Luận văn Chiến lược phát triển vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu Dệt May Việt Nam trong giai đoạn 2002 – 2020

Nhu cầu của khách hàng là hạt nhân cốt lõi của chiến lược đa dạng hoá sản phẩm. Khâu quản trị khách hàng sẽ được đặt lên hàng đầu. Có hai giải pháp để xây dựng một hệ thống thu thập thông tin đầy đủ từ khách hàng và cũng là xây dựng lòng trung thành của khách hàng vào thương hiệu của doanh nghiệp, đó là: 1) Đẩy mạnh hoạt động đo lường và quản trị khách hàng. Đ Thu thập thường xuyên các thông tin về khách hàng. Đ Truyền bá thông tin trong toàn bộ tổ chức đặc biệt cho trung thiết kế mẫu thời trang của doanh nghiêp. Đ Sử dụng thông tin này để duy trì, cải tiến, phát minh trong các sản phẩm và quy trình sản xuất. Mục đích của giải pháp này là xác định từng yếu tố trong sản phẩm và dịch vụ cung ứng đem lại giá trị cho khách hàng, và giá trị đó được khách hàng đo lường như thế nào. Thông qua đó, doanh nghiệp sẽ xác định được nhu cầu của khách hàng không chỉ của hôm nay mà còn dự báo cả nhu cầu của tương lai. Điểm lưu ý là, thông tin thu thập được dứt khoát phải được phân tích, truyền bá rộng rãi trong tổ chức và được sử dụng cho việc cải thiện giá trị doanh nghiệp mang lại cho khách hàng. Đ Xây dựng “ thấu kính của khách hàng”. Mục đích của việc xây dựng thấu kính của khách hàng là nhằm đảm bảo bản thân nhà sản xuất cũng nhìn nhận sản phẩm dịch vụ của mình đúng như khách hàng nhìn nhận nó. Nhờ vậy, doanh nghiệp sẽ có sự thống nhất trong ngôn ngữ giao tiếp giữa hai bên, có sự đánh giá chính xác về giá trị sản phẩm mà mình mang lại cho khách hàng. Đây là mục tiêu cao nhất mà doanh nghiệp đạt được và tạo bước thành công lớn cho chiến lược đa dạng hoá sản phẩm của mình.

doc98 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1834 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chiến lược phát triển vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu Dệt May Việt Nam trong giai đoạn 2002 – 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt, sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất). Kinh tế Nhà nước làm nòng cốt, giữ vai trò chủ đạo, khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư trực tiếp của nước ngoài tham gia phát triển lĩnh vực này. Đầu tư phát triển phải gắn liền với bảo vệ môi trường, quy hoạch xây dựng các cụm công nghiệp sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất ở các trung tâm đô thị lớn. Tập trung đầu tư trang thiết bị hiện đại, công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến, trình độ chuyên môn hoá cao. Chú trọng công tác thiết kế các sản phẩm dệt mới, nhằm từng bước củng cố vững chắc uy tín nhãn mác hàng dệt Việt nam trên thị trường quốc tế. Tổ chức lại hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo bước nhảy vọt về chất lượng, tăng nhanh sản lượng các sản phẩm dệt, nhằm đáp ứng các nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Đối với ngành may. Nhà nước chủ trương đẩy mạnh cổ phần hoá những doanh nghiệp may mà Nhà Nước không cần nắm giữ 100% vốn. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển ngành may, nhất là các vùng đông dân cư, nhiều lao động. Ngành may phải đẩy mạnh công tác thiết kế mẫu thời trang, kiểu dáng sản phẩm may. Tập trung đầu tư, cải thiện hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất lượng, các biện pháp tiết kiệm nhằm tăng nhanh năng suất lao động, giảm giá thành sản xuất và nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm may Việt Nam trên thị trường quốc tế. Ngành may cần đẩy mạnh đầu tư phát triển các vùng trồng bông, dâu tằm, các loại cây có xơ, tơ nhân tạo, các loại nguyên liệu, phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm cung cấp cho ngành dệt may nhằm tiến tới tự túc phần lớn nguyên liệu, vật liệu và phụ liệu thay thế nhập khẩu. Các chỉ tiêu phải đạt được: [Bảng 9,1] Các chỉ tiêu cụ thể về sản xuất từ nay đến năm 2010: Đến năm 2005, sản phẩm chủ yếu đạt được: Bông xơ 30.000 tấn, xơ sợi tổng hợp 60.000 tấn, sợi các loại 150.000 tấn, vải lụa thành phẩm 800 triệu mét vuông, dệt kim 300 triệu sản phẩm, may mặc 780 triệu sản phẩm. Đến năm 2010, sản phẩm chủ yếu đạt được: Bông xơ 80.000 tấn, xơ sợi tổng hợp 120.000 tấn, sợi các loại 300.000 tấn, vải lụa thành phẩm 1.400 triệu mét vuông, dệt kim 500 triệu sản phẩm, may mặc 1.500 triệu sản phẩm quy chuẩn. Phát triển mạnh cây bông so với hiện nay: Để được hưởng các ưu đãi trong thương mại quốc tế, chiến lược phát triển cây bông đến năm 2010 tăng gấp 7 lần về diện tích, năng suất tăng hơn 60% và sản lượng bông tăng hơn 13 lần, đáp ứng khoảng 70% nhu cầu nguyên liệu cho ngành dệt, tăng tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm xuất khẩu từ 25% lên 75% ( bông thiên nhiên, sơ nhân tạo, vải và phụ liệu ). Dự kiến vốn đầu tư cho khâu này vào khoảng 1.505 tỷ đồng, trong đó, hơn 600 tỷ đồng sẽ được dành cho nghiên cứu khoa học kỹ thuật, khuyến nông và xây dựng cơ sở hạ tầng; khoảng 900 tỷ đồng đầu tư cho công nghệ chế biến, sản xuất. Với quy mô sản xuất như trên, toàn ngành dự kiến đến năm 2010; kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 8.000 đến 9.000 triệu USD; tạo việc làm cho 4 đến 4,5 triệu lao động trong cả nước; tỷ lệ sử dụng giá trị nguyên phụ liệu nội địa trên sản phẩm dệt may xuất khẩu đạt trên 75%.[Bảng 9,1] bảng 9: Các chỉ tiêu chủ yếu đạt được đến năm 2010 TT Mục tiêu ĐVT 2005 2010 1 Bông xơ Tấn 30.000 80.000 2 Xơ sợi tổng hợp Tấn 60.000 120.000 3 Sợi các loại Tấn 150.000 300.000 4 Vải lụa thành phẩm Triệu mét vuông 800 1.400 5 Dệt Triệu sản phẩm 300 500 6 May mặc Triệu sản phẩm 780 1.500 7 Kim ngạch xuất khẩu Triệu USD 4.000 – 5.000 8.000 – 9.000 8 Sử dụng lao động Triệu người 2.5 – 3.0 4.0 – 4.5 9 Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nội địa trên sản phẩm dệt may xuất khẩu. % >50 >75 10 Vốn đầu tư phát triển Tỷ VND 35.000 30.000 Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam VINATEX. II. đề xuất “Chiến lược phát triển cụ thể vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 2002 – 2020.” Việc xây dựng chiến lược phát triển vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam phải đi sát chiến lược tổng thể phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 theo QĐ 55/2001/TTg của Thủ tướng Chính phủ, và đi sát diễn biến thị trường từ nay cho đến năm 2020. Dựa vào mục tiêu cụ thể đề ra cho vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam, đề tài xin đưa ra một số chiến lược chính căn cứ vào 3 chiến lược cơ bản của Michael E. Porter như đã được giới thiệu ở Chương I. Chiến lược chi phí thấp nhất. Như chúng ta biết, giá cả sản phẩm của chúng ta cao hơn so với các sản phẩm của các nhà xuất khẩu cạnh tranh như Trung