Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, nhà quản lý nào biết tạo dựng một chiến lược để phát triển lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm, dịch vụ của mình và thực hiện có hiệu quả chiến lược đó thì doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và phát triển, nếu không thì sẽ thất bại. Lợi thế cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp được hiểu là khả năng sản xuất, cung ứng ra thị trường những sản phẩm dịch vụ tốt hơn đối thủ cạnh tranh. Cụ thể, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được xem xét trên bốn khía cạnh:
+ Sự linh hoạt: Khả năng đáp ứng nhu cầu khác nhau của khách hàng. Ví dụ: chủng loại, cách thức, cung ứng dịch vụ đi kèm
+ Chất lượng của sản phẩm/ dịch vụ: đặc tính kỹ thuật, độ tin cậy, dịch vụ hậu mãi, kiểu dáng
+ Tốc độ phản ứng trên thị trường: thời gian từ khi khách đặt hàng cho đến khi được phục vụ, tốc độ phát triển sản phẩm mới
+ Chi phí: chi phí sản xuất của doanh nghiệp thấp hơn của đối thủ cạnh tranh Doanh nghiệp muốn đạt được các lợi thế cạnh tranh này cần phải có ba nguồn lực quan trọng: nhân lực, vốn, công nghệ. Nguồn nhân lực tham gia trực tiếp toàn bộ quá trình đánh giá, lựa chọn và phát triển lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp phải đương đầu với sự cạnh tranh trên thị trường thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa, các nhà quản lý doanh nghiệp cần đáp ứng các yêu cầu sau:
- Mặt hàng sản xuất ra phải đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, với các DNVVN họ có thế mạnh là mặt hàng phong phú, đa dạng.
- Mặt hàng phải có khả năng cạnh tranh để xuất khẩu, đúng quy cách, phẩm chất khi xuất khẩu đòi hỏi cao hơn và giá cả phải hợp lý, đôi khi phải thấp hơn so với các mặt hàng tương tự.
- Có kiến thức kinh doanh xuất nhập khẩu, kinh nghiệm quản lý và tổ chức, thiết lập được các mối quan hệ bạn hàng rộng rãi, nắm bắt được những thông tin thiết thực phục vụ cho công tác kinh doanh của mình.
-Tránh sự cạnh tranh không bình đẳng, chèn ép lẫn nhau nhằm đạt hiệu quả cao hơn trong kinh doanh xuất khẩu . Nâng cao sự uy tín và độ tin cậy của doanh nghiệp mình với đối tác.
- Các doanh nghiệp có thể tổ chức tạo mẫu hàng mới, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nước ngoài, tạo ra những kết quả cụ thể như tăng số lượng, sản phẩm, tăng doanh số bán hàng trong và ngoài nước, mở thêm thị trường mới hoặc tăng tỷ trọng trên những thị trường đã có.
87 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1589 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chiến lược hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hoạt động xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lưu thông thương mại, các doanh nghiệp nước ngoài hiểu thêm về đất nước, con người Việt Nam, tăng cường sự hợp tác đầu tư, liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp Việt Nam. Điều này sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước " dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh".
b. Những hạn chế của việc thực hiện chiến lược
Bên cạnh những mặt tích cực, đúng đắn kể trên, trong quan điểm hỗ trợ DNVVN còn có một số hạn chế:
- Trong các quy định chính thức, quan điểm hỗ trợ khẳng định việc đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nhưng trên thực tế việc triển khai các quan điểm đó ở các địa phương vẫn còn có sự phân biệt, đối xử thiếu bình đẳng.
- Trong quá trình thực hiện chiến lược còn chưa xác định rõ đối tượng cần hỗ trợ trong số các DNVVN vì số lượng các DNVVN là rất lớn. Sự hỗ trợ của Chính phủ đã chú ý tới ngành nghề và địa phương (nông thôn, miền núi, các ngành thu hút nhiều lao động…) nhưng vẫn còn thiếu những giải pháp cụ thể. Các chính sách của Đảng và Nhà nước vẫn chưa có quan điểm rõ nét về hỗ trợ theo qui mô, lĩnh vực giúp các doanh nghiệp yếu vươn lên.
- Về chiến lược qui hoạch và phát triển DNVVN, ở Việt Nam hiện nay mới chỉ có chiến lược phát triển kinh tế chung cho toàn bộ nền kinh tế, chưa có chiến lược phát triển tổng thể cho các DNVVN. Vì vậy việc hỗ trợ cho các DNVVN còn mang tính tự phát chưa có qui hoạch. Đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu hiện nay, các DNVVN gặp rất nhiều lúng túng, vướng mắc nhưng hầu hết các doanh nghiệp đều cố gắng tự mày mò tháo gỡ. Ví dụ như trong việc tìm kiếm thị trường, tạo đầu ra cho sản phẩm, các doanh nghiệp đều tự thân vận động tìm kiếm trong khi đó nghiệp vụ xuất nhập khẩu còn yếu kém vì vậy các thương vụ thực hiện khó thành công như mong muốn. Trong trường hợp này thứ mà các DNVVN cần không phải là "tiền" mà là một môi trường kinh doanh ổn định.
- Trong chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN phần lớn đều tập trung vào vấn đề "vốn". Đây là một yếu tố rất cần thiết, tuy nhiên chiến lược hỗ trợ lại có phần lơ là vấn đề nâng cao nghiệp vụ xuất nhập khẩu cho các cán bộ thuộc các DNVVN.
- Công tác tư vấn cho các DNVVN trước khi thực hiện xuất khẩu còn nhiều hạn chế và chưa được thực hiện thường xuyên vì vậy các DNVVN khi thực hiện xuất khẩu hay gặp phải những lỗi sau:
+ Không nghiên cứu đầy đủ về thị trường do thiếu sự tư vấn thích đáng về xuất khẩu, không xây dựng được một chiến lược kinh doanh quốc tế và kế hoạch tiếp thị trước khi bắt đầu công việc xuất khẩu.
+ Không có sự trợ giúp từ các cơ quan quản lý để vượt qua những khó khăn ban đầu và các vấn về tài chính khi xuất khẩu.
+ Chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề chọn đại diện bán hàng hay các nhà phân phối nước ngoài.
+ Tiềm kiếm các đơn hàng trên khắp thế giới một cách tràn lan mà không tập trung vào một hay hai khu vực trọng điểm.
+ Sao nhãng việc thực hiện xuất khẩu ra thị trường nước ngoài khi thị trường nội địa đang hưng thịnh.
+ Không đối xử với các nhà phân phối và khách hàng quốc tế một cách bình đẳng như với các đối tác trong nước
+ Các DNVVN thường cho rằng sản phẩm và một kỹ năng thương mại cụ thể sẽ tự thành công tại nhiều nước.
+ Không cải tiến sản phẩm để đáp ứng các qui định hay tập quán văn hoá của nước ngoài.
+ Không in các thông báo về bán hàng, bảo hành, dịch vụ sau bán hàng bằng tiếng nước ngoài.
+ Không quan tâm đến việc sử dụng các công ty phát triển xuất khẩu nếu doanh nghiệp không đủ điều kiện tài chính hoặc các điều kiện khác để có được bộ phận riêng cho mình.
+ Lo ngại về chi phí tốn kém để nghiên cứu những thị trường mới nên không quyết tâm xuất khẩu.
+ Thực hiện việc cung cấp các dịch vụ sau bán hàng chưa kịp thời.
