, nhận thức và hành
động trong việc đổi mới cơ chế chính sách tín dụng để tạo điều kiện cho các thành
phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân
hàng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường
trong nước và quốc tế. Cơ chế tín dụng ngân hàng thường xuyên được sửa đổi theo
nguyên tắc của cơ chế thị trường, tiếp cận thông lệ quốc tế. Đến nay, các cơ chế, chính
sách về tín dụng đối với nền kinh tế (trong đó có công ty cổ phần) đã ban hành tương
đối đồng bộ, các tổ chức tín dụng được tự chủ xem xét, quyết định và tự chịu trách
nhiệm về việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp phù hợp với quy định của pháp luật.
Cùng với hình thức cho vay truyền thống, Ngân hàng nhà nước đã ban hành cơ
chế về các hình thức cấp tín dụng khác như: bảo lãnh, chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ
có giá, bao thanh toán…nhằm tạo hành lang pháp lý cho các tổ chức tín dụng mở rộng
các kênh cấp tín dụng cho các doanh nghiệp phù hợp với thông lệ quốc tế và pháp luật
Việt Nam; trong đó, nghiệp vụ cho thuê tài chính là kênh cung cấp nguồn vốn trung và
dài hạn cho các doanh nghiệp khi không có đủ điều kiện vay vốn không phải bảo đảm
bằng tài sản tại các ngân hàng thương mại. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà
nước, đến thời điểm tháng 10 năm 2007 đã có 10 công ty cho thuê tài chính được cấp
phép hoạt động. Những thay đổi trong hình thức cho vay đối với các doanh nghiệp đã
tạo điều kiện thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp có thể tiếp cận dễ dàng hơn các
nguồn lực tài chính từ các ngân hàng thương mại. Theo các số liệu báo cáo của Quỹ
tiền tệ Quốc tế (IMF), tỷ lệ cho vay đối với các doanh nghiệp giai đoạn 2002-2004
tăng trung bình 34,6%/năm đối với các ngân hàng thương mại Nhà nước và
37,14%/năm đối với các ngân hàng thương mại khác.
SVTH:Trần Văn Luận 75
MSSV:5044045
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD:Th.S. Dương Kim Thế Nguyên
Về Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngay từ
cuối năm 2001, Thủ tướng Chính phủ, Bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành
các văn bản hướng dẫn việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín
dụng. Hiện Thủ tướng đang giao Bộ tài chính phối hợp các Bộ, ngành và địa phương
đánh giá việc triển khai lập Quỹ bảo lãnh tín dụng, đề xuất giải pháp cụ thể để đẩy
nhanh việc thành lập quỹ này cho các doanh nghiệp ở các địa phuơng, góp phần tích
cực giải quyết nhu cầu tín dụng cho các loại hình doanh nghiệp nói chung và công ty
cổ phần nói riêng.
Nhằm khắc phục những thiếu hụt về kiến thức, kỹ năng quản lý, Nhà nước cũng
như các tổ chức trong và ngoài nước đã dành những khoản kinh phí cho công tác đào
tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp giai đoạn 2004-
2008 theo Quyết định số 143/QĐ-TTg ngày 10/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ đang
được triển khai tích cực ở các địa phương, hiệp hội. Trong 2 năm 2005-2006, toàn
quốc đã tổ chức được 970 khoá đào tạo (khởi sự doanh nghiệp, quản trị kinh doanh và
đào tạo giảng viên) trên địa bàn của cả nước với tổng số 53.660 học viên tham dự. Các
học viên đều đánh giá cao sự bổ ích mà các khoá học mang lại và đều mong muốn
nhân rộng các khoá đào tạo này.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên thì vẫn còn tồn tại một số khó khăn
cũng như hạn chế đối với hoạt động của công ty cổ phần:
Cơ chế và thủ tục hành chính tuy đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển của các doanh nghiệp, trong đó có loại hình
công ty cổ phần.
Dù đã được cải thiện nhiều trong những năm qua, nhưng thủ tục hành chính
hiện nay vẫn được xem là khá phiền hà, cản trở hoạt động đầu tư và kinh doanh của
các doanh nghiệp, làm tăng chi phí kinh doanh…Điển hình là các thủ tục liên quan đến
gia nhập thị trường, đất đai, và giấy phép con. Trong gia nhập thị trường, Phòng
thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã điều tra 6.700 doanh nghiệp dân
doanh trong năm 2007 cho thấy thời gian bình quân để các doanh nghiệp nói chung
đăng ký kinh doanh năm 2006 là 22,7 ngày. Và có đến hơn 25% số doanh nghiệp
thành lập từ năm 2006 đến nay mất hơn 30 ngày để nhận được tất cả các giấy tờ cần
thiết. Thủ tục về đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư, xây dựng, đất đai, môi
trường…hiện nay còn chồng chéo, nhiều điểm chưa rõ ràng, gây khó khăn cho cả nhà
đầu tư và cơ quan nhà nước.
Về đất đai, nhu cầu tiếp cận đất đai của các doanh nghiệp nói chung và các
công ty cổ phần nói riêng hiện vẫn rất lớn: hơn 65% doanh nghiệp qua điều tra của
VCCI cho biết sẽ mở rộng hoạt động kinh doanh của mình nếu dễ dàng tiếp cận đất đai
SVTH:Trần Văn Luận 76
MSSV:5044045
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD:Th.S. Dương Kim Thế Nguyên
hơn; 22,47% doanh nghiệp đánh giá tính ổn định của mặt bằng kinh doanh là thấp
hoặc rất thấp. Cơ chế định giá đất hiện chưa phù hợp, thủ tục còn phiền hà và tốn kém.
Thời gian bình quân để các doanh nghiệp nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất lên đến 131,8 ngày.
Về giất phép “con”, qua điều tra, một doanh nghiệp vẫn cần đến bình quân 4,14
giấy phép kinh doanh các loại, 14,56% doanh nghiệp qua điều tra đánh giá rằng rất
khó khăn để có đủ các loại giấy phép cần thiết này. Điều đáng lưu ý là các giấy phép
“con” không ngừng xuất hiện trong thời gian qua, trong khi hiện không có cơ chế, quy
chuẩn hay cơ quan nào để rà soát, đánh giá và kiểm soát vấn đề này. Năm 2006 vừa
qua, VCCI đã tiến hành rà soát thử 37 loại giấy phép kinh doanh của một số ngành.
Kết quả cho thấy 100% số giấy phép được đánh giá là có điều kiện cấp phép không
hợp lý; 89% số giấy phép được rà soát có vấn đề về thủ tục cấp phép.
Các thủ tục hành chính khác nói chung còn khá phiền hà. Qua điều tra có đến
22,9% doanh nghiệp phải dành hơn 10% quỹ thời gian của mình để giải quyết các thủ
tục hành chính. Thủ tục hành chính khó khắn rõ ràng tạo ra địa dư thuận lợi cho tham
nhũng và đẩy chi phí kinh doanh của doanh nghiệp nói chung lên cao. Điều tra của
VCCI cho thấy rằng 68,48% số doanh nghiệp thường xuyên phải trả các khoản phí
không chính thức trong các hoạt động kinh doanh.
