Luận văn Chiến lược huy động và phát triển nguồn vốn tại SGD I NHĐT&PTVN

Vốn là một nhân tố quan trọng trong ba nhân tố quyết định đến sự tăng trưởng về kinh tế gồm: Lao động, vốn, công nghệ. Đối với nước ta lao động dồii dào nhưng vốn khan hiếm, công nghệ lạc hậu. Tất nhiên muốn đổi mới công nghệ thì cần phải có vốn. Và Ngân Hàng sẽ là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho nhu cầu vốn này của nền kinh tế. Ngân Hàng là một doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt đó là “tiền tệ”. Thực chất, các Ngân Hàng kinh doanh “quyền sử dụng vốn tiền tệ”, và Ngân Hàng kinh doanh chủ yếu bằng vốn huy động. Vì vậy, đối với các Ngân Hàng thương mại huy động vốn sẽ đang và sẽ là một trong những hoạt động truyền thống quan trọng, có tính chất quyết định đến mọi hoạt động khác của Ngân Hàng. Một chiến lược quản lí và huy động vốn hoàn hảo phải được đặt trong hoạt động thực tiễn tại SGD. Trước những thực trạng đã trình bày, giải pháp chiến lược tiên quyết đặt ra trong thời gian tới là “gia tăng nguồn vốn đáp ứng nhu cầu sử dụng nguồn của các công trình quốc gia, các dự án lớn . Về dài hạn, đơn vị nên hướng tới mlột chiến lược quản lí nguồn vốn chủ động phát triển nguồn vốn bền vững ổn định lâu dài . Bằng cách vận dụng lí thuyết quản lí khe hở thanh khoản, sử dụng các thiết bị đã được mô hình và lượng hóa trong công tác hoạch định của mình. Hoàn thành khóa luận này, em mong muốn phần nào đó có thể áp dụng cho thực tiễn hoạt động huy động vốn của Ngân Hàng, đóng góp một phần nhỏ kiến thức của mình vào việc nâng cao hơn nữa hiệu quả huy động vốn của SGD I NHĐT&PTVN. Tuy nhiên để đạt được những kết quả như mong muốn, SGD phải có các biện pháp kết hợp đồng bộ giữa sự cố gắng của bản thân với sự hỗ trợ của Nhà nước, NHNN, NHĐT&PTVN và các ngành các cấp có liên quan . trong việc thực hiện tốt các chiến lược huy động và phát triển nguồn vốn của mình

doc89 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 652 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chiến lược huy động và phát triển nguồn vốn tại SGD I NHĐT&PTVN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m không kì hạn, tiết kiệm có kì hạn, tiết kiệm trả góp. Tại Hà Nội đã có trên 7300 tài khoản được mở với số vốn huy động trên 10 tỉ VND. Chủ tài khoản được hưởng tiện ích tương tự như Ngân Hàng, ngoài ra được miễn phí mở tài khoản , miễn phí giao dịch gửi rút tiền nội tỉnh. Dường như dân chúng có thói quen đến bưu điện hơn là đến Ngân Hàng. Điều này cũng giải thích lí do tại sao tiền gửi không kì hạn cá nhân tại Ngân Hàng có tỉ lệ nhỏ. Một đối thủ cạnh tranh đáng ngại nữa hiện nay đó là các công ti bảo hiểm. Tổ chức bảo hiểm tham gia vào hệ thống tài chính với tư cách là trung gian tài chính, cung cấp các sản phẩm dịch vụ như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm an sinh xã hội, bảo hiểm học đường ... Thị phần huy động vốn của các công ti bảo hiểm gia tăng hàng năm đây là mối lo ngại cho các nhtm. Giải pháp cho tình huống này là sở cần kết hợp với công ti bảo hiểm. Hiện tại, sở đang phối hợp với Chìnon, Prudential làm dịch vụ chi trả lương cho nhân viên các hãng này, qua đó thu hút được một lượng lớn và có khả năng cung ứng các sản phẩm dịch vụ khác như: phát triển dịch vụ cho vay đời sống, tổ chức thu nợ hàng tháng từ tài khoản tiền lương, thanh toán hộ một số khoản chi phí điện, nước, bảo hiểm ... theo định kì, thực hiện nghiệp vụ môi giới, tiền gửi thanh toán, hỗ trợ vốn trong giao dịch mua bán bất động sản và các tài sản khác có giá trị lớn qua tài khoản Ngân Hàng. Các quan hệ với khách hàng *Khách hàng truyền thống hiện nay của Ngân Hàng là các đơn vị thuộc tổng công ti 90-91 thuộc các nghànhd kinh tế trọng điểm như dầu khí, sản xuất vật liệu xây dựng ... Cho đến nay, cả nước có 17 tổng công ti 91 và 77 tổng công ti 90 trong đó có những lĩnh vực chỉ có một tổng công ti 91 như bưu chính viễn thông, dầu khí và hàng không. Các tổng công ti Nhà nước có 1392 doanh nghiệp thành viên bằng 24% tổng số doanh nghiệp Nhà nước, nắm giữ 66% về vốn, 55% về lao động trong đó riêng 17 tổng công ti 91 có 532 doanh nghiệp thành viên bằng hơn 10% số doanh nghiệp Nhà nước, nắm giữ 56% tổng số vốn kinh doanh và 35% lao động. Do đặc tính qui mô lớn nên các tổng công ti 90-91 đã tạo nên được hình thức độc quyền tự nhiên và đạt được một số kết quả nhất định, từng bước tạo lập được vị thế trong kinh doanh, đầu tư có trọng điểm, mở rộng thị trường, tăng cường xuất nhập khẩu, nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Nhu cầu đầu tư và công nghệ mới, để thích ứng với sự cạnh tranh trong điều kiện hiện nay đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn để nhập máy móc thiết bị và công nghệ cũng như mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh hiện tại. Trong khi thị trường vốn nước ta mới phát triển thì Ngân Hàng được coi là nơi duy nhất để các công ti này tìm kiếm nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là tìm đến NHĐT&PT thông qua các dự án cho vay trung, dài hạn. Vì vây, trong vài năm trở lại đây các tổng công ti này đang trở thành đối tượng cho vay ưu tiên của các NHTM. Là doanh nghiệp quốc doanh, với khối lượng vốn lớn, độc quền thị trường trong nước tại một số nghành và nhận được chính sách bảo hộ của Nhà nước, chính là các yếu tố quan trọng thúc đẩy các NHTM hướng vốn đầu tư của mình vào các doanh nghiệp này. Đối với các Ngân Hàng thì đầu tư vào đây ít có nguy cơ bị mất vốn và cải thiện được tình hình kinh doanh hiện tại. * Hiện nay, chúng ta đang trong quá trình cải cách hệ thống DNNN và làm lành mạnh hóa hệ thống tài chính. Do đó, tiến trình cải cách DNNN làm ảnh hưởng đến khu vực Ngân Hàng: Các doanh nghiệp Nhà nước được xắp xếp lại trước hết để nâng cao sức cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất qua đó tạo thuận lợi cho thị trường tín dụng hoạt động an toàn hiệu quả. Việc tiến hành cổ phần hóa các DNNN đã bổ sung thêm các công cụ tài chính cho thị trường tài chính, thị trường vốn. Một trong những yếu tố quan trọng cho sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán. Việc cải cách các DNNN còn để lại gánh nợ khó thu đối với các Ngân Hàng, trong khi đó các thị trường tín dụng của Việt Nam còn tiềm ẩn những như rủi ro lãi suất, rủi ro tỉ giá, cơ chế chính sách còn nhiều thay đổi. Do vậy, tiến trình cải cách cơ cấu lại các DNNN sẽ có tác động tích cực đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM nói chung và SGD I NHĐT&PT nói riêng. 