Quốc, Indonesia..từ 20 đến 35%( những nguyên nhân làm giá thành sản phẩm cao đã được đề cập ở Chương II) làm cho hàng hoá dệt may của Việt Nam cạnh tranh rất khó khăn. Do đó, muốn có vị thế cạnh tranh trên trường quốc tế, trước hết chúng ta phải đạt được mục tiêu cạnh tranh về giá. Chúng ta cố gắng thực hiện mọi chiến lược để giá cả của chúng ta cạnh tranh ngang hàng với các sản phẩm cạnh tranh khác, nghĩa là họ đặt giá bao nhiêu chúng ta cũng có quyền đặt giá như vậy, nếu có chênh lệch thì không chênh lệch quá lớn như tình trạng đang diễn ra hiện nay. Giá cả cạnh tranh là một nền tảng vững chắc cho chúng ta đi những bước phát triển tiếp theo. Chính vì vậy, chiến lược theo đuổi chi phí thấp là chiến lược hàng đầu hiện nay mà cả Chính phủ và doanh nghiệp phải cùng phối hợp thực hiện. Chiến lược này phải hoàn thành vào năm 2005, tạo bước đột phá cho vị thế cạnh tranh các sản phẩm dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam từ vị thế yếu kém lên vị thế trung bình khá. . Cấp Chính phủ. Chính phủ phải tạo mọi điều kiện thuận lợi về môi trường vĩ mô để doanh nghiệp có thể giảm tối đa chi phí đầu vào để sản xuất hàng dệt may xuất khẩu. Cụ thể, Chính phủ cần thực hiện các chiến lược sau: Chiến lược giảm thiểu chi phí hành chính cho các doanh nghiệp dệt may khi xuất khẩu ra nước ngoài. Có chế độ hỗ trợ cho doanh nghiệp trong việc xúc tiến thị trường mới. Chính phủ cần tổ chức trưng bày sản phẩm xuất khẩu miễn phí cho các doanh nghiệp tại các thị trường lớn. Hỗ trợ về mặt tài chính để doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Trong thời gian chưa có quy chế NTR, hàng dệt may Việt Nam còn phải chịu thuế suất nhập khẩu vào Mỹ cao, nên Chính phủ cần trợ giá 15% trên số ngoại tệ thực thu để DN đẩy nhanh việc chiếm lĩnh thị trường. Cần ưu tiên cấp hạn ngạch cho các đơn hàng xuất mua nguyên liệu, bán thành phẩm ( thường gọi bán FOB) với nguyên liệu sản xuất tại Việt Nam. Tăng cường các biện pháp thâm nhập thị trường cho hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Việc thâm nhập thị trường nước ngoài cho hàng dệt may Việt Nam là kết quả tổng hợp của nhiều biện pháp chính trị, ngoại giao, kinh tế, kỹ thuật và điều này đòi hỏi sự nỗ lực của Chính phủ rất lớn, trong đó Chính phủ cần tập trung thực hiện các biện pháp sau: Tổ chức tốt việc nghiên cứu khảo sát thị trường nước ngoài. Nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan có trách nhiệm của Bộ Thương mại ( các Vụ Chính sách thị trường ngoài nước, các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, Viện nghiên cứu Thương mại, Trung tâm thông tin thương mại) trong công tác nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin và kết quả nghiên cứu cho DN. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài khảo sát, tìm kiếm thị trường và bạn hàng xuất khẩu. Hỗ trợ các DN xây dựng ở nước ngoài mạng lưới đại lý, phân phối hàng, kho ngoại quan, trung tâm trưng bầy sản phẩm, áp dụng các phương thức mua bán linh hoạt như gửi bán, thanh toán chậm đối với hàng phù hợp với từng thị trường, cử đại diện tại thị trường nước ngoài hoặc lập công ty pháp nhân nước sở tại để chuyên nhập khẩu hàng Việt Nam, khuyến khích và hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nhập hàng Việt Nam. Nhà nước hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho các DN đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại , xây dựng trung tâm thương mại, tiến hành quảng cáo, tham gia triển lãm, hội chợ ở nước ngoài. Hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại. Chính phủ sớm hoàn thành đề án về chủ trương và giải pháp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài, kể cả việc tháp tùng các đoàn cấp cao của Đảng, Nhà nước, để thâm nhập thị trường, tiếp cận cơ hội xuất khẩu, phát triển kinh doanh. Phối hợp và hỗ trợ các ngành, địa phương và DN xây dựng và thực hiện chiến lược marketing cho từng ngàng hàng , mặt hàng quan trọng và tham gia các hội chợ , triển lãm và các hoạt động xúc tiến thương mại khác ở nước ngoài. Có cơ chế tiếp xúc và tham vấn định kỳ giữa Bộ Thương mại và các DN, các hiệp hội ngành hàng về các vấn đề liên quan đến việc xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Mở rộng các quan hệ hợp tác đa phương và song phương với nước ngoài trong công tác xúc tiến thương mại. Tổ chức tốt việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin thương mại cho các DN. Tổ chức cung cấp định kỳ hàng năm, hàng quý các ấn phẩm về thị trường hàng hoá thế giới cho các doanh nghiệp. Xây dựng các kênh thông tin thương mại thông suốt từ các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Thương mại đến các Sở Thương mại và các DN. Ngoài việc cung cấp thông tin theo phương thức hỗ trợ của Nhà Nước cho các doanh nghiệp, cần thực hiện thương mại hoá thông tin và áp dụng các phương thức linh hoạt khác nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể, kịp thời cho các doanh nghiệp. Về các thủ tục hành chính và hải quan: Để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hoạt động XK, Chính phủ cần áp dụng các đề nghị sau: Bỏ việc kiểm tra xuất xứ hàng hoá nếu Việt Nam không có nghĩa vụ thực hiện theo các thoả thuận song phương, đa phương mà Việt Nam ký kết. Bỏ yêu cầu về chứng minh nguồn gốc hàng hoá xuất khẩu, hoặc nguồn gốc nguyên liệu sản xuất ra hàng xuất khẩu nếu không liên quan đến việc hoàn thuế. Đơn giản hóa, công khai hoá, hiện đại hoá thủ tục hải quan. Tiếp tục áp dụng những biện pháp mới mà Hải quan đang thực hiện như là phân luồng hàng hoá, quy định xác nhận thực xuất, quy chế khai báo một lần, đăng ký tờ khai trên máy vi tính, phân cấp rộng hơn quyền ký tờ khai hải quan để tạo thuận lợi cho DN. Hỗ trợ giávề điện, nước, hệ thống bưu chính viễn thông. Tạo khung pháp lý thuận lợi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường nước ngoài. Ký mới và rà soát để đàm phán ký lại Hiệp định Thương mại với các nước theo yêu cầu mới và tổ chức tốt việc thực hiện các hiệp định đó. Sửa đổi, bổ sung, ký kết các hiệp định với nước ngoài có liên quan đến các hoạt động thương mại như Hiệp định vận tải, Hiệp định thanh toán, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Thống nhất các tiêu chuẩn kỹ thuật tiến tới công nhận lẫn nhau về kết quả kiểm tra chất lượng hàng hoá, nới lỏng các hàng rào phi thuế cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. Tranh thủ cam kết “G to G” ( Chính phủ với Chính phủ) với các nước mà ở đó sự can thiệp của Chính phủ có vai trò quyết định với việc nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Tổ chức tốt việc phổ biến, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện các hợp đồng thương mại và các cam kết khác về thương mại giữa Việt Nam và nước ngoài. Chiến