Chương IIIMột số kiến nghị nhằm thực hiện thành công chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN
I. Phương hướng chiến lược hỗ trợ xuất khẩu
1. Nâng cao và kiện toàn quản lý Nhà nước đối với DNVVN
Hiện nay nền kinh tế nước ta đang trong quá trình đổi mới. Tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng, song cũng đã bộc lộ những mặt yếu kém trong đó có vấn đề thuộc quản lý Nhà nước. Trong lĩnh vực quản lý Nhà nước hiện nay còn đan xen giữa cơ chế cũ và cơ chế mới, giữa nhận thức và phương thức tổ chức chỉ đạo thực hiện, giữa cách nghĩ, và cách làm của đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Trong thời gian qua, chúng ta một mặt buông lỏng quản lý, thiếu định hướng chiến lược, chậm phát hiện, ngăn chặn và xử lý những vi phạm trong sản xuất kinh doanh đã đẩy tới xu hướng tuỳ nghi, chồng chéo, trùng lặp, kém hiệu quả. Mặt khác, tình trạng can thiệp vào quyền tự chủ kinh doanh của nhân dân, doanh nghiệp khá nặng nề, những thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp chậm được cải tiến, sửa đổi, nạn nhũng nhiễu, cơ chế xin - cho, ban phát vẫn còn được kéo dài trong mối quan hệ giữa các cơ quan của Nhà nước và các doanh nghiệp. Trong thời gian tới, quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp cần theo hướng là mối quan hệ hợp tác giữa các thành viên thuộc một cộng đồng trách nhiệm trước yêu cầu chung của sự nghiệp phát triển đất nước.
Như chúng ta đã biết, quản lý Nhà nước là sự tác động của Nhà nước vào toàn bộ hoạt động của nền kinh tế quốc dân nói chung và các doanh nghiệp nói riêng bằng hệ thống luật pháp, chính sách, tổ chức, các chế tài về kinh tế - tài chính và các công cụ quản lý để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, ổn định kinh tế - chính trị - xã hội đất nước.
Nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi từ không có thị trường sang có thị trường, từ xu hướng thiên về qui mô lớn sang qui mô đa dạng. Vì vậy vai trò của Nhà nước trong buổi giao thời này rất quan trọng, đặc biệt là tạo lập thị trường, khuyến khích tự do làm ăn công khai, hợp pháp, khuyến khích các nỗ lực phát triển DNVVN, nhằm khai thác những khả năng tiềm ẩn trong dân chúng.
Như vậy, việc vận hành cơ chế quản lý Nhà nước ở nước ta đối với nền kinh tế quốc dân nói chung, DNVVN nói riêng, không nằm ngoài nguyên lý cơ bản về vai trò quản lý của Nhà nước nói chung đối với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, song nó có những đặc điểm kinh tế - chính trị - xã hội khác với các nước khác. Điều đó đòi hỏi sự nhận thức, vận dụng các qui luật kinh tế về quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường phải xuất phát từ thực tiễn nước ta, theo định hướng và mục tiêu lâu dài đang hướng tới mà xác định mục tiêu, cơ chế, chính sách phù hợp với các bước đi, vừa không chệch khỏi mục tiêu định hướng, vừa thúc đẩy được nền kinh tế thị trường ở nước ta đi lên. Đây là vấn đề phức tạp và khó khăn vì nền kinh tế nước ta có đặc điểm là từ nền kinh tế nông nghiệp, lại bị chiến tranh tàn phá và trong nhiều năm, sống trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp nặng nề … nhưng phải được phát triển liên tục, ổn định, vững chắc. Điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở phát huy được những kết quả, thành tựu và khắc phục nhanh, có hiệu quả những khuyết nhược điểm trong cơ chế quản lý và chính sách kinh tế của những năm đổi mới, để khơi dậy tối đa nguồn nội lực vốn, lao động, trí tuệ, tài nguyên đang tiềm ẩn trong nội bộ nền kinh tế thông qua khuyến khích hỗ trợ DNVVN.
Từ thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay, những mục đích yêu cầu đặt ra trong quá trình thực thi chức năng quản lý cuả Nhà nước đối với DNVVN hướng vào hai nội dung cơ bản dưới đây:
Một là, tập trung sức để phát triển mạnh và xã hội hoá lực lượng sản xuất, từng bước chuyển nền kinh tế nước ta từ kém phát triển lên phát triển ổn định, vững chắc theo hướng CNH - HĐH đất nước mà khởi đầu bằng các DNVVN. Vai trò của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay là tạo lập thị trường, tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng cho các DNVVN đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình ra nước ngoài.
Hai là, tập trung xây dựng nội lực trong xu hướng hội nhập. Đây là tiền đề và là điều kiện để quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa khi mà các yếu tố thuận, nghịch của nền kinh tế thị trường thế giới đã và đang tác động vào nền kinh tế Việt Nam bằng nhiều hình thức khác nhau. Chỉ như vậy thì chủ quyền quốc gia mới được giữ vững. Điều cần nhấn mạnh là việc xây dựng nền kinh tế tự chủ chẳng những không đối lập với việc hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới mà ngược lại, kinh tế có tự chủ vững mạnh thì hội nhập kinh tế thế giới mới có hiệu qủa. Kinh tế vững mạnh sẽ tập hợp được tất cả các lực lượng kinh tế trong nước, hình thành sức mạnh tổng hợp để nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh tế trong các mối quan hệ với hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Sự lồng ghép, xâu chuỗi giữa các DNVVN và các doanh nghiệp lớn thành một hệ thống là một đảm bảo chắc chắn cho việc khai thác nội lực và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Phát triển các DNVVN rất cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Trong cơ chế cũ, Nhà nước ta là người trực tiếp chỉ huy, điều khiển các hoạt động kinh tế, tham gia vào quá trình kinh tế. Các doanh nghiệp chỉ là người chấp hành lệnh của Nhà nước chứ không có quyền quyết định các chỉ tiêu và kết quả kinh tế của đơn vị. Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp được trao quyền tự chủ, tự do hoạt động kinh doanh theo pháp luật và Nhà nước thực sự chỉ đóng vai trò điều tiết, hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Như vậy đối với nền kinh tế, đặc biệt là đối với các DNVVN chức năng của Nhà nước thể hiện ở các mặt sau:
- Tạo lập môi trường kinh doanh an toàn và thuận lợi cho các DNVVN hoạt động. Đó là, xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, chặt chẽ, tạo ra hành lang luật pháp rõ ràng, xây dựng một cơ cấu hạ tầng hiện đại nhằm phục vụ đắc lực cho sản xuất và đời sống của mọi tầng lớp dân cư. Xây dựng các chính sách vĩ mô hợp lý nhằm tạo môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự phát triển của các ngành kinh tế như: chính sách tiền tệ, tín dụng, lãi suất, lạm phát, chính sách tài chính đầu tư, thuế, bảo hiểm, chính sách nhập khẩu…
- Định hướng và hướng dẫn cho các doanh nghiệp hoạt động. Nhà nước chỉ là người hỗ trợ chứ không trực tiếp thực hiện các hoạt động, chính các DNVVN mới là hạt nhân. Nhà nước sẽ đưa ra các chủ trương, biện pháp giúp các DNVVN hoạt động theo đúng mục tiêu chung đồng thời đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Điều tiết và hỗ trợ các doanh nghiệp ở những khâu cần thiết. Mỗi doanh nghiệp lại có một khó khăn, vướng mắc ở những khâu khác nhau, vì vậy không thể đổ đồng tất cả các doanh nghiệp. Có những doanh nghiệp cần hỗ trợ về vốn, có doanh nghiệp yếu ở khâu tìm hiểu thông tin thị trường…. Như vậy vai trò của Nhà nước là phải có một chiến lược hỗ trợ bao quát nhưng lại phù hợp cho từng doanh nghiệp.
- Kiểm soát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bằng việc xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, chặt chẽ, tạo hành lang pháp lý cho các DNVVN hoạt động kinh doanh hiệu quả. Thông qua đó Nhà nước có thể tiến hành kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh công bằng.