2.2.3 Các quan hệ với quần chúng tiếp xúc: SGD I NHĐT&PT có ưu thế là có trụ sở tại trung tâm, ở những địa điểm dân cư đông đúc nên có thể huy động được những vốn với tốc độ nhanh. Cùng với sự phát triển kinh tế, dần dần người gửi tiền sẽ không còn cân nhắc lựa chọn nhiều về thể lệ lãi suất cao (tương đương với các kì hạn dài) vì chênh lệch lãi suất rất nhỏ lại bất tiện hơn vì bị ràng buộc bởi các kì hạn của thể lệ tiền gửi. Khi đó, điều quan tâm nhất của dân cư là tính an toàn hay uy tín của Ngân Hàng về tiện ích của việc gửi tiền về các công cụ thanh toán, cùng với chất lượng hệ thống phục vụ của Ngân Hàng. Khi trên thị trường đã được phổ biến rộng rãi các công cụ thanh toán như séc, thẻ tín dụng, máy rút tiền tự động, và các dịch vụ khác của Ngân Hàng ... 2.2.4 Các quan hệ lẫn nhau nội bộ Ngân Hàng: Tại SGD I, cơ cấu tổ chức và hoạt động theo mô hình chi nhánh cấp một ngày càng được hoàn thiện hơn, với 12 phòng ban, 21 chi nhánh trực thuộc, 10 quĩ tiết kiệm. Với chức năng nhiệm vụ, mối quan hệ được qui định rõ ràng, chặt chẽ, tạo nên một khí thế mới, một sức mạnh thống nhất trong hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng. Các quan hệ với bên trung gian và người cung cấp: Hiện SGD I đang phối hợp có hiệu quả với trung tâm đào tạo NHĐT&PT triển khai công tác đào tạo hàng năm và cử cán bộ tham gia có kết quả tốt các lớp tập huấn kinh doanh ngoại tệ, thẩm định dự án đầu tư, tin học Ngân Hàng ... Thường xuyên theo dõi và kiểm tra việc chấp hành các qui định an toàn về hoạt động Ngân Hàng, kiểm tra hồ sơ tín dụng, bảo lãnh, công tác huy động vốn ... Thực hiện kiểm tra kiểm soát mọi mặt hoạt động của đơn vị theo đúng qui định của nghành của Nhà nước. Quan hệ với NHĐT&PTTW: NHĐT&PTTW hỗ trợ nguồn vốn với lãi suất hợp lí đảm bảo khả năng cạnh tranh của đơn vị khi tham gia vào các dự án lớn. Tăng cường năng lực công nghệ cả về trang thiet bị và các chương trình tiện ích, các chương trình phần mềm ứng dụng cho sở. Ngoài ra, SGD còn được hỗ trợ trong công tác đào tạo cán bộ nhằm nâng cao trình độ, kĩ năng hoạt động trong cơ chế thị trường, đặc biệt là các công tác quản trị điều hành, quản lí kinh doanh và Marketing Ngân Hàng. Một chiến lược quản lí, huy động phát triển nguồn vốn đúng đắn của SGD I sẽ có được dựa trên mối quan hệ khăng khít giữa SGD I và NHĐT&PTTW. B. Giải pháp chiến lược huy động vốn và phát triển nguồn vốn tại SGD I NHĐT&PTVN để tăng cường công tác huy động vốn, đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, trong đó tăng trưởng tỉ trọng nguồn vốn trung, dài hạn phục vụ cho đầu tư phát triển, SGD I cần quan tâm đến việc huy động tiền gửi vì tiền gửi là bộ phận quan trọng bậc nhất trong tài sản nợ của Ngân Hàng thương mại trong tổng nguồn vốn huy động. Như ta đã nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến qui mô tiền gửi, nó chịu sự tác động bởi: - Lãi suất trên thị trường - Các hình thức huy động vốn và các dịch vụ do Ngân Hàng cung ứng - Chiến lược Marketing Ngân Hàng - Mục tiêu chiến lược của Ngân Hàng, nguồn lực của Ngân Hàng, trình độ tổ chức của Ngân Hàng, đội ngũ cán bộ công nhân viên của Ngân Hàng, địa điểm, uy tín và thời gian hoạt động của Ngân Hàng. - Môi trường kinh tế xã hội - Môi trường cạnh tranh quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Đồng thời căn cứ vào thực tế hoạt động kinh doanh của mình SGD cần thực hiện các giải pháp nhằm tìm ra các hình thức huy động vốn khác nhau sao cho chi phí huy động vốn thấp nhất và tạo ra nguồn vốn ổn định, phù hợp với mục tiêu sử dụng vốn của Ngân Hàng. Để tìm ra các giải pháp phù hợp mang tính khả thi trước hết ta nên tìm ra nguyên nhân chính của khó khăn trong việc huy động vốn vào Ngân Hàng. Căn cứ những nguyên nhân chính của khó khăn trong công tác huy động vốn em xin được đưa ra một số giải pháp sau. 1. Thường xuyên phân tích diễn biến qui mô và cơ cấu nguồn vốn tại sở: Trong quá trình thực hiện chiến lược cũng như dự kiến thay đổi chiến lược về vốn, việc phân tích qui mô và cơ cấu nguồn vốn là việc cần thiết, giúp cho đơn vị tiếp cận được nguồn vốn rẻ, có qui mô và cấu trúc tối ưu, đảm bảo mục tiêu an toàn và sinh lợi Cùng với sự phát triển của Ngân Hàng trong mỗi thời kì nhất định, qui mô và cáu trúc nguồn tối ưu luôn thay đổi. Do đó, việc quan sát đánh giá từng loại nguồn vốn cụ thể để kịp thốic những chiến lược về vốn tốt nhất trong từng thời kì cụ thể là nhiệm vụ hàng đầu đối với đơn vị. Tại các Ngân Hàng lớn thường co các phòng phân tích hoạt động kinh doanh. SGD I cũng đã lập ra một ban phân tích hoạt động kinh doanh mà nòng cốt của ban này là các cán bộ có kinh nhgiệm trong phòng nguồn vốn kinh doanh. Ban phân tích hoạt động kinh doanh sẽ có nhiệm vụ phân tích nguồn vốn, dư báo sự biến động về qui mô và cấu trúc nguồn vốn. Cán bộ phụ trách của ban này phải là những người có năng lực chuyên môn, có tầm nhìn xa, rộng, dự báo chính xác diễn biến trên thị trường nguồn vốn trong tương lai. Trên thực tế, hiện nay phòng nguồn vốn kinh doanh mới chỉ thực hiện công tác này theo kiểu “tùy cơ ứng biến” chỉ dự đoán những xu hướng biến động của nguồn vốn trong ngắn hạn mà thiếu hẳn sự dự báo về dài hạn trong tầm nhìn chiến lược. Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa ban chuyên trách phân tích nguồn vốn và các phòng khác đồng thời đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại trong quá trình phân tích, nhằm đảm bảo tính chính xác, kịp thời và khoa học. Tóm lại, công tác phân tích qui mô và cơ cấu nguồn vốn cần phải được tiến hành thường xuyên, định kì tại sở một cách khoa học và hệ thống nhằm phục vụ cho việc xây dựng nguồn vốn tại đơn vị. 2. Đa dạng hóa hình thức huy động vốn: Hiện nay, các hình thức huy động vốn tại sở vẫn chưa phong phú bằng các Ngân Hàng khác. Phổ biến mới chỉ có các loại tiền gửi, kì phiếu, trái phiếu (phát hành dưới sự chỉ đạo của đầu tư trung ương). Trong khi xã hội càng phát triển nhu cầu sử dụng thêm các dịch vụ mới ngày càng gia tăng. Tới đây đơn vị nên triển khai áp dụng hình thức phát hành các chứng chỉ tiền gửi hay các loại tài khoản cá nhân đặc biệt. Ngoài ra, Sở nên áp dụng một số hình thức khác như: tiết kiệm gửi góp tiết kiệm xây dựng nhà ở, phát hành kì phiếu có mệnh giá đa dạng. 3. Dự toán kì hạn thực tế, nối kết nguồn vốn ngắn thành nguồn vốn dài: Như ta đã biết, tỉ trọng vốn huy động trung, dài hạn trong tổng nguồn vốn huy động của đơn vị hiện còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu tín dụng trung, dài hạn. Để giải quyết thực trạng trên, em xin mạnh dạn đề xuất biện pháp dự đoán kì hạn thực tế, kết nối nguồn vốn ngắn thành nguồn vốn trung, dài hạn. Một số chuyên gia cho rằng, nguồn vốn cho vay trung, dài hạn không đâu xa mà chính ở trong các tài khoản số dư tiền gửi ngắn hạn mà các Ngân Hàng tập trung được. Bản thân em cũng đồng ý với ý kiến trên và cho rằng: Căn cứ quan trọng nhất để xác định tỉ trọng cho vay trung, dài