lược đầu tư nghiên cứu công nghệ hiện đại cho ngành dệt may. Nhu cầu nghiên cứu công nghệ của ngành dệt may là rất lớn. Nếu từng doanh nghiệp tự bỏ vốn ra để đầu tư cho việc nghiên cứu thì sẽ dẫn đến một sự lãng phí lớn mà lại không có hiệu quả cao, trong khi doanh nghiệp đang cần rất nhiều vốn để đầu tư vào các lĩnh vực khác với mục đích thực hiện chiến lược tăng tốc theo QĐ 55 của Chính phủ. Do vậy, Chính phủ cần phải đứng ra thay các doanh nghiệp đầu tư vốn thực hiện ngay chiến lược cấp vĩ mô đầu tư nghiên cứu công nghệ hiện đại cho ngành dệt may. Chiến lược cấp vĩ mô này cần phải được đầu tư nghiên cứu đồng bộ vào bốn lĩnh vực chủ chốt nhất, bao gồm: Chiến lược nghiên cứu nhằm chuyển giao công nghệ nào đó mà Ngành Dệt – May nước ta chưa có. Những công nghệ đó là:[22] Công nghệ sản xuất tơ filamang, xơ nhân tạo, xơ sợi mảnh và siêu mảnh. Công nghệ sản xuất vải không dệt. Công nghệ xử lý biến tinh xơ sợi. Công nghệ sản xuất vải có công dụng mới “ thông minh”. Công nghệ xử lý chất lượng cao các loại phế liệu may như kéo sợi tằm từ phế liệu ươm tơ. Công nghệ quản lý, thiết kế tự động hoá. Các giải pháp công nghệ tiết kiệm nguyên liệu, nước và năng lượng. Công nghệ sản xuất các hoá chất, thuốc nhuộm, chất trợ cho Ngành Dệt May. Những công nghệ trên là những công nghệ có vai trò quyết định đối với sự phát triển ngành Dệt – May nước ta thế kỷ 21, đặc biệt nguyên liệu dệt , thuốc nhuộm, vải không dệt...Việc nghiên cứu trên do chính phủ thực hiện sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được rất nhiều do không phải đầu tư nhập toàn bộ công nghệ nữa, và điều này đã giúp doanh nghiệp thực hiện một phần chiến lược chi phí thấp nhất của mình. Chiến lược nghiên cứu nhằm đồng hoá công nghệ nhập.[3] Đồng hoá ở đây có nghĩa là làm chủ được công nghệ nhập và tạo ra được công nghệ nội sinh trên cơ sở công nghệ nhập đó. Với ý nghĩa ấy, các nhà nghiên cứu cần nghiên cứu ngay những nội dung sau: Nghiên cứu tự sản xuất lấy phụ tùng dệt – may nhất là những phụ tùng mau hỏng. Hàng năm các doanh nghiệp dệt – may của ta tốn hàng triệu USD để nhập hàng nghìn tấn phụ tùng các loại khác nhau. Do đó, sẽ rất là lãng phí nếu các doanh nghiệp phải tiếp tục nhập trong khi các nhà công nghệ của chúng ta có thể nghiên cứu thiết kế chế tạo được. Nghiên cứu tự sản xuất lấy thiết bị dệt – may để mở rộng sản xuất. Nghiên cứu để phát huy hết tính năng của các thiết bị nhập. Đó là các đề tài về nâng cao năng suất, nâng cao khả năng tạo mặt hàng của các thiết bị nhập đúng với các thông số giới thiệu trong catalog mà điều kiện sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam chưa đạt được. Để tạo được công nghệ nội sinh, một công nghệ có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao sức cạnh tranh của ngành dệt – may nước ta, thì bắt buộc phải nghiên cứu nhiệt đới hoá, tức là nghiên cứu điều kiện sử dụng các thiết bị nhập phù hợp với hoàn cảnh nước ta về khí hậu nóng ẩm, và cả sức vóc con người Việt Nam.... Chiến lược nghiên cứu để nâng cao năng lực công nghệ nội sinh. Công nghệ nội sinh Ngành Dệt – May nước ta gồm công nghệ dệt – may cổ truyền độc đáo như: Ươm tơ - dệt lụa; dệt thổ cẩm; dệt khăn mặt; dệt màn đố; dệt tua, các băng, dải như dây nón quai thao....; nhuộm bằng các chất mầu từ vỏ lá, cây, củ...; may các loại quần áo, đồ dùng bằng vải của 54 dân tộc trên đất nước ta.[1] Đặc điểm của công nghệ này là phương tiện, thiết bị sản xuất rất đơn giản hoàn toàn do người sản xuất tự làm lấy, vốn đầu tư thấp, rất phù hợp với điều kiện sản xuất phân tán ở các gia đình. ở đây, kinh nghiệm và bàn tay khéo léo của người thợ đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra các sản phẩm phức tạp khác nhau nhất là hàng dệt may thổ cẩm. Hơn nữa, công nghệ đơn giản làm cho năng suất của người thợ rất thấp, có khi phải mất hàng năm trời mới dệt xong một tấm vải thổ cẩm khổ lớn với nhiều hoa văn phức tạp. Do đó, số lượng sản phẩm do công nghệ nội sinh nước ta tạo ra hiện nay rất nhỏ bé, không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trường chứ chưa nói đến nhu cầu của các nhà sản xuất. Nhu cầu thiết yếu hiện nay là chính phủ cần đầu tư ngay cho công việc nghiên cứu cơ giới hoá phương tiện, thiết bị sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, cải thiện điều kiện việc làm cho người lao động. Chiến lược nghiên cứu soạn thảo các tài liệu cần thiết cho sản xuất kinh doanh.[13] Soạn thảo sổ tay kỹ thuật. Soạn thảo các tiêu chuẩn kỹ thuật, nhất là các tiêu chuẩn Ngành và tiêu chuẩn Nhà Nước. Soạn thảo từ điển đối chiếu: Pháp Việt dệt – may, Đức Việt dệt – may, Trung Việt dệt – may. Soạn thảo từ điển thuật ngữ dệt may. Trên đây là tổng thể nội dung của chiến lược đầu tư nghiên cứu công nghệ hiện đại cho ngành dệt may. Chính phủ cần giải ngân vốn đầu tư cho Viện nghiên cứu khoa học công nghệ, và thành lập ngay một ban công nghệ của riêng ngành dệt may, trong đó tập trung lực lượng các nhà nghiên cứu giỏi tham gia. Những sản phẩm được nghiên cứu này sẽ được bán cho doanh nghiệp. Đối với những công nghệ hiện đại, nếu doanh nghiệp không đủ vốn Chính phủ sẽ xem xét hỗ trợ một phần vốn cho doanh nghiệp đó, miễn là doanh nghiệp đó sử dụng có hiệu quả. Đây cũng hoàn toàn phù hợp với mong muốn của chính phủ khi Thủ tướng Phan Văn Khải đã khẳng định tại hội nghị Hội đồng Trung ương liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam lần thứ 6: “ Chính phủ quyết tâm hết sức mình để tạo ra thị trường công nghệ. Trên thị trường ấy, mọi sản phẩm nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới cũng như dịch vụ tư vấn khoa học và kỹ thuật đều phải được coi là hàng hoá đặc biệt cần phải được trả giá tương xứng với hiệu quả kinh tế mà nó mang lại và phải được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.” Chiến lược phát triển cây bông trở thành hàng hoá công nghiệp.