Đối với các công ty cổ phần được hình thành từ việc cổ phần hoá các
doanh nghiệp Nhà nước còn gặp một số hạn chế sau:
Những khó khăn trong quá trình chuyển các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN)
thành các công ty cổ phần dần dần đã được thảo gỡ. Tuy nhiên, trong giai đoạn hậu cổ
phần hoá lại đang nổi lên những vấn đề về tổ chức điều hành- một trong những yếu tố
quyết định đến sự thành công của doanh nghiệp. Sau cổ phần hoá, tổ chức và điều
hành công ty cổ phần đã nhận được những tác động tích cực có sự tách biệt rõ chủ
doanh nghiệp với doanh nghiệp, phân biệt rõ quyền sở hữu và quyền quản lý, tách biệt
giữa quản lý của chủ sở hữu với điều hành hoạt động kinh doanh, giữa quản lý điều
hành với kiểm tra kiểm soát. Tổ chức công ty được bố trí hợp lý hơn, tinh giản được
lao động gián tiếp. Khi chuyển sang công ty cổ phần người lao động trở thành cổ
đông, chủ sở hữu công ty nên quyền lợi của họ gắn chặt với công ty trong vai trò vừa
là người chủ, vừa là người lao động. Theo số liệu điều tra của một công ty tư vấn, hơn
90% các doanh nghiệp được hỏi ý kiến đều khẳng định tính tự chủ trong quản lý điều
hành, tinh thần trách nhiệm của cán bộ quản lý, ý thức làm việc của người lao động
đều tốt hơn trước. Bên cạnh những mặt được trên đây, tổ chức và quản lý công ty cổ
phần hậu cổ phần hoá từ DNNN cũng gặp không ít khó khăn vướng mắc, ở cả bên
trong lẫn bên ngoài DN.
SVTH:Trần Văn Luận 77
MSSV:5044045
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD:Th.S. Dương Kim Thế Nguyên
Thứ nhất, điều lệ công ty cổ phần còn nhiều điểm chưa rõ ràng và thiếu tính
chặt chẽ, cùng với việc không nhận thức đúng đắn về công ty cổ phần và cơ chế hoạt
động của nó, nên một số công ty còn chưa tổ chức hoạt động đúng với cơ chế hoạt
động của công ty cổ phần. Nhiều vấn đề xử lý còn lúng túng, cùng một vấn đề nhưng
có nơi thì xử lý giống như các DNNN, còn có nơi lại xử lý giống như DN tư nhân.
Phong cách quản lý và điều hành công ty vẫn mang dáng dấp của DNNN, vẫn vận
dụng chủ yếu những quy định của DNNN để hoạt động, đội ngũ cán bộ quản lý điều
hành chủ yếu vẫn là bộ máy của DNNN trước cổ phần hoá, mối quan hệ giám đốc và
hội đồng quản trị ở nhiều công ty không được đổi mới. Việc lựa chọn thành viên trong
hội đồng quản trị chỉ chú ý đến lượng vốn góp mà không chú ý đến trình độ chuyên
môn nghề nghiệp, sự am hiểu ngành nghề kinh doanh của công ty và ngay cả lượng
vốn góp cũng thấp (chỉ chiếm từ 0.5%-2%) trong đa số các doanh nghiệp, nên tính đại
diện còn thấp, phạm vi quyền hạn trách nhiệm của các cấp quản trị trong công ty cổ
phần chưa được phân định rõ ràng, dẫn đến tình trạng không thực hiện đúng quyền và
trách nhiệm mà mình có, dẫn đến chồng chéo lấn sân hoặc bỏ trống...
Thứ hai, đại hội cổ đông mà đa số là những người lao động – chưa nhận thức
được hoặc chưa nhận thức đầy đủ quyền và trách nhiệm của cổ đông nên chưa phát
huy được đầy đủ quyền lực đối với các quyết sách của công ty.
Thứ ba, thiếu các thông tin vĩ mô của Nhà nước do khi chuyển sang công ty cổ
phần, không nhận được đầy đủ văn bản, chính sách như khi còn là DNNN. Việc tổ
chức hệ thống thông tin trong nội bộ doanh nghiệp vẫn chưa thông suốt, đặc biệt là sự
thiếu công khai minh bạch thông tin trong công ty cổ phần, dẫn đến những khó khăn
trong quản lý điều hành làm nảy sinh những nghi ngờ, mâu thuẫn.
Thứ tư, việc giải quyết các vấn đề liên quan đến người lao động vẫn còn nhiều
vướng mắc, có yếu tố do cơ chế chính sách, có yếu tố do phía người lao động và bộ
máy quản lý điều hành. Việc xử lý các vấn đề tài chính cũng gặp nhiều khó khăn như
trong việc xử lý nợ tồn đọng khó đòi do DNNN trước cổ phần hoá để lại, những vấn
đề thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, vay vốn, thế chấp...
Thứ năm, sự can thiệp của Nhà nước đối với các công ty sau cổ phần hoá vẫn
còn nặng nề, tình trạng các tổ chức Đảng, chính quyền vẫn còn can thiệp một cách
hành chính vào công ty cổ phần như trong chỉ đạo bầu hội đồng quản trị, ban kiểm
soát, giám đốc điều hành, can thiệp vào sự tự chủ trong sản xuất kinh doanh của công
ty. Ngoài ra, còn những vướng mắc do chính sự không tương đồng giữa Luật Doanh
nghiệp và Luật DNNN mà công ty cổ phần có cổ phần chi phối của Nhà nước cùng lúc
chịu sự điều chỉnh của cả hai luật này. Vấn đề người đại diện phần vốn của nhà nước
trong công ty cổ phần vẫn còn nhiều bất cập: nhiều người đại diện vừa đại diện cho
SVTH:Trần Văn Luận 78
MSSV:5044045
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD:Th.S. Dương Kim Thế Nguyên
Nhà nước lại vừa là cổ đông, sự phối hợp giữa người đại diện phần vốn nhà nước trong
hội đồng quản trị cần có những quy định cụ thể.
3.2 THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN:
Việt Nam bắt đầu công cuộc phục hồi và phát triển kinh tế từ một xuất phát
điểm rất thấp. Do đó các công ty cổ phần ra đời và phát triển cũng bắt đầu từ một thực
tế là vốn của doanh nghiệp rất thấp. Ngoài nguyên nhân tiềm lực của các nhà đầu tư
chưa mạnh, còn có nguyên nhân quan trọng là thị trường vốn chưa hoàn chỉnh, chưa
đủ sức đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp. Trong tổng số vốn hiện có của các
doanh nghiệp, vốn đầu tư vào tài sản cố định khoảng gần 60%. Vốn dùng cho đầu tư
mở rộng sản xuất chủ yếu là doanh nghiệp phải tự huy động bằng nguồn vốn tín dụng
của ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác. Do vay nhiều, hàng năm số lãi vay các
doanh nghiệp phải trả lên đến 3.000 tỷ đồng, bằng 15% số lãi phát sinh của doanh
nghiệp.