hạn là số dư vững chắc của các tài khoản tiền gửi tại Ngân Hàng (kể cả tiền gửi của các tổ chức kinh tế và dân cư). Nhờ tạo được số dư vững chắc nên sở sẽ có được nguồn vốn để cho vay trung, dài hạn. Theo em, không có tiêu chí cố định về việc huy động vốn ngắn hạn là nguồn vốn để cho vay ngắn hạn, cũng không phải là không huy động vốn dài hạn thì không có nguồn để cho vay dài hạn. Hiện nay, NHNN đã có chỉ thị số 12/CT/ NH1 cho phép các NHTM được phép sử dụng 20% vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn; quyết định QĐ 297/99 QĐ NHNN 5 qui định các tỉ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, trong đó có qui định tối đa của nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn. Hơn nữa như đã trình bày, điều mà các NHTM nên quan tâm và dự tính chính là kì hạn huy động thực tế chứ không phải là kì hạn danh nghĩa. Một khi dự đoán được tác động của các biến số ảnh hưởng đến kì hạn thực và mô hình hóa chúng nhờ sự trọ giúp của các phần mềm tính toán hiện đại thì Ngân Hàng sẽ có được một hình ảnh chính xác về kì hạn thực tế. Tất cả những điều trên là chính là cơ sở của hoạt động nối kết nguồn vốn thành nguồn vốn dài. Nguồn vốn dài ở đây được hiểu là số dư vững chắc của các tài khoản tiền gửi tại Ngân Hàng hay nói cách khác đó là một tập hợp số dư vốn huy động không phân biệt ngắn, dài hạn cho dù ngắn hạn là chủ yếu đi chăng nữa. Nhiệm vụ của đơn vị là phải tạo ra được các cơ hội tốt nhất, khơi ra được các dòng chảy thanh khoản để hầu hết mọi khoản tiền đều chảy qua và đọng lại ở quĩ của sở. Tuy nhiên, quá trình nối kết nguồn vốn ngắn thành nguồn vốn dài sẽ hiệu quả hơn nếu việc huy động vốn được liên kết chặt chẽ trong hệ thống NHĐT&PHươNG TIệN, thậm chí cả hệ thống Ngân Hàng Việt Nam. 4. Xây dựng chính sách lãi suất hợp lí: Xây dựng chính sách lãi suất hợp lí cụ thể là lãi suất huy động vốn. Mỗi Ngân Hàng đều có chiến lược kinh doanh riêng, trong đó chiến lược lãi suất là một bộ phận không thể thiếu được. Lãi suất là yếu tố tạo phần lớn lợi nhuận và chi phí. Vì vậy mọi biến động về lãi suất đều có ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Ngân Hàng. Do vậy, việc xây dựng lãi suất hợp lí là cần thiết, đặc biệt là trong công tác quản lí, huy động và phát triển nguồn vốn. Chính sách mà đơn vị xây dựng cần phải đạt được các mục tiêu sau: Tạo được các nguồn vốn huy động có qui mô và cơ cấu hợp lí, chi phí rẻ đáp ứng nhu cầu sử dụng bên tài sản. Đảm bảo tính cạnh tranh của sở so với Ngân Hàng khác trong việc thu hút vốn cho vay Đảm bảo an toan và sinh lợi cho Ngân Hàng Việc định ra lãi suất của sở phải tuân theo lãi suất cơ bản mà NHNN công bố cho các tổ chức tín dụng phù hợp với cung cầu vốn trên thị trường. Dựa trên chính sách lãi suất cơ bản, đơn vị đưa ra một mức lãi suất có tính cạnh tranh hấp dẫn với khách hàng, tạo nên một lợi thế so sánh với các đối thủ cạnh tranh khác. Tuy nhiên lợi thế so sánh đó không chỉ đơn thuần là việc đặt ra một mức lãi suất cao hơn các tổ chức tín dụng khác mà còn là việc sở đặt ra các qui định hợp lí về: Cách thức trả lãi, cách xử lí lãi suất đối với các khoản tiền gửi hay kì phiếu lĩnh trước hạn, định ra khoảng cách phân biệt về lãi và các qui định khác + Về cách thức trả lãi: Cùng với một tỉ lệ lãi như nhau, nhưng ưu đãi về hình thức trả lãi sẽ hấp dẫn khách hàng. Ví dụ như việc thực hiện trả lãi trước, trả lãi nhiều lần với khoản tiền gửi dài hạn. Tuy nhiên, việc áp dụng lãi suất trả trước hiện nay gặp nhiều khó khăn trong công tác hoạch toán của Sở và tính toán của người gửi tiền. Do đo giải pháp này cần phải được tiến hành đồng với việc cải tiến thủ tục hạch toán một cách khoa học. + Cách xử lí lãi suất đối với các khoản tiền gửi rút trước kì hạn: Hiện Sở đã thực hiện vẫn trả lãi suất cao cho các khoản tiền gửi rút trước thời hạn nhưng đã gửi với thời gian đủ dài (2/3 kì hạn danh nghĩa). Sở nên chấp nhận trả với lãi suất ngắn hạn gần nhất cho các khoản tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tiền gửi của các khách hàng lâu năm có qui mô lớn hoặc trả lãi đủ nếu được báo trước một thời gian. + Khoảng cách phân biệt về lãi suất: Sở nên có ưu đãi về lãi suất đối với những khách hàng gửi những khoản tiền lớn. Việc áp dụng lãi suất theo qui mô như vậy sẽ khuyến khích việc mở rộng nguồn vốn của Sở. 5. Giải pháp về ứng dụng Marketing Ngân Hàng: Chất lượng của công tác huy động vốn được khách hàng yêu cầu là: nhanh chóng dễ dàng, thoải mái khi giao dịch, bí mật đảm bảo có lãi suất thỏa đáng. Trong hoạt động này, bên cạnh chính sách lãi suất linh hoạt, đơn vị nên quán triệt các nhân viên không chỉ thực hiện đơn thuần các nghiệp vụ của mình mà còn phải đồng thời giới thiệu các lợi ích của dịch vụ, sản phẩm liên quan. Thái độ phục vụ chính là yếu tố tạo nên ấn tượng của khách hàng về Ngân Hàng, sự giao tiếp của nhân viên với khách hàng sẽ tạo ra hình ảnh của Ngân Hàng đồng thời tạo lòng tin của khách hàng đối với Ngân Hàng. Nếu giao tiếp tốt sẽ bảo vệ lợi ích cho Ngân Hàng. Đây là hình thức quảng cáo tốt nhất cho Ngân Hàng với chi phí thấp nhất. Để thực hiện thành công Marketing trong Ngân Hàng, ngoài bộ phận chuyên trách phân tích, tất cả các nhân viên cũng như ban lãnh đạo đều phải tham gia hoạt động này, coi tiếp thị là công tác trọng tâm, trách nhiệm của toàn đơn vị. Đơn vị nên tiến hành phân nhóm khách hàng để thực hiện các chính sách , lên danh sách các đơn vị có số lượng tiền gửi lớn để có các hình thức ưu đãi thích hợp. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng nguồn vốn cũng như tín dụng, đơn vị nên đề ra chính sách khách hàng hợp lí, hấp dẫn theo nguyên tắc cùng chia sẻ lợi nhuận. Duy trì hội nghị khách hàng vào đầu năm kinh doanh với nội dung một ngày một cải tiến, phong phú. Mỗi năm phải đưa ra được các sản phẩm mới và phương pháp cải tiến nghiệp vụ để quảng cáo tiếp thị. Tiếp tục mở rộng, phát triển khối khách hàng có tiềm năng tiền gửi lớn, tìm kiếm các khách hàng mới. Xây dựng kế hoạch chăm sóc khách hàng cũ, có chính sách ưu đãi, khuyến khích về mặt dịch vụ, bám sát chủ trương đầu tư, định hướng chiến lược đề ra công tác Marketing thu được hiệu quả cao. 6. Nâng cao vị thế hình ảnh riêng của đơn vị bằng cách gia tăng sức hấp dẫn của sản phẩm Ngân Hàng: Do tính đặc thù của sản phẩm Ngân Hàng nên ngay cả khi đơn vị có đủ khả năng đưa một sản phẩm mới ra thị trường hay bắt chước thành công sản phẩm của đối thủ cạnh tranh thì chỉ sau một khoảng thời gian tương đối ngắn, đơn vị chắc chắn phải đối mặt với sự cạnh tranh của những sản phẩm tương tự. Hình ảnh của đơn vị sẽ là một tập hợp phức tạp các thái độ và sự hiểu biết từ phía khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng. Toàn bộ các thương hiệu, tên