[1] Hiện ngành sản xuất bông xơ Việt Nam chỉ đáp ứng được khoảng 10% tổng nhu cầu trong nước. Trong mục tiêu phát triển của ngành dệt may Việt Nam phấn đấu tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm dệt, may lên 50% năm 2005 và 75 % năm 2010 thì bông xơ chiếm tỷ trọng lớn. Định hướng này hoàn toàn phù hợp với chiến lược giảm chi phí sản xuất của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trong những năm tới. Việc trồng bông và sơ chế bông thành nguyên liệu cung cấp cho ngành dệt đòi hỏi phải được tập trung đầu tư ở cấp vĩ mô. Do đó, chính phủ phải đầu tư cho chiến lược phát triển cây bông trở thành hàng hoá công nghiệp. Đề tài xin kiến nghị Chính phủ thực hiện chiến lược phát triển cây bông theo hướng sau: Tổ chức thực hiện. Khâu tổ chức rất quan trọng, nó đảm bảo tiến độ thực hiện mục tiêu trong chiến lược. Hơn nữa, tính chất của cây bông là cung cấp cho sản xuất công nghiệp, nên việc tổ chức phát triển cây bông cần theo một hệ thống tổ chức chặt chẽ. Công ty Bông Việt Nam sẽ làm lực lượng nòng cốt nhằm giải quyết các dịch vụ đầu vào, đầu ra cho nông dân như nghiên cứu khoa học, cung ứng giống, khuyến nông, thu mua và chế biến bông hạt.... Tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật trong trồng bông. Chính phủ tập trung vốn đầu tư cho nghiên cứu khoa học nhằm giải quyết khâu giống bông. Chính phủ huy động và tạo điều kiện cho lực lượng cán bộ chuyên gia khoa học kỹ thuật của các cơ quan nghiên cứu, các trường đại học thực hiện việc nghiên cứu đưa khoa học kỹ thuật tiên tiến vào khâu gieo trồng, chăm bón và thu hoạch. Chính phủ đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị và nhân lực cho Trung tâm nghiên cứu bông Nha Hố để trung tâm có thể hợp tác với các cơ quan nghiên cứu trong và ngoài nước nhằm thực hiện công tác nghiên cứu phục vụ cho chiến lược phát triển cây trở thành cây công nghiệp trong thời gian tới. Đầu tư trực tiếp cho nông dân mở rộng diện tích trồng bông và thực hiện thâm canh theo đúng quy trình kỹ thuật. Yêu cầu của quy trình này là phải duy trì trồng bông, xen canh gối vụ ở những nơi quỹ đất không lớn hoặc không thể phát triển bông tập trung. Thực tế cho thấy năng suất bông ở những nơi được đầu tư thâm canh theo đúng quy trình kỹ thuật thường đạt từ 1,5 đến 3 tấn bông hạt/ha, thậm chí có nơi đạt 4 tấn bông hạt/ha; đảm bảo chất lượng bông xơ tương đương với bông nhập khẩu của nước ngoài, đảm bảo sản phẩm sợi và hàng dệt may đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Ngoài ra, biện pháp này cũng góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng có thị trường tiêu thụ ổn định. Đặc biệt, chính phủ phải quan tâm đầu tư, xây dựng những vùng chuyên canh lớn phân tán nằm ở duyên hải Nam Trung Bộ như Bình Thuận, Ninh Thuận...; những nơi đã có quy hoạch đất đai, thuỷ lợi và nông dân ở đó đã có kinh nghiệm trồng bông; để áp dụng các khoa học kỹ thuật vào khâu gieo trồng, chăm bón và thu hoạch. Đẩy mạnh công tác khuyến nông nhằm chuyển giao kỹ thuật, gắn trách nhiệm giữa cán bộ khuyến nông với kết quả sản xuất. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, chính phủ đẩy mạnh công tác phổ biến, hướng dẫn kỹ thuật canh tác cây bông từ khâu chọn giống, thời vụ, chăm bón, phòng trừ sâu bệnh, thu hoạch, chế biến, tiêu thụ đến các chính sách hỗ trợ của Nhà Nước với người trồng bông. Thành lập Quỹ hỗ trợ sản xuất bông. Bông là mặt hàng khá nhạy cảm với biến động giá cả trên thế giới. Để đảm bảo tính ổn định năng suất của cây bông, chính phủ cần thành lập ngay Quỹ hỗ trợ sản xuất bông, quỹ bảo hiểm tín dụng để hỗ trợ cho nông dân, quỹ bảo hiểm ngành hàng đối với một số hàng nông sản xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Nguồn quỹ này được trích từ sản xuất bông và kéo sợi, Nhà nước hỗ trợ một khoản ban đầu và cho cơ chế thực hiện. Hiệp hội sản xuất bông sẽ quản lý việc thu chi của Quỹ này. Chính phủ nên giải quyết vốn cho các doanh nghiệp sản xuất bông, có cơ chế chính sách thích hợp khi các doanh nghiệp này đầu tư cho nông dân trồng bông, hỗ trợ các địa phương và nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, ưu tiên cho các công trình giao thông, thuỷ lợi phục vụ cho chương trình phát triển trồng bông. Tăng cường nâng cao chất lượng cho cây bông. Bông có chất lượng tốt chính là điều kiện đảm bảo chất lượng sản phẩm may. Do đó, chính phủ cần áp dụng đồng bộ các biện pháp khoa học kỹ thuật nhằm cải thiện chất lượng bông xơ, phát triển bông trở thành cây bông hàng hoá. Do yêu cầu cao của sản phẩm dệt may khi đưa ra thị trường thế giới, nên Nhà Nước cần đưa ra các tiêu chuẩn về bông hạt, bông xơ Việt Nam. Như vậy, các nhà quản lý có thể kiểm soát được chất lượng các cơ sở cán bông hạt, đảm bảo chất lượng đầu vào cho các doanh nghiệp sản xuất dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra, việc hiện đại hoá các thiết bị cán bông để tăng tỷ lệ thu hồi xơ; và nghiên cứu chế biến dầu hạt bông để tăng giá trị thu hồi đều góp phần giảm giá thành bông xơ. Do đó, đây là công việc cấp thiết yêu cầu phải được thực hiện ngay. Thị trường tiêu thụ bông xơ. Thị trường tiêu thụ bông xơ có ý nghĩa quan trọng đối với những người trồng bông. Nếu Nhà Nước không đảm bảo được thị trường tiêu thụ cho nông dân thì họ khó có thể trung thành với nghề trồng bông. Chính vì lẽ đó, Nhà nước phải có những biện pháp giao cho Tổng công ty Dệt May Việt Nam – với tư cách là một doanh nghiệp lớn của ngành dệt may tiêu thụ hết số bông hàng hoá theo thời giá bông xơ cùng loại trên thị trường thế giới từng thời kỳ. Biện pháp này sẽ đảm bảo cân đối nguyên liệu giữa nhập khẩu và sản xuất trong nước, loại bỏ khâu trung gian không cần thiết và tạo điều kiện cho người trồng bông trực tiếp quan hệ với người tiêu thụ bông xơ - các doanh nghiệp kéo sợi. Trong những trường hợp cần thiết như là giá bông giảm mạnh trên thị trường thế giới thì Nhà Nước cần kịp thời trợ giá ngay cho nông dân, tránh để cho nông dân bị lỗ, dẫn đến tâm lý giao động không muốn tiếp tục trồng bông trong vụ sau. Tâm lý trồng bông của người dân có ổn định thì ngành dệt may mới có thể đảm bảo thực hiện chiến lược do Chính phủ đề ra. Chiến lược phát triển và tái cơ cấu ngành dệt.[1] Việc nhập khẩu các sản phẩm dệt chiếm 80% trong tổng nhu cầu của các doanh nghiệp đã đội chi phí sản xuất lên rất nhiều, và đây cũng là một trong các nguy cơ làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm may mặc Việt Nam. Do đó, ưu tiên trong chiến lược phát triển vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là Chính phủ đầu tư Chiến lược phát triển và tái cơ cấu ngành dệt. Theo tinh thần của chiến lược tăng tốc ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010, mục tiêu của chiến lược phát triển ngành dệt là ngành dệt phải cung cấp cho ngành may 70% sản phẩm thay thế sản phẩm nhập khẩu vào năm 2010 với mức tăng trưởng bình quân 1 năm là 20,8%. Để đạt mục tiêu này, Chính phủ thực hiện các chiến lược sau: Đầu tư nâng cấp ngành công nghiệp dệt dựa trên cơ sở phát triển khoa học công nghệ . Chính phủ cần đầu tư lớn cho các doanh nghiệp dệt để họ tận dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực dệt nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các sản phẩm may của Việt Nam . Việc áp dụng các công nghệ dệt hiện đại nhằm đạt được các mục đích sau: Công nghệ sản xuất xơ: Công nghệ này sẽ làm đa dạng sản phẩm để phục vụ cho nhu cầu sản xuất hàng may mặc nước ta. Yêu cầu, công nghệ này phải giúp ngành công nghiệp dệt của ta sản xuất ra nhiều loại xơ mới, nhiều chức năng và loại xơ composit nhiều mục đích, các xơ khác, xơ sinh thái và MMF