Quy mô vốn tự có của công ty cổ phần là tương đối còn nhỏ, không đủ sức cung
ứng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh có chất lượng và hiệu quả cao, đặc biệt đối
với những công ty muốn mở rộng, phát triển quy mô hoạt động và đổi mới, nâng cao
chất lượng sản phẩm của mình. Trong khi nguồn vốn hạn chế thì các giải pháp huy
động vốn còn gặp không ít khó khăn. Về lý thuyết cũng như trên thực tế, vốn tài chính
cho dự án đầu tư, cho sản xuất kinh doanh hay các dự án đầu tư nói chung được các
công ty cổ phần nói riêng và các doanh nghiệp nói chung huy động từ các nguồn sau:
Vốn tự có của doanh nghiệp; vốn được cấp từ Ngân sách Nhà nước (đối với các doanh
nghiệp Nhà nước); vốn huy động qua phát hành chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu)
doanh nghiệp; vốn vay từ các ngân hàng thương mại; tín dụng thuê mua…
Về nguồn vốn tự có của công ty cổ phần. Vốn tự có thực chất là phần lợi
nhuận cộng dồn để lại cho công ty, do vậy các biện pháp làm cho công ty có lợi nhuận
hơn như các biện pháp miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cũng góp phần làm tăng
vốn tự có của doanh nghiệp. Trong điều kiện thị trường tài chính chưa phát triển đầy
đủ và hoạt động chưa thực sự hiệu quả thì nguồn vốn tự có của công ty là nguồn vốn
tương đối quan trọng với công ty trọng việc mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ,
nâng cao sức cạnh tranh…Tuy nhiên ở nước ta, nguồn vốn này còn rất hạn chế, không
thể đáp ứng nhu cầu vốn để đầu tư, mở rộng sản xuất cho công ty cổ phần và các loại
hình doanh nghiệp. Vì như đã nêu trên các công ty cổ phần ở Việt Nam chủ yếu là
những công ty vừa và nhỏ, lại mới được thành lập trong một số năm gần đây nên
nguồn vốn còn hạn chế là điều tất yếu.
Việc vay vốn từ các ngân hàng thương mại của công ty cổ phần. Đây là
phương thức huy động nguồn vốn dài hạn được các công ty cổ phần và doanh nghiệp
Việt Nam áp dụng phổ biến nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên không phải bất cư doanh
SVTH:Trần Văn Luận 79
MSSV:5044045
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD:Th.S. Dương Kim Thế Nguyên
nghiệp nào cũng có thể tiếp cận được với nguồn vốn này và khả năng nguồn vốn vay
cũng có những giới hạn nhất định so với quy mô hiện tại của doanh nghiệp. Theo một
điều tra của Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam (VCCI), tỷ suất nợ trên tổng tài
sản của doanh nghiệp, đặc biệt là của các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại rất khiêm tốn
(trung bình khoảng 8%). Cũng chỉ có một nửa số doanh nghiệp được điều tra là có vay
nợ, hầu hết là nợ ngắn hạn và vay từ các nguồn khác nhau. Điều tra cũng cho thấy, có
rất ít doanh nghiệp thành công trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức.
Một nghiên cứu của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về việc cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam cho thấy, cản trở lớn
nhất là ngân hàng không có đủ thông tin tin cậy về người vay và không có khả năng
thu hồi cá khoản nợ xấu do hệ thống chế tài chưa hoàn thiện. Đôi khi các công ty cổ
phần và các loại hình doanh nghiệp khác cũng tiếp cận được với nguồn tín dụng từ các
ngân hàng, nhưng chỉ có thể là nguồn vốn tín dụng ngắn hạn. Có tới 2/3 số giám đốc
cho rằng họ cần có những khoản tín dụng dài hạn để đầu tư máy móc, thiết bị mới và
nâng cấp nhà xưởng...nhưng nhu cầu này là rất khó được đáp ứng, gần như là không
thể vì trong tổng số các khoản vay tín dụng, các khoản vay ngắn hạn chiếm khoảng
80% trong tổng số các khoản vay được duyệt của các ngân hàng thương mại.
Việc thuê mua tài chính. Về bản chất, tín dụng thuê mua là một hình thức bán
chịu cho doanh nghiệp máy móc thiết bị…và thu lại tiền sau này qua kinh doanh sản
phẩm do doanh nghiệp làm ra. Lợi thế chính của hình thức này là việc doanh nghiệp
đẩy việc tính toán đầu tư và tiêu thụ sản phẩm cho các nhà cung cấp hoặc các nhà
trung gian môi giới vốn rất có kinh nghiệm, do vậy một khi đã được cho vay thì dự án
nói chung có rủi ro thấp. Tác dụng của hình thức này có những nét giống với đầu tư
của các quỹ chuyên biệt. Hoạt động cho thuê tài chính đã và đang hỗ trợ tích cực
trong việc cung cấp các giải pháp tài chính cho các công ty cổ phần nói riêng và các
doanh nghiệp nói chung, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhiều công ty cổ
phần đã biết và sử dụng các dịch vụ cho thuê tài chính để đẩy mạnh sản xuất kinh
doanh bằng việc xây dựng những dự án đầu tư tốt. Đặc biệt, hoạt động cho thuê tài
chính sẽ góp phần làm giảm áp lực cho vay vốn trung và dài hạn, điều mà hiện nay các
ngân hàng thương mại đang chán ngán.
Hoạt động của loại hình tín dụng này có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của
các công ty cổ phần do khả năng cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn của nó. Tuy
nhiên, loại hình tín dụng này còn rất ít tại Việt Nam. Bên cạnh đó, những văn bản
huớng dẫn như Nghị định 16/2001/NĐ-CP thì còn mỏng, chưa cụ thể, mới ở trong giai
đoạn thử nghiệm nên chưa thực sự khuyến khích các tổ chức này phát triển và các
doanh nghiệp nói chung còn rất dè dặt khi đề cập đến nguồn tín dụng mới mẻ này.
Hiện tại các doanh nghiệp Việt Nam biết và sử dụng dịch vụ thuê tài chính không
SVTH:Trần Văn Luận 80
MSSV:5044045
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD:Th.S. Dương Kim Thế Nguyên
nhiều vì chưa hết thói quen cứ muốn đi vay là tìm đến ngân hàng. Do vậy, dịch vụ này
ở Việt Nam chưa đóng góp đáng kể cho các công ty cổ phần và các doanh nghiệp
trong việc huy động vốn.
