Luận văn Chi phí sản xuất kinh doanh và các biện pháp quản lý chi phí x kinh doanh tại xí nghiệp 24

Xí nghiệp cần đầu tư vốn, kinh phí để tạo điều kiện cho phòng kỹ thuật tự nghiên cứu thiết kế những mô hình dây chuyền công nghệ mới vừa phù hợp với đặc điểm của xí nghiệp vừa phù hợp với đặc điểm của xí nghiệp vừa có tính năng sử dụng cao. Năm vừa qua, xí nghiệp đã ứng dụng một số đề tài cải tiến vào sản xuất như "thiết kế chế tạo dao cắt thép L" thiết kế lắp đặt hệ thống hút độc tại phân xưởng dập và đã tiết kiệm được chi phí dịch vụ mua ngoài. Điều này cho thấy bộ phận kỹ thuật của xí nghiệp có khả năng cải tiến sáng chế áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất nên xã hội cần có chính sách đầu tư thích đáng về chế độ khen thưởng cũng như kinh phí để thực hiện đề tài. Bốn là: Tiết kiệm tối đa chi phí dịch vụ mua ngoài. Năm vừa qua khoản chi phí sản xuất chung trong giá thành của xí nghiệp tăng 60,5 so với năm 1999. Ngoài tăng do chi phí khấu hao con số này tăng một phần là do chi phí về năng lượng sử dụng trong xí nghiệp tăng. Đơn giá điện của Nhà nước tăng 10% là nguyên nhân khách quan ảnh hưởng đến sự tăng chi phí ngoài ra còn do xí nghiệp trang bị thêm hai dây chuyền sản xuất là máy cuốn inox và điện hoá nên chi phí ngoài ra còn do xí nghiệp trang bị thêm hai dây chuyền sản xuất là máy cuốn inox và điện hoá nên chi phí về năng lượng chạy thử cũng tăng. Ở xí nghiệp như các doanh nghiệp khác, chi phí mua ngoài gồmnhiều khoản như chi phí tiền điện nước, điện thoại dùng cho sản xuất ở phân xưởng và các bộ phận quản lý doanh nghiệp. Các khoản này rất dễ bị lãngphí và sử dụng thiếu ý thức tiết kiệm. Xí nghiệp cần có biện pháp nâng cao ý thức tiết kiệm cho cán bộ công nhân viên trong quá trình sử dụng, đề ra nội quy, định mức sử dụng, lắp công tơ điện nước ở từng bộ phận sử dụng, xử phạt những trường hợp quá định mức để quản lý chặt chẽ hơn các khoản chi này. Ví dụ về tiền điện thoại các phòng cần phân tích các cuộc gọi của tháng trước để thấy được các nào hợp lý, cuộc gọi nào là lãng phí từ đó xây dựng định mức sử dụng điện thoại và khoán trả bằng tiền cho từng bộ phận. Nếu cá nhân sử dụng vượt mức cho phép thì phải bỏ tiền trả phần vượt trội.

doc59 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1457 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chi phí sản xuất kinh doanh và các biện pháp quản lý chi phí x kinh doanh tại xí nghiệp 24, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lương cơ bản. Như vậy, do đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm vi quân đội nên các khoản phụ cấp tính vào lương tương đối cao với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Nhưng khoản này không trực tiếp làm tăng giá tríp nhưng lại tính vào chi phí sản xuất nên sẽ làm tăng giá thành sản phẩm. Mức phụ cấp hàng năm được cấp trên căn cứ vào kế hoạch lao động sản xuất và cho phép xí nghiệp trích, nên đây là nhân tố khách quan. Chi phí nhân công trực tiếp tăng 339521573đ (tỷ lệ 30,2%) là do số công nhân sản xuất tăng nhưng mặt khác còn do công nhân phần lớn chưa thực hiện được mức lao động kế hoạch. Việc tuyển chọn công nhân sản xuất của xí nghiệp còn sơ sài chưa đáp ứng được yêu cầu cần thiết do đó năng suất lao động thấp làm tăng chi phí. Hiện nay, trình độ tay nghề bình quân của công nhân là bậc 4/7. Do đó xí nghiệp cần tăng cường bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho công nhân. * Về chi phí sản xuất chung Khoản chi phí này năm 2000 tăng khá cao so với năm 1999 (tăng 60,5%), trong đó: + Chi phí khấu hao TSCĐ tăng 292537356 đồng với tỷ lệ 48,5% là do xí nghiệp đưa thêm máy móc vào hoạt động sản xuất nhằm hoàn thành nhiệm vụ được giao như máy cuốn inox, máy điện hoá. Tuy nhiên việc sử dụng còn chưa đồng bộ, chưa tận dụng hết công suất gây lãng phí chi phí khấu hao. + Năng lượng phục vụ cho sản xuất cũng tăng từ 86127356 lên 133730420 đồng với tỷ lệ55%. Năm vừa qua, nguồn năng lượng phục vụ cho sản xuất tăng do đơn giá điện năng 10% tức là khoảng từ 810 đồng lên 880 đồng và do xí nghiệp đưa vào chạy thử một số mô hình cải thiến mới như bộ nồi nấu ăn biên phòng, bếp tày Hải Quân. Song việc sử dụng điện còn chưa được quản lý chặt chẽ theo đúng giời sản xuất quy định. Kế toán của xí nghiệp không thực hiện theo dõi chi tiết các yếu tố chi phí sản xuất chung nên khó quản lý chi phí phát sinh ở khoản này. * Về chi phí bán hàng Chi phí bán hàng klà khoản chi phí liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, khoản chi này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng chi phí từ 1%- 2%. Sản phẩm hoàn thành xong phần lớn được giao nộp tại kho cho công tuyên chi phí bán hàng chủ yếu là chi phí vận chuyển, ít phát sinh chi phí bao gói, bảo quản sản xuất.Tuy nhiên xí nghiệp cũng có những hội nghị giới thiệu sản phẩm với tòan quân, với các đơn vị, tổ chức khác ngoài phạm vi quân đội để mở rộng tăng khối lượng hàng hoá kinh tế. * Về chi phí quản lý doanh nghiệp Khoản mục này chiếm tỷ trọng tương đối lớn từ 12% - 15%, trong đó khoảng 65% chi phí nộp Công ty. Hàng năm Công ty căn cứ vào nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của xí nghiệp để quy định trích. Khoản này chi cho công tác điều hành quản lý hoạt động xí nghiệp của Công ty như việc duyệt các hợp đồng kinh tế, trình bày vốn với ngân hàng, chi giao dịch tiếp khách, các đoàn thanh tra của Tổng cục. Như vậy, là xí nghiệp thành viên của Công ty, chịu sự chi phối điều hành trực tiếp của Công ty nên 65% chi phí QLDN ở xí nghiệp phải nộp cho Công ty. Điều này cho thấy tính chủ động của xí nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh còn bị hạn chế, gây khó khăn cho công tác quản lý chi phí hạ giá thành sản phẩm. Đây cũng là nguyên nhân khách quan làm cho giá thành sản phẩm ở xí nghiệp tăng. Về chi phí quản lý doanh nghiệp tại xí nghiệp Bộ máy quản lý tại xí nghiệp là tương đối hợp lý với số lượng khoảng 41 cán bộ nhân viên. song xí nghiệp còn chưa tập trung vào khâu then chốt, cụ thể: Ban tài chính của xí nghiệp có 5 người lại làm việc trong phòng có diện tích chật hẹp làm giảm hiệu quả công tác. xí nghiệp cần đầu tư thêm cho công tác quản lý tài chính tại xí nghiệp. Nhân viên các phòng chưa làm đúng theo giờ quy định nên nhiều khi dẫn đến tình trạng "người thừa, việc thiếu". Các phòng ban đều được trang bị máy tính, fax, máy in nhưng chưa sử dụng hiệu quả dẫn đến chi phí khấu hao TSCĐ tăng. Chi phí giao dịch tiếp khách phát sinh thường vựợt kế hoạch gây lãng phí. Để giảm được khoản này cần có sự thống nhất quản triệt của ban lãnh đạo xí nghiệp,. Tóm lại, nămqua chi phí tăng mà doanh lợi thu được chưa cao. Nguyên nhân khách quan là xí nghiệp phải thực