có tính chất và bề ngoài gần giống tự nhiên như MMF giả lụa tơ tằm, giả len và giả lanh. Công nghệ kéo sợi: Ngành công nghiệp dệt phải hết sức nỗ lực trong việc áp dụng công nghệ kéo sợi như kéo sợi khí, kéo sợi roto và kéo sợi tráng phủ để khắc phục những yếu kém nhằm phát triển phong phú các loại xơ. Công nghệ dệt vải: Các nhà máy dệt vải phải tập trung vào việc phát triển của họ vào dệt tốc độ cao, điện tử và công nghệ dệt Jacquard kiểm tra bằng máy vi tính. Việc áp dụng công nghệ này đòi hỏi phải có sự hỗ trợ vốn của chính phủ, nếu không các doanh nghiệp đơn lẻ khó có thể tự đầu tư được. Số máy dệt không thoi sẽ tăng gấp đôi vào năm 2005, chiếm 25% tổng số máy dệt. Và vải dệt không thoi sẽ là 40% trong tổng số đó. Công nghệ nhuộm và hoàn tất. Ngành dệt cần phải áp dụng vi tính vào thiết kế và in hoa, ứng dụng công nghệ điện tử vào khâu in, nhuộm và hệ thống tách và phân màu điện tử, sử dụng ngày càng nhiều thuốc và trợ nhuộm bảo vệ môi sinh. Công nghệ phát triển và thiết kế. Lĩnh vực dệt sẽ phổ cập thiết bị hỗ trợ thiết kế bằng máy vi tính và hệ thống máy tính kiểm soát hành chính. Đặc biệt, việc thiết kế sản phẩm dệt sẽ được cải tiến từng bước theo kịp khuynh hướng thời trang mới nhất của thế giới. Thông qua những tiến bộ kỹ thuật và nâng cấp toàn bộ ngành dệt như trên, ngành dệt sẽ hoàn toàn có khả năng thay thế 70% sản phẩm nhập khẩu cho các doanh nghiệp sản xuất may mặc Việt Nam như trong thời gian hiện nay. . Cấp doanh nghiệp. Những công việc lớn đã do Chính phủ đảm nhận. Nhiệm vụ chính của các doanh nghiệp là tìm điểm mấu chốt trong việc giảm chi sản xuất ở đâu. Điểm mấu chốt đó nằm ở dây chuyền giá trị của doanh nghiệp. Muốn giảm chi phí thì cách hữu hiệu nhất là doanh nghiệp phải xây dựng một dây chuyền giá trị doanh nghiệp hoàn hảo. Đề tài xin kiến nghị một số chiến lược mà doanh nghiệp có thể áp dụng. Sản xuất: Thực hiện chiến lược xây dựng dây chuyền sản xuất phản ứng nhanh.[22] Dây chuyền phản ứng nhanh là một dây chuyền có thực tiễn cao trong sản xuất kinh doanh hàng may mặc. Ngày nay, hầu hết các nước xuất khẩu lớn hàng may mặc đều áp dụng dây chuyền sản xuất này. Với dây chuyền sản xuất này, doanh nghiệp phải suy nghĩ điều hành một công việc chứ không phải điều hành một xí nghiệp. Khách hàng ngày nay bỏ tiền ra để mua kết quả của sự kết hợp của rất nhiều đầu vào và đầu ra nghĩa là, sản phẩm phải có chất lượng cao nhất, thiết kế hợp mốt nhất, giá cả phải chăng và chốt yếu là phải đúng thời điể. Dây chuyền này đòi hỏi các khâu đầu vào của doanh nghiệp từ nguồn nguyên liệu, khả năng sản xuất, tài chính, khả năng phân phối, thông tin phải là những khâu hoàn thiện, đạt tiêu chuẩn. Chỉ cần một khâu ngừng lại là toàn bộ dây chuyền sản xuất phản ứng nhanh sẽ bị vô hiệu. Trước khi xây dựng dây chuyền phản ứng nhanh, doanh nghiệp cần thiết phải khắc phục ngay những điểm yếu trong dây chuyền giá trị của doanh nghiệp, như đã được đề cập trong mô hình SWOT. Đó là: Khi đã khắc phục các điểm yếu trên, doanh nghiệp xây dựng dây chuyền sản xuất phản ứng nhanh theo 6 bộ phận sau: + Thiết lập mối quan hệ bạn hàng về kế hoạch phối hợp nhanh. Trong đó, nhà sản xuất, nhà kinh doanh, người môi giới, người bán lẻ cùng phối hợp trao đổi thông tin cho nhau, cùng đặt ra chỉ tiêu về sản lượng, thời gian giao hàng, kế hoạch phát triển mặt hàng, chế độ, địa điểm bán hàng, cùng nhau vạch định kế hoạch sản xuất hàng tuần và phối hợp tổng thể cùng giải quyết. + Hệ thống hỗ trợ các quyết định và lập bảng thông số cần có sự giúp đỡ của máy tính và mạng lưới thông tin công cộng hiện đại. Trong chức năng này, các bên đều có mối liên kết bằng tin học. Người bán lẻ phải nắm được thông tin về điểm bán để chuyển đơn hàng. Hệ thống lập thông số bằng máy tính cũng giúp cho khâu giấy phép, giao hàng và giấy tờ thanh toán được tổ chức một cách nhanh chóng và có hiệu quả . + Hệ thống kiểm tra màu: Trong sản xuất hàng may mặc ngày nay, từ khi nhận đơn hàng đến khi giao hàng, nhà sản xuất chỉ được phép thực hiện trong một thời gian rất ngắn. Vì vậy, khâu chuẩn bị nhuộm đưa vào sản xuất phải dựa vào các thiết bị hiện đại và chỉ được phép tiến hành một lần, nghĩa là không được phép có sai sót. Do đó, dây chuyền từ người mua, người sản xuất đến nhà máy in nhuộm đều phải dựa vào tiêu chuẩn của card màu nhằm đảm bảo thành công ngay từ đầu. + Tinh thần trách nhiệm trong sản xuất: Lĩnh vực này cần có sự thay đổi về đào tạo giảng dậy để công nhân nắm hết được yêu cầu kỹ thuật công nghệ. áp dụng hình thức tập thể khuyến khích cá nhân đến phương pháp nhóm tự quản từng cá nhân. Sản phẩm trong dây chuyền sản xuất này được gắn trong một chu trình ngắn nhất hạn chế lần qua tay sản phẩm, nghĩa là sản xuất đạt chuẩn không cần qua khâu kiểm tra KCS. Nói cách khác: Mỗi người là một đầu mối KCS. + Sản phẩm hợp thời trang: Hàng được đưa ra thị trường trong thời kỳ mốt đang được lưu hành. + Phân phối liên tục: Khâu phân phối cần được sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà sản xuất, công ty vận tải, bến cảng, kho hàng... Điều đó có nghĩa là, khi cửa hàng cần thì phải được giao hàng đến ngay. Bao gói phải được thống nhất theo quy chuẩn để dễ cho việc theo dõi và bắt buộc phải dùng cốt sọc. Mô hình dây chuyền giá trị này giúp doanh nghiệp tiết kiệm được rất nhiều chi phí. Hiệu quả lớn nhất mà doanh nghiệp đạt được đó là: Sản phẩm không có lỗi. Trong xu thế cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, sản phẩm không có lỗi nghĩa là, nó sẽ được khách hàng chấp nhận, do hàng có giá phải chăng, thiết kế đúng mốt, giao hàng đúng thời vụ, đáp ứng đúng sở thích của khách hàng. Lô hàng này được chấp nhận, do không có bất cứ một sai sót lỗi nhỏ nào, và do vị thế cạnh tranh của nó đã cao hơn rất nhiều so với các đối thủ cạnh tranh vẫn còn đang loay hoay với những phương thức sản xuất cũ. Không có một doanh nghiệp xuất khẩu nào lại không mong muốn đạt được kết quả này, muốn vậy, ngay từ bây giờ, các doanh nghiệp phải có tư duy mới và hành động ngay. Một doanh nghiệp xây dựng được dây chuyền giá trị hoàn hảo theo phương thức dây chuyền phản ứng nhanh là một thành công lớn. Nhưng nếu doanh nghiệp không biết kết nối các khâu trong dây chuyền đó một cách thông suốt, linh hoạt và năng động thì dây chuyền đó sẽ vô hiệu không hoạt động được. Như vậy, phải có một hệ thống quản lý phản ứng nhanh tương xứng với dây chuyền phản ứng nhanh của doanh nghiệp. Quản lý: Chiến lược xây dựng hệ thống quản lý phản ứng nhanh.