sản phẩm và các hợp đồng với các đơn vị và cá nhân trong SGD đều phải kết hợp với nhau để tạo một hình ảnh tích cực trong tâm trí khách hàng. Khi nào một phần lớn sản phẩm mà sở cung cấp lại chính là cảm giác vô hình về sự tin tưởng, an toàn và đáng tin cậy thì hình ảnh của SGD sẽ đóng vai trò quan trọng nhất. 6.1 Tiền gửi không kì hạn của các tổ chức kinh tế Tại thời điểm hiện nay, các Ngân Hàng đều có cùng một mức lãi suất cho tiền gửi không kì hạn của các tổ chức kinh tế (0.1-0.2%/tháng). Chính vì vậy, mỗi Ngân Hàng cần phải cạnh tranh trước hết là về dịch vụ cho người gửi tiền. Dịch vụ cơ bản nhất mà đơn vị cần nâng cao là chất lượng phục vụ đối với việc huy động vốn, nguồn này là là dịch vụ thu hộ và dịch vụ thanh toán ở tất cả các hình thức đa dạng, phong phú. Ngân Hàng cung ứng dịch vụ tót nhất chính là Ngân Hàng có khả năng thực hiện thanh toán séc nhanh nhất và chính xác nhất, nhờ đó người gửi tiền nhận được tiền thanh toán sớm nhất. Xuất phát từ nhu cầu thanh toán séc nhanh này mà hình thành nên cả một nghệ thuật huy động vốn. Phòng nguồn vốn kinh doanh nên làm thêm chức năng tư vấn cho người quản lí ngân quĩ các công ti (hay kế toán trưởng) về cách huy động sao cho hiệu quả nhất để phục vụ đầu tư ngắn hạn. 6.2 Tiền gửi có kì hạn: Đối với loại này, sở nên phat hành thêm các chứng chỉ tiền gửi chuyển nhượng có giá trị 5 triệu đồng trở lên, kì hạn 3 tháng đến 2 năm đối với các tổ chức kinh tế. Những chứng chỉ này sẽ đem lại nguồn vốn dồi dào cho sở, đặc biệt là trong điều kiện Sở không thường xuyên huy động được những món tiền gửi nhỏ. Do sở có lợi thế là qui mô tương đối lớn và tương đối nổi tiếng nên những chứng chỉ này có thể mua bán trên thị trường thứ cấp với lãi suất hợp lí. Trên lí thuyết, kế toán trưởng của công ti sẽ mua các chứng chỉ tiền gửi của bất cứ Ngân Hàng nào có mức lãi suất cao nhất có thể được. Nhưng trên thực tế, người này gần như chắc chắn sẽ mua loại được phát hành bởi một trong số các Ngân Hàng mà công ti anh ta mở tài khoản. Do đó, nếu xét trên quan điểm về thu hút tiền gửi thì điều quan trọng là đơn vị càng biết nhiều người quản lí ngân quĩ àng tốt. Cho dù yếu tố lãi suất là yếu tố hàng đầu, nhưng trong trường hợp một loạt các mức lãi suất cạnh tranh lại bằng nhau thì rõ ràng là mối quan hệ quen biết cá nhân là một ưu thế. 6.3 Tiền gửi giao dịch của cá nhân ( tiền gửi không kì hạn cá nhân) Để gia tăng huy động từ nguồn này, đơn vị nên lắp đặt các máy rút tiền tự động tại các vị trí thuận tiện, cho phép những người gửi tiền dùng thẻ ATM và mã tài khoản của mình để gửi tiền hoặc rút những món tiền nhỏ vào bất cứ thời gian nào trong ngày hay trong tuần. Trong tương lai có thể sở nên bố trí hệ thống để khách hàng có thể thanh toán hóa đơn qua điện thoại. Khách hàng chỉ việc nói số tài khoản, và yêu cầu sở thanh toán một khoản tiền nhất định cho người hưởng thụ. Khách hàng cũng có thể nói chính xác ngày tháng mà anh ta muốn thực hiện thanh toán. 6.4 Triển khai hoạt động ngân hàng qua thư tín, ngân hàng hành lang và các ATM để huy động vốn Hoạt động ngân hàng trên Internet: Trong thời gian không xa, các hoạt động trên Internet sẽ phổ biến ở nước ta. Sở cần triển khai mở một Website riêng của mình trên Internet, trong đó công bố rộng rãi toàn bộ thông tin về đơn vị như: hoạt động kinh doanh, các loại hình sản phẩm dịch vụ, mức lãi suất và biểu phí gần nhất để khách hàng dễ dàng tìm kiếm thông tin. 7. Quản lí và huy động vốn phải đi đôi với công tác nâng cao hiệu quả quản lí và sử dụng vốn: Quản lí tài sản và nguồn vốn là hai mặt của cùng một vấn đề trong quản trị Ngân Hàng. Một chiến lược quản lí nguồn vốn hiệu quả phải gắn liền với hoạt động quản lí và sử dụng vốn có hiệu quả, tức là sử dụng các nguồn lực bên nguồn vốn để chuyển hóa chúng thành tiền mặt và các tài sản sinh lời. Trung tâm của việc quản lí, sử dụng vốn của Ngân Hàng là vấn đề giải quyết mâu thuẫn giữa thanh khoản và sinh lời. Nhiệm vụ của Sở là làm sao phân tích một cách kĩ lưỡng mục phí tổn phải thanh khoản tương ứng với mục lợi nhuận có được từ các khoản cho vay hay đầu tư để có thể nâng cao mức sinh lời của Ngân Hàng trong khi vẫn giữ mức thanh khoản nhất định. Đối với SGD, nhiệm vụ huy động vốn để cho vay trung, dài hạn rất quan trọng. Nhưng các khoản cho vay trung, dài hạn nhất là các dự án đầu tư phát triển, có khả năng sinh lời hạn chế, vốn được thu hồi chậm rủi ro cao, lãi suất cho vay lại không cao hơn mấy so với lãi suất ngắn hạn. Vì vậy, theo em trong khi quan tâm hàng đầu của sở vẫn là tín dụng trung, dài hạn, sở nên tập trung vào tín dụng ngắn hạn, đặc biệt là tín dụng ngắn hạn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn, tận dụng các nguồn tín dụng hiện có để sinh lời. Ngoài ra, Sở nên chú trọng hơn tới các hoạt động đầu tư kinh doanh, trong đó có mua bán ngoại tệ theo các hợp đồng kì hạn. Tới đây em xin đề xuất một phương pháp quản lí phối hợp cả nguồn vốn mvà tài sản. Đó là lí thuyết về quản lí khe hở thanh khoản. 8. Vận dụng lí thuyết về quản lí khe hở thanh khoản trong hoạt động quản trị tài sản, nguồn vốn tại sở. Khe hở thanh khoản hay khe hở nhạy cảm đối với lãi suất được định nghĩa bằng sự khác biệt giữa tài sản và nguồn vốn có lãi suất nhạy cảm. Tính nhạy cảm của lãi suất của một tài sản hay nguồn vốn được đo lường qua lợi nhuận và chi phí tương ứng với sự biến động của lãi suất. Quản lí khe hở lãi suất là một phương pháp quản trị tài sản và nguồn vốn tương đối phức tạp, nó chỉ một chiến lược phối hợp của định vị cả tài sản và nguồn vốn nhằm đạt được mục tiêu an toàn và sinh lời của Ngân Hàng trước những đe dọa rủi ro lãi suất có thể xảy đến. Phương pháp này sẽ được vận dụng tốt với những Ngân Hàng có qui mô lớn. Trợ giúp cho việc vận dụng các phương pháp này là các phần mềm vi tính quản lí tài sản – nguồn vốn và một hệ thống kế toán hoàn hảo sẵn có ở mỗi Ngân Hàng.Các tài sản kế toán càng được chi tiết hóa bao nhiêu thì thu nhập dự tính càng chính xác bấy nhiêu. Một khi hệ thống này được thiết lập, các giá trị dự báo tương lai và hiện tại phải được sử dụng để tính cả lãi suất và chênh lệch lãi suất giữa tài sản và nguồn vốn trong một khoảng thời gian ngắn, Ví dụ: là dưới một năm, các chênh lệch này là những gì mà Ngân Hàng phải phòng ngừa để có thể đối mặt được trước những rủi ro lãi suất tiềm tàng. Rủi ro lãi suất được ước tính bằng cách phân loại tài sản và nguồn vốn theo việc làm thế nào để hợp lí hóa các dòng tiền trước sự thay đổi của lãi suất trong ngắn hạn. Có thể tạm coi các tài sản và nguồn vốn có kì hạn trong vòng 3 tháng là nhạy cảm. Ví dụ: ở cơ sở là các khoản tiền gửi không kì hạn của các tổ chức kinh tế và dân cư, huy động qua đêm từ các tổ chức tín dụng, vay