hiện thêm chỉ tiêu Công ty giao, do xí nghiệp thực hiện một số mặt hàng mới lần đầu tiên đưa vào sản xuất nên chưa xây dựng được định mức chi phí nguyên vật liệu, định mức lao động phù hợp. Nguyên nhân chủ quan là do công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện kế hoạch chưa sát sao và chưa xử lý kịp thời đối với những biến động phát sinh. Bộ phận kế toán xí nghiệp chưa theo dõi chi tiết các yếu tố chi phí phát sinh trong khoản mục chi phí sản xuất chung làm giảm hiệu quả quản lý. 2.3. Tình hình quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm tại xí nghiệp 24. ở xí nghiệp 24 sản phẩm sản xuất đa dạng về chủng loại, kích cỡ nên chi phí phát sinh cũng rất phức tạp. Tuy nhiên, để đảm bảo công tác quản lý chi phí được thực hiện chặt chẽ nhằm tính đúng chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, xí nghiệp đều tiến hành lập kế hoạch giá thành cho từng loại sản phẩm căn cứ vào định mức chi phí, dự toán chi phí, tình hình sử dụng tài sản, vật tư, lao động những năm qua tại xí nghiệp. 2.3.1. Phương pháp lập kế hoạch chi phí sản xuất và kế hoạch giá thành sản phẩm của xí nghiệp. Công tác lập kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh của xí nghiệp được coi là biện pháp tài chính để quản lý chi phí vì nó phục vụ đắc lực cho việc hoàn thành nhiệm vụ, đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả. Lập kế hoạch chi phí và giá thành sản phẩm nghĩa là đã xây dựng cho xí nghiệp mục tiêu phấn đấu, có cơ sở để tìm tòi, khai thác khả năng tiềm tàng trong sản xuất kinh doanh nhằm tiết kiệm chi phí và tăng lợi nhuận cho xí nghiệp. Để lập kế hoạch chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xí nghiệp căn cứ vào định mức nguyên vật liệu do phòng kỹ thuật lập ra để dự toán chi phí nguyên vật liệu; căn cứ vào đơn giá tiền lương do bộ phận lao động tiền lương lập ra trên cơ sở định mức sản xuất của phòng kỹ thuật để lập kế hoạch chi phí nhân công trực tiếp; căn cứ vào quy định của Nhà nước để lập ra kế hoạch trích theo lương và kế hoạch khấu hao TSCĐ; căn cứ vào nhiệm vụ sản xuất để lập dự toán các loại chi phí khác như chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền… Để lập kế hoạch giá thành sản phẩm xí nghiệp căn cứ vào định mức kinh tế kỹ thuật của từng loại vật tư, vào số lượng sản phẩm được Công ty giao cũng như hợp đồng kinh tế với các đơn vị khác; căn cứ vào giá thành sản phẩm của năm trước và trên thị trường; căn cứ vào biến động giá cả của thị trường cung cấp đầu vào cho xí nghiệp… Sau khi phân tích tình hình thực hiện và quản lý giá thành năm trước, kết hợp với các căn cứ trên xí nghiệp dự kiến mức độ hoàn thành kế hoạch, phát triển khả năng tiềm tàng để hạ giá thành từ đó xác định giá thành đơn vị và giá thành tiêu thụ sản phẩm kỳ kế hoạch. Trong quá trình lựa chọn phương pháp lập kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm, xí nghiệp đã cố gắng chọn cách tối ưu, khoa học nhất. Với mỗi phương pháp khác nhau thì kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm cũng khác nhau. Hiện nay, xí nghiệp căn cứ vào định mức trung bình tiên tiến của các doanh nghiệp sản xuất cùng ngành và căn cứ vào các chỉ tiêu được giao để xây dựng phương pháp lập kế hoạch chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Ngoài ra, xí nghiệp cũng rất linh hoạt trong cách tính toán, ví dụ như khi phân bổ chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, xí nghiệp chọn tiêu thức phân bổ là doanh thu tiêu thụ nhưng nếu trong một thời kỳ, chi phí phát sinh lớn và giá thành sản phẩm không "gánh" được nữa thì kế toán chuyển một phần sang tài khoản chi phí chờ kết chuyển (TK 142) để đảm bảo cho giá thành được ổn định và hợp lý. Khi xây dựng xong kế hoạch giá thành xí nghiệp trình cho Tổng cục duyệt làm căn cứ để thực hiện. Do xí nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm nên để đánh giá cụ thể công tác quản lý chi phí cũng như tình hình lập và thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm, ta chọn một loại sản phẩm tiêu biểu chiếm tỷ trọng lớn trong số lượng các mặt hàng và được thực hiện liên tục nhiều năm. Đó là mặt hàng inox 18 (sản lượng 28000 cái năm 2000). Bảng 6: Giá thành kế hoạch bát inox - 18 (năm 2000) Khoản mục ĐVT ĐMTH Đơn giá Thành tiền 1999 2000 Tổng cục duyệt năm 1999 Đề nghị duyệt năm 2000 1. Thép inox 0,5 mm cộng NVL chính Kg 0,22 29.000 33.756 6.380.0 7.426,3 2. Phớt đánh bóng Cái 0,008, 45.000 45.000 6.380.0 7.426,3 3. Bột đánh bóng Kg 0,03 40.000 40.000 360.0 360,0 4. Dầu hoả Lit 0,01 4.000 4.000 1.200.0 1.200,0 5. Xà phòng Kg 0,005 2.500 2.500 40,0 40,0 6. Giẻ lau Kg 0,005 8.000 8.000 12,5 12,5 7. Hộp catton Cái 0,005 4.000 4.000 40,0 40,0 8. Giấy Gram Kg 0,005 5.000 5.000 20,0 20,0 9. Dây buộc cộng vật liệu phụ Kg 0,005 15.000 15.000 25,0 25,0 10. Năng lượng Kw 1,5 828 880 75,0 75,0 11. Lương Cộng 0,16 16.800 21.000 1772,5 1.772,5 12. Ăn ca Cộng 0,16 2.500 3.000 1242,0 1.320,0 13. BHXH,BHYT.. đồng 19% 19.300 17.200 2688,0 3.360,0 14. KHTSCĐ đồng 400,0 480,0 15. Chi phí sử dụng khuôn mẫu đồng 510,7 638,4 16. Thiệt hại sản phẩm đồng 772,0 772,0 17. Chi phí khác cộng giá thành sản xuất đồng 454,0 450,4 18. Chi phí tiêu thụ đồng 94,8 94,8 19. Chi phí QLDN cộng giá thành tiêu thụ đồng 753,0 873,0 2.3.2 Tình hình thực hiện kế hoạch chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của xí nghiệp 24 Bảng 7: Giá thành sản phẩm - bát inox 18 năm 2000 Khoản mục ĐVT ĐMTH Đơn giá Thành tiền 1. Qua số liệu trên bảng ta thấy xí nghiệp đã thực hiện được nhiệm vụ hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí sản xuất kinh doanh ở mặt hàng bát inox 18. Cụ thể giá thành kế hoạch là 18.287,4đ/1sp nhưng tình hình thực tế giá thành 18.204,9đ/sản phẩm. Như vậy xí nghiệp đã thực hiện giảm được 82,5đ/1sp với số tương đối là 0,45%. Để thấy rõ chất lượng công tác quản lý chi phí ảnh hưởng đến sự giảm giá thành như trên, ta đi sâu phân tích từng yếu tố chi phí. * Chi phí nguyên vật liệu chính. Đối với từng loại sản phẩm khoản chi nguyên vật liệu trong giá thành có thể xác định theo công thức: Cv = SSl x i x gi - F Trong đó: Sl: Là sản lượng sản xuất của một loại sản phẩm. Gi: Đơn giá vật liệu xuất dùng. F: Giá trị phế liệu thu hồi. i: Mức tiêu hao bình quân từng loại NVL. Riêng mặt hàng bát inox 18 giá trị phế liệu thu không đáng kể nên xí nghiệp đã không đưa vào tính trong giá thành sản phẩm. Do đó khoản chi kế hoạch điều chỉnh theo thực tế là: CvDV = SSl1 x ki x gki - FDK = 28.000 * 0,22 *33.756 = 207.936.960 đồng. Khoản chi vật liệu thực tế là: Cv1 = SSl1 x li x gli - F1 = 28.000 * 0,22 * 33.700 = 207.592.000 Mức chênh lệch giữa thực tế với kế hoạch sẽ là: Cv1 - CVdK = DCV = 207592000 - 207936960 = - 344960 đồng. Qua đó ta thấy mức chi phí về thép inox kỳ thực tế giảm 344.960đ là do ảnh hưởng nhân tố: mức tiêu hao bình quân, đơn giá vật liệu xuất dùng trong đó định mức tiêu hao thực tế đạt được như kế hoạch đề ra nên không ảnh hưởng đến sự tăng giảm chi phí nguyên vật liệu chính còn mức ảnh hưởng của đơn giá xuất dùng như sau: Cvg = SSl1 x li x (gli - gki) = 28.000 * 0,22 * (33.700 - 33.756 = - 344.960) Như vậy tổng mức chi nguyên vật liệu chính cho sản phẩm bát inox 18 kỳ thực tế đã giảm 344.960đ là do đơn giá xuất dùng giảm. Thành tích này có được là do xí nghiệp đã tìm được nguồn cung cấp rẻ giảm và giảm được chi phí thu mua vận chuyển. Với chi phí nguyên vật liệu chính, xí nghiệp đã cố gắng đạt được như định mức đặt ra là 0,22kg/1sp. Năm qua, giá cả của loại vật liệu thép inox trên thị trường có nhiều biến động cụ thể là tăng 28750đ lên 33650đ/kg nhưng xí nghiệp đã thành công trong việc tìm được nguồn cung cấp rẻ hơn so với kế hoạch đề ra, giảm được đơn giá xuất dùng là 56đ/kg thép inox. Ngoài quan hệ giao dịch với Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoà Bình, Tiến Đạt… xí nghiệp đã mở rộng quan hệ với Công ty inox Đại Phát, chi nhánh gang thép Thái Nguyên nên có thể chủ động tìm nguồn thay thế đồng thời giảm được chi phí thu mua và do đó giảm được chi phí nguyên vật liệu. Để quản lý tốt khoản chi phí nguyên vật liệu xí nghiệp cũng đặc biệt chú trọng đến việc mua nguyên vật liệu có chất lượng đảm bảo nhằm chi phí phát sinh do sản phẩm hỏng. * Chi phí vật liệu phụ Loại chi phí này đã thực hiện giảm được 99đ/kg tương ứng với tỷ lệ 5,6% chủ yếu là do: + xí nghiệp đã giảm được đơn giá xuất dùng bột đánh bóng bằng cách mua với khối lượng lớn để được giảm giá. Ngoài ra còn có nguyên nhân khách quan là giá loại bột này trên thị trường giảm. + Việc sử dụng nhiên liệu là dầu hoả để đánh bóng điện hoá sản phẩm là lãng phí so với định mức đặt ra là 0,03l/1sp. Đây là nhân tố chủ quan trong công tác quản lý chi phí vì công nhân khi sử dụng dầu chưa có ý thức tiết kiệm, để rơi vãi hoặc lấy quá định mức cho phép. + Xà phòng sử dụng ở các phân xưởng năm 2000 đều đúng kế hoạch về định mức và đơn giá nhưng thực tế tại các phân xưởng còn lãng phí chứng tỏ công tác xây dựng định mức chưa sát sao. + Giẻ lau: Năm vừa qua, phòng kỹ thuật đã yêu cầu các phân xưởng sử dụng tiết kiệm loại này bằng việc dùng lại không chỉ một lần nhưng vẫn phải đảm bảo cho mẫu mã sản phẩm được bền đẹp. Thực tế xí nghiệp đã giảm định mức tiêu hao là 0,002kg/1sp tức tiết kiệm được 16đ/1sp. Tuy nhiên xí nghiệp còn có thể tìm thêm nguồn cung cấp khác có đơn giá rẻ và giảm đơn giá xuất dùng xuống dưới 8000đ/1kg. + Dây buộc: xí nghiệp đã chọn được nguồn cung cấp rẻ hơn so với kế hoạch đặt ra nên giảm được 5đ/1sp. Nhìn chung chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm khoảng 5% nên xí nghiệp đã đặt trọng tâm công tác quản lý vào yếu tố chi phí nguyên vật liệu. Thực tế cho thấy xí nghiệp đã cố gắng tìm kiếm nguồn cung cấp nguyên vật liệu, rẻ, tiết kiệm chi phí thu mua để giảm chi phí đầu vào cũng như khai thác tiềm năng giảm chi phí bằng việc theo dõi kiểm tra sát sao quá trình sản xuất tại từng phân xưởng. Song vẫn không tránh khỏi việc quản lý sử dụng một số vật liệu phụ và nhiên liệu lãng phí do ý thức trách nhiệm của công nhân chưa cao, các quản đốc phân xưởng chưa phát huy hết chức năng giám sát kiểm tra đôn đốc thực hiện kế hoạch sản xuất. * Chi phí tiền lương và các khoản tính theo lương. Trong khâu lập kế hoạch giá thành sản phẩm, xí nghiệp không đi sâu chi tiết cho chi phí nhân công trực tiếp và chi phí nhân viên quản lý phục vụ phân xưởng nên khó đưa ra kết luận chính xác. Tuy nhiên nhìn vào bảng ta thấy, xí nghiệp đã hoàn thành kế hoạch về định mức lao động là 0,16công /1sp với mức đơn giá tiền lương là 21000đ/1công tăng 4200đ/1công so với năm 1999. Điều này chứng tỏ xí nghiệp đã chú trọng bồi dưỡng tay nghề công nhân, tổ chức các cuộc thi sát hạch nâng cao tay nghề cũng như quan tâm đến đời sống người lao động (tăng mức phụ cấp độc hại, tăng đơn giá ăn so với năm 1999). Xí nghiệp cũng cần so sánh giữa tốc độ tăng chi phí nhân công với tốc độ tăng năng suất lao động để có những điều chỉnh hợp lý. * Chi phí khấu hao TSCĐ. Hàng năm, căn cứ vào thực tế của năm trước, triển vọng sản xuất trong năm tới, tình hình thực tế về máy móc thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật tại xí nghiệp, kế toán lập bảng kế hoạch chi tiết khấu hao TSCĐ và tình hình hao mòn TSCĐ. Từ đó căn cứ vào bảng kế hoạch KHTSCĐ cùng sản lượng thực tế sản xuất ra kế toán hàng tháng trích KHTSCĐ theo phương pháp tuyến tính. Từ năm, 1999, theo quyết định số 166 của BTC, tài sản cố định của xí nghiệp được trích hàng năm theo công thức. Mức trích KH hàng năm = Tuy nhiên, thực tế do xí nghiệp do sản xuất sản xuất nhiều loại sản phẩm nên việc trích khấu hao tính vào giá thành từng loại sản phẩm còn theo kiểu "bốc thuốc" nghĩa còn áng chứng vào sản lượng sản xuất ra, còn xem xét liệu giá thành "gánh" được hay không, do đó mức trích khấu hao phản ánh chưa được chính xác. Mặt khác nhiều máy móc thiết bị tại xí nghiệp đã qua thời gian sử dụng, trích khấu hao nhưng vẫn chưa thanh lý, thay máy mới gây ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm. * Chi phí thiệt hại sản phẩm chi phí sản phẩm hỏng giảm làm cho giá thành sản phẩm giảm được 0,8đ/sản phẩm so với kế hoạch. Thành tích này đạt được chủ yếu là do tay nghề công nhân đợc nâng cao và chất lượng thép tốt. Nếu xí nghiệp chú ý đến đổi mới máy móc, áp dụng công nghệ mới thì chi phí thiệt hại sản phẩm còn giảm được nữa. * Chi phí khác. Là những chi phí nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ phục vụ cho việc quản lý phân xưởng, chi phí dịch vụ mua ngoài. Xí nghiệp đã giảm được 3đ/ sản phẩm so với kế hoạch. * Chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp - Chi phí bán hàng thực hiện theo đúng kế hoạch là do sản phẩm của xí nghiệp đã quen thuộc với toàn quân, không phải bỏ thêm chi phí giới thiệu sản phẩm. Việc bảo gói sản phẩm cũng được thực hiện cẩn thận hơn, tránh lãng phí nguyên vật liệu bao gói như giấy, hộp catton. Xí nghiệp chỉ bố trí một nhân viên ở khâu tiêu thụ sản phẩm, đảm trách việc giao thông tại kho cho Công ty chi phí bán hàng đã giảm đến mức tối thiểu ở yếu tố tiền lương. - Chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 3đ/1 sản phẩm trong đó bao gồm cả chi phí nộp Công ty và chi phí quản lý doanh nghiệp tại xí nghiệp. Nhìn chung, chi phí quản lý doanh nghiệp của xí nghiệp xã trụ sở Công ty nên chi phí đi lại giao dịch để giải quyết, thực hiện nhiệm vụ giữa hai bên tất yếu phát sinh. Việc