Trên thực tế, các DNVVN có quá nhiều mối "quản", các cơ quan chính quyền, các tổ chức xã hội, thậm chí các tổ chức đoàn thể…gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do vậy, việc lập ra các cơ quan chuyên trách quản lý Nhà nước đối với các DNVVN là vấn đề cần giải quyết ngay. Cần nghiên cứu, xem xét để thành lập một cơ quan quản lý thống nhất thuộc cấp Nhà nước đối với các DNVVN chứ không phân tán như hiện nay. Cơ quan này là một bộ phận trực tiếp thuộc Chính phủ và có chi nhánh tương ứng ở các địa phương trong cả nước.
Ngoài ra, nhu cầu hỗ trợ của các DNVVN là rất lớn nhưng tiềm lực hỗ trợ của Nhà nước chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu đó. Do vậy, Nhà nước cần khuyến khích thành lập và phát triển các tổ chức hỗ trợ cho các DNVVN. Đây là một giải pháp khá hữu hiệu. Nhà nước chỉ cần có chính sách hợp lý và hỗ trợ một phần cho các tổ chức làm chức năng hỗ trợ mà không cần đầu tư nhiều nhưng cuối cùng vẫn đạt được mục đích hỗ trợ của Nhà nước. Việc thành lập các tổ chức này còn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế đối với các DNVVN thông qua các chương trình dự án về tài chính. Điều này mang lại lợi ích cho cả Nhà nước và cho các DNVVN là những người thực hiện.
Hiện nay, các tổ chức hỗ trợ DNVVN ở nước ta đã được hình thành và bước đầu phát huy tác dụng. ở cấp Trung ương trước hết phải kể đến Trung tâm hỗ trợ các DNVVN của Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam, Hội đồng Liên minh các hợp tác xã Việt Nam và tổng cục đo lường chất lượng sản phẩm. Mặc dù, còn những lúng túng nhất định trong việc xác định phương hướng hoạt động, nhưng các trung tâm này đã bắt đầu có những hoạt động theo hướng trợ giúp cho các DNVVN nhất là trong hoạt động xuất nhập khẩu.
Trung tâm của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam đã xúc tiến giải quyết những vấn đề lý luận cơ bản nhất có tác động đến sự phát triển của các DNVVN như xác định tiêu thức phân loại DNVVN, phát triển hợp tác quốc tế để hỗ trợ DNVVN, tìm biện pháp giải quyết những khó khăn về vốn và thị trường cho các DNVVN.
Trung tâm của Hội đồng liên minh các hợp tác xã Việt Nam đã tổ chức được một khoá đào tạo cho các chủ DNVVN, ra các ấn phẩm để phổ biến kinh nghiệm và giải đáp chính sách cho các DNVVN.
Trung tâm của Tổng cục đo lường chất lượng sản phẩm mặc dù đang trong quá trình tổ chức cũng đã có những hoạt động trợ giúp các DNVVN trong tiếp nhận kỹ thuật và công nghệ mới.
Điều quan trọng hiện nay là phải có biện pháp phối hợp giữa các trung tâm trên, chuyên môn hoá những lĩnh vực chuyên môn mà các trung tâm có ưu thế nhằm tránh cạnh tranh hay trùng lặp không nên có.
2. Hình thành quỹ quốc gia hỗ trợ DNVVN
a. Nhu cầu cấp thiết phải hình thành quỹ quốc gia hỗ trợ DNVVN ở Việt Nam
Vốn có vai trò hết sức quan trọng đối với các DNVVN vì các DNVVN này với vốn tự có ít lại rất khó tiếp cận các nguồn vốn bên ngoài như tín dụng ngân hàng, thu hồi vốn thông qua liên doanh, liên kết với nước ngoài, phát hành cổ phiếu, nguồn vốn ODA.
Kết quả các cuộc điều tra, khảo sát thực tế cho thấy, nguyên nhân chủ yếu gây trở ngại cho các DNVVN trong việc tiếp cận các nguồn vốn bên ngoài là do cả ba phía: từ phía doanh nghiệp, phía ngân hàng và cả cơ chế chính sách của Nhà nước.
Về phía doanh nghiệp. Do các DNVVN ít vốn, vốn vay gấp nhiều lần vốn tự có, thiếu các phương án kinh doanh khả thi, thiếu tài sản thế chấp, tình hình tài chính doanh nghiệp không được kiểm soát thường xuyên, nên ngân hàng thiếu tin tưởng vào doanh nghiệp, việc cho vay mang tính rủi ro cao. Ngoài ra, do phần lớn các DNVVN có công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý thấp, năng lực cạnh tranh yếu, hiệu quả sản xuất - kinh doanh không cao, nên dẫn tới khả năng hoàn trả thấp. Thêm vào đó, không ít DNVVN khê đọng nợ, không trả được nợ càng làm mất lòng tin của ngân hàng.
Về phía ngân hàng. Thủ tục cho vay còn phiền hà, các hình thức cho vay còn đơn điệu, thiếu năng động, thiếu động lực kích thích cho vay, không muốn cho các DNVVN vay với những món vay nhỏ.
Về phía Nhà nước. Chính sách tài chính - tiền tệ nói chung và chính sách tín dụng nói riêng còn nhiều bất cập. Sự điều hành của Nhà nước như hiện nay làm cho ngân hàng mất chủ động trong kinh doanh tín dụng, đồng thời điều đó làm méo mó cung - cầu tín dụng trên thị trường. Việc phân chia hệ thống ngân hàng theo kiểu "cắt nhắt" (ngân hàng Nông nghiệp chỉ cho vay hoạt động nông nghiệp, ngân hàng công thương chỉ cho vay hoạt động công nghiệp, thương mại…) cùng với sự độc quyền của hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh đã làm mất đi động lực kinh doanh giữa các ngân hàng, làm giảm sút sự nhiệt tình trong quan hệ giữa ngân hàng với các DNVVN (điều đó dẫn tới một nghịch lý trong khi doanh nghiệp thiếu vốn trầm trọng thì ngân hàng lại thừa tiền, không cho vay được). Các ngân hàng tìm cách cho vay các đối tượng có "bảo đảm" của Nhà nước như các tổng công ty 90, 91 với món vay lớn hơn là tìm đến các DNVVN. Ngoài ra, do Nhà nước chưa đảm bảo một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, nên rất khó huy động và cho vay vốn trung và dài hạn. Việc thiếu vắng các định chế trung gian như thị trường chứng khoán, thị trường vốn đích thực, các quỹ hỗ trợ và quỹ bảo lãnh tín dụng cũng như các hình thức thuê mua tài chính, ngân hàng hợp tác cùng đầu tư với doanh nghiệp chưa phát triển…càng làm cho việc tiếp cận vốn của các doanh nghiệp nói chung, trong đó có các DNVVN nói riêng thêm phần khó khăn. Ngoài ra, thế chấp là hình thức rất quan trọng hiện nay để DNVVN có thể vay vốn ngân hàng, nhưng giấy tờ về tài sản không có hoặc không hợp pháp, hợp lệ, những quy định về thế chấp không rõ ràng, khi xảy ra sự cố thì rất khó xử lý (điển hình là ngân hàng Công thương, hiện có tài sản thế chấp tới 7000 tỷ đồng chưa xử lý được).
Gần đây Nhà nước đã có một số điều chỉnh trong chính sách tín dụng, tạo điều kiện tốt hơn cho các DNVVN vay vốn. Những điều chỉnh quan trọng đó là: hạ lãi suất tín dụng, đơn giản hoá các thủ tục cho vay, tạo khung pháp lý cần thiết cho hoạt động tín dụng - ngân hàng…Kết quả là, các DNVVN tiếp cận thuận lợi hơn với các nguồn vốn bên ngoài. Theo đánh giá của ngân hàng Công thương, tính đến đầu năm 2000, số tiền cho các DNVVN vay chiếm 57% tổng số dư nợ (tương đương 40.000 tỷ đồng) . Tuy nhiên, đến nay các DNVVN vẫn trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Kết quả điều tra 407 DNVVN ở 5 tỉnh, thành phố cho thấy77,6% số DNVVN khó khăn về vốn và có nhu cầu vay vốn. Theo số liệu của Ngân hàng Công thương, vốn tín dụng ngân hàng chỉ đáp ứng được khoảng 25,6% nhu cầu của các DNVVN.