Việc phát hành chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu…). Công ty cổ phần có
thể phát hành trái phiếu (phiếu nợ) và cổ phiếu để huy động vốn cho dự án đầu tư, sản
xuất kinh doanh…khi đó chi phí vốn vay hay lãi suất phải trả sẽ do thị trường tài chính
xác định. Thị trường tài chính hoạt động càng hiệu quả thì chi phí vốn vay càng phản
ánh đúng bản chất rủi ro của đầu tư và khả năng san sẻ rủi ro trên thị trường. Điều này
nói chung dẫn đến chi phí vốn thấp hơn và khả năng thu hút nguồn vốn cũng thuận lợi
hơn.
Tuy nhiên, huy động vốn dưới hình thức phát hành chứng khoán của các công
ty cổ phần Việt Nam còn nhiều hạn chế. Những hạn chế trọng việc phát hành cổ phiếu,
một phần do bản thân các doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ về lợi ích của nó.
Truớc đây loại hình doanh nghiệp cổ phần rất ít được coi trọng, do vậy số doanh
nghiệp thuộc loại hình này rất ít. Sau khi Luật doanh nghiệp ra đời, tình hình đã được
cải thiện, và số công ty cổ phần được thành lập mới ngày càng tăng lên. Còn việc huy
động thông qua phát hành trái phiếu thì cũng còn gặp không ít khó khăn do cả nguyên
nhân khách quan và chủ quan. Về phía doanh nghiệp, các doanh nghiệp chưa xây dựng
được các dự án đảm bảo các yêu cầu của pháp luật để được phép huy động bằng hình
thức phát hành trái phiếu doanh nghiệp hay trái phiếu công trình. Ngoài ra, tính kém
hiệu quả của các dự án cũng đã không khuyến khích và thu hút các nhà đầu tư. Về phía
Nhà nước, chưa có sự quan tâm thích đáng, tạo điều kiện để các doanh nghiệp thực
hiện huy động vốn dưới hình thức này. Chưa tạo được thị trường để tạo điều kiện và
nâng cao tính thanh khoản của trái phiếu.
Mặc dù có nhiều hình thức giúp các công ty cổ phần và doanh nghiệp Việt Nam
huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ…song trên thực
tế các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn và luôn trong
tình trạng thiếu vốn. Những khó khăn trong huy động vốn đã không cho phép các công
ty cổ phần dễ dàng có được một nguồn vốn lớn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh của
công ty. Mặt khác, các chính sách, cơ chế để các doanh nghiệp nói chung có thể phát
hành cổ phiếu, trái phiếu mới được xây dựng; các hình thức huy động vốn khác như
thuê mua tài chính, liên doanh liên kết chưa thực sự phát triển…đã hạn chế không nhỏ
đến việc huy động vốn của các công ty cổ phần.
3.3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ VỐN
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN:
Qua quá trình tìm hiểu ở trên chúng ta đã thấy được thực trạng phát triển cũng
như những tồn tại mang tính chất tiêu cực trong vấn đề về vốn cũng như sự phát triển
SVTH:Trần Văn Luận 81
MSSV:5044045
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD:Th.S. Dương Kim Thế Nguyên
của công ty cổ phần nói riêng và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung. Để cho loại
hình doanh nghiệp công ty cổ phần ngày càng phát triển hơn, qua đó góp phát vào sự
phát triển kinh tế của đất nước, đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp, tăng thu hơn
nữa cho ngân sách Nhà nước, thúc đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại
hoá của nước ta, giải quyết một cách có hiệu quả hơn nữa vấn đề công ăn việc làm cho
người lao động và luôn duy trì được vai trò của mình là góp phần giữ vững sự ổn định
kinh tế - xã hội cho nước nhà. Thì chúng ta, đặc biệt là các cơ quan Nhà nước cần có
những chính sách và biện pháp thiết thực, cụ thể và nhanh chóng nhằm khắc phục, sửa
chữa những yếu kém, hạn chế nêu trên để cho công ty cổ phần ngày càng thể hiện
được bản lĩnh thực sự của mình đối với nền kinh tế nói riêng và sự phát triển của đất
nước nói chung. Với kiến thức của một sinh viên năm cuối, tác giả xin có một số đề
xuất nhằm hoàn thiện một số vấn đề pháp lý về vốn trong công ty cổ phần:
Nhà nước nên tạo điều kiện và khuyến khích hơn nữa các công ty cổ phần
phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Hình thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu, thực sự thu hút vốn nhàn rỗi trong
nhân dân, giảm bớt khối lượng tiền tệ trong lưu thông; nhờ đó kiềm chế lạm phát, ổn
định sức mua của đồng tiện, tạo niềm tin của nhân dân vào sự quản lý của Nhà nước,
vào sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy Nhà nước cần có những chính sách và
phương pháp cụ thể để tạo điều kiện khuyến khích các công ty cổ phần và các doanh
nghiệp huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu như: tập trung cho
sự phát triển thị trường chứng khoán, làm cho thị trường chứng khoán ngày càng phát
triển cả về chất và lượng thông qua đó làm cho sự cung cầu về cổ phiếu và trái phiếu
ngày một minh bạch và phát triển hơn.