[22] Quản lý theo cấu trúc mạng doanh nghiệp đang là bí quyết thành công của quá trình đổi mới hệ thống quản lý của các doanh nghiệp trên thế giới trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay. Mô hình này được áp dụng rất linh hoạt trong mọi ngành nghề. Vậy tại sao, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam không mạnh dạn cải tổ mô hình tổ chức cũ của mình? Mô hình quản lý cũ là bắt đầu từ ban lãnh đạo tới các phòng ban và tới các cán bộ công nhân viên theo kiểu hình tháp truyền thống. Còn mô hình cấu trúc mạng doanh nghiệp được hiểu là: Biến cơ cấu tổ chức hình tháp truyền thống tại các Doanh nghiệp thành cơ cấu tổ chức mạng lưới bằng phẳng hơn thông qua biện pháp cắt bỏ phần lớn các cơ cấu trung gian lỗi thời. Điều đó tạo điều kiện cho mỗi một bộ phận của Doanh nghiệp trở thành các nút mạng cùng hợp tác chặt chẽ để sản xuất – kinh doanh một mặt hàng, dịch vụ cụ thể. Cấu trúc này giúp cho các doanh nghiệp quản lý rất hiệu quả. Thứ nhất, nó làm giảm các phòng ban quan liêu và nguy cơ xa rời thực tế của Ban lãnh đạo Doanh nghiệp trong bối cảnh thị trường ngày càng rộng mở. Thứ hai, lợi thế của cấu trúc mạng doanh nghiệp làm gia tăng khả năng tiếp nhận đầy đủ và liên tục thông tin dồn dập từ thị trường. Từ đó, nó làm tăng khả năng xử lý nhanh chóng thông tin thị trường, tăng năng lực thích ứng kinh doanh trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế đang diễn ra gay gắt và khốc liệt do ảnh hưởng của toàn cầu hoá và phổ cập công nghệ thông tin. Chính ưu điểm phản ứng nhanh với thông tin thị trường của hệ thống này tạo điều kiện cho dây chuyền sản xuất phản ứng nhanh của doanh nghiệp được hoạt động liên tục, không bị mất chi phí do thời gian ngừng hoạt động của dây chuyền. Đề tài cho rằng hệ thống sản xuất và quản lý theo dây chuyền phản ứng nhanh là một cặp bài trùng của doanh nghiệp, giải quyết được rất nhiều bất cập tồn tại hiện nay, trong đó, giải quyết vấn đề lớn nhất là giảm chi phí sản xuất, tạo điều kiện giảm giá thành cho sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh về giá cả cho hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh khác trên trường quốc tế. 2.Chiến lược khác biệt hoá sản phẩm. Chiến lược chi phí thấp nhất đã nâng vị thế cạnh tranh của hàng dệt may lên vị thế trung bình khá, tạo đà cho chúng ta nâng vị thế cạnh tranh lên một nấc thang cao hơn trong giai đoạn tiếp theo. Mục tiêu của chúng ta là đến năm 2010, các doanh nghiệp Việt Nam phải đạt vị thế khá mạnh trên thị trường. Vị thế này cho phép sản phẩm của chúng ta mở rộng thị phần, có như vậy, mục tiêu đạt kim ngạch xuất khẩu 9 triệu USD mới có thể đạt được. Giai đoạn 5 năm 2005 – 2010, doanh nghiệp cần phải đầu tư lớn để thực hiện chiến lược khác biệt hoá sản phẩm với hai công việc chính là xây dựntg thương hiệu và đa dạng hoá sản phẩm. Nguồn vốn đầu tư cho chiến lược này là rất lớn nên một phần sẽ được trích ra từ lợi nhuận tự có của doanh nghiệp, một phần sẽ do Chính phủ hỗ trợ vốn. 2.1 Xây dựng thương hiệu. Nhiều doanh nghiệp cùng một lúc đưa ra rất nhiều sản phẩm, với giá cạnh tranh như nhau, nhưng điều quan trọng khách hàng chọn ai. Câu trả lời tất nhiên là, họ sẽ chọn sản phẩm của doanh nghiệp mà họ biết thương hiệu của nó xuất phát từ đâu. Không thế tại sao, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi xuất khẩu luôn tốn thêm một khoản chi phí không cần thiết cho việc thuê thương hiệu có tiếng trên thị trường. Do đó, các doanh nghiệp cần thay đổi ngay cách suy nghĩ của mình, hãy đầu tư khoản chi phí thuê thương hiệu kia thành một khoản đầu tư để gây dựng thương hiệu. Thương hiệu là chìa khóa của sự thành công, do đó, doanh nghiệp cần xây dựng một chiến lược tổng thể và lâu dài để xây dựng một thương hiệu có tiếng trên thị trường. Bước 1: Xác định không quá 10 sản phẩm mũi nhọn tốt nhất của mình trong hàng loạt các sản phẩm. Sản phẩm này đạt yêu cầu: Số lượng hàng bán vượt trội so với các sản phẩm khác, giá cả có thể cạnh tranh ngang tầm các đối thủ cạnh tranh khác trên thế giới, thị phần chiếm một tỷ lệ vượt trội trên thị trường. Bước 2: Gắn tên cho mỗi một sản phẩm mũi nhọn. Tên này phải thể hiện được đặc trưng của sản phẩm đó, như về chất lượng, hoặc ý nghĩa tiêu dùng. Đặc biệt, sắp tới, các nước nhập khẩu hàng may mặc lớn như Mỹ và EU đang có xu thế bảo hộ thị trường của mình thông qua tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường thì các doanh nghiệp Việt Nam cũng nên chuyển ngay hướng đặt tên nhãn hiệu sản phẩm theo hướng đó. Đây sẽ là một bước đi đúng trong thời đại cạnh tranh. Như vậy, biểu tượng trên sản phẩm thể hiện đúng tinh thần chứng chỉ SA 8000 sẽ phải đạt yêu cầu sau: Biểu tượng in trên sản phẩm xác nhận rằng doanh nghiệp đã áp dụng các nguyên tắc đạo đức đối với việc cung cấp và sản xuất hàng hoá dịch vụ theo tiêu chuẩn. Đó là các nguyên tắc đạo đức trong vấn đề lao động của trẻ em, lao động không có cưỡng bức, sản xuất đảm bảo sức khoẻ và sắc đẹp cho người lao động, giờ làm việc và chế độ công xá. Để thể hiện trách nhiệm xã hội, doanh nghiệp cũng có thể sử dụng nhãn hiệu xã hội/ thương mại bình đẳng. Với nhãn hiệu này, sản phẩm được công nhận là đã được sản xuất và mua bán trên cơ sở các nguyên tắc thương mại, xã hội bình đẳng về điều kiện lao động và trả công... Việc gắn tên lên sản phẩm với các nhãn mác như trên đòi hỏi doanh nghiệp phải có dây chuyền sản xuất đã đạt tiêu chuẩn SA 8000 hoặc chứng chỉ ISO 14000 hoặc tiêu chuẩn thương mại bình đẳng. Tại sao, các doanh nghiệp cần có những nhãn mác như vậy, bởi vì xu thế tương lai là, khách hàng sẽ chỉ chọn những sản phẩm không gây ô nhiễm môi trường và họ sẽ chỉ chọn những sản phẩm khi họ biết chắc rằng, việc sản xuất ra sản phẩm đó không vi phạm quyền lao động và quyền bảo vệ phụ nữ trẻ em... Bước 3: Doanh nghiệp phải đảm bảo tính độc quyền và pháp lý của các nhãn hiệu này, bằng cách đăng ký bảo hộ tại Cơ quan đăng ký bảo quyền có thẩm quyền. Bản chất của việc bảo hộ nhãn hiệu là khi nhãn hiệu được Nhà Nước bảo hộ thì chủ sở hữu nhãn hiệu một mặt có quyền độc quyền sử dụng nhãn hiệu đó, mặt khác được quyền ngăn cấm bên thứ ba bất kỳ sử dụng nhãn hiệu đó khi không được sự đồng ý của chủ sở hữu. Tuy nhiên, quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá được Nhà Nước bảo hộ bị giới hạn trong phạm vi lãnh thổ của mỗi nước và trong thời gian hiệu lực của văn bằng bảo hộ với những điều kiện nhất định. Do hạn chế này, nên các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam cần phải lưu ý đến vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung và nhãn hiệu nói riêng tại thị trường dự định xuất khẩu. Đồng thời để né tránh việc các công ty khác chiếm đoạt nhãn hiệu của mình tại nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tiến hành các thủ tục cần thiết để đăng ký nhãn hiệu của mình ở nước ngoài. Để bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi nhãn hiệu được bảo hộ tại nước ngoài, doanh nghiệp có thể sử dụng hoặc ký hợp đồng với