Để đáp ứng nhu cầu về vốn của mình, rất nhiều DNVVN phải vay vốn phi chính thức trong thân nhân, bạn bè, người trong tổ chức và thậm chí vay nặng lãi trên thị trường "tín dụng đen". Kết quả khảo sát, điều tra thực tế về tín dụng phi chính thức trong các DNVVN ở 5 tỉnh thành nói trên cho thấy 48% số doanh nghiệp được được điều tra phải vay nhân thân, bạn bè; 3,2% số doanh nghiệp vay thông qua " hụi, họ"; 13,3% số doanh nghiệp vay thông qua ứng trước vốn của người bao tiêu sản phẩm; 20,9% số doanh nghiệp được ứng trước nguyên liệu; 6% doanh nghiệp có vay nặng lãi; 6,3% số doanh nghiệp vay người lao động trong doanh nghiệp. Nguồn vốn phi chính thức thường lãi suất cao, món vay nhỏ, thời hạn vay ngắn, rủi ro cao.
Qua thực tế cho thấy, các DNVVN rất cần vay vốn khi thành lập doanh nghiệp, mở rộng quy mô doanh nghiệp, đầu tư vào thiết bị công nghệ mới, đào tạo, nâng cao nghiệp vụ xuất nhập khẩu cho các cán bộ của công ty…nhưng ngân hàng lại rất ngại khi cho vay vì chưa biết doanh nghiệp này sẽ làm ăn ra sao. Để khắc phục tình trạng này, việc hình thành một Quỹ quốc gia hỗ trợ phát triển DNVVN là điều rất quan trọng và cấp thiết hiện nay ở Việt Nam.
b. Xây dựng và vận hành quỹ quốc gia hỗ trợ DNVVN ở Việt Nam
Vừa qua, tại Việt Nam đã hình thành một số quỹ như Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp Mekong (MEF) của tổ chức Tài chính quốc tế (IFC) - thành viên của ngân hàng thế giới - với số vố ban đầu 5 triệu USD, Quỹ hỗ trợ phát triển trên cơ sở Quyết định 231/1998/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về điều lệ và hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển.
Mục đích của các Quỹ trên là:
- Thúc đẩy phát triển và mở rộng các DNVVN thông qua cung cấp một số dịch vụ, hỗ trợ các DNVVN trong quá trình thành lập cũng như sản xuất kinh doanh
- Tạo điều kiện cho các DNVVN tiếp cận với các nguồn vốn
- Tư vấn cho các doanh nghiệp về các lĩnh vực, cung cấp thông tin về thị trường, sản phẩm, quảng cáo…
3. Thành lập và thực hiện các chương trình hỗ trợ cần thiết
a. Chương trình hỗ trợ đào tạo
Đào tạo đội ngũ cán bộ và bồi dưỡng nghiệp vụ xuất khẩu cho các DNVVN
Các DNVVN có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh nói chung và xuất khẩu nói riêng. Họ là những người trực tiếp sử dụng các nguồn lực để tạo ra của cải, vật chất, trực tiếp quản lý người lao động. Do đó, nhiều nước rất chú trọng phát triển đội ngũ này, ở Việt Nam hiện nay đội ngũ các nhà kinh doanh còn nhiều vấn đề bất cập. Các hình thức đào tạo có thể là:
+ Mở các lớp đào tạo ngắn hạn, dài hạn do các chuyên gia Việt Nam và nước ngoài giảng dạy.
+ Khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động đào tạo nghề công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp để sản xuất hàng xuất khẩu với chất lượng tốt, việc này có thể thực hiện được thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ xuất khẩu Nhà nước và nhân dân cùng làm.
+ Tạo điều kiện cho các DNVVN tìm hiểu thị trường ngoài nước.
+ Sử dụng Quỹ đào tạo lại, bồi dưỡng nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu cho các DNVVN.
+ Khuyến khích các DNVVN tự đào tạo, Nhà nước có thể trích một phần thuế trong nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp giữ lại làm thuế đào tạo như ở một số nước; giảm phần chi phí đào tạo trong tổng thu nhập chịu thuế cho các doanh nghiệp.
b. Chương trình hỗ trợ cung cấp thông tin cho các DNVVN
Các DNVVN và các hợp tác xã đang rất thiếu thông tin về thị trường, công nghệ, luật pháp, khách hàng… do đó Nhà nước cần thiết phải hỗ trợ, thiết lập hệ thống thông tin cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng như kinh nghiệm ở một số nước: Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản…
Các giải pháp hỗ trợ thông tin có thể là:
- Thành lập các ngân hàng dữ liệu về các DNVVN để cung cấp hoặc bán cho các doanh nghiệp với giá hợp lý.
- Phổ biến kinh nghiệm sản xuất , kinh doanh hàng xuất khẩu bằng nhiều hình thức.
- Tạo điều kiện cho các DNVVN sản xuất hàng xuất khẩu tham gia các hội chợ, triển lãm ở trong và ngoài nước, ký kết hợp đồng kinh tế với các đối tác trong và ngoài nước.
- Tổ chức các câu lạc bộ để các DNVVN có cơ hội trao đổi học tập kinh nghiệm của nhau trong sản xuất - kinh doanh hàng xuất khẩu .
- Khuyến khích các DNVVN đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu và sử dụng các phương tiện quản lý thông tin hiện đại như máy vi tính, mạng thông tin… để các doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc với các cơ sở dữ liệu hiện đại trong và ngoài nước.
- Các cơ quan quản lý Nhà nước cũng cần phải chuyển động theo hướng tạo những điều kiện thông thoáng nhất cho hoạt động xuất khẩu, trong đó cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế - thương mại, dự báo kịp thời, chính xác quan hệ cung cầu, thị trường và giá cả các mặt hàng chủ yếu để cung cấp cho các doanh nghiệp thông qua việc chấn chỉnh và tăng cường mạng lưới thường vụ ở nước ngoài.
c. Chương trình hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng kinh tế là điều kiện cơ bản, là tiền đề rất quan trọng thúc đẩy phát triển xuất khẩu của các doanh nghiệp . ở nhiều vùng trong cả nước, cơ sở hạ tầng như giao thông, điện, nước kém phát triển. Đó là trở ngại lớn đối với các doanh nghiệp, đầu tư vào cơ sở hạ tầng rất tốn kém, chậm thu hồi vốn và ít sinh lãi nên các doanh nghiệp không muốn đầu tư. Hơn nữa, các DNVVN không đủ sức đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Do đó, rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước. Theo kinh nghiệm của các nước thì đây là một trong những lĩnh vực hỗ trợ chủ yếu của Nhà nước. Tuy nhiên, do ngân sách Nhà nước ở Trung ương và địa phương còn hạn chế nên cần:
- Đầu tư theo trọng điểm, tập trung vào những công trình mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao.
- Kết hợp giữa nhà nước, địa phương và nhân dân cùng làm, ở một số địa phương đã có một số mô hình có hiệu quả: kết hợp giữa vốn của nhà nước, một phần vốn và quản lý của địa phương với một phần vốn và lao động của nhân dân, của các doanh nghiệp .
d. Chương trình hỗ trợ chuyển giao công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu
Kinh tế DNVVN là của đông đảo những người lao động, ít vốn sẽ được phát triển mạnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá khi có sự hỗ trợ của Nhà nước để tạo ra thị trường rộng lớn, tạo ra thiết bị công nghệ tiên tiến thích hợp để sản xuất hàng xuất khẩu với chất lượng cao.
Khi toàn cầu hóa, kinh tế thế giới phát triển nhanh chóng, sự cạnh tranh trong công nghiệp trên cơ sở công nghệ cao đóng vai trò quan trọng trong sự cạnh tranh quốc tế khốc liệt.