ngắn hạn từ NHNN Là các nguồn vốn nhạy cảm. Sự khác nhau giữa tài sản nhạy cảm với lãi suất và nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất là khe hở nhạy cảm với lãi suất. Nếu như khe hở dương (hoặc tỉ lệ tài sản nhạy cảm/nguồn vốn nhạy cảm > 1) tức là nhiều tài sản hơn sẽ được định giá lại so với nguồn vốn đối với một sự thay đổi lãi suất nhất định. Quản lí khe hở thanh khoản bao gồm các vấn đề: Tài sản nhạy cảm với lãi suất (AS); Tài khoản không nhạy cảm với lãi suất (Ans); Nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất (Ls); nguồn vốn không nhạy cảm với lãi suất (Lns);Giá trị ròng = khe hở dương (NW) Tương tự như vậy, khi khe hở là âm nhiều nguồn vốn sẽ phải định giá lại cho cân bằng với tài sản. Nhưng do lãi suất của tài sản và nguồn vốn thường không đồng hành với nhau nên tốc độ và độ phóng đại của việc định giá thường không tỉ lệ. Nếu lãi suất trong ngắn hạn gia tăng, một khe hở tích cực sẽ hàm ý rằng nhiều tài sản sẽ gia tăng lợi nhuận hơn so với nguồn vốn và ngược lại. Nếu lãi suất ngắn hạn giảm, một khe hở dương sẽ làm giảm thu nhập Ngân Hàng, trong khi một khe hở âm sẽ gia tăng thu nhập. Sự lựa chọn kích cỡ và loại khe hở nhạy cảm là tùy thuộc vào sự tự tin của nhà quản trị Ngân Hàng về những dự báo đối với lãi suất của họ, về sự kiểm soát của họ đối với điều chỉnh khe hở và sở thích của họ đối với rủi ro và doanh lợi. Các nhà quản trị ưa thích lợi nhuận ổn định sẽ tránh những khe hở quá tích cực. Họ cảm thấy họ không đủ khả năng dự đoán được sự biến động của thị trường trong dài hạn.Ngược lại có những nhà quản trị lại thích đặt cược vào sự gia tăng của lãi suất trong ngắn hạn; Họ tạo ra một khe hở tích cực lớn hơn bằng cách tạo ra nhiều khoản cho vay đa dạng, rút ngắn thời gian đáo hạn của tài sản và gia tăng kì hạn của nguồn vốn. Tuy nhiên, trên thực tế giải pháp này tỏ ra khó thực hiện do bởi các lực lượng tham gia thị trường khác có thể có những dự báo tương tự về lãi suất và không muốn chấp nhận kiểu tài sản và nguồn vốn mà Ngân Hàng đưa ra. Tương tự như thế, một Ngân Hàng có thể tìm thấy riêng cho mình một môi trường mà ở đó có ít sự can thiệp về kì hạn mà nó đưa ra trước bất kì một dự báo về lãi suất nào. Hiện nay nhiều nhà kinh tế thường đặt câu hỏi về tính hữu ích của phương pháp này. Họ tranh luận rằng, một khe hở không nên được điều chỉnh theo kiểu liệu pháp sốc, vì như thế sẽ buộc các Ngân Hàng trước những rủi ro lãi suất. Giải pháp khả thi cho vấn đề này là sử dụng các công cụ của thị trường tương lai (swap, hợp đồng kì hạn) và phát triển mạnh một thị trường tiền tệ liên Ngân Hàng cũng như thị trường mở. Có như vậy, phương pháp này mới phát huy được tác dụng của nó. Trên thực tế hiện nay, dường như SGD đang quản lí một khe hở thanh khoản dương nhưng khe hở này rất hẹp do chỗ nguồn vốn huy động dài hạn không dồi dào và đa phần còn tập trung vào các tài sản dài hạn. 9. áp dụng nghiệp vụ chiết khấu kì phiếu, trái phiếu: Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng cổ điển, nhưng cho đến nay nó vẫn được coi là trong những kĩ thuật cấp tín dụng chủ yếu của NHTM. Nhà kinh doanh khi bán chịu hàng hóa của mình sẽ nhận được một thư\ơng phiếu của người mua. Thực chất đây là một giấy nhận nợ, khi có nhu cầu về vốn mà thương phiếu chưa đến hạn thanh toán, người sở hữu có thể đem đến Ngân Hàng để chiết khấu. Thực chất của việc chiết khấu thương phiếu của Ngân Hàng là biến các thương phiếu chưa đến hạn thanh toán thành tiền. Số tiền mà Ngân Hàng cấp cho khách hàng (giá mua thương phiếu) bằng mệnh giá thương phiếu trừ đi lãi suất chiết khấu và hoa hồng chiết khấu. Trong điều kiện hiện nay, kho bạc nhà nước và nhiều Ngân Hàng quóc doanh cũng phát hành tín phiếu, kì phiếu, trái phiếu. Trong khi thị trường chứng khoán chưa phát triển thì chiết khấu thương phiếu nói chung và kì phiếu, trái phiếu Ngân Hàng nói riêng càng trỏ nên quan trọng. Ngân Hàng nên áp dụng nghiệp vụ chiết khấu (ít nhất là đối với các kì phiếu, trái phiếu NHĐT&PT) vì có thể ví nó như là dịch vụ “Hậu bán hàng” Giúp cho người dân an tâm mua kì phiếu, trái phiếu của Ngân Hàng và klhi cần tiền mặt lại có thể bán được nó. 10. Quản lí tốt trạng tốt trạng thái ngoại tệ tại SGD: Trạng thái ngoại tệ là chênh lệch giữa tổng tài sản có và tài sản nợ của ngoại tệ, bao gồm cả các tài khoản ngoại bảng tương ứng. Duy trì một trạng ngoại tệ ổn định để đảm bảo đáp ứng nhu cầu của khách hàng nhập đồng thời làm cho vốn ngoại tệ sinh lời là mục tiêu của sở. Sở nên tập trung tiếp cận với những khách hàng xuất của mình để thương lượng, huy động nguồn ngoại tệ của họ vì đây chính là những nguồn rẻ hơn các nguồn huy động từ thị trường. Thông thường, đến cuối ngày giao dịch sở phải đảm bảo một trạng thái ngoại tệ cân bằng, tức bằng không; chủ động tự tìm kiếm nguồn ngoại tệ để cân bằng trạng thái âm hoặc kinh doanh nguồn dư thừa trước khi cầu viện tới trung ương. Lí thuyết về quản lí khe hở thanh khoản cũng có thể áp dụng trong công tác quản lí trạng thái ngoại tệ của Sở. Tuy nhiên, để vận dụng phương pháp này đơn vị cần linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ của thị trường tiền tệ, các hợp đồng kì hạn, hợp đồng swap và theo dõi sát sao diễn biến của tỉ giá ngoại tệ theo từng giờ giao dịch. 11. Nhóm giải pháp bổ trợ: 11.1 Công tác cán bộ: Con người là yếu tố quan trọng quyết định đén sự thành công. Do vậy, để phục vụ cho sự phát triển lâu dài và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung và công tác huy động vốn nói riêng thì đòi hỏi Ngân Hàng phải có sự đầu tư hơn nữa cho công tác này về nhiều mặt: Nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức và thái độ làm việc, tổ chức lại bộ máy thực hiện Nhằm cho các cán bộ Ngân Hàng xứng đáng là hình ảnh của Ngân Hàng. SGD cần có chính sách đào tạo nhằm nâng cao trình độ, kĩ năng hoạt động trong cơ chế thị trường đối với cán bộ, nhất là các cán bộ giao dịch trực tiếp. Đây là một phần của chiến lược phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng nhiệm vụ chung của toàn nghành, làm tốt công tác qui hoạch cán bộ Xây dựng chương trình đào tạo theo mục tiêu đối với các vị trí, các bộ phận, các nghiệp vụ thông qua NHĐT&PTVN nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác trong hoạt động của SGD. Cần chú trọng đào tạo thêm kiến thức mới cho các cán bộ thông qua các lớp đào tạo, khảo sát các Ngân Hàng bạn, tổ chức hội thảo theo chuyên đề, để nắm bắt được xu hướng phát triển của Ngân Hàng trong thời gian tới. Xây dựng chiến lược nguồn lực cán bộ vừa có phẩm vững vàng, tinh thần trách nhiệm cao, vừa có năng lực chuyên môn và bố trí phù hợp theo năng lực và yêu cầu của công việc. Ngân Hàng nên có chính sách động viên khuyến khích