một công ty của nước ngoài, qua đó, cho phép họ được quyền sử dụng nhãn hiệu của doanh nghiệp tại nước đó. Bước 4: Thực hiện chương trình quảng cáo và tiếp thị các loại sản phẩm bằng các nhãn hiệu sản phẩm đã được đăng ký trên một thị trường trọng điểm mà doanh nghiệp cho là có tiềm năng nhất. Một chiến thuật quan trọng trong việc quảng bá thương hiệu mà các doanh nghiệp cần thấm nhuần đó là, doanh nghiệp chỉ tập trung đầu tư quảng bá cho một vài trong số các sản phẩm của mình sao cho chúng trở thành mặt hàng chiếm vị trí đứng đầu, chứ không phải tiếp thị cả một loạt nhãn hiệu yếu kém. Chiến thuật này phù hợp với thông điệp của thế giới cạnh tranh là: “ Nếu nhãn hiệu của doanh nghiệp không đứng hàng đầu hay ít ra là hạng hai, thì doanh nghiệp sẽ bị đã bay ra khỏi thị trường.” Chiến dịch này đòi hỏi tốn kém và tính liên tục trong một thời gian dài nhất định. Nhưng doanh nghiệp cần xác định ngay, đây là chi phí đầu tư ban đầu, lợi ích của nó sẽ rất lớn nếu doanh nghiệp quyết tâm thực hiện đến cùng. Quá trình này, đòi hỏi một khoảng thời gian 3 năm. Một khi thành công, thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam đã được khách hàng các nơi biết đến, thì vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp đã một bước được đặt nền tảng vững chắc. Sau đó, việc quảng bá thương hiệu đã có tiếng trên một thị trường sang thị trường khác sẽ đơn giản và ít tốn kém hơn. Lúc này, việc thâm nhập thị trường một cách sâu rộng hơn là điều có thể làm được. Việc xây dựng thương hiệu cho hàng hoá là điều kiện sống còn, quyết định vị thế cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam. 2.2.Đa dạng hoá sản phẩm. Nhu cầu của khách hàng là hạt nhân cốt lõi của chiến lược đa dạng hoá sản phẩm. Khâu quản trị khách hàng sẽ được đặt lên hàng đầu. Có hai giải pháp để xây dựng một hệ thống thu thập thông tin đầy đủ từ khách hàng và cũng là xây dựng lòng trung thành của khách hàng vào thương hiệu của doanh nghiệp, đó là: 1) Đẩy mạnh hoạt động đo lường và quản trị khách hàng. Thu thập thường xuyên các thông tin về khách hàng. Truyền bá thông tin trong toàn bộ tổ chức đặc biệt cho trung thiết kế mẫu thời trang của doanh nghiêp. Sử dụng thông tin này để duy trì, cải tiến, phát minh trong các sản phẩm và quy trình sản xuất. Mục đích của giải pháp này là xác định từng yếu tố trong sản phẩm và dịch vụ cung ứng đem lại giá trị cho khách hàng, và giá trị đó được khách hàng đo lường như thế nào. Thông qua đó, doanh nghiệp sẽ xác định được nhu cầu của khách hàng không chỉ của hôm nay mà còn dự báo cả nhu cầu của tương lai. Điểm lưu ý là, thông tin thu thập được dứt khoát phải được phân tích, truyền bá rộng rãi trong tổ chức và được sử dụng cho việc cải thiện giá trị doanh nghiệp mang lại cho khách hàng. Xây dựng “ thấu kính của khách hàng”. Mục đích của việc xây dựng thấu kính của khách hàng là nhằm đảm bảo bản thân nhà sản xuất cũng nhìn nhận sản phẩm dịch vụ của mình đúng như khách hàng nhìn nhận nó. Nhờ vậy, doanh nghiệp sẽ có sự thống nhất trong ngôn ngữ giao tiếp giữa hai bên, có sự đánh giá chính xác về giá trị sản phẩm mà mình mang lại cho khách hàng. Đây là mục tiêu cao nhất mà doanh nghiệp đạt được và tạo bước thành công lớn cho chiến lược đa dạng hoá sản phẩm của mình. Thấu kính của khách hàng sẽ được mô phỏng trong lưu đồ sau: Thấu kính của khách hàng Tiện dụng An toàn Sạch sẽ Đây là quan điểm hoàn toàn mới mẻ, các nhà sản xuất trước đây nhìn nhận nhu cầu khách hàng hoàn toàn theo ý chủ quan của mình, họ chỉ quan tâm đến con người, sản phẩm và hoạt động của mình. Trong khi đó, khách hàng quan tâm đến sản phẩm chỉ vì sự an toàn, sự tiện dụng của nó và cả sự sạch sẽ của sản phẩm. Như vậy, việc xây dựng thấu kính của khách hàng sẽ giúp cho doanh nghiệp tìm được đúng nhu cầu của khách hàng, từ đó, sẽ hoàn thiện đa dạng hoá sản phẩm theo đúng mục tiêu mà khách hàng cần. Đáp ứng đúng cái mà khách hàng cần chính là điểm chốt yếu của việc củng cố vững chắc cho thương hiệu của mình. 2) Chiến lược phát triển trung tâm thiết kế thời trang. Mục tiêu là phải phát triển các trung tâm thiết kế thời trang này theo hướng chuyên nghiệp hoá, vừa mang tính độc lập nhưng liên kết chặt chẽ với quy trình sản xuất của doanh nghiệp. Nhiệm vụ của trung tâm phải hướng tới là: “ Đa dạng hoá sản phẩm.” Để trung tâm này hoạt động có hiệu quả, doanh nghiệp cần có sự đầu tư lớn và có chính sách quản lý linh hoạt. Tính chất hoạt động của trung tâm mang tính nhạy cảm rất cao, do các mẫu mốt liên quan đến tư duy nghệ thuật, liên quan đến trình độ thể hiện ý tưởng, nhưng đồng thời nó liên quan rất lớn đến độ nhạy bén và tư duy đánh giá của đội ngũ thiết kế. Trung tâm phải xây dựng được một hệ thống khai thác thông tin theo mạng Internet quốc tế. Hệ thống này phải có sự kết nối liên tục với các hệ thống thông tin của các chi nhánh, đại lý chịu trách nhiệm phân phối sản phẩm của doanh nghiệp ở thị trường nước ngoài. Hệ thống này đảm bảo, trung tâm thiết kế thời trang của doanh nghiệp liên tục có các thông tin mới nhất về thị trường, đem lại ý tưởng sáng tạo mới đáp ứng yêu cầu vừa đa dạng hoá sản phẩm vừa luôn đi theo xu thế thị hiếu của người tiêu dùng. Trung tâm phải liên tục tổ chức các hoạt động trình diễn thời trang trong và ngoài nước để giới thiệu những bộ sưu tập mẫu mốt mới nhất của mình. Có như vậy, doanh nghiệp sẽ quảng bá rộng rãi thương hiệu của mình. Ngoài ra, trung tâm còn phải luôn chú ý đến việc đào tạo, tổ chức các chuyến khảo sát thực tế thị trường nước ngoài cho đội ngũ thiết kế, nhằm nâng cao kiến thức và tạo điều kiện cho họ được quan sát trực tiếp thị trường. Có như vậy, hiệu quả thiết kế sẽ được tăng cao. 3.Chiến lược tập trung. Nhiệm vụ của chiến lược này là củng cố và giữ vững vị thế cạnh tranh khá mạnh của các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo 2015 – 2020. Theo Michael E. Porter, có hai cách tập trung, hoặc tập trung vào chi phí, hoặc tập trung vào khác biệt hoá sản phẩm trên một khu vực thị trường nào đó. Dựa vào vị thế cạnh tranh mà doanh nghiệp đạt được vào năm 2010, đề tài kiến nghị các doanh nghiệp dệt may thực hiện chiến lược tập trung vào khác biệt hoá sản phẩm vào những phân khúc thị trường mà sản phẩm của chúng ta được ưa chuộng nhất. Thực hiện chiến lược này, các doanh nghiệp phải tiến hành các bước công việc sau: Lập kế hoạch tiếp thị xuất khẩu có hệ thống. Lập kế hoạch tiếp thị xuất khẩu có hệ thống giúp doanh nghiệp làm chủ tình hình, từ đó đưa ra được định hướng. Điều này chỉ thực hiện được khi đã có sự chuẩn bị kỹ càng, đánh giá mục tiêu, đánh giá phương hướng, phương tiện và lập kế hoạch từng bước một cách cẩn thận. Để thâm nhập các phân khúc thị trường mục tiêu đã chọn, doanh nghiệp phải có sự nghiên cứu