Các DNVVN tiếp tục cải tiến công nghệ là điều cần thiết để tăng cường không chỉ là cạnh tranh của chính bản thân họ mà còn cạnh tranh trong tổng thể nền công nghiệp quốc gia trên thế giới, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, đặc biệt là hàng xuất khẩu .
Ngoài ra Nhà nước cần hỗ trợ các DNVVN đẩy mạnh nghiên cứu khoa học - công nghệ và các hoạt động phát triển kỹ thuật khác như kinh nghiệm của nhiều nước : Hàn Quốc, Đài Loan…
e. Chương trình hỗ trợ về tài chính, tín dụng cho các DNVVN để có vốn tham gia xuất khẩu
Một trong những khó khăn của các DNVVN là thiếu vốn, liên quan đến vấn đề này Nhà nước cần có các biện pháp đặc biệt để giúp các DNVVN đảm bảo được tiền vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu như cho vay dài hạn, cho vay ưu đãi…
Kinh nghiệm như ở Hàn Quốc, Chính phủ đã quy định các tổ chức tài chính dành riêng một tỷ lệ trong toàn bộ khoản vay với lãi suất ưu đãi cho các DNVVN nói chung và sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng.
Để hỗ trợ cho sự an toàn về tín dụng của các DNVVN, nhà nước nên sớm thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu để hỗ trợ cho các tổ chức xuất khẩu phát triển. Các quỹ này được sử dụng cho các DNVVN vay để có vốn đầu tư công nghệ, tự động hóa trang thiết bị, phát triển công nghệ cao nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành xuất khẩu để đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
f. Chương trình hỗ trợ xúc tiến tiếp thị, hợp tác quốc tế và đầu tư nước ngoài sản xuất hàng xuất khẩu của các DNVVN
Trong giai đoạn hiện nay, ngoài phương pháp tiếp thị truyền thống (đi khảo sát, nghiên cứu thị trường ở nước ngoài…) đã xuất hiện phương pháp tiếp thị hiện đại qua Internet, Nhà nước cần quan tâm hỗ trợ các DNVVN lập chương trình hệ thống thông tin quản lý bằng máy tính hóa.
Sự phát triển nhanh chóng toàn cầu hoá và sự mở cửa nền kinh tế thế giới đã khuyến khích các DNVVN các nước mở rộng sự hợp tác đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu của các DNVVN Việt Nam, đồng thời là cơ hội thuận tiện để các DNVVN Việt Nam học tập, trao đổi kinh nghiệm với các bạn quỗc tế. Nhằm đẩy mạnh các hoạt động giao lưu kinh tế - thương mại trong các năm tới.Theo Bộ Thương mại cho biết thì mọi thương nhân kinh doanh cung cấp mặt hàng sẽ đều được phép thành lập Hiệp hội các ngành hàng xuất khẩu, được phép gia công cho thương nhân nước ngoài không hạn chế số lượng, chủng loại, được quyền đặt gia công ở nước ngoài các loại hàng hóa được phép lưu thông tại Việt Nam, được phép làm đại lý mua, bán hàng hóa cho thương nhân nước ngoài. Để tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa Việt Nam, các doanh nghiệp cần phải chú trọng chuyển dịch cơ cấu thị trường tiêu thụ trực tiếp và có dung lượng lớn như Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Mỹ…, giảm dần các thị trường trung gian, từng bước khôi phục các thị trường truyền thống như Nga và các nước trước đây thuộc SNG khác, Đông Âu, tích cực tìm kiếm thị trường mới.
II. Một số kiến nghị nhằm thực hiện thành công phương hướng chiến lược trên
1. Nhà nước cần có các chính sách ưu đãi về hỗ trợ xuất khẩu đối với các DNVVN
* Đối xử công bằng giữa các khu vực kinh tế
Do vai trò to lớn của các các DNVVN nên Nhà nước Việt Nam cũng như Chính phủ nhiều nước rất quan tâm khuyến khích, có các chính sách và chương trình hỗ trợ phát triển các DNVVN rất đa dạng, phong phú. Mặc dù đã tạo ra khối lượng GDP lớn hơn, tạo tăng trưởng tốc độ kinh tế của đất nước, nhưng khu vực kinh tế tư nhân chưa được đối xử bình đẳng so với khu vực kinh tế quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đâù tư nước ngoài, vẫn bị kỳ thị, phân biệt đối xử nên chưa giải toả được tâm lý e ngại, không phát huy được năng lực của khu vực kinh tế này. Điều này thể hiện rất rõ khi nhiều doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân vẫn chưa được tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp mà phải uỷ thác qua các công ty khác. Luật lệ đối với khu vực kinh tế tư nhân không rõ ràng, không ổn định, không đồng bộ, thiếu tính thực tế đang là trở ngại to lớn đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân, tạo cơ hội cho những tiêu cực nảy sinh.
Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân muốn vay vốn trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại hết sức khó khăn do không đủ tài sản thế chấp hoặc bị đánh giá thấp hơn thực tế, dù cho các ngân hàng thương mại đang ứ tiền. Đối với các chương trình tín dụng ưu đãi, các doanh nghiệp khu vực này cũng khó vay được vốn do những điều kiện khắt khe, thủ tục phức tạp trong xét duyệt. Chẳng hạn Quỹ hỗ trợ phát triển DNVVN với thời hạn vay từ 3-5 năm, lãi suất ưu đãi 0,8%/ tháng (trong khi lãi suất Ngân hàng thương mại cùng thời điểm là 1,2% - 1,25%/ tháng), tuy vậy hơn một năm mới giải ngân được khoảng 34 tỷ đồng so với tổng nguồn vốn 275 tỷ đồng của quỹ.
Về tín dụng, theo qui định về 5 điều kiện bắt buộc để vay được vốn tại Quyết định 324/ 1998/ QĐNHNN ngày 30/9/1998 của Ngân hàng Nhà nước, điều kiện thứ 5 về đảm bảo tiền vay dưới ba hình thức: thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh, là rất khó áp dụng đối với DNVVN do năng lực tài chính quá thấp. Quá trình thực hiện tín dụng còn nhiều bất hợp lý: thủ tục hành chính phê duyệt phức tạp, khả năng thẩm định dự án của cán bộ ngân hàng còn thấp.
Hiện tại ở Việt Nam chưa có tổ chức tài chính riêng chuyên trách DNVVN. Do những đặc điểm của DNVVN, chính sách tín dụng cần có những qui định thích hợp. Biện pháp cơ bản là phải cải cách hoạt động của Ngân hàng, tăng cường khả năng tham dự của Ngân hàng vào các hoạt động của DNVVN. Chỉ riêng biện pháp giảm lãi suất trong thời gian qua chưa đủ để hỗ trợ DNVVN tiếp cận với nguồn vốn. Đồng thời cần đa dạng hoá các hình thức tín dụng, đẩy mạnh tín dụng dựa vào kiểm soát. Hình thành cơ chế đảm bảo an toàn vốn vay và dự phòng rủi ro như hình thành quỹ bảo hiểm tiền gửi, quy chế đảm bảo tiền vay…Cần ban hành sớm Nghị định về bảo đảm tiền vay hiện đang được chuẩn bị để thay cho các quy định về cầm cố và thế chấp trước đây. Thành lập tổ chức tín dụng chuyên cho các DNVVN, đặc biệt dưới hình thức công ty đầu tư tài chính, có thể hoạt động chuyên ngành, lĩnh vực cụ thể, được quyền tự chủ và linh hoạt trong quyết định lãi suất, thời gian cho vay đa dạng tuỳ theo yêu cầu đầu tư hoặc lĩnh vực kinh doanh phù hợp với đặc điểm của các DNVVN. Năng lực thẩm định và giám sát cao trong thời gian ngắn.