Để tổ chức ra một thị trường chứng khoán không khó, cái khó là làm sao để thị
trường đó hoạt động đều đặn, lành mạnh, có hiệu quả và phát triển. Theo tác giả, để có
một thị trường chứng khoán có hiệu quả và phát triển đòi hỏi chúng ta phải giải quyết
được những vấn đề cơ bản, then chốt mà bất cứ một thị trường chứng khoán nào cũng
phải có. Đó là: Phải tạo ra được một khối lượng chứng khoán có chất lượng, có khả
năng thu hút người đầu tư và không ngừng làm tăng khả năng cung cấp chứng khoán
cho thị trường (để làm được điều này thì Nhà nước cần có những giải pháp thiết thực
để tạo ra chứng khoán cho thị trường chứng khoán lúc này là: đẩy mạnh hơn nữa cổ
phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và các loại doanh nghiệp khác; tăng cường phát
hành trái phiếu doanh nghiệp; phát hành cổ phiếu bổ sung của những doanh nghiệp cổ
phần đang có nhu cầu và khả năng phát triển; phát hành các loại trái phiếu có mục đích
để xây dựng cơ sở hạ tầng…); Tổ chức được một hệ thống các công ty môi giới chứng
khoán hoạt động có hiệu quả và không ngừng nâng cao năng lực kinh doanh cho các tổ
chức này; Tạo ra nhu cầu đầu tư chứng khoán và không ngừng tăng lên (để nhu cầu
SVTH:Trần Văn Luận 82
MSSV:5044045
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD:Th.S. Dương Kim Thế Nguyên
đầu tư chứng khoán ngày càng tăng, theo tác giả, trước mắt ta phải phổ cập hoá trí
thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng. Phải làm cho công
chúng biết được các loại công cụ của thị trường vốn131, và những ưu nhược điểm của
nó. Mặt khác ở giai đoạn thu nhập của người dân còn thấp, chỉ một số người giàu có
mới có khả năng đầu tư với tư cách cá nhân, thì cần thiết phải tổ chức nhiều hơn nữa
các Quỹ đầu tư như quỹ đầu tư tập thể, quỹ đầu tư Nhà nước. Vì các quỹ đầu tư cho
việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu huy động những nguồn vốn lẻ tẻ trong công chúng
tập hợp thành những số vốn khổng lồ đầu tư vào thị trường chứng khoán. Chính phủ
Trung ương, Chính quyền các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải
Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ có thể tổ chức các công ty quản lý quỹ đầu tư Nhà nước,
huy động vốn trong công chúng để đầu tư qua thị trường chứng khoán. Mặt khác, để
tăng nhu cầu đầu tư chứng khoán đối với nhà đầu tư nước ngoài, về lâu dài phải nới
lỏng hơn nữa sự kiểm soát của Nhà nước…); Có một hệ thống pháp luật bảo đảm an
toàn cho việc phát hành, đầu tư và kinh doanh chứng khoán ( Muốn có một thị trường
chứng khoán ổn định phải có một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh. Tính ổn định của thị
trường chứng khoán nói lên sự thành công của thị trường. Do đó ngay từ đầu Việt
Nam cần phải có một hệ thống luật pháp đầy đủ và có hiệu lực để quản lý. Nhưng
muốn có được hệ thống pháp luật phù hợp với nguyên tắc, tập quán quốc tế và phù
hợp với nguồn kinh tế - tài chính, tâm lý xã hội Việt Nam, muốn có được các công ty
chứng khoán hoạt động có hiệu quả và muốn có được một số lượng chứng khoán có
khả năng lưu thông trên thị trường, đòi hỏi Việt Nam phải có những con người có kiến
thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Do vậy, việc đào tạo đội ngũ chuyên
gia về thị trường chứng khoán là công việc đầu tiên, cấp bách của Việt nam hiện nay.).
Bên cạnh đó cần đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà
nước.
Vì khi đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước thì sẽ tạo ra nhiều
công ty cổ phần hơn, thông qua đó sẽ đa dạng hoá hình thức sở hữu và thu hút vốn đầu
tư trong toàn xã hội vào phát triển sản xuất, kinh doanh. Nhưng quan trọng hơn, đó
cũng là biện pháp để thay đổi phương thức quản lý, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp cổ phần hoá, tạo điều kiện và cơ sở pháp lý để doanh
nghiệp phát hành cổ phiếu khi cần thiết. Điều này góp phần tạo chứng khoán cho thị
trường chứng khoán và làm cho thị trường chứng khoán của nước ta ngày càng phát
triển năng động và có hiệu quả hơn.
Để làm được điều này một cách có hiệu quả thì theo tác giả cần khắc phục một
số vần đề sau đây của các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá:
SVTH:Trần Văn Luận 83
131 Thị trường vốn là thị trường giao dịch, mua bán các khoản vốn trung và dài hạn (Vốn trung hạn: có thời gian
lớn hơn 1 năm cho đến 5 năm, vốn dài hạn là vốn có thời gian từ 5 năm trở lên).
MSSV:5044045
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD:Th.S. Dương Kim Thế Nguyên
Xác định rõ và thực hiện đúng quyền hạn và trách nhiệm giữa Hội đồng quản trị
và Ban giám đốc; Tăng cường đào tạo, nâng cao sự hiểu biết và trình độ quản lý công
ty cổ phần của các nhà quản trị; Phát huy vai trò của Đại hội cổ đông trong tổ chức,
điều hành công ty cổ phần; Giải quyết triệt để những vướng mắc liên quan đến quyền
lợi vật chất của người lao động cũng như tư tưởng và tâm lý về “chế độ biên chế suốt
đời” không còn phù hợp; Có cơ chế chính sách phù hợp đối với cán bộ quản lý cũ khi
họ không còn nắm giữ những chức vụ cũng như các trường hợp tiếp tục đảm nhiệm
các chức vụ mới.
- Giải quyết những vấn đề tồn tại từ chính khâu xây dựng và thông qua điều lệ,
tạo thuận lợi cho tổ chức và điều hành công ty cổ phần.
- Lựa chọn cơ cấu hội đồng quản trị có tính đại diện cao, uy tín. Đảm bảo thể
chế dân chủ minh bạch, công khai trong tổ chức điều hành.
- Kiểm soát được chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập.
- Định rõ chức năng nhiệm vụ của bộ phận tài chính. Trước mắt cần chủ động
vận dụng những luật và quy định hiện có về kế toán tài chính để tạo lập chính sách tài
chính công khai, minh bạch đúng quy định pháp lý, nhanh chóng tham gia thị trường
chứng khoán nếu đủ điều kiện, vừa tạo thuận lợi trong thu hút vốn, vừa phải thực hiện
công khai tài chính, vừa tạo sức ép cho bộ máy quản lý điều hành hoạt động có hiệu
quả hơn. Có cơ chế rõ ràng công khai về thành lập và phân phối các quỹ, thiết lập và
cải thiện mối quan hệ với khách hàng và các tổ chức tín dụng.
Ngoài ra Nhà nước cần ban hành một số chính sách nhằm tạo thuận lợi cho
những công ty cổ phần sau khi được cổ phần hoá có cơ hội phát triển hơn nữa như:
Tạo khung pháp lý rõ ràng đồng bộ thống nhất; Xoá bỏ sự can thiệp hành chính của cơ
quan chủ quản cũ và mới; Đẩy mạnh sự hình thành và phát triển thị trường chứng
khoán; Tăng cường cung cấp thông tin, những văn bản pháp quy tài liệu; Thực hiện tư
vấn giải đáp những vướng mắc trong tổ chức điều hành; Để hội đồng quản trị làm việc
có hiệu quả thì trong chính sách bán cổ phiếu của Nhà nước, cần phải dành một tỷ lệ
phiếu nhất định bán cho cổ đông ngoài công ty; Thường xuyên tổng kết rút kinh
nghiệm về tổ chức điều hành công ty cổ phần; Ban hành quyết định về giải quyết các
cổ phần ưu đãi cho người lao động; Ban hành chế độ bảo hiểm tự nguyện để giúp
người lao động tham gia bảo hiểm khi họ mất việc làm…
Nếu làm được như trên thì việc cổ phần hoá vừa có lợi cho chính Nhà nước,
vừa có lợi đối với bản thân những con người trong doanh nghiệp được cổ phần hoá
này và cũng có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Vì việc cổ phần hoá đã
huy động được vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao vị trí làm chủ
thực sự của người lao động, mà cụ thể là những lợi ích sau:
SVTH:Trần Văn Luận 84
MSSV:5044045
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD:Th.S. Dương Kim Thế Nguyên
- Việc cổ phần hoá các công ty Nhà nước là quá trình tìm ra người chủ đích
thực của doanh nghiệp và những người chủ này vì lợi ích kinh tế của mình mà dốc sức
làm việc, năng động tìm ra những phương án hoạt động thích hợp nhất, quan tâm đến
kết quả hoạt động của công ty và sử dụng các nguồn lực của công ty một cách có hiệu
quả nhất. Nhờ đó mà công ty có thể thoả mãn tốt nhất nhu cầu xã hội.
- Việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tạo điều kiện cho Nhà nước
giảm bớt được chi tiêu cho hoạt động của các công ty. Mặt khác, có thể thu hồi được
một phần giá trị tài sản nhờ vào việc bán cổ phiếu. Nguồn thu từ thuế không giảm,
thậm chí còn tăng lên bởi sự hoạt động có hiệu quả hơn của các công ty đã được cổ
phần hoá. Nhờ vậy, tiềm lực kinh tế của Nhà nước mạnh hơn và vốn được tập trung
đầu tư vào các trương trình trọng điểm mà tư nhân không thể hoặc không muốn đầu tư,
trên cơ sở đó mà tác động vào tổng cung, tổng cầu để định hướng, điều tiết kinh tế vĩ
mô. Thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu mà thúc đẩy sự hình thành và phát
triển thị trường vốn, vừa tạo khả năng huy động vốn trong và ngoài nước, vừa khuyến
khích tiết kiệm, khuyến khích đầu tư của mọi tầng lớp dân cư.
- Sự cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước sẽ giảm được sự can thiệp không
cần thiết của các cơ quan Nhà nước vào hoạt động nghiệp vụ của công ty. Nhờ đó các
công ty có thể chủ động tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, tính năng động,
linh hoạt trong kinh doanh được phát huy. Mặt khác, do tính chất của công ty cổ phần
nên thực hiện được sự tách biệt phần vốn kinh doanh của Nhà nước với tài chính quốc
gia nói chung. Vì thế mà loại trừ được rủi ro trong kinh doanh của công ty vốn trở
thành gánh nặng của ngân sách Nhà nước.
- Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước cũng là quá trình thay đổi vai trò của
Nhà nước từ chỗ tham gia kinh doanh sang vai trò tạo môi trường và điều kiện cho các
công ty hoạt động và đó cũng còn là biện pháp để hạn chế tham nhũng, hạn chế thất
thoát tài sản của Nhà nước và tận dụng được vốn nhàn rỗi trong dân cư mà vẫn thực
hiện được kế hoạch, định hướng phát triển theo chiến lược cũng như những chuơng
trình mục tiêu định trước…
Phát triển hình thức thuê mua tài chính, khuyến khích và tạo điều kiện
hơn nữa cho các ngân hàng cho vay đối với các công ty cổ phần.
Tại nhiều nước, hoạt động tín dụng thuê mua khá phát triển và chiếm một tỷ
trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh, máy móc, thiết
bị của công ty. Kinh nghiệm của nhiều nước đã chứng minh rằng, cho thuê máy móc,
thiết bị thông qua hình thức thuê mua đã mở ra một khả năng quan trọng đối với các
công ty cổ phần để thu hút những nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn từ bên ngoài.
Hình thức thuê mua giúp các công ty cổ phần và doanh nghiệp nói chung tránh được
những sai lầm khi tự đi vay và tự tim mua sắm thiết bị. Và giúp cho các công ty cổ
SVTH:Trần Văn Luận 85
MSSV:5044045
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD:Th.S. Dương Kim Thế Nguyên
phần trong trường hợp không có khả năng vay từ ngân hàng thì có thể thông qua hình
thức cho thuê tài chính này giải quyết được vấn đề vốn cần có. Vì các công ty thuê
mua không chỉ đơn thuần thay thế tín dụng ngân hàng mà còn cung cấp các dịch vụ hỗ
trợ công ty mua sắp và thuê thiết bị như: chuyển giao công nghệ, đào tạo công nhân,
bảo trì, tư vấn hợp lý hoá sản xuất và hiện đại hoá hệ thống trang thiết bị, kỹ
thuật…Với các thuận lợi và lợi ích mà nó mang lại, tín dụng thuê mua đang trở thành
công cụ đắc lực cho việc đầu tư phát triển của các công ty cổ phần. Vì vậy Nhà nước
cần có những biện pháp và chính sách để khuyến khích và hỗ trợ phát triển hình thức
thuê mua tài chính như: có các chính sách hỗ trợ, ưu tiên về thuế, tài chính đối với các
công ty cho thuê tài chính để ngày càng có nhiều loại hình công ty này ra đời hoặc là
trong thời gian này Nhà nước có thể tự mình thành lập ra các công ty cho thuê tài
chính nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp; Bên cạnh đó, Nhà nước ta cần phải ban hành
nhiều hơn nữa các văn bản pháp luật như là:luật, nghị định, thông tư liên quan đến
hình thức cho thuê tài chính nhằm cụ thể hoá hơn nữa chính sách, đường lối của Đảng
và Nhà nước ta trong việc tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp phát triển.
Ở thời điểm hiện tại, nhu cầu vốn cần cho đầu tư phát triển, sản xuất kinh doanh
của các công ty cổ phần là rất lớn nhất là đối với các nguồn vốn dài hạn. Đối với các
ngân hàng hoạt động tại Việt Nam hiện nay cũng thừa khả năng để đáp ứng nhu cầu về
vốn các doanh nghiệp. Song các ngân hàng lại bị giới hạn trong việc cho vay tối đa đối
với một khách hàng, một dự án. Chính vì vậy, để các công ty cổ phần có thể tiếp cận
được dễ dàng hơn với nguồn vốn của các ngân hàng, ngân hàng Nhà nước cần xem xét
nâng mức giới hạn cho vay tối đa đối với một dự án, một khách hàng, các ngân hàng
cũng nên tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn
vốn như có thể đơn giản hoá các thủ tục, hồ sơ; cho vay nhiều hơn nữa cho các doanh
nghiệp bằng hình thức vay không có bảo đảm bằng tài sản, bảo lãnh…đặc biệt là các
nguồn vốn trung và dài hạn. Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách miễn giảm thuế thu
nhập đối với phần lợi nhuận của ngân hàng từ các khoản cho doanh nghiệp vay nhằm
giảm bớt phần nào áp lực cho các ngân hàng và tạo điều kiện để cho các ngân hàng dễ
dàng hơn trong việc cho vay đối với công ty cổ phần và các doanh nghiệp Việt Nam
cần vốn để phát triển.
Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa cải cách hành chính gắn với công khai
và minh bạch hoá để tạo ra môi trường lành mạnh hơn nữa cho sự phát
triển của các công ty cổ phần.
