Việc thu hút vốn đầu tưtrong nước được Nhà nước thực hiện bằng cách
phát triển nhiều thành phần kinh tế. Chính sách phát triển nền kinh tếnhiều
thành phần là một nội dung quan trọng của đổi mới kinh tế. Ngay từ Đại hội VI
đã công nhận sựtồn tại của các thành phần kinh tếngoài quốc doanh: “kinh tế
quốc doanh giữvai trò chủ đạo kinh tếquốc doanh chủ động mởrộng liên kết
các thành phần kinh tếkhác, hướng các thành phần đó vào quỹ đạo của CNXH”
và “Nhà nước cho phép những nhà tưsản nhỏsửdụng vốn, kiến thức kỹthuật
và quản lý của họ đểtổchức sản xuất kinh doanh trong một sốngành nghềthuộc
khu vực sản xuất và dịch vụ ởnhững nơi cần thiết trong cảnước”. Nhà nước đã
công nhận tầm quan trọng lâu dài của tưnhân, đảm bảo cho khu vực kinh tếtư
nhân tồn tại nhưmột bộphận của nền kinh tếnhiều thành phần và dỡbỏmọi
hạn chế đối với việc thuê mướn lao động ởkhu vực này. Chính phủ đã ban hành
nhiều văn bản pháp quy như Nghị định số27/HĐBT ngày 9/3/1998vềchính
sách kinh tế đối với kinh tếcá thể, kinh tếtưdoanh sản xuất công nghiệp, dịch
vụcông nghiệp, xây dựng, vận tải; Nghị định số29/HĐBTquy định chính sách
đối kinh tế đối với gia đình trong hoạt động sản xuất và dịch vụsản xuất làm
cơsởcho sựra đời và hoạt động của các tổchức kinh tếngoài quốc doanh. Các
Nghị định trên đã khẳng định sựthừa nhận của Nhà nước vềsựtồn tại và tác
dụng tích cực lâu dài của các thành phần kinh tếngoài quốc doanh, công nhận
quyền sởhữu, thừa kế, thu nhập hợp pháp và quy định các nguyên tắc tổchức,
nhiệm vụ, quyền hạn của các loại hình tổchức của các thành phần kinh tếnày
111 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1632 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách công nghiệp của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đầu với những hàng
rào phi thuế quan mà các nước phát triển áp dụng. Những hàng rào phi thuế
quan đó có thể là vấn đề về sở hữu trí tuệ, vấn đề về môi trường đối với các sản
phẩm, vấn đề về việc bán phá giá theo luật của các nước như Mỹ,EU…Việc
tranh chấp, xung đột quanh cái tên catfish (cá ba sa, cá tra) và sau đó là vụ kiện
Việt Nam bán phá giá cá tra, cá ba sa của Mỹ hiện nay chỉ là một trong những ví
dụ cho thấy mặt trái của quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá cũng như các thách
thức mà Việt Nam sẽ gặp phải trong quá trình phát triển kinh tế phù hợp với xu
hướng này. Chính vì vậy, Việt Nam cần nhanh chóng đưa ra các CSCN nhằm
tăng cường khả năng cạnh tranh cho các ngành và các doanh nghiệp của mình.
Chính sách này một mặt phải đáp ứng được các nhu cầu của quá trình quốc tế
hoá thương mại và sản xuất, mặt khác phải đảm bảo tận dụng tối đa các lợi ích
do quá trình đó mang lại.
Bên cạnh đó, xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá còn dẫn đến sự phân công
lại lao động trên toàn thế giới, theo chiều hướng là các nước công nghiệp phát
triển sẽ chiếm giữ quyền độc tôn sản xuất và làm chủ các sản phẩm công nghệ
kỹ thuật cao, các nước đang phát triển sẽ sản xuất các mặt hàng chiếm nhiều lao
động, giá trị thấp, tốn nguyên liệu. Tuy nhiên, xu hướng này cũng đem lại lợi thế
cho những nước biết tận dụng cơ hội này đề thực hiện phân công lao động theo
hướng chuyên môn hoá cao, nhất là đối với những nước phát triển. Nếu một
nước đang phát triển biết “đi tắt đón đầu”, tận dụng được khoa học kỹ thuật tiên
tiến vào sản xuất thì có thể nước đó sẽ sản xuất được những mặt hàng có hàm
lượng khoa học cao, và chiếm được vị trí trên thị trường thế giới.