các cán bộ của mình tự nâng cao trình độ nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ có “tâm” và giỏi về nghiệp vụ chuyên môn. Nâng cao nhận thức cán bộ về nâng cao vai trò vị thế hệ thống NHĐT&PTVN trong nền kinh tế, về các cơ hội và khó khăn trong tình hình mới nhằm thống nhất trong mý thức và hành động thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển. Đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ kĩ năng nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu không ngừng đổi mới của thị trường, xây dựng và đổi mới tác phong giao dịch nhằm tạo ra những nét riêng có của hệ thống NHĐT&PTVN. Củng cố lại các phòng ban, tăng thêm phòng tín dụng, phòng giao dịch, tăng thêm nhân lực, vật lực đối với các phòng điện toán, thanh toán quốc tế, kiểm tra nội bộ, quản lí khách hàng, tổ chức hành chính Có đề án sắp xếp lại cán bộ, các bộ phận nghiệp vụ để tuyển dụng bổ sung cán bộ mới. Chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo với mục tiêu cụ thể, hiệu quả. Xây dựng chính sách tiền lương, chính sách động lực theo chất lượng công việc, mức đóng góp vào kết quả hoạt động chung, không phân phối bình quân chủ nghĩa; Tạo cơ hội thăng tiến và đề bạt cán bộ. Thường xuyên chỉ đạo và thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh trên nguyên tắc: Mở rộng kinh doanh luôn gắn liền với nâng cao chất lượng và hiệu quả, chống rủi ro, đảm bảo an toàn vốn và tài sản Từ đó, khắc phục sửa chữa kịp thời những sai sót, ngăn chặn sai sót mới phát sinh. 11.2 Chiến lược về hợp tác phát triển: Với các Ngân Hàng bạn: Theo nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh, hợp tác kinh doanh cùng có lợi phát huy thế mạnh phục vụ đầu tư và phát triển đàm phán làm đầu mối cho vay đồng tài trợ với các dự án lớn vượt khả năng của một Ngân Hàng. Với các đơn vị trực thuộc NHĐT&PTVN: Hỗ trợ nhau trong các mặt công tác chung, trong khả năng có thể có theo hướng tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của các đơn vị trực thuộc vì sự vững mạnh chung của toan hệ thống NHĐT&PTVN. Với các chi nhánh trong hệ thống: hợp tác chặt chẽ, phối hợp thực hiện các chính sách khách hàng, chính sách lãi suất, nguồn vốn Tạo nên một sức mạnh cạnh tranh thống nhất của hệ thống trên dịa bàn. 11.3 Tiếp tục đổi mới cở sở vật chất kĩ thuật và công nghệ Ngân Hàng, hiện đại hóa Ngân Hàng: Để từng bước hướng tới hiện đại hóa hoạt động Ngân Hàng, SGD phải áp dụng các công nghệ mới, tân trang, tu bổ, thêm mới cơ sở vật chất kĩ thuật đáp ứng mọi nhu cầu trong hiện tại cũng như trong tương lai. Tiến hành trang bị thêm máy móc thiết bị hiện đại và nâng cấp các chương trình cài đặt, xác lập hệ thống thông tin nội bộ, hoàn chỉnh đồng bộ để phục vụ kinh doanh, đảm bảo nhanh chóng chính xác, an toàn, hiệu quả, thuận lợi và cung cấp thông tin kịp thời chính xác giúp cho công tác chỉ đạo điều hành hoạt động của Ngân Hàng một cách tốt nhất. Với việc áp dụng công nghệ cao của SGD sẽ ứng dụng công nghệ tự động hóa để cung cấp cho khách hàng những dịch vụ hiệu quả và rẻ nhất có thể được. Trong lĩnh vực thanh toán, nếu tốc độ thanh toán nhanh sẽ góp phần chu chuyển vốn, vật tư, hàng hóa, dịch vụ, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đầu tư cho lĩnh vực thanh toán thường mang lại hiệu quả lớn. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt của Ngân Hàng nếu làm tốt sẽ thu hút các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư mở tài khoản, gửi tiền và thanh toán qua Ngân Hàng và Ngân Hàng sẽ là người làm thay nghiệp vụ ngân quĩ, dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Do đó, khối lượng tiền mặt sử dụng cho lưu thông sẽ giảm xuống, và Ngân Hàng sẽ có một nguồn vốn lớn. Thời gian qua, công tác thanh toán qua Ngân Hàng chưa được chú trọng đúng mức, đối tượng thanh toán qua Ngân Hàng còn hẹp, chỉ mới giới hạn ở đơn vị kinh tế quốc doanh, các cơ quan Nhà nước và một vài thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, trong khi thanh toán không dùng tiền mặt đối với dân cư và doanh nghiệp tư nhân thông qua việc mở tài khoản và sử dụng séc trong thanh toán chưa có kết quả đáng kể. Điều này làm Ngân Hàng không thể huy động triệt để nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế. C. một số kiến nghị 1. Kiến nghị với Nhà nước Nhà nước cần tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. Môi trường vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn qua Ngân Hàng. Nó có thể tạo ra thuận lợi đến công tác huy động vốn nhưng đồng thời cũng có thể cản trở, làm hạn chế công tác huy động vốn. Nói chung, sự ổn định của môi trường lt vĩ mô mlà điều kiện tiền đề cơ bản và quan trọng nhất cho mọi sự tăng trưởng nói chung và cho việc đẩy mạnh thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn vào Ngân Hàng nói riêng. Đối với Việt Nam hiện na, một trong những nội dung của việc tạo lập sự ổn định nền kinh tế vĩ mô là ổn định tiền tệ. Đây là điều kiện cần thiết cho việc thực thi có hiệu quả các giải pháp nhằm huy động vốn qua NHTM. Chính phủ phải đưa ra các chính sách về ngoại giao, tiết kiệm, cải tién bộ máy Ngân Hàng theo hướng tăng cường hiệu lực quản lí, giảm bớt hệ thống quản lí tài chính cồng kềnh sao cho phù hợp và gắn liền với thực tiễn. Ngoài ra, đối với chính sách huy động vốn qua Ngân Hàng cũng cần phải được Nhà nước khuyến khích nhiều hơn nữa bằng các biện pháp linh hoạt, cụ thể thông qua các qui định lãi suất, chính sách tỉ giá, thuế Bên cạnh việc sử dụng hiệu quả các công cụ vĩ mô, Nhà nước nên có sự tuyên truyền, giáo dục hợp lí nhằm thay đổi tâm lí và thói quen tích trữ tiêu cực. Điều đó không chỉ có lợi cho Ngân Hàng mà còn góp phần tăng tỉ lệ tiết kiệm để đầu tư phát triển nền kinh tế. Bên cạnh việc khuyến khích tích lũy, Nhà nước cần xây dựng và ban hành đầy đủ một hệ thống các bộ luật đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền, tạo lòng tin của họ vào hệ thống Ngân Hàng. Nhà nước cần bn hành hệ thống pháp lí đồng bộ và rõ ràng. Điều này không chỉ tạo niềm tin đối công chúng mà với những qui định khuyến khích của Nhà nước sẽ tác động trực tiếp đến việc điều chỉnh quan hệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm, chuyển một bộ phận tiêu dùng chưa cấp thiết sang đầu tư, chuyển dần tài sản cất giữ dưới dạng vàng hoặc bất động sản sang đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh hoặc gửi vốn vào Ngân Hàng. Kể cả việc khai thác ở mức cao nhất tiềm lực vốn của các doanh nghiệp các văn bản luật và dưới luật cần được ban hành một cách có hệ thống hơn đảm bảo mọi hoạt động tài chính, tiền tệ, tín dụng đều được luật pháp hóa, tạo nên một môi trường ổn định về pháp lí và chế độ chính sách cho các Ngân Hàng. Song song với