Thực trạng “giấy phép con” thời gian qua cho thấy rằng, việc các bộ, ngành tự
rà soát và bãi bỏ các quy định dù cần thiết nhưng không triệt để. Quá trình này rất cần
có sự tham gia chủ động và rộng rãi hơn nữa của các tổ chức độc lập bên ngoài. Vì vậy
Nhà nước lên xây dựng cơ chế để một số tổ chức và hiệp hội như: cơ quan báo chí, các
SVTH:Trần Văn Luận 86
MSSV:5044045
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD:Th.S. Dương Kim Thế Nguyên
hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam… có thể tham gia vào quá trình rà soát các quy định
liên quan đến môi trường kinh doanh này. Và quá trình này cần được thực hiện thường
xuyên, đồng bộ. Chính phủ lên ra soát và bãi bỏ tất cả những giấy phép kinh doanh và
điều kiện kinh doanh không hợp lý, ban hành Nghị định về việc rà soát và giám sát
việc ban hành các giấy phép kinh doanh để hạn chế tình trạng các giấy phép con tiếp
tục xuất hiện sau khi đã được bãi bỏ.
Bên cạnh đó, Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có liên quan lên dành nhiều
thời gian và nguồn lực hơn nữa để tăng cường trách nhiệm công khai hoá thông tin của
cả bộ máy Nhà nước. Ngoài việc thực hiện quyết liệt và triệt để hơn nữa các quy định
về công khai và minh bạch hoá liên quan đến thủ tục hành chính của Nhà nước, thì
Chính phủ lên công khai và cởi mở thêm các thông tin liên quan đến các lĩnh vực
chuyên ngành như: Hải quan, Thương mại, Thống kê…để phục vụ tốt hơn nữa cho
hoạt động kinh doanh và phát triển của các doanh nghiệp, trong đó có loại hình công ty
cổ phần. Ngoài ra, các bộ, ngành phải công khai các thông tin một cách đầy đủ và kịp
thời hơn nữa các chính sách liên quan đến doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh dự
kiến ban hành hay sửa đổi; thông tin về chính sách mới dự kiến. Bên cạnh đó, khi các
bộ, ngành ban hành chính sách liên quan thì lên tiếp nhận các đóng góp từ phía các
doanh nghiệp hay các hiệp hội doanh nghiệp. Đồng thời khi tiếp nhận các ý kiến đóng
góp đó, các bộ, ngành cần giải trình công khai ý kiến nào tiếp nhận, ý kiến nào không
tiếp nhận, tại sao không tiếp nhận…
Bên cạnh đó, với tốc độ tăng trưởng kinh tế và đầu tư lớn như hiện nay, Nhà
nước ta cần gỡ bỏ các rào cản và thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa các giải pháp nhằm huy
động và khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân và người dân tích cực tham gia
vào việc phát triển cơ sở hạ tầng. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối
cảnh lạm phát hiện nay của nước ta đang hết sức nghiêm trọng. Vì vậy các cơ quan
nhà nước cần có những chính sách để nâng cao hơn nữa chất lượng quy hoạch, quy
hoạch cơ sở hạ tầng như: năng lượng, đường giao thông, cảng biển…cần phải đi trước
một bước so với sự phát triển kinh tế và đầu tư. Ngoài ra, Nhà nước cần có những biện
pháp thiết thực để đầu tư tương xứng và có chất lượng vào giáo dục và đào tạo. Đây
chính là cách để nâng cao năng lực cạnh tranh bền vững của nền kinh tế Việt Nam.
Cần tạo điều kiện để huy động nhiều nguồn lực tham gia đầu tư vào giáo dục, thu hút
đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục…
Tăng cường năng lực của các hiệp hội doanh nghiệp, xây dựng cơ chế đối
thoại thường xuyên, thực chất giữa cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp.
Hiệp hội doanh nghiệp mạnh chắn chắn sẽ đóng góp rất nhiều đối với sự phát
triển của bản thân của các công ty cổ phần nói riêng và của cộng đồng doanh nghiệp
và sự phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung. Có thể nói, điều cản trở sự phát triển
SVTH:Trần Văn Luận 87
MSSV:5044045
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD:Th.S. Dương Kim Thế Nguyên
của các hiệp hội doanh nghiệp hiện nay chủ yếu là do: khung pháp lý về hiệp hội chưa
phù hợp; hiệp hội doanh nghiệp chưa có vai trò tương xứng; nhân lực, bộ máy, kinh
phí hoạt độngcủa hiệp hội doanh nghiệp còn nhiều hạn chế…Vì vậy, để tăng cường
năng lực hoạt động của hiệp hội thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền lên sớm trình
Quốc hội ban hành Luật về hiệp hội doanh nghiệp trong thời gian tới theo hướng các
hiệp hội doanh nghiệp cần có được sự độc lập và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động,
đơn giản hoá các thủ tục thành lập hiệp hội doanh nghiệp, tăng cường hơn nữa vai trò
của các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình xây dựng chính sách và pháp
luật, uỷ quyền nhiều hơn nữa cho các hiệp hội doanh nghiệp thực hiện cá công việc do
cơ quan hành chính Nhà nước đảm nhiệm như đào tạo nghề, cấp bằng, chứng chỉ, cấp
giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá…
Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương xây dựng quy chế đối thoại
thường xuyên, chất lượng với các doanh nghiệp. Đối thoại phải là hoạt động bắt buộc,
định kỳ và thiết thực, có lộ trình thực hiện và kết quả cụ thể, có cam kết của cơ quan
Nhà nước tham gia đối thoại và có đánh giá của cộng đồng. không chỉ tăng cường đối
thoại giữa cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp, Chính phủ cần chỉ đạo tăng cường
trao đổi kinh nghiệm và có các chương trình chia sẻ kinh nghiệm về điều hành kinh tế,
phát triển công nghiệp và thu hút đầu tư giữa các địa phương…
SVTH:Trần Văn Luận 88
MSSV:5044045
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD:Th.S. Dương Kim Thế Nguyên
KẾT LUẬN
Chế độ pháp lý về vốn trong công ty cổ phần nói riêng và các loại hình doanh
nghiệp ở Việt Nam nói chung là một chế định hết sức quan trọng, đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay, giai đoạn hội nhập của nước Việt Nam, thì nó càng trở nên có ý nghĩa
to lớn. Trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, không ít doanh nghiệp Việt Nam
được hình thành, và cũng không ít doanh nghiệp, doanh nhân nước ngoài muốn đầu tư
vào Việt Nam. Quá trình hình thành và phát triển của các loại hình doanh nghiệp trong
đó có công ty cổ phần đã chứng tỏ được vai trò thực sự quan trọng của mình đối quá
trình phát triển đất nước nói chung và sự phát triển của nền kinh tế nước ta nói riêng,
nhất là trong giai đoạn nền kinh tế thị trường hiện nay của Việt Nam là một nền kinh tế
được bắt đầu từ điểm xuất phát thấp so với các nền kinh tế thị trường khác trên thế
giới. Đặc biệt là ở loại hình công ty cổ phần, với những ưu thế vượt trội của mình so
với các loại hình khác đã và đang ngày càng thể hiện được vai trò to lớn của mình
trong việc phát triển kinh tế của nước nhà. Nhận thức được vai trò to lớn đó, Nhà nước
ta trong những năm qua đã không ngừng có những chính sách và biện pháp thích hợp
nhằm hoàn thiện hơn nữa khung pháp lý liên quan đến mọi vấn đề phát triển của các
loại hình doanh nghiệp đặc biệt là những vấn đề về vốn trong công ty cổ phần, nhằm
khuyến khích và tạo ra môi trường pháp lý thông thoáng, cởi mở hơn trong việc thu
hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào loại hình doanh nghiệp này. Tuy
nhiên, trong quá trình phát triển của xã hội nói chung và trong các loại hình doanh
nghiệp nói riêng luôn phát sinh những vấn đề bất cập, vướng mắc gây khó khăn cho cả
phía Nhà nước và các loại hình doanh nghiệp mà cơ quan Nhà nước chưa thể dự trù
hết được trong quá trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến
những lĩnh vực này.Vì vậy,việc sửa đổi, bổ sung và thậm chí đề ra các quy phạm pháp
luật mới để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến sự thành lập, phát triển của doanh
nghiệp nói chung và vấn đề về vốn trong công ty cổ phần nói riêng là quan trọng và rất
cần thiết trong lúc này. Có như vậy, công ty cổ phần và các doanh nghiệp của Việt
Nam mới ngày càng phát triển hơn nữa để theo kịp sự phát triển của thế giới và ngày
càng đóng góp to lớn vào việc phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá mà Đảng và Nhà nước ta đã khởi
xướng và lãnh đạo nhanh chóng đi đến thắng lợi.