ở Việt Nam, cơ chế và mô hình hỗ trợ được đổi mới cùng với việc đổi mới nền kinh tế, chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo nền kinh tế thị trường. So với trước đây, nhiều vấn đề về cơ chế hỗ trợ đã thay đổi căn bản. Tuy nhiên, do mới chuyển sang nền kinh tế thị trường nên cơ chế và mô hình hỗ trợ một mặt, chịu ảnh hưởng của tư duy theo cơ chế cũ, mặt khác chưa thật phù hợp với điều kiện của nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường.
Điểm khác biệt lớn nhất trong cơ chế và mô hình hỗ trợ các DNVVN là có sự phân biệt giữa hai nhóm doanh nghiệp này: hỗ trợ doanh nghiệp Nhà nước khác với khác với hỗ trợ khu vực DNVVN. Trước khi đưa ra cơ chế toàn diện khuyến khích phát triển DNVVN, cần phải xoá bỏ sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh. Đó là kiến nghị chung của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, trình độ công nghệ, trang thiết bị máy móc của doanh nghiệp nhìn chung còn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Bên cạnh đó, do thiếu sự định hướng và hỗ trợ đúng mức của Nhà nước, sự phát triển của các DNVVN trong thời gian qua có xu hướng tự phát, manh mún, rất thiếu thông tin và gặp nhiều khó khăn trong mở rộng thị trường, làm hạn chế việc giải phóng nguồn lực cho sản xuất.
Các chuyên gia nhấn mạnh rằng, chỉ khi nào xác định rõ vai trò, vị trí của DNVVN trong nền kinh tế thì các chính sách khuyến khích hỗ trợ mới thực sự có hiệu quả. Lâu nay do quan điểm không thông suốt về vấn đề này mà hàng loạt các vướng mắc kéo dài về cơ chế, vốn, đất đai, thuế, đào tạo của DNVVN chưa được giải quyết thấu đáo, gây tâm lý thân phận " con nuôi" đối với các chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Vì thế cần khắc phục ngay cả trong nhận thức, cách đặt vấn đề cũng như trong các văn bản pháp luật và hoạt động thực tiễn của bộ máy hành chính Nhà nước.
Để hỗ trợ các DNVVN tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, hàng năm các cơ quan Nhà nước cần công bố công khai nhu cầu và kế hoạch sử dụng hàng hoá, dịch vụ của mình thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh đó, Nhà nước cần ưu tiên sử dụng Quỹ khen thưởng xuất khẩu cho các DNVVN đạt thành tích trong xuất khẩu và khai thác thị trường mới.
Từ Đại hội VI của Đảng ( 1986) đến nay, với việc xoá bỏ cơ chế cũ, hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước theo định hướng XHCN đã thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển mạnh, nhất là khu vực các DNVVN. Nhờ đó, đối tượng quản lý của Nhà nước đã thay đổi căn bản. Do vậy, việc hỗ trợ các doanh nghiệp không chỉ có các doanh nghiệp Nhà nước mà cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Hơn nữa, trong các chính sách kinh tế đã chú ý tới hiệu quả kinh tế, không quá chú trọng vào qui mô doanh nghiệp lớn như trước đây và việc phát triển DNVVN là chiến lược kinh tế lâu dài trong sự đan xen với doanh nghiệp lớn. Nhiều văn kiện của Đảng đã đề cập vấn đề này như Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII và các Nghị quyết của các Hội nghị Trung ương Đảng "Nhà nước và xã hội ủng hộ và khuyến khích các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động có hiệu quả và hợp pháp".
* Đổi mới quan điểm hỗ trợ, " cởi trói" cho các DNVVN hoạt động
Điều quan trọng nhất trong quan điểm hỗ trợ ở thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới là "cởi trói" cho các doanh nghiệp để cho các doanh nghiệp này được phép kinh doanh. Hiện nay, quan điểm hỗ trợ các doanh nghiệp chủ yếu là làm cho các DNVVN phát triển ngày càng tiên tiến, hiện đại và kinh doanh có hiệu qủa. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khoá VII chủ trương: " Phát triển các loại hình doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ với công nghệ tiên tiến, vốn đầu tư ít, sinh lời cao, thời gian thu hồi vốn nhanh".
Tuy vậy, trong quan điểm hỗ trợ các DNVVN ngoài quốc doanh và việc thực hiện các quan điểm này trên thực tế còn một số hạn chế cần được khắc phục:
- Trong các quy định chính thức, quan điểm hỗ trợ khẳng định việc bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nhưng trên thực tế việc triển khai các quan điểm đó ở các địa phương vẫn còn sự phân biệt, đối xử thiếu bình đẳng giữa các doanh nghiệp Nhà nước với các DNVVN ngoài quốc doanh.
- Chưa xác định rõ đối tượng cần hỗ trợ trong số các DNVVN vì số lượng các doanh nghiệp này là rất lớn.
- Bước đầu đã chú ý đến hỗ trợ theo ngành nghề và địa bàn nhưng vẫn còn thiếu những giải pháp cụ thể để hỗ trợ sản xuất hàng xuất khẩu.
- Chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN có vai trò quan trọng trong việc định hướng cho họ sản xuất hàng xuất khẩu phát triển theo hướng kinh doanh
ngày càng văn minh, hiện đại, đạt hiệu quả cao, mở rộng quy mô doanh nghiệp…
- Hiện nay ở ta chỉ mới có chiến lược phát triển kinh tế chung cho toàn bộ nền kinh tế, chưa có chiến lược phát triển tổng thể cho các DNVVN, đặc biệt là chiến lược hỗ trợ xuất khẩu. Trong chiến lược chung, việc xác định các ưu tiên (ngành, nghề, sản phẩm, địa bàn…) chưa thực sự dựa trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế và lợi thế so sánh của từng vùng làm căn cứ.
- Việc thực hiện chiến lược và qui hoạch còn chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng bao cấp. Điều đó được thể hiện rõ nét qua chiến lược đầu tư mà trước hết là cơ cấu đầu tư. Cơ cấu đầu tư đã có đổi mới, nhưng vẫn chú trọng vào công nghiệp nặng hoặc vẫn dồn vào những ngành, công trình, dự án mang lại hiệu qủa kinh tế - xã hội thấp. Nhà nước vẫn còn bao cấp nhiều lĩnh vực trong đầu tư vốn mà lẽ ra phải để cho nhân dân tự làm.
- Chưa kết hợp đúng đắn giữa chiến lược (định hướng lớn) với kế hoạch ( bước đi và giải pháp cho từng thời kỳ) và chính sách (các biện pháp cụ thể thực hiện các đường lối đó). Hiện đang có xu hướng coi nhẹ kế hoạch, quy hoạch, dự báo…khi chuyển sang kinh tế thị trường.
ở các địa phương, tình hình còn khó khăn hơn. Kết qủa khảo sát ở một số địa phương cho thấy chính quyền còn lúng túng trong việc hoạch định chiến lược phát triển chung và hầu như chưa có chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN.
* Tạo lập khung khổ pháp lý ổn định, chặt chẽ, tạo điều kiện cho các DNVVN tiến hành xuất khẩu có hiệu quả
Khung khổ pháp lý đối với các DNVVN ở Việt Nam còn rất hạn chế. Dưới đây là một số điểm cần được khắc phục:
- Hệ thống pháp luật đang trong quá trình đổi mới nên chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, thiếu những đạo luật quan trọng để tạo ra khuôn khổ pháp lý cần thiết cho hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, đặc biệt làm sản xuất hàng xuất khẩu.
- Chưa có cơ sở pháp lý quy định khung khổ, tiêu chí DNVVN, do đó có nhiều cách hiểu khác nhau, gây khó khăn cho quản lý và thực hiện chính sách hỗ trợ.
- Còn thiếu những điều khoản thiết yếu và khuyến khích hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN (một số điều khoản khuyến khích các DNVVN trong luật khuyến khích đầu tư trong nước và một số luật thuế).