việc ban hành về luật Ngân Hàng, Nhà nước cũng nên kết hợp với các luật khác như: Luật ngân sách, luật doanh nghiệp, luật thương mại Để tạo ra luật hoàn thiện, chi tiết và công bằng. Việc ban hành, hướng dẫn thi hành và thực hiện cần có sự thống nhất chặt chẽ. Đồng thời phải có sự phối hợp giữa các cấp, các nghành hữu quan để hoàn thiện và tạo lập các văn bản khác. Mặt khác, phải xử lí nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật nhất là đối với các cán bộ Ngân Hàng, bởi Ngân Hàng cũng hoạt động và chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Tất cả những việc làm trên tạo ra lòng tin cho dân chúng vào nền kinh tế nói chung và hệ thống Ngân Hàng nói riêng. kiến nghị với NHNN NHNN nơi ban hành các chính sách tiền tệ quốc gia cần có một chính sách tiền tệ ổn định ổn định để người an tâm gửi tiền vào Ngân Hàng mà không bị mất giá. Hơn nữa với chính sách tiền tệ ổn định các NHTM dễ dàng hơn trong việc điều hành kinh doanh của mình. Việc người dân còn sử dụng một lượng tiền nhàn rỗi lớn để mua vàng, ngoại tệ, bất động sản cũng một phần là hậu quả của sự thiếu tin tưởng và khả năng ổn định của nền kinh tế. Qua giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới nền kinh tế, các điều kiện kinh tế vĩ mô đã có nhiều biến chuyển tích cực nhưng vẫn chưa thực sự thuận lợi cho hoạt động Ngân Hàng và chưa thực sự tạo được sự tin tưởng của nhân dân. NHNN có chức năng quản lí và điếu hành hệ thống NHTM, là Ngân Hàng của các Ngân Hàng. Nó định hướng cho các NHTM trong các hoạt động của Ngân Hàng và tác động rất lớn đến chiến lược huy động vốn của Ngân Hàng. Do đó NHNN cần xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền tệ hợp lí hơn nhằm khuyến khích người dân gửi tiền bằng các công cụ lãi suất, tỉ giá, thị trường mở và một số công cụ khác nhằm đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền. NHNN là nơi ban hành các văn bản chế độ, là cơ quan quản lí các NHTM, cần có các chính sách khen thưởng hoặc nới lỏng các ché độ quản lí đối với các NHTM, giúp các NHTM thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh của mình. NHNN cần có các chính sách, chế độ hợp lí đối với các NHTM. Thực sự trong giai đoạn hiện tại các NHTM cạnh tranh nhau rất khốc liệt. Đẻ có thể tồn tại và phát triển được các NHTM phải cố gắng không ngừng trong các chiến lược kinh doanh của mình. NHNN cũng nên đẩy mạnh một bước nghiệp vụ thị trường mở, một công cụ phổ biến để điều hành chính sách tiền tệ mà không cần trực tiếp tác động vào lãi suất, gây ra những biến động không có lợi cho tình hình đầu tư. Hiện nay lãi suất huy động và lãi suất cho vay của NHNN thay đổi liên tục khiến cho NHTM gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình. Cụ thể do lãi suất biến động thường xuyên, làm cho các NHTM nhiều khi gặp phải tình trạng huy động vốn với lãi suất cao nhưng cho vay lại với lãi suất thấp, do vừa huy động xong thì trần lãi suất cho vay của NHNN lại xuống. NHNN phải có chính sách tỉ giá ổn định, bởi trong điều kiện nền kinh tế mở hiện nay, các mối quan hệ đan xen lẫn nhau, nhất là quan hệ kinh tế tiền tệ, do đó chính sách tỉ giá giữ vai trò hết sức quan trọng. Vì vậy, NHNN cần có chủ trương ổn định tỉ giá tạo điều kiện cho Ngân Hàng tăng dự trữ tiền tệ để dủ sức tham gia điều tiết khi có tỉ giá biến động. Mặt khác, Nhà nước nên thiết lập chế độ tỉ giá thấp đối với nhà nhập khẩu, ưu tiên khuyến khích nhà xuất khẩu bằng tỉ giá cao. Các chính sách thu hút vốn từ dân phải được thể chế hóa và có tác dụng đi vào cuộc sống thực tiễn. Chính những người công tác Ngân Hàng phải đem chính sách này đến với người và làm cho người dân hiểu được chứ không phải người tự đi tìm tòi lấy. Vì vậy, chính sách về thu hút vốn phải được cụ thể và công bố rộng rãi. NHNN cần phổ biến các chính sách mới về Ngân Hàng có liên quan thiết thực đến người dân, giải thích cho dân được thông hiểu. Có thể thực hiện dưới dạng hỏi đáp để làm rõ thêm những vấn đề thắc mắc xoay quanh các chính sách cũng như việc thu hút tiền tiết kiệm. Cần xử lí những vụ việc có dính líu đến Ngân Hàng vì hiện nay lĩnh vực này là vấn đề rất nhạy cảm. Làm rõ trách nhiệm của những cá nhân lãnh đạo của Ngân Hàng làm sai để làm gương cho nghành Ngân Hàng mặt khác tạo sự tin tưởng cho người dân. NHNN cần tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM áp dụng khoa học công nghệ Ngân Hàng, có chính sách đào tạo nhân viên có năng lực, cử cán bộ có nghiệp vụ đi tham quan các Ngân Hàng bạn trong khu vực và trên thế giới để NHTM có thể tham gia vào tất cả các lĩnh vực kinh doanh Ngân Hàng mà các nước trên thế giới đang làm và đặc biệt là tham gia vào thị trường chứng khoán – một loại hình kinh doanh mới mà NHNN đang triển khai. NHNN cho phép và khuyến khích các NHTM được cải tiến công tác thanh toán, kĩ thuật và trình độ công nghệ theo định hướng chung của NHNN để có thể thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn và tiện lợi. Có như vậy thì mới thu hút được mọi nguồn vốn trong dân cư và các tổ chức kinh tế. Một vấn đề mà hiện nay các NHTM đang quan tâm là bổ sung vốn tự có cho Ngân Hàng. Theo thông lệ quốc tế, vốn chủ sở bao gồm: Vốn do ngân sách Nhà nước cấp, vốn vay trung, dài hạn (phát hành trái phiếu ). Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay vốn vay trung, dài hạn không được đưa vào vốn chủ sở hữu mà đưa vào vốn huy động trung, dài hạn. Điều này dẫn đến vốn chủ sở hữu/ tổng tài sản ngày càng nhỏ do tổng tài sản của Ngân Hàng liên tục tăng trong khi vốn chủ sở hữu không tăng hoạc tăng chậm hơn vốn huy động. Theo qui định hiện hành, tổng số vốn huy động không được vượt quá 5 lần số vốn tự có. Mặt khác, qui mô vốn tự có là yếu tố quan trọng trong đánh giá uy tín và sức cạnh tranh của một Ngân Hàng. Do đó, vấn đề hiện nay mà các Ngân Hàng đang rất quan tâm là được cấp bổ sung vốn điều lệ và cấp bổ sung dưới hình thức nào bằng tiền mặt hay trái phiếu chính phủ (trái quyền) Kiến nghị với Ngân Hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam NHĐT&PTVN là cơ quan quản lí trực tiếp SGD I NHĐT&PT, do đó để giúp SGD thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh của mình, SGD I NHĐT&PT cần có các kiến nghị: * Kiến nghị về các chính sách huy động vốn - Cần triển khai sớm công tác dự báo dài hạn, vĩ mô giúp các chi nhánh nắm được xu hướng phát triển của thị trường để có biện pháp, giải pháp nghiệp vụ phù hợp. NHĐT&PTVN cần xây dựng hoàn chỉnh các chức năng, cơ chế huy động vốn, điều hòa nguồn vốn mang tính tương đối ổn định nhằm thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển trên cơ sở đó xây dựng các chế độ nghiệp vụ phù hợp để hướng dẫn các chi nhánh chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh từng thời kì. Qua mỗi chiến dịch huy động cần tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm, phổ biến những kinh nghiệm hay, hạn chế những thiếu sót của toàn hệ thống. Có chế độ thưởng phạt hợp lí đối với bộ phận làm công tác huy động vốn trong các kì huy động. Phát động bằng cách đưa những tin tức, hình ảnh liên quan đến hoạt động thu gửi tiền tiết kiệm, sao cho người dân có được những thông tin về những địa phương đơn vị tham gia tích cực vào việc gửi tiết kiệm. * Kiến nghị về chính sách lãi suất, điều hành nguồn vốn - Xây dựng trên cơ sở thực hiện đầy đủ các qui định của NHNN (tỉ lệ dự trữ bắt buộc, kí quĩ bảo lãnh, đảm bảo khả năng thanh toán ) theo nguyên tắc đánh giá đúng mức đóng góp của từng chi nhánh. - Ban hành cơ chế tổ chức hoạt động, cơ chế điều hành nguồn vốn, cơ chế lãi suất phù hợp với qui mô và đặc điểm của SGD, được xây dựng theo hướng tạo khuôn khổ pháp lí, nâng cao quyền tự chủ, linh hoạt, phân rõ trách nhiệm trong hoạt động nhằm phát huy tối đa vai trò và vị thế của chi nhánh đầu tàu trong hệ thống. Các văn bản phải được đưa ra kịp thời cụ thể và tránh chồng chéo giữa các văn bản với nhau. - Cho phép các chi nhánh được quyền chủ động xác định lãi suất đầu vào đầu ra trong khung lãi suất phù hợp với đặc điểm của từng địa bàn. * Các kiến nghị khác - Đối với các dự án của tổng công ti lớn, đề nghị NHĐT&PTVN cân đối, hỗ trợ nguồn vốn với lãi suất hợp lí đảm bảo khả năng cạnh tranh của SGD. - Sớm ban hành văn bản chiết khấu các chứng từ có giá. - Hoàn thiện công tác hoạt động của thông tin tín dụng (CIC) và có biện pháp tăng cường chất lượng thông tin - Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của SGD theo hướng tăng thêm số phòng tín dụng, phòng giao dịch và mạng lưới huy động vốn. Củng cố tăng cường đối với một số phòng: Quản lí khách hàng, tổ chức hành chính - Trang bị công nghệ hiện đại và các phần mềm ứng dụng tiên tiến, trang bị cổng SWIFT phục vụ công tác thanh toán quốc tế nhằm tăng nhanh sức cạnh tranh của SGD, góp phần nâng cao thế mạnh của hệ thống trên địa bàn thủ đô. - Có chính sách đào tạo nhằm nâng cao trình độ, kĩ năng hoạt động trong cơ chế thị trường đối với các cán bộ nhất là các cán bộ trực tiếp giao dịch. - Tăng cường năng lực công nghệ cả về trang thiết bị và các chương trình tiện ích, các chương trình phần mềm ứng dụng, nhất là các chương trình cung cấp thông tin phục vụ công tác quản trị điều hành đối với những chi nhánh lớn, trên những địa bàn mà sức ép cạnh tranh lớn. - Hỗ trợ SGD trong công tác đào tạo cán bộ (ngắn hạn, dài hạn, trong nước ngoài nước) nhằm nâng cao trình độ, kĩ năng hoạt động trong cơ chế thị trường, đặc biệt là các kiến thức về cong tác quản trị điều hành, quản lí kinh doanh và Marketing Ngân Hàng Có kế hoạch tăng cường hơn nưa giúp SGD đào tạo về nghiệp vụ chuyên môn: Ngoại ngữ, tin học, thanh toán quốc tế, thẩm định tín dụng, mua bán ngoại tệ nâng cao chất lượng làm việc của cán bộ Ngân Hàng. Kết luận Vốn là một nhân tố quan trọng trong ba nhân tố quyết định đến sự tăng trưởng về kinh tế gồm: Lao động, vốn, công nghệ. Đối với nước ta lao động dồii dào nhưng vốn khan hiếm, công nghệ lạc hậu. Tất nhiên muốn đổi mới công nghệ thì cần phải có vốn. Và Ngân Hàng sẽ là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho nhu cầu vốn này của nền kinh tế. Ngân Hàng là một doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt đó là “tiền tệ”. Thực chất, các Ngân Hàng kinh doanh “quyền sử dụng vốn tiền tệ”, và Ngân Hàng kinh doanh chủ yếu bằng vốn huy động. Vì vậy, đối với các Ngân Hàng thương mại huy động vốn sẽ đang và sẽ là một trong những hoạt động truyền thống quan trọng, có tính chất quyết định đến mọi hoạt động khác của Ngân Hàng. Một chiến lược quản lí và huy động vốn hoàn hảo phải được đặt trong hoạt động thực tiễn tại SGD. Trước những thực trạng đã trình bày, giải pháp chiến lược tiên quyết đặt ra trong thời gian tới là “gia tăng nguồn vốn đáp ứng nhu cầu sử dụng nguồn của các công trình quốc gia, các dự án lớn ... Về dài hạn, đơn vị nên hướng tới mlột chiến lược quản lí nguồn vốn chủ động phát triển nguồn vốn bền vững ổn định lâu dài ... Bằng cách vận dụng lí thuyết quản lí khe hở thanh khoản, sử dụng các thiết bị đã được mô hình và lượng hóa trong công tác hoạch định của mình. Hoàn thành khóa luận này, em mong muốn phần nào đó có thể áp dụng cho thực tiễn hoạt động huy động vốn của Ngân Hàng, đóng góp một phần nhỏ kiến thức của mình vào việc nâng cao hơn nữa hiệu quả huy động vốn của SGD I NHĐT&PTVN. Tuy nhiên để đạt được những kết quả như mong muốn, SGD phải có các biện pháp kết hợp đồng bộ giữa sự cố gắng của bản thân với sự hỗ trợ của Nhà nước, NHNN, NHĐT&PTVN và các ngành các cấp có liên quan ... trong việc thực hiện tốt các chiến lược huy động và phát triển nguồn vốn của mình Do những hạn chế của bản thân về tư duy phương pháp luận, về kiến thức cũng như đề tài nên không tránh khỏi những thiếu sót, bố cục của đề tài có thể còn chưa ăn khớp với nhau, một số đánh giá của bản trhân còn mang nặng tính chủ quan, duy ý chí . Trong đè tài này, em đã không tập trung nhấn mạnh vào đặc điểm riêng có của Ngân Hàng đầu tư & phát triển mà coi SGD I như một Ngân Hàng hoạt động đa năng trên tất cả các lĩnh vực nên có thể nhiều phân tích còn chưa đúng trọng tâm còn nhiều thiếu sót. Với ý thức cầu tiến, em mong mỏi nhận được sự nhận xét, đánh giá thẳng thắn của thầy cô và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn. Danh Mục TàI Liêu Tham Khảo 1- TS. Phan thị Thu Hà, giáo trình Ngân hàng thương Mại Quản trị và nghiệp Vụ 2- TS.Vũ Duy Hào, Quản trị Tài chính doanh nghiệp,NXB -Giáo dục 2002 3- PGS - TS. Lưu Thị Hương, Giáo trìnhTài Chính Doanh nghiệp, NXB -Giáo dục 2002. 4- TS.Nguyễn Thị Thu Hà, Giáo Trình Marketing Ngân hàng NXB-Thống kê. 5- Luật Các tổ chức tín dụng, các văn bản hướng dẫn của BIDV 6- Báo Cáo thường niên 2001- 2003 của BIDV 7- Báo Cáo tổng kết hoạt động năm 2002 8- Định hưóng phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn 2001-2005 của Việt Nam, Bộ kế hoạch và đầu tư. 4/2004 9- Tạp chí Ngân hàng số năm 1998, 1999, 2000, 2001, 2002 10- Thời báo kinh tế 2001, 2002, 2003 mục lục Lời mở đầu 1 Chương 1. Lý luận chung về vốn và chiến lược huy động vốn của ngân hàng 3 1. Khái niệm về vốn và vai trò của nó đối vời nền kinh tế 3 1.1. Khái niệm về vốn 3 1.2. Vai trò của vốn đối với nền kinh tế 4 2. Chiến lược quản lý, huy đọng vốn và vai trò của nó đối với hoạt động ngân hàng 5 2.1. Nhận định chung về chiến lược 5 2.2. Các giai đoạn của kế hoạch hoá chiến lược trong Ngân hàng thương mại 8 2.3. Table of Contents

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH079.doc
Tài liệu liên quan