SVTH:Trần Văn Luận 89
MSSV:5044045
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD:Th.S. Dương Kim Thế Nguyên
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
IH
-----------------------------------------
ª Luật và các văn bản dưới luật:
1. Bộ luật dân sự 2005;
2. Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001);
3. Luật chứng khoán 2006;
4. Luật công ty 1990;
5. Luật doanh nghiệp 1999, 2005;
6. Luật đất đai 2003;
7. Luật phá sản 2004;
8. Luật sở hữu trí tuệ 2005;
9. Luật thương mại 2005;
10. Nghị định 72/CP, ngày 26/07/1994;
11. Nghị định 120/CP, ngày 17/09/1994;
12. Nghị định 28/1996/ NĐ-CP, ngày 7/05/1996 của Chính phủ về chuyển
một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần;
13. Nghị định số 48/ 1998/NĐ-CP, ngày 11/ 07/1998 của Chính phủ về
chứng khoán và thị trường chứng khoán;
14. Nghị định 44/1998/NĐ-CP, ngày 19/06/1998 của Chính phủ nhằm thay
thế Nghị định 28/1996/NĐ-CP;
15. Nghị định 03/2000/NĐ-CP, ngày 3/2/2000;
16. Nghị định 64/2002/NĐ-CP, ngày 19/06/2002 của Chính phủ thay thế cho
Nghị định 44/1998/NĐ-CP;
17. Thông tư 01/1998/UBCK-NN, ngày 13/10/1998 hướng dẫn thi hành
Nghị định số 48/1998/NĐ-CP, ngày 11/07/1998 của Chính phủ về chứng
khoán và thị trường chứng khoán
18. Thông tư số 02/TT-UBCK, ngày 28/09/2001 về điều kiện phát hành cổ
phiếu và táiphiếu;
ª Các tài liệu tham khảo:
19. Bùi Văn Trịnh-Lưu Đức Hải: Giáo trình thị trường tài chính, Nxb Cà
Mau năm 2004;
20. Bùi Nguyên Hoàn - Thị trường chứng khoán và công ty cổ phần, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1998.
21. Th.S.Dương Kim Thế Nguyên – Giáo trình Luật thương mại, phần 2,
pháp luật về kinh doanh - tủ sách Đại học Cần thơ năm 2005;
22. Đỗ Thị Tuyết, Trương Hoà Bình, giáo trình quản trị doanh nghiệp dành
cho sinh viên không chuyên kinh tế, tủ sách đại học Cần Thơ,2004;
23. Giáo trình quản trị doanh nghiệp, NXB Thống Kê, 2005;
SVTH:Trần Văn Luận 90
MSSV:5044045
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD:Th.S. Dương Kim Thế Nguyên
24. Huỳnh Viết Tấn, Luật trong kinh doanh diễn giải, NXB CTQG, 1997;
25. Th.s Lê Minh Toàn: Những điều cần biết về Luật doanh nghiệp, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2003;
26. Lê Minh Quốc, Doanh nghiệp Việt Nam xưa và nay, NXB Trẻ, 2004;
27. Lê Thị Châu, Quyền sở hữu tài sản của công ty, NXB Lao Động, 1997;
28. PGS. TS Ngô Thế Chi, TS. Nguyễn Trọng Cơ: Đọc, lập và phân tích báo
cáo tài chính trong công tycổ phần, Nxb Tài chính, năm 2000;
29. Ngô Trần Ánh, Kinh tế và quản lý doanh nghiệp, NXB Thống Kê, 2000;
30. Nguyễn Hải Sản, Quản trị doanh nghiệp, NXB Thống Kê, 2001.
31. PGS. TS Nguyễn Năng Phúc, PGS. TS Nghiêm Văn Lợi, TS Nguyễn
Ngọc Quang: Phân tích tài chính trong công ty cổ phần, Nxb Tài chính,
2005;
32. Nguyễn Ngọc Bích, Luật doanh nghiệp-vốn và quản lý vốn trong công ty
cổ phần, NXB Trẻ, 2000;
33. Nguyễn Thị Thu Vân, Một số vấn đề về công ty và hoàn thiện pháp luật
về công ty ở Việt Nam hiện nay, NXB CTQG, 1998.
34. Võ Hưng Thanh, Từ luật doanh nghiệp đến luật thương mại-cẩm nang
pháp luật cho mọi nhà doanh nghiệp hiện hành, NXB Thống Kê, 2001.
35. Trường Đại Học Luật Hà Nội - Giáo trình Luật thương mại - Tập 1-
Nxb Chính trị Quốc gia – Hà Nội – Năm 2006.
ª Các trang web tham khảo:
36.
37. www.dantri.com.vn;
38. www.hoidap.moj.gov.vn;
39. www.khoahocphattrien.com.vn;
40. www.tuoitre.com.vn;
41. www.tuvanthuonghieu.com;
42. www.vibonline.com.vn;
43. www.vipatco.vn.
SVTH:Trần Văn Luận 91
MSSV:5044045
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CH7870 2727896 PHamp193P Lamp221 V7872 V7888N TRONG Camp212NG TY C7892 PHamp784.PDF