tiết kiệm chi phí này phụ thuộc vào ý thức và biện pháp quản lý của ban lãnh đạo xí nghiệp. Chi phí quản lý doanh nghiệp phát sinh ở xí nghiệp lãng phí chủ yếu ở chi phí điện thoại, chi phí khấu hao ở các phòng ban do các nhân viên còn lạm dụng điện thoại công để giải quyết việc riêng. Mặt khác, mỗi phòng ban đều được bố trí máy vi tính nhưng chưa sử dụng hiệu quả, nhất là máy ở phòng hành chính văn thư hầu như không sử dụng trong khi đó máy ở phòng tài chính mọi người phải thay nhau sử dụng để xử lý khối lượng công việc lớn. Như vậy, qua phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành loại sản phẩm bát inox 18, ta thấy xí nghiệp đã rất nỗ lực thực hiện các biện pháp giảm phí hạ thấp giá thành sản phẩm đặc biệt là chú trọng công tác quản lý chi phí nguyên vật liệu chính. Tuy thế, đây mới chỉ là một khía cạnh trong công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh phát sinh trong toàn xã hội nên không thể đưa ra một kết luận tương tự về việc quản lý chi phí đối với các sản phẩm khác, nhưng ta có thể khẳng định về những cố gắng, những tìm tòi của xí nghiệp trong việc tiết kiệm chi phí hạ giá thành sản phẩm. Thông qua công tác hạ giá thành sản phẩm bát inox 18 xã hội đã đóng góp một phần vào thực hiện mục tiêu tăng tích luỹ của Công ty đồng thời hoàn thành xuất sắc nhiệm BQP giao, nâng cao uy tín của xí nghiệp trong phạm vi quân đội và cả nước. Cụ thể trong 28000 sản phẩm bát inox 18 thì có 27.410 sản phẩm là chỉ tiêu BQP giao với đơn giá là 19310 đ/ sản phẩm, doanh thu đạt được là 529 278 100đồng, tiết kiệm được 2261 325 đồng cho BQP. 590 sản phẩm là hàng kinh tế được thực hiện theo đơn đặt hàng của các đơn vị khác với đơn giá thoả thuận là 18.344đ/sản phẩm vẫn đảm bảo cho xí nghiệp bù đắp được các chi phí, mặt khác còn giúp xí nghiệp mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. 2.3.3 Một số biện pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành mà xí nghiệp đã và đang thực hiện trong những năm qua. Là xí nghiệp có quy mô nhỏ so với các doanh nghiệp cùng ngành hoạt động trong nền kinh tế quốc dân, hơn nữa lại phụ thuộc vào sự quản lý của Công ty, do đó để tồn tại và phát triển được xí nghiệp phải quán triệt nguyên tắc lấy thu bù chi và có lãi. Ngoài số lãi thu được nộp Công ty xí nghiệp còn phải thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao đời sống công nhân viên. Chính vì thế việc quản lý chi phí sản xuất kinh doanh được xí nghiệp đặc biệt quan tâm. Thời gian qua xí nghiệp đã rất cố gắng tìm tòi và áp dụng các biện pháp quản lý chi phí với đặc điểm của xí nghiệp mình. Cụ thể là các biện pháp sau: - Xây dựng kế hoạch chi phí. Để có được một dự toán chi phí hợp lý đảm bảo tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh nhịp nhàng liên tục, hoàn thành kế hoạch đặt ra xí nghiệp căn cứ vào: + Định mức tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật do bộ phận kỹ thuật lập ra. + Căn cứ vào đường lối hướng dẫn của BQP thông qua thực hiện các chỉ tiêu được giao, hướng dẫn củaBTC và áp dụng chế độ kế toán hiện hành. + Căn cứ vào những chỉ tiêu kế hoạch của xí nghiệp như kế hoạch sản lượng, kế hoạch lao động, tiền lương, kế hoạch đầu tư mở rộng, kế hoạch đào tạo, kế hoạch sửa chữa. + Căn cứ vào kinh nghiệm thực hiện chi phí kỳ trước hoặc các thống kê kinh tế kỹ thuật được tích luỹ. + Căn cứ vào các nhân tố ảnh hưởng đến các chỉ tiêu chi phí. - Tăng cường kiểm tra giám sát quá trình thực hiện chi phí và phân tích đánh giá sự biến động của chi phí trong từng thời kỳ. Thông qua đó tìm ra các biện pháp quản lý linh hoạt sắc bén như: mua nguyên vật liệu ở nơi thuận tiện, đánh giá việc thực hiện các định mức tiêu hao vật tư… - Thực hiện công tác quyết toán. Quyết toán ở xí nghiệp là việc tổng hợp và thanh toán các khoản thu chi đã thực hiện trong một thời kỳ nhất định vào báo cáo, sau đó báo cáo cho Công ty. Thông qua công tác quyết toán, xí nghiệp một mặt rà soát và xử lý các chi phí thực hiện trong kỳ, mặt khác xác định được kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ nhất định. Khi thực hiện quyết toán, xí nghiệp vừa xác định được nguồn kinh phí dùng để thanh toán cho các chi phí hợp lý hợp lệ vừa đưa ra biện pháp xử lý với những chi phí không hợp lệ hoặc chưa được thanh toán. 2.4 Những vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm tại xí nghiệp 24. 2.4.1 Những thành tích đạt được: - Về công tác tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm. + Căn cứ vào đặc điểm sản xuất và quy trình công nghệ, việc xác định đối tượng tập hợp chi phí là từng phân xưởng chi tiết cho từng loại sản phẩm hoàn thành là hợp lý, có căn cứ khoa học tạo điều kiện cho công tác hạch toán quản lý kinh tế ở xí nghiệp đạt hiệu quả cao. + Tuy sản xuất nhiều loại sản phẩm nhưng xí nghiệp đã cố gắng tập hợp chi phí sản xuất thường xuyên theo định kỳ hàng tháng nhằm đảm bảo cung cấp thông tin chính xác cho lãnh đạo Công ty. Từ đó có biện pháp kịp thời nhằm tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty. + Việc tập hợp chi phí theo khoản mục là phù hợp với đặc điểm của xí nghiệp, tạo điều kiện cho công tác tính giá thành cụ thể nhanh chóng cũng như việc quản lý các khoản mục được thuận lợi. - Xí nghiệp đã hoàn thành cơ bản hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật vật tư cho các mặt hàng, thường xuyên cải tiến điều chỉnh định mức để phù hợp với sản xuất, thực hiện quản lý chặt chẽ tiêu hao vật tư trong sản xuất. Đồng thời ra các quy chế quản lý kỹ thuật cơ điện và làm thủ tục cấp thẻ đứng máy cho công nhân. - Chủ động nghiên cứu tiếp cận sản phẩm mới, khắc phục sự cố kỹ thuật tạo sự chủ động trong sản xuất hạn chế những chi phí phát sinh không đáng có. Năm vừa qua phòng kỹ thuật đã nghiên cứu và thiết kế thành công sản phẩm mới: bếp tàu hải quân, xoong biên phòng làm giảm chi phí mua ngoài. - Xí nghiệp đã tổ chức công tác mua bán vật tư, luôn luôn tìm kiếm chọn mua loại vật tư có giá rẻ chất lượng cao, đồng thời giảm chi phí thu mua. - Xí nghiệp đã áp dụng chế độ thưởng phạt khuyến khích trong thực hành tiết kiệm chi phí, tăng năng suất lao động, thực hiện tốt kế hoạch bồi dưỡng nâng cao tay nghề. 2.4.2 Những hạn chế cần khắc phục - Xí nghiệp luôn tìm cách giảm chi phí tồn kho nhưng việc cung ứng vật tư còn chậm, chưa đồng bộ ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất. - Chi phí cố định như chi phí khấu hao và chi phí quản lý doanh nghiệp còn chiếm tỷ trọng cao trong giá thành. Máy móc thiết bị của xí nghiệp chưa đồng bộ còn lạc hậu, công suất giảm xuống nhưng vẫn với chi phí khấu hao và tiêu hao điện năng như cũ. Chi phí QLDN lãng phí chủ yếu ở chi phí giao dịch điện thoại, chi phí dịch vụ mua