đánh giá về kênh thương mại và phân phối, đánh giá khả năng tận dụng cơ hội, và đối phó nguy cơ, lựa chọn chiến thuật hành động và chuẩn bị đương đầu với môi trường cạnh tranh trên các thị trường mục tiêu đó. Đem đến sự hài lòng cho khách hàng. Các nhà xuất khẩu đặc biệt quan tâm đến người tiêu dùng trên các phân khúc thị trường mục tiêu đã chọn. Doanh nghiệp cần biết động cơ của người tiêu dùng trong việc mua những loại sản phẩm nhất định và họ phải luôn cập nhật những xu hướng trong hành vi mua sắm của người tiêu dùng. Sự cạnh tranh khốc liệt trong thời gian này sẽ rút ngắn đáng kể vòng đời của hàng loạt sản phẩm. Những sản phẩm đó được tung vào thị trường nhanh chóng đẩy các sản phẩm cũ ra ngoài và làm cho các nhà sản xuất ít có thời gian để kiếm tiền bằng sản phẩm của mình. Vì thế, điều tối cần thiết là doanh nghiệp phải hiểu rõ về khách hàng và bước vào thị trường đúng lúc với những ý tưởng đúng đắn. Thay đổi hệ thống thương mại và phân phối. Thực tế, các doanh nghiệp thực hiện liên kết dọc và mở rộng quy mô, nghĩa là, doanh nghiệp xây dựng mối quan hệ lâu dài với những nhà cung cấp mà doanh nghiệp hoàn toàn có thể tin tưởng được. Như vậy, các nhà cung cấp có thể giữ được hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường, một hình ảnh về sự tin cậy, chất lượng và các tiêu chuẩn trách nhiệm ( xã hội và môi trường ) cao. Nếu doanh nghiệp có mối quan hệ tốt này, họ sẽ có thị trường lâu dài. Ngoài ra, doanh nghiệp cần phải tối ưu hoá Internet như một phương pháp tiếp thị nhằm mục đích quản lý các mối quan hệ, nghiên cứu thị trường, xúc tiến bán hàng, quảng cáo trên mạng, tổ chức các triển lãm ảo, chào hàng và bán hàng qua mạng thương mại điện tử bằng cách kết nối các trang WEB khác để xúc tiến thương mại. Có thể nói, đây sẽ là giai đoạn kinh doanh qua mạng thương mại điện tử chính thức của các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam. Chiến lược tập trung mà các doanh nghiệp có thể theo đuổi trong giai đoạn này hoàn toàn phù hợp với xu thế thị trường tương lai đã được các chuyên gia chiến lược nước ngoài đánh giá là: “ Các doanh nghiệp sẽ phải chuyển từ chỗ tập trung vào những phân khúc thị trường lớn sang chỗ nhắm vào các khu vực riêng biệt. Các doanh nghiệp sẽ làm giàu với các khu vực riêng biệt này.”( Philip Kotler – giáo sư trường Cao học Quản trị Kellogg, thuộc Đại học Northwestern bang Illinois.)[22] Trên đây là 3 chiến lược cụ thể mà đề tài muốn đề xuất với các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam trong mục tiêu phát triển và nâng cao vị thế cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế từ nay đến năm 2020. kết luận. Nền kinh tế toàn cầu sẽ làm được 3 điều: Thứ nhất, nó chắc chắn sẽ làm tăng quy mô thị trường cho các doanh nghiệp. Thứ hai, nó tạo ra các đối thủ cạnh tranh mới trên thương trường. Trung Quốc, ấn Độ và Indonesia sẽ là những đối thủ cạnh tranh mới trên thế giới trong những năm tới, vì họ nằm ở thị trường lớn nhất và mới nhất của thế giới. Thứ ba, sự đổi mới sẽ diễn ra trên khắp thế giới, lan rộng từ Bắc Mỹ tới Châu Âu và Châu á. Như vậy, cục diện thế giới đã hoàn toàn thay đổi. Nền kinh tế toàn cầu gửi đến cho chúng ta một bức thông điệp rằng, khả năng duy trì lợi thế nhờ lao động rẻ như các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang áp dụng hiện nay là một mô hình cũ. Do đó, tư duy kinh doanh mới của thế kỷ XXI là Bạn không thể tạo ra tương lai bằng cách sử dụng những công cụ chiến lược cũ. Và nếu bạn chỉ nghĩ rằng việc bắt kịp cái mà người khác đã làm là điều cần thiết thì bạn hãy nghĩ lại, bởi vì cuối cùng thì kẻ chiến thắng sẽ là những người có khả năng sáng tạo ra một cuộc chơi hoàn toàn mới. Và cách duy nhất để có thể tồn tại trong cuộc chiến cạnh tranh sắp tới là phải xây dựng và nâng cao vị thế cạnh tranh thông qua chiến lược đổi mới và nâng cấp hoàn toàn mới. Đây là những suy nghĩ mới được thể hiện trong nội dung của đề tài, và tôi hy vọng đề tài sẽ giải toả được phần nào những bức xúc mà các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam hiện nay đang gặp phải. Ngành Dệt May Việt Nam có thực hiện thành công các mục tiêu đã đề ra trong Chiến lược tăng tốc hay không phụ thuộc rất nhiều vào đường lối chính sách đúng đắn của Đảng nhưng trên hết, điều đó phụ thuộc vào khả năng sáng tạo, năng động và đột phá trong các chiến lược của chính các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam. TàI liệu tham khảo. Tạp chí Dệt May và Thời trang Việt Nam, số 1 – 12 năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001. Tạp chí ngoại thương, số 1 – 12 năm 1999, 2000, 2001. Tạp chí thương mại số 1 – 12 năm 1999, 2000, 2001. Giáo trình nghiên cứu Quản trị chiến lược phát triển vị thế cạnh tranh của tác giả Michael E. Porter, bản dịch Nguyễn Hữu Lam - NXB Giáo dục, 1998. Giáo trình Quản trị chiến lược và chính sách kinh doanh – NXB Đồng Nai. Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001 của Phòng Kế hoạch và Thị trường – Tổng công ty Dệt May Việt Nam. Báo cáo thống kê hàng dệt may xuất khẩu năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001 của Vụ Kế hoạch và Thống kê - Bộ thương mại Việt Nam. Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, số 1 – 12 năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001. Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản, số 1 – 12 năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001. Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 1 – 12 năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001. Tạp chí nghiên cứu Châu Mỹ, số 1 – 12 năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001. Niên giám thống kê 1997, 1998, 1999, 2000, 2001 – Tổng cục thống kê. Chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân, số 7, năm 2000 – NXB Lao động – Xã hội. Japan textile new ( JNT ), số 1 – 12 năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001. Textile ASIA, số 1 – 12 năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001. American Textile Industry ( ATI ), số 1 – 12 năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001. GATT URUGOAY ROUND, Published by: International Trade Centre UNCTAD /WTO. Importing into the United States, Department of the treasury United States Customs Service March 1990 – 1998. Thời báo kinh tế 1997, 1998, 1999, 2000, 2001. Thị trường Nhật Bản – NXB Văn hoá Thông tin 1997, 1999, 2000, 2001. Kinh doanh với thị trường EU – Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI, Trung tâm thông tin thương mại Châu Âu tại Việt Nam. Các trang Website: www/google.com, www/mot.gov.vn, www/vinatex.com, www/viettrade.gov.vn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van97 2000.doc
  • docBang.doc
Tài liệu liên quan