Các văn bản phải đảm bảo tính ổn định lâu dài và tính đồng bộ, thống nhất để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Tính ổn định lâu dài trước hết thể hiện ở quan điểm nhất quán của Nhà nước đối với các DNVVN thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt đối xử trong các văn bản pháp luật cũng như tổ chức thực hiện. Khi ban hành hoặc sửa đổi văn bản, không chỉ tính đến đòi hỏi hiện tại mà phải tính đến cả những đòi hỏi của sự phát triển trong tương lai.
- Ban hành luật riêng hoặc các văn bản dưới Luật (Nghị định…) đối với các DNVVN - tương tự như đối với Luật hợp tác và các Nghị định của chính phủ.
Việc ban hành các văn bản đối với các DNVVN nhằm mục đích sau:
- Xác định rõ đối tượng điều chỉnh (doanh nghiệp cần hỗ trợ), tiêu chí phân loại DNVVN, địa vị pháp lý của DNVVN …
- Có giải pháp khung cho việc hỗ trợ các DNVVN
- Các giải pháp khung để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các DNVVN
- Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và toàn xã hội trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp này.
* Thành lập các cơ quan quản lý chuyên trách
Hiện nay, việc quản lý các DNVVN có khác nhau tuỳ thuộc loại hình doanh nghiệp . Các DNNN quy mô vừa và nhỏ do các Bộ, các ngành, các địa phương hoặc do một số cơ quan (doanh nghiệp đoàn thể) quản lý. Trong khi đó, các DNVVN ngoài quốc doanh chưa có cơ quan quản lý đích thực mà mới chỉ thực hiện cấp giấy phép kinh doanh, đăng ký kinh doanh, và thực hiện các chức năng rất hạn chế như thu thuế, kiểm tra về ô nhiễm môi trường … Tuy nhiên, trên thực tế, các DNVVN lại có quá nhiều đầu mối "quản ", các cơ quan chính quyền, các tổ chức xã hội, thậm chí cả các tổ chức đoàn thể …, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất , kinh doanh của các doanh nghiệp . Do đó, đã đến lúc cần thành lập cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước đối với DNVVN ngoài quốc doanh, cơ quan này là cầu nối giữa Nhà nước và doanh nghiệp , có chức năng chủ yếu giúp nhà nước hoạch định chiến lược và chính sách phát triển các DNVVN. Một trong những yếu tố quan trọng nhất và có tính chất quyết định trong chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN là sớm ban hành các văn bản thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước trong việc khuyến khích, hỗ trợ xuất khẩu của các DNVVN (về tài chính, tín dụng, thuế, đất đai, đào tạo, chuyển giao công nghệ, thông tin…)
Theo Báo Diễn đàn doanh nghiệp số ra ngày 16/3/2000 thống kê thì hiện nay cả nước có khoảng hơn 20 Trung tâm hỗ trợ DNVVN . Việc ra đời các trung tâm hỗ trợ này là một hướng đi đúng cần được nhân rộng và phát triển, các trung tâm này bao gồm cả những tổ chức trong và ngoài nước như Trung tâm hỗ trợ DNVVN của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ doanh nghiệp (BPSC) của Liên minh hợp tác xã Việt Nam, Chương trình phát triển dự án Mê Kông (MPDF), Quỹ phát triển DNVVN Việt Nam (SMEDF) … có thể nói hoạt động của các trung tâm hỗ trợ này thông qua việc cho vay vốn, hỗ trợ về mặt đào tạo đã thực sự tạo cho nhiều doanh nghiệp những cơ hội mới để mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị kỹ thuật, nâng cao kỹ năng quản lý kinh doanh. Nhưng bên cạnh những kết quả đạt được đáng khích lệ thì mảng dịch vụ thông tin, tìm kiếm thị trường còn đạt kết quả thấp. Số lượng doanh nghiệp nhận được hỗ trợ còn chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số DNVVN trên cả nước. Một số hoạt động trợ giúp các doanh nghiệp dự Hội chợ quốc tế vẫn có giá thành chi phí lớn… Nguyên nhân sâu xa là ở chỗ các trung tâm này phần lớn phải dựa vào nguồn tài chính tự có và hoạt động trên cơ sở tự trang trải. Hầu như chưa có sự hỗ trợ tài chính nào cho các trung tâm này từ phía nhà nước .
2. Kiến nghị đối với các tổ chức hỗ trợ DNVVN
Như đã đề cập ở chương I, việc hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN là một đòi hỏi khách quan mang tính tất yếu ở nước ta trong nhiều năm tới, đặc biệt là giai đoạn 1999 - 2010. Hoạt động của các tổ chức hỗ trợ các DNVVN có thể tập trung theo các hướng sau:
- Phát triển nguồn nhân lực, có chương trình đào tạo cho các DNVVN, nâng cao công tác chuyên môn, nghiệp vụ xuất nhập khẩu.
- Giúp các DNVVN tiếp cận các nguồn vốn một cách có hiệu quả.
- Về thị trường: có các chương trình giúp đỡ về mạng lưới kinh doanh, tiềm hiểu thông tin về thị trường, về các hiệp hội kinh doanh hàng hoá trong và ngoài nước. Mở diễn đàn doanh nghiệp, tổ chức gặp gỡ tiếp xúc giữa các doanh nghiệp kinh doanh, cung cấp trao đổi thông tin thị trường, hỗ trợ xúc tiến thương mại và triển lãm hàng xuất khẩu.
- Về công nghệ: hình thành trung tâm nghiên cứu về mẫu mã, sản phẩm, cách quảng cáo, xây dựng các chương trình chuyển giao công nghệ, các chương trình nghiên cứu và phát triển.
- Cung cấp tư vấn thông tin về thị trường, về lĩnh vực xuất khẩu cho các chủ DNVVN. Thông tin cung cấp có thể chia theo chuyên đề về mặt hàng cho một số nhóm doanh nghiệp kinh doanh ngành hàng hoặc thông tin về một số thị trường xuất khẩu cho doanh nghiệp muốn xuất khẩu sang thị trường đó (thông tin về nhu cầu, thị hiếu, luật lệ liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu trên thị trường, những đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường đó).
- Trực tiếp quan hệ, giao dịch với các tổ chức quốc tế, các thị trường ở nước ngoài, khách hàng nước ngoài nhằm giới thiệu và hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội, ký kết được các hợp đồng xuất khẩu với khách hàng nước ngoài.
- Hỗ trợ các DNVVN tham gia các hội chợ trong nước và quốc tế, lập kế hoạch đi khảo sát và tiếp cận thị trường nước ngoài.
- Nghiên cứu đề án liên kết các DNVVN với các tập đoàn lớn theo mô hình vệ tinh, tổ chức sản xuất các chi tiết của sản phẩm cuối cùng (kinh nghiệm này rất phổ biến ở một số nước trong vùng, ngành ô tô Nhật Bản cũng phát triển dựa trên các DNVVN).
- Tổ chức quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của các DNVVN ở trong nước và nước ngoài.
- Giúp các DNVVN nắm bắt kịp thời những thay đổi về chính sách phát triển thương mại, chính sách xuất nhập khẩu, làm cầu nối giữa các doanh nghiệp và Nhà nước.
- Tham gia xây dựng chiến lược xuất nhập khẩu cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thông qua việc xây dựng chiến lược hỗ trợ xuất khẩu của Trung tâm hỗ trợ DNVVN trực thuộc Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam.