ngoài… Chính điều này làm cho chi phí cố định cao giảm hiệu quả kinh tế của xí nghiệp. - Kế toán xí nghiệp chưa thể hiện chi tiết các yếu tố chi phí cho khoản mục chi phí sản xuất chung, chi phí bán hàng, chi phí QLDN trong giá thành từng loại sản phẩm. Vì thế việc giám sát sự biến động của các loại chi phí này gặp khó khăn không đưa ra các biện pháp xử lý kịp thời. - Tổ chức điều hành sản xuất kinh doanh và quản lý có lúc chưa đồng bộ, chưa chủ động, chất lượng và tiến độ nhập hàng quốc phòng chưa đáp ứng được yêu cầu của cấp trên. - Chưa duy trì thường xuyên chế độ bảo dưỡng sửa chữa máy móc thiết bị, khuôn mẫu đảm bảo phục vụ sản xuất liên tục. Chậm đổi mới máy móc thiết bị, áp dụng công nghệ mới. - Công tác quản lý còn lỏng lẻo, còn để tình trạng ra vào bừa bãi không đúng quy định gây mất mát tài sản của đơn vị. - Việc thực hiện quy chế an toàn chưa cao còn để xảy ra mất an toàn trong sản xuất. Việc tuyển chọn công nhân đầu vào thiếu chặt chẽ ở khâu tuyển chọn tay nghề, do vậy công nhân có tác phong công nghiệp kém. - Công tác quảng cáo tiếp thị còn yếu. Trên đây là một số ưu nhược điểm trong công tác quản lý chi phí tại xí nghiệp, đòi hỏi nhà quản lý phải nắm bắt kịp thời để duy trì phát huy những thành tích đã đạt được, đồng thời nhanh chóng tìm ra biện pháp khắc phục những khó khăn đang tồn tại ở xí nghiệp. Chương III Một số ý kiến đề xuất về các biện pháp giảm chi phí sản xuất kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm ở xí nghiệp 24 3.1 Kinh nghiệm quản lý chi phí sản xuất kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đường lối chiến lược kinh doanh là rất quan trọng nhưng quan trọng không kém đó là việc quản lý thực hiện chiến lược kinh doanh ấy. Nhiều doanh nghiệp đã thành công nhờ những người lãnh đạo biết tìm ra thế mạnh của mình, khuyến khích nó phát triển cũng như hiểu được điểm yếu để tìm cách khắc phục. Về nguyên tắc, các nhà quản trị doanh nghiệp nói chung và quản trị chi phí nói riêng thường tuân theo một số lý thuyết quản lý. Ngày nay, nhiều kỹ thuật tổ chức và quản lý kinh doanh vẫn áp dụng các nguyên tắc của những lý thuyết này. Thậm chí, các lý thuyết mới về quản lý cũng chịu ảnh hưởng một cách có ý thức hoặc không có ý thức những lý thuyết này. Trường phái ổn định có hai lý thuyết chính là"Lý thuyết quản trị khoa học" ở mỹ của Frederic W,Taylor và "Lý thuyết quản trị hành chính" Theo đó, hiệu quả của quản trị có thể được nâng cao bằng các biện pháp tăng năng suất lao động của công nhân. Nó bao gồm sự khám phá thông qua các phương pháp khoa học của công nhân. Nó bao gồm sự khám phá thông qua các phương pháp khoa học những nhân tố cơ bản trong việc sử dụng con người thay do việc dựa vào kinh nghiệm: sự xác định những chức năng hoạch định của nhà quản trị thay thế cho việc công nhân tự ý chọn phương pháp làm việc riêng; sự lựa chọn và huấn luyện công nhân, phát triển tinh thần hợp tác thay vì khuyến khích những nỗ lực cá biệt riêng lẻ. Ngày nay, tác dụng của những lý thuyết này đối với việc tiết kiệm và quản lý chi phí thật to lớn. Song song với mục tiêu tăng trưởng và mở rộng, các nhà doanh nghiệp biết rằng đội ngũ nhân viên chính là nguồn gốc của mọi xu thế. Họ lấy đi chi phí nhân công nhưg nếu biết sử dụng họ hợp lý hiệu quả thì chính doanh nghiệp đã tiết kiệm được một khoản chi rất lớn. Theo quan điểm quản lý chi phí của các nhà kinh doanh Đức, hiệu quả của công tác này không thể chỉ dựa vào một phòng ban, đơn vị trực tiếp thực hiện công tác mà phải dựa vào sự phối hợp của nhiều bộ phận. Mối quan hệ chặt chẽ trong Công ty được đề cao ngay từ việc xây dựng mô hình doanh nghiệp. Điều này cũng tương đồng với quan điểm của người Nhật, trong đó trách nhiệm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thuộc về mọi người, khác với quan điểm của người Mỹ có trách nhiệm ấy chỉ thuộc về một vài cá nhân xuất sắc được chọn ra. Trên phạm vi hẹp hơn, tuỳ thuộc vào quy mô và loại hình sản xuất mà doanh nghiệp nên quyết định phương thức quản lý chi phí như thế nào.Tại Công ty hàng không Airlines, do TSCĐ của Công ty có giá trị vô cùng lớn nên Công ty lựa chọn một khung chi phí cao dành cho sửa chữa lớn TSCĐ (bao gồm sửa chữa lớn và chi phí kiểm tra trước khi bay) và tham gia cả chi phí bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Tại Công ty P&G, sản phẩm của Công ty mới xuất hiện ở thị trường nhưng nhu cầu với nó chưa ổn định, Công ty đã quyết định đưa ra những bước đầu tư bản đầu rất mạnh vào khâu quảng cáo giới thiệu sản phẩm đến người tiêu dùng. Mặt khác việc quản lý chi phí của Công ty P&G một phần dựa vào việc đưa ra khung hình phạt nặng tương xứng với mức thưởng cho thành quả làm ra. Đối với Công ty Vinamilk, vươn lên trong cơ chế với lợi thế là sản phẩm tương đối độc quyền, họ tận dụng triệt để thuận lợi của mức giá nguyên liệu đầu vào rẻ mạt, sau đó tập trung phát triển nguồn nguyên liệu này cạnh tranh với sản phẩm ngoại nhập. Nhờ vậy, dù có quy mô lớn, vinamilk vẫn duy trì được vị thế của mình bằng chiến lược quản lý chi phí đầu vào chặt chẽ, do vậy làm giảm giá thành sản phẩm. Trên đây là một số kinh nghiệmvề quản lý chi phí sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đang phát triển trên thương trường mà xí nghiệp 24 có thể linh hoạt vận dụng. Để thoát hản "vỏ bao cấp" mà cơ chế trước đây tạo ra, để khẳng định được vị trí của mình trong phạm vi quân đội và cả nước, xí nghiệp 24 còn phải cố gắng nhiều trong tăng cường quản lý chi phí để giảm giá thành sản phẩm so với giá của các doanh nghiệp khác cùng ngành. 3.2. Yêu cầu đối với công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện mục tiêu phát triển xí nghiệp trong thời gian tới. Nền kinh tế thị trường đã khiến cho các đơn vị sản xuất trở nên năng động hơn trong việc lựa chọn các yếu tố đầu vào của sản xuất và tìm thị trường đầu ra cho sản phẩm của doanh nghiệp mình. Mỗi doanh nghiệp phải tự mình đề các phương án kinh doanh sao cho thu phải đủ chi đồng thời có lãi. Đó là việc không dễ trong nền kinh tế đầy rủi ro và cạnh tranh khốc liệt hiện nay. Để hoạt động sản xuất kinh doanh đúng hướng và hiệu quả xí nghiệp phải đặt ra được mục tiêu ngắn hạn và dài hạn trong từng thời kỳ cũng như lập kế hoạch để thực hiện mục tiêu đó. Trong thời gian tới mục tiêu của xí nghiệp là: - Mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh để hoàn thành nhiệm vụ BQP giao vươn ra thị trường tiêu thụ ngoài phạm vi quân đội như các trường đại học, cao đẳng, học viện… - Nâng cấp hệ thống máy móc trang thiết bị sử dụng tại xí nghiệp đặc biệt là dây chuyền sản xuất, tự thiết kế cải tiến một số mô hình máy móc để giảm chi phí mua ngoài. - Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ công nhân viên bằng các chương trình huấn luyện gửi đi học chuyên tu, theo học các lớp tại chức. Nâng cao tay nghề công nhân sản xuất bằng các cuộc thi sát hạch tay nghề chú trọng ngay từ khâu tuyển chọn. Thực hiện được những mục tiêu đó, xí nghiệp cần quan tâm tới nội dung quản trị tài chính doanh nghiệp từ khâu huy động vốn, kiểm tra giám tình hình sử dụng vốn, các chi phí phát sinh đến việc trích lập các quỹ… trong đó quản lý chặt chẽ chi phí sản xuất kinh doanh, phấn đấu hạ giá thành là tiền đề cơ sở để tăng lợi nhuận, tăng tích luỹ, mở rộng quy mô sản xuất theo chiều rộng cũng như chiều sâu. Để công tác quản lý đạt hiệu quả, người lãnh đạo doanh nghiệp phải luôn được cung cấp các thông tin chính xác, kịp thời về mọi hoạt động kinh doanh nhằm đưa ra những chính sách quản lý kịp thời và đúng đắn. Công tác của phòng Tài chính kế toán chính là công cụ để người quản lý theo dõi tình hình hoạt động kinh doanh hàng ngày. Vì vậy cùng với sự tồn tại và phát triển của đơn vị công tác tài chính kế toán cũng cần không ngừng được nâng cao hoàn thiện hơn nữa nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn cho công tác quản trị nội bộ. Xí nghiệp phải có đội ngũ cán bộ nhân viên tài chính kế toán am hiểu nghiệp vụ tài chính kế toán, nắm vững thông tin về giá trị tại thị trường đầu vào và đầu ra của xí nghiệp. Cán bộ tài chính kế toán phải là người nhiệt tình trong công việc, năng động sáng tạo, dám nghĩ dám làm và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đội ngũ nhân viên này ở xí nghiệp cần chịu khó tìm hiểu học hỏi nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. Công tác hạch toán chi phí ở xí nghiệp phải thuân theo các chuẩn mực kế toán nước ta, tạo điều kiện cho xí nghiệp phát huy được nội lực cao hiệu qủa sản xuất và chất lượng sản phẩm. Vi tính hoá công tác quản lý chi phí. Trước những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuậtv à sự phát triển của công nghệ thông tin thì việc áp dụng thành tựu này vào công tác quản lý chi phí làm chi phí được quản lý chặt chẽ hơn là tất yếu khách quan. Hoàn thiện công tác quản lý chi phí phải hướng vào hiện đại hoá trong việc ghi chép, xử lý số liệu nhằm nâng cao năng suất lao động quản lý, nhanh chóng thuận tiện trong việc cung cấp các thông tin báo cáo cần thiết cho người quản lý trong quản trị nội bộ đơn vị. Muốn làm được điều này đòi hỏi đội ngũ cán bộ nhân viên quản lý tài chính kế toán phải thông thạo về thao tác xử lý trên máy tính cũng như biết sử dụng các phần mềm ứng dụng. Một số nguyên tắc nâng cao hiệu quả công tác tài chính kế toán mà xí nghiệp cần vận dụng. + Hoàn thiện toàn bộ công tác kế toán từ chứng từ, tài khoản, sổ sách đến tổ chức bộ máy TC - KT nhằm tăng cường mức độ chính xác và tốc độ phản ánh thông tin về biến động tài sản, công nợ, đưa ra giải pháp tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của xí nghiệp. + Nội dung phương pháp hạch toán đều dựa trên pháp lệnh thống kê, các chế độ chứng từ kế toán, tài khoản kế toán. Song xí nghiệp cần dựa trên những đặc điểm riêng của xí nghiệp mình mà có những sửa đổi bổ sung phù hợp. Hiện tại xí nghiệp đã áp dụng hình thức kế toán chứng từ ghi sổ để phù hợp với việc phản ánh thông tin cho Công ty. Đây là cả quá trình sửa chữa những sai sót thiếu khoa học trong thực tiễn để bổ sung hoàn thiện dần về lý luận rồi lại dùng thực tiễn để minh chứng và kiểm nghiệm tính đúng đắn của nó. + Kết hợp hài hoà, sáng tạo giữa máy móc thiết bị hiện đại với tiềm năng tri thức con người. Không nên quá thiên lệch về một phương diện nào mà cần phát huy những ưu thế và hạn chế nhược điểm mỗi bên bởi mọi sự cân đối đều đem lại lợi ích cao nhất. + Bảo đảm nguyên tắc phục vụ theo yêu cầu của kinh doanh trên cơ ở thực hiện đúng các quy định về pháp luật. Nguyên tắc này đòi hỏi khi thực hiện công tác kế toán cần nhạy bén, chân thực phù hợp với các quy luật của thị trường về sản xuất kinh doanh. Tuân thủ theo đúng các cơ chế chính sách luật định, khi có vấn đề bấp cập nảy sinh thì cần thiết phải đề xuất kiến nghị với cấp có thẩm quyền để có biện pháp điều chỉnh thích hợp. 3.3. Một số đề xuất nhằm tăng cường quản lý chi phí sản xuất kinh doanh đối với xí nghiệp 24 Một là tăng cường công tác thu mua, dự trữ và sử dụng đúng định mức tiêu hao nguyên vật liệu trong quá trình sã nhằm giảm chi phí nguyên vật liệu trong giá thành sản phẩm. Là những sản xuất mặt hàng cơ khí nên chi phí là rất lớn đòi hỏi xí nghiệp phải luôn tăng cường giảm sát quản lý chặt chẽ để tiết kiệm khoản mục này. Qua bảng 4 ta thấy chi phí nguyên vật liệu năm 2000 tăng 10% so với năm 1999 trong đó số tăng chủ yếu ở nguyên vật liệu phụ và nhiên liệu, thực tế năm vừa qua sự tăng giá của nhiên liệu và năng lượng đã làm ảnh hưởng đến chi phí nguyên vật liệu cụ thể là điện tăng từ 810 đồng lên 880 đồng. Đối với sản phẩm của xí nghiệp, khoản chi nguyên vật liệu trong giá thành thường phụ thuộc vào bốn nhân tố nhân tố số lượng sản phẩm sản xuất, đơn giá xuất dùng mức tiêu hao nguyên vật liệu và giá trị phế liệu thu hồi. Do đó để tiết kiệm tối đa khoản chi nguyên vật liệu, xí nghiệp phải theo dõi đánh giá sự biến động của những nhân tố này để có biện pháp xử lý kịp thời. + Đơn giá xuất dùng nguyên vật liệu gồm giá trị nguyên vật liệu và chi phí mua nguyên vật liệu. Xí nghiệp đã cố gắng trong mở rộng mối quan hệ với người cung cấp để vừa tìm được nguồn nguyên liệu rẻ vừa đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên trong quá trình thu mua xí nghiệp cần đề cao hơn nữa trách nhiệm vật chất đối với người thu mua để đảm bảo chất lượng vật tư, phục vụ kịp thời cho sản xuất. + Mức tiêu hao nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất cũng là nhân tố có ý nghĩa lớn trong việc hạ giá thành sản phẩm. Việc quản lý mức tiêu hao sát sao phụ thuộc vào một phận quản lý kinh tế, bộ phận kỹ thuật và cả người lao động. Phòng kỹ thuật phải liên tục bám sát các phân xưởng sản xuất để cải tiến định mức tiêu dùng sao cho hợp lý tiết kiệm mà vẫn đảm bảo chất lượng. Định mức thực tế đã thực hiện là 0,22kg thép/1sp (đối với bát inox) nhưng xí nghiệp có thể phấn đấu giảm còn ,21kg nếu nâng cao trình độ sử dụng nguyên vật liệu của công nhân hoặc máy móc thiết bị và sử dụng thép có chất lượng thép tốt giảm số nguyên vật liệu hao hụt. Kỹ thuật có thể linh hoạt hơn trong việc sử dụng vật liệu thay thế, bởi sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã tạo ra nhiều loại vật liệu giá rẻ mà tính toán năng sử dụng rất cao. ở xí nghiệp 24 việc thưởng phạt các bộ phận sản xuất còn chưa phổ biến, dẫn đến công nhân còn chưa có ý thức tiết kiệm nguyên vật liệu trong sản xuất. Do vậy xí nghiệp cần sử dụng thường xuyên hơn các đòn bẩy kinh tế như chế độ thưởng phạt nhằm hạ thấp mức tiêu dùng nguyên vật liệu, gắn trách nhiệm vật chất đối với công nhân sản xuất như phạt đền tiền nguyên vật liệu khi làm sản phẩm hỏng quá phạm vi cho phép, phạt sử dụng quá định mức nguyên vật liệu, thưởng sáng kiến tiết kiệm nguyên vật liệu, tăng cường công tác thu hồi phế liệu. Có như vậy mới nâng cao tinh thần trách nhiệm của người sản xuất, đảm bảo giảm chi phí nguyên vật liệu mà chất lượng sản phẩm vẫn cao. + Để đáp ứng kịp thời nhu cầu cho sản xuất xí nghiệp phải xây dựng hệ thống định mức dự trữ vật tư thích hợp. Lượng dữ trữ này không được quá nhiều vì sẽ gây ứ đọng vốn và thiệt hại trong quá trình bảo quản, đồng thời không được quá ít nguyên vật liệu gây căng thẳng làm ách tắc quá trình sản xuất. Yêu cầu đặt ra đối với dự trữ nguyên vật liệu là phải đủ để đáp ứng sản xuất đồng thời phải giảm thấp chi phí nguyên vật liệu trong giá thành,. ở xí nghiệp, hệ thống kho bãi chưa đảm bảo tiêu chuẩn dự trữ nguyên vật liệu, chưa xây dựng định mức dự trữ hợp lý. Xí nghiệp đã giảm tối thiếu chi phí dự trữ phát sinh nên nguyên vật liệu chủ yếu là dùng đến đâu mua đến đó, điều này nhiêug khi không đáp ứng kịp thời cho sản xuất hoặc do nhu cầu cấp thiết của sản xuất nên xí nghiệp phải mua nguyên vật liệu với giá cao đặc biệt là loại vật liệu phụ, dẫn đến chi phí nguyên vật liệu tăng trong giá thành. Để khắc phục tình trạng này, xí nghiệp cần xây dựng định mức dự trữ vật tư thích hợp vừa đủ yêu cầu sản xuất (bằng cách căn cứ vào kế hoạch sản xuất trong kỳ và lượng vật tư còn tồn đầu kỳ) vừa thích nghi với sự biến động liên tục của giá cả trên thị trường, tức là xí nghiệp cần tính toán so sánh giữa chi phí giảm được giảm dự trữ nguyên vật liệu với chi phí phát sinh do chậm đáp ứng yêu cầu sản xuất. Xí nghiệp ngày càng phải chú trọng hơn tới kết cấu sản phẩm, tuy việc thay đổi kết cấu không phụ thộc vào ý muốn chủ quan của xí nghiệp song xí nghiệp có thể giảm những mặt hàng kinh tế có chi phí nguyên vật liệu cao nhưng đem lại ít lợi nhuận. Xí nghiệp cần quan tâm tới việc thiết kế kiểu dang sản phẩm đẹp và tốn ít vật tư, cải tiến quy trình công nghệ sản xuất để tiêu hao ít nguyên vật liệu. Hai là: Chú trọng các biện pháp nâng cao năng suất lao động để giảm chi phí nhân công. Qua bảng (4) ta thấy chi phí nhân công năm 2000 tăng 30,2% so với năm 1999. Là xí nghiệp quốc phòng được bao cấp một phần nên đơn giá sản phẩm của xí nghiệp được tổng cục duyệt đối với mặt hàng quốc phòng. Do đó năm 2000 mức lương ối thiểu của công nhân đã được tăng từ 144000 đồng lên 180000 đồng theo quy định của Nhà nước. Số tăng ề chi phí nhân công một phần do xí nghiệp tuyển thêm lao động mặt khác còn do năng suất lao động chưa cao. Muốn nâng cao năng suất lao động xí nghiệp cần chú ý hơn tới các vấn đề sau: + Hiện nay, lao động ở xí nghiệp vẫn mang tính chất thủ công vì thế phòng kỹ thuật cải tiến hoàn thành tốt định mức lao động bằng cách xuống từng phân xưởng theo dõi thao tác của công nhân, bấm giờ cho việc hoàm thành sản phẩm. xí nghiệp cần đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cải tiến dây chuyền công nghệ để giảm bớt lao động thủ công. + Tay nghề bình quân công nhân ở xí nghiệp là 4/7 cũng đã tổ chức các cuộc thi tay nghề nâng cao trình độ cho công nhân nhưng cần chú trọng hơn đến chất lượng phong trào. Để nâng cao trình độ công nhận, xí nghiệp có thể tổ chức những chương trình đào tạo, giáo dục công nhân ngay tại xí nghiệp hoặc gửi đi doanh nghiệp khác để học hỏi kinh nghiệm. Khi tuyển công nhân mới vào làm việc thì phải lựa chọn người có tay nghề cao, có ý thức trách nhiệm trong công việc. Trong công tác quản lý lao động xí nghiệp cũng đã tổ chức phát thẻ cho công nhân làm ca nhằm quản lý chặt chẽ quân số, giờ làm đảm bảo trật tự an toàn trong xí nghiệp song cần yêu cầu thực hiện nghiêm túc việc đeo thẻ, kiểm tra thẻ khi đứng máy hoặc ra vào xí nghiệp. + Duy trì các hình thức tiền lương, tiền thưởng hợp lý những tiền lương theo sản phẩm, thưởng sản phẩm chất lượng tốt hình thức đẹp, thưởng năng suất lao động cao như hiện nay. Mặt khác phải thực hiện chế độ thưởng phạt nghiêm minh như cắt lương, trừ lương những người nghỉ không lý do.. Cách thức trả lương này gắn liền kết quả sản xuất người công nhân với lợi ích vật chất của họ do đó sẽ thúc đẩy tăng năng suất lao động, tạo được lòng tin của cán bộ công nhân viên với xí nghiệp đồng thời tăng cường kỷ luật lao động cũng như tạo ra tác phong công nghiệp cao người lao động. Sau khi sản phẩm hoàn thành, cần tổ chức tốt công tác kiểm tra kỹ thuật để xác định chất lượng công việc, xác định lại định mức lao động để xem kế hoạch xây dựng đã hợp lý chưa, qua đó khuyến khích tinh thần sáng tạo của công nhân làm cho năng suất lao động tăng, chất lượng sản phẩm tốt hơn. + Đội ngũ nhân viên quản lý của xí nghiệp còn trẻ phần lớn đã qua đào tạo tại các trường trung cấp, cao đẳng về kinh tế, kỹ thuật, một số có trình độ đại học, họ đều năng nổ nhiệt tình với công việc. Xí nghiệp cần có kế hoạch tiếp tục đào tạo nâng cao chuyên môn để tận dụng triệt để sức trẻ cho hoạt động của xí nghiệp. Làm tốt các vấn đề trên chính là xí nghiệp đã vận dụng tốt ảnh hưởng tích cực của nhân tố lao động và sử dụng con người với nhân tố tiến bộ khoa học kỹ thuật vào việc tăng năng suất lao động giảm chi phí nhân công. Ba là: Vận dụng kịp thời những tiến bộ của cách mạng khoa học kỹ thuật hạ thấp chi phí sản xuất doanh nghiệp. Hiện tại, hệ thống máy móc ở ba phân xưởng của xí nghiệp còn chưa đồng bộ thậm chí hiệu suất sử dụng thấp và lạc hậu so với các doanh nghiệp khách cùng ngành nên dễ gây lãng phí nguyên vật liệu cho sản xuất. Do đó xí nghiệp cần nhanh chóng thanh lý những tài sản cố định lạc hậu, không có khả năng khôi phục hoặc không cần sử dụng để giảm chi phí khấu hao, đồng thời trang bị những máy móc có khả năng tự động hoá cao, dây chuyển công nghệ tiên tiến để tăng năng suất và giảm chi phí nhân công. Xí nghiệp cần đầu tư vốn, kinh phí để tạo điều kiện cho phòng kỹ thuật tự nghiên cứu thiết kế những mô hình dây chuyền công nghệ mới vừa phù hợp với đặc điểm của xí nghiệp vừa phù hợp với đặc điểm của xí nghiệp vừa có tính năng sử dụng cao. Năm vừa qua, xí nghiệp đã ứng dụng một số đề tài cải tiến vào sản xuất như "thiết kế chế tạo dao cắt thép L" thiết kế lắp đặt hệ thống hút độc tại phân xưởng dập và đã tiết kiệm được chi phí dịch vụ mua ngoài. Điều này cho thấy bộ phận kỹ thuật của xí nghiệp có khả năng cải tiến sáng chế áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất nên xã hội cần có chính sách đầu tư thích đáng về chế độ khen thưởng cũng như kinh phí để thực hiện đề tài. Bốn là: Tiết