3. Kiến nghị đối với các nhà quản lý doanh nghiệp
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, nhà quản lý nào biết tạo dựng một chiến lược để phát triển lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm, dịch vụ của mình và thực hiện có hiệu quả chiến lược đó thì doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và phát triển, nếu không thì sẽ thất bại. Lợi thế cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp được hiểu là khả năng sản xuất, cung ứng ra thị trường những sản phẩm dịch vụ tốt hơn đối thủ cạnh tranh. Cụ thể, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được xem xét trên bốn khía cạnh:
+ Sự linh hoạt: Khả năng đáp ứng nhu cầu khác nhau của khách hàng. Ví dụ: chủng loại, cách thức, cung ứng dịch vụ đi kèm…
+ Chất lượng của sản phẩm/ dịch vụ: đặc tính kỹ thuật, độ tin cậy, dịch vụ hậu mãi, kiểu dáng …
+ Tốc độ phản ứng trên thị trường: thời gian từ khi khách đặt hàng cho đến khi được phục vụ, tốc độ phát triển sản phẩm mới…
+ Chi phí: chi phí sản xuất của doanh nghiệp thấp hơn của đối thủ cạnh tranh Doanh nghiệp muốn đạt được các lợi thế cạnh tranh này cần phải có ba nguồn lực quan trọng: nhân lực, vốn, công nghệ. Nguồn nhân lực tham gia trực tiếp toàn bộ quá trình đánh giá, lựa chọn và phát triển lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp phải đương đầu với sự cạnh tranh trên thị trường thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa, các nhà quản lý doanh nghiệp cần đáp ứng các yêu cầu sau:
- Mặt hàng sản xuất ra phải đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, với các DNVVN họ có thế mạnh là mặt hàng phong phú, đa dạng.
- Mặt hàng phải có khả năng cạnh tranh để xuất khẩu, đúng quy cách, phẩm chất khi xuất khẩu đòi hỏi cao hơn và giá cả phải hợp lý, đôi khi phải thấp hơn so với các mặt hàng tương tự.
- Có kiến thức kinh doanh xuất nhập khẩu, kinh nghiệm quản lý và tổ chức, thiết lập được các mối quan hệ bạn hàng rộng rãi, nắm bắt được những thông tin thiết thực phục vụ cho công tác kinh doanh của mình.
-Tránh sự cạnh tranh không bình đẳng, chèn ép lẫn nhau nhằm đạt hiệu quả cao hơn trong kinh doanh xuất khẩu . Nâng cao sự uy tín và độ tin cậy của doanh nghiệp mình với đối tác.
- Các doanh nghiệp có thể tổ chức tạo mẫu hàng mới, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nước ngoài, tạo ra những kết quả cụ thể như tăng số lượng, sản phẩm, tăng doanh số bán hàng trong và ngoài nước, mở thêm thị trường mới hoặc tăng tỷ trọng trên những thị trường đã có.
Lời kết
Doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của hoạt động ngoại thương nói riêng và của nền kinh tế quốc dân nói chung.
Chiến lược hỗ trợ các DNVVN trong hoạt động xuất khẩu hiện nay thực sự đã giúp cho các doanh nghiệp này khắc phục những khó khăn và phát huy được thế mạnh của mình.
Tuy nhiên để thực hiện thành công được chiến lược này đòi hỏi nhiều thời gian, công sức, sự kết hợp hài hoà giữa các bộ ngành và hơn hết là sự nỗ lực của chính các DNVVN.
Qua nghiên cứu đề tài " Chiến lược hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hoạt động xuất khẩu", chúng ta có thể thấy được kết quả khả quan của việc thực hiện chiến lược này. Đồng thời đề tài cũng chỉ rõ những tồn tại cần khắc phục trong thời gian tới bằng những đề xuất, kiến nghị.
Thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá chắc chắn sẽ còn sôi động hơn rất nhiều trong thời gian tới. Liệu các DNVVN có tận dụng được thời cơ và đương đầu với những thách thức phía trước hay không, câu trả lời nằm ngay chính các doanh nghiệp. Hy vọng rằng cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức trong và ngoài nước, các DNVVN sẽ tìm được chỗ đứng vững chắc cho riêng mình.
Tài liệu tham khảo
A. Sách
1. Giáo trình "Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương" - Trường Đại học Ngoại Thương - Vũ Hữu Tửu - NXB Giáo Dục
2. Giáo trình "Phân tích hoạt động kinh tế trong kinh doanh xuất nhập khẩu" - PTS. Ngô Thế Chi, PTS. Nguyễn Thế Khải, ThS. Vũ Viết Thựu - NXB Giáo Dục
3. Kỷ yếu hội thảo "Chính sách, pháp luật và một số giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh" - Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Trung Tâm nghiên cứu và hỗ trợ pháp lý LERES - NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội
4. "Các tổ chức hỗ trợ Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam" - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh
5. "Đổi mới cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam đến năm 2005"- PGS, TS. Nguyễn Cúc - NXB Chính trị Quốc Gia
6. "Kinh nghiệm và cẩm nang phát triển xí nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước trên thế giới" - NXB Thống Kê Hà Nội, 1999 - PTS. Đỗ Đức Định
7. "Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam" - Nguyễn Đình Hương - NXB Chính trị Quốc Gia, 2002
8. "Chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam"- Nguyễn Cúc, Hồ Văn Vĩnh, Đặng Ngọc Lợi - NXB Chính trị Quốc Gia
9. "Những quy định pháp luật về doanh nghiệp vừa và nhỏ" - Trần Nam Sơn - NXB Chính trị Quốc Gia
10. Niên giám thống kê năm 1999, 2000 - NXB Thống Kê Hà Nội
B. Báo và tạp chí
1. Báo Đầu Tư số ra ngày 20/3/2001
2. Tạp chí " Kinh tế và Dự báo" số 345, 346, 347
3. Tạp chí " Kinh tế Việt Nam và Thế Giới" - số 1119 ngày 27/10/2002
4. Tạp chí "Thương mại" các năm 2001, 2002
5. Tạp chí "Ngoại Thương" năm 2001
C. Luật và các văn bản pháp luật có liên quan
1. Luật Doanh nghiệp
2. Luật Thương mại
3. Nghị Quyết Hôi Nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 khoá VII
4. Nghị Định số 90/ 2001/ NĐ - CP của Chính phủ, Bộ kế hoạch và đầu tư
D. Tin truy cập Internet
1.
2.
E. Tài liệu tham khảo nước ngoài
1. "General conditions to stimulate job creation in SMES" - Fifth item on the Agenda Geneva
2. Trade secrets: "The export answer book for SMES"
3. "Export directory" - Saigon times weekly
Phụ lục
Các tổ chức hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay
1. Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI)
2. Trung tâm hỗ trợ DNVVN (SME- PC)
3. Liên đoàn doanh nghiệp nhỏ và thợ thủ công - ZDH
4. Trung tâm phát triển ngoại thương và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh- FTDC
5. Phòng thương mại và công nghiệp Nhật Bản - JCCI
6. Tổ chức xúc tiến mậu dịch Nhật Bản - JETRO
7. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
8. Chương trình phát triển dự án MeKong - MPDF
9. Trung tâm hỗ trợ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - NEDCEN
10. Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam - EXIMBANK
11. Chương trình quốc gia của Việt Nam về bảo vệ tầng ozon
12. Chương trình hợp tác kinh tế Việt Nam - Đan Mạch (PSD)
13. Quỹ phát triển DNVVN của cộng đồng Châu Âu - SMEDF
14. Trung tâm hỗ trợ DNVVN tỉnh Bến Tre
15. Trường Đại học công nghệ SWINBURNE thuộc australia
16. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
17. Trung tâm kỹ năng tiêu chuẩn đo lường chất lượng 3- Quatest 3
18. Hiệp hội công thương thành phố Hồ Chí Minh - UAIC
19. Dự án hỗ trợ các xí nghiệp công thương vừa và nhỏ ở Việt Nam (MPI - UNIDO)
20. Đại học Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh
21. Trung tâm thông tin khoa học và công nghệ thành phố Hồ Chí Minh (CESTI)
22. Trung tâm đào tạo nghiệp vụ và kỹ thuật ECO/ MTC
23. Dự án ESCAP
24. Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản - JICA
25. Chương trình hợp tác giữa EAB- SIDA
26. Trung tâm tư vấn hỗ trợ DNVVN (SMEDEC)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 19445.doc