kiệm tối đa chi phí dịch vụ mua ngoài. Năm vừa qua khoản chi phí sản xuất chung trong giá thành của xí nghiệp tăng 60,5 so với năm 1999. Ngoài tăng do chi phí khấu hao con số này tăng một phần là do chi phí về năng lượng sử dụng trong xí nghiệp tăng. Đơn giá điện của Nhà nước tăng 10% là nguyên nhân khách quan ảnh hưởng đến sự tăng chi phí ngoài ra còn do xí nghiệp trang bị thêm hai dây chuyền sản xuất là máy cuốn inox và điện hoá nên chi phí ngoài ra còn do xí nghiệp trang bị thêm hai dây chuyền sản xuất là máy cuốn inox và điện hoá nên chi phí về năng lượng chạy thử cũng tăng. ở xí nghiệp như các doanh nghiệp khác, chi phí mua ngoài gồmnhiều khoản như chi phí tiền điện nước, điện thoại dùng cho sản xuất ở phân xưởng và các bộ phận quản lý doanh nghiệp. Các khoản này rất dễ bị lãngphí và sử dụng thiếu ý thức tiết kiệm. Xí nghiệp cần có biện pháp nâng cao ý thức tiết kiệm cho cán bộ công nhân viên trong quá trình sử dụng, đề ra nội quy, định mức sử dụng, lắp công tơ điện nước ở từng bộ phận sử dụng, xử phạt những trường hợp quá định mức để quản lý chặt chẽ hơn các khoản chi này. Ví dụ về tiền điện thoại các phòng cần phân tích các cuộc gọi của tháng trước để thấy được các nào hợp lý, cuộc gọi nào là lãng phí từ đó xây dựng định mức sử dụng điện thoại và khoán trả bằng tiền cho từng bộ phận. Nếu cá nhân sử dụng vượt mức cho phép thì phải bỏ tiền trả phần vượt trội. Năm là: xây dựng định mức chi tiêu cho khoản chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí hành chính. Như đã trình bày ở trên, chi phí quản lý doanh nghiệp trong xí nghiệp gồm cả chi phí quản lý doanh nghiệp nộp cho Công ty nên khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong giá thành sản phẩm (12% - 15%). Đây là nguyên nhân khách quan làm tăng giá thành sản phẩm do xí nghiệp chịu sự chi phối điều tiết trực tiếp từ Công ty và mức trích là do Công ty quy định. Tuy nhiên xí nghiệp có thể chủ động giảm các khoản chi phí đặt ra kế hoạch tức là tạo ra mục tiêu cụ thể để phấn đấu trong quá trình thực hiện như giảm chi về tiếp khách, giao dịch đối ngoại, chi về mua sắm văn phòng phẩm báo chí. Thực hiện được điều này cần có sự quán triệt của ban lãnh đạo xí nghiệp cũng như tinh thần tự giác tiết kiệm của toàn thể cán bộ công nhân viên thông qua cơ chế thưởng phạt đã đề ra. Xí nghiệp thường xuyên giao dịch với Công ty bên Gia Lâm nên chi phí đi lại xăng dầu, bảo dưỡng xe phát sinh khá lớn. Giảm được khoản chi này, xí nghiệp cần tập trung phối hợp công việc để một lần đi lại có thể giải quyết được nhiều việc. Sáu là: Chú trọng hơn để công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm, hoàn thiện hơn công tác hạch toán kế toán. Công tác lập kế hoạch chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đã được xí nghiệp thực hiện cho mọi mặt hàng. Song, do xí nghiệp hoạt động trong môi trường mà tính cạnh tranh chưa cao nên việc giám sát quản lý chặt chẽ chi phí theo kế hoạch đặt ra cũng chưa được thực hiện triệt để. Sản phẩm hàng hoá của xí nghiệp là các sản phẩm có thể so sánh được nên đồng thời với việc lập kế hoạch giá thành sản phẩm, xí nghiệp có thể đề ra nhiệm vụ hạ giá thành đối với từng loại để xác định rõ thêm mức phấn đấu trong cả quá trình hoạt động. Có như vậy, công tác kế hoạch hoá mới thực sự trở thành một biện pháp quản lý hữu hiệu ở xí nghiệp. Công tác kế toán ở xí nghiệp cần thể hiện chi tiết các yếu tố chi phí cho khoản mục chi phí sản xuất chung, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp trong giá thành từng loại sản phẩm để giảm sát chặt chẽ hơn các loại chi phí phát sinh và những biến động của chúng để đưa ra đánh giá kịp thời. Làm được điều này tất yếu khối lượng công việc của từng kế toán viên sẽ tăng lên, đòi hỏi xí nghiệp cần trang bị thêm máy vi tính (chứ không chỉ có một máy như hiện nay). Bảy là: Phối hợp nhịp nhàng các khâu sản xuất và quản lý tạo tính đồng bộ trong cả quá trình hoạt động. Quản lý chi phí sản xuất kinh doanh để hạ thấp giá thành sản phẩm đòi hỏi người quản lý phải quan tâm tới nhiều khía cạnh từ việc cung cấp đầu vào của quá trình sản xuất đến việc kiểm tra các yếu tố đó và đến cả việc tiêu thụ sản phẩm. Năm vừa qua, công tác quản lý chi phí ở xí nghiệp chưa hiệu quả một phần do phối hợp các khâu chưa đồng bộ nhiều khi hoạt động sản xuất phải ngừng để chờ nguyên vật liệu việc nhập kho sản phẩm cho Công ty cũng chưa đúng tiến độ… Do phạm vi quản lý rộng như vậy nên để hạ thấp giá thành sản phẩm các bộ phận quản lý, bộ phận sản xuất, cung ứng trong xí nghiệp phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, chấp hành nghiêm chỉnh kế hoạch đặt ra và linh hoạt xử lý các vấn đề phát sinh. Như vậy, qua nghiên cứu tình hình chi phí sản xuất kinh doanh và công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp 24 em xin đưa ra một số đề xuất như trên với mong muốn đóng góp vào công tác nâng cao hiệu quả hoạt động của xí nghiệp. Kết luận Chương trình đào tạo đúng đắn của nhà trường cùng với sự giúp đỡ quan tâm của khoa Tài chính doanh nghiệp và xí nghiệp 24 đã tạo cơ hội cho em có điều kiện tiếp cận thực tế, vận dụng kiến thức đã được trang bị ở trường vào thực tế. Trên cơ sở đó củng cố kiến thức đã học, đi sâu tìm hiểu cách thức tổ chức công tác quản trị tài chính nói chung và quản lý chi phí nói riêng. Quá trình thực tập tại xí nghiệp 24 cũng đã giúp em có được cơ sở vững vàng để bước vào nghề nghiệp một cách tự tin tránh khỏi ngỡ ngàng vì giữa thực tế và lý luận luôn có khoảng cách nhất định. Trong thời gian thực tập tại xí nghiệp, được sự giúp đỡ của ban giám đốc, trưởng ban tài chính và các anh chị phòng Tc cùng như sự hướng dẫn tận tình của cô Vũ Thị Yến, em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp chuyên ngành TCDN. Trong luận văn này em đã làm rõ các vấn đề sau: 1. Nếu rõ bản chất của chi phí sản xuất kinh doanh và sự cần thiết phải quản lý chi phí. 2. Lý luận về công tác quản lý chi phí tại các doanh nghiệp nói chung nhằm so sánh với công tác đã thực hiện tại xí nghiệp 24. 3. Khái quát đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của xí nghiệp và ảnh hưởng của nó đến công tác quản lý chi phí tại xí nghiệp. 4. Đưa ra một số đề xuất nhằm tăng cường biện pháp quản lý chi phí sản xuất kinh doanh, hạ giá thành tại xí nghiệp. Do thời gian yêu cầu dung lượng có hạn nên luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế trong trình bày và giải quyết vấn đề, kính mong các thầy cô giáo giúp em hoàn thiện hơn. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy cô giáo khoa TCDN của ban giám đốc, phòng tài chính cùng toàn thể xí nghiệp 24.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29290.doc
Tài liệu liên quan