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
84
1.1.2. Tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ trên thế giới
Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, cách mạng khoa học công nghệ có
những bước nhảy vọt khó lường. Trong những điều kiện đó, việc phát triển kinh
tế – xã hội của đất nước cần phải được triển khai theo tư duy mới, phù hợp với
giai đoạn mới.Việt Nam có những lợi thế so sánh về nguồn tài nguyên thiên
nhiên và dồi dào về nguồn nhân lực, kể cả tiềm năng về trí tuệ. Vì vậy, nếu Việt
Nam thúc đẩy những ngành công nghiệp phát huy được những lợi thế này thì có
thể tiếp nhận được những thành tựu khoa học và công nghệ, nâng cao hiệu quả
và tính cạnh tranh của nền kinh tế, chủ động tạo ra những lợi thế mới trong quá
trình hội nhập quốc tế để vươn lên đạt trình độ phát triển cao hơn trong khu vực
và thế giới.
1.13. Những biến đổi môi trường và yêu cầu phát triển bền vững toàn cầu.
Trên trái đất hàng năm có khoảng 20 triệu ha rừng nhiệt đới bị cháy trụi,
8,5 triệu ha đất bị xói mòn, rửa trôi gần 2 tỷ tấn đất trồng. Hàng năm có khoảng
10% đất trồng trọt bị sa mạc hoá và khoảng 25% nữa đang bị đe doạ. Theo ước
tính, cho tới năm 2010 mức độ ô nhiễm môi trường có thể sẽ tăng lên gấp 10 lần
so với hiện nay. Tính trung bình trong 10 năm, nếu tổng sản phẩm quốc nội của
các nước Châu Á tăng lên 2 lần thì mức độ ô nhiễm môi trường tăng lên 5 lần,
không loại trừ Việt Nam. Chính vì vậy, các quốc gia không thể chỉ đẩy mạnh
tăng trưởng kinh tế, phát triển công nghiệp mà không tính đến các yêu cầu bảo
vệ môi trường. Nói một cách khác, hiện nay chính sách phát triển kinh tế nói
chung và CSCN nói riêng cần phải chú trọng đến phát triển bền vững hơn nữa.
Điều này cũng đã dẫn đến việc các nước phát triển đưa ra các tiêu chuẩn về môi
trường cho các hàng hoá nhập khẩu từ nước khác, và tiêu chuẩn này còn được
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
85
coi là một trong những hàng rào phi thuế quan đối với các nước đang phát triển
trong việc xuất khẩu hàng hoá.
Với mức tăng GDP của nền kinh tế Vịêt Nam như hiện nay, khoảng từ 7 -
8%/ năm, nếu không có những biện pháp bảo vệ môi trường thì mức độ ô nhiễm
môi trường vào 2020 có thể gấp 4 –5 lần mức độ hiện nay và tốc độ gia tăng ô
nhiễm đo bằng chỉ số ô nhiễm tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế thực tế sẽ
lớn gấp 2 lần so với mức độ cho phép. Do đó, việc lựa chọn CSCN của Việt
Nam cần tính đến việc bảo vệ môi trường và chi phí cho sự ô nhiễm môi trường.
2. Các nhân tố trong nước
Hiện nay, quá trình phát triển nền kinh tế của Việt Nam vẫn thể hiện hai
đặc trưng cơ bản là “chuyển đổi” và “đang phát triển”, tuy nhiên quá trình này
đã có những sự thay đổi mạnh mẽ tạo ra bối cảnh mới cho sự phát triển.
Sau 15 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có sự biến đổi đáng kể cả
về chất và lượng. Sự biến đổi về lượng có thể thấy rõ qua các chỉ tiêu kinh tế đạt
được trong thời gian qua như tốc độ tăng trưởng GDP trung bình hàng năm là
trên 7%, tỷ lệ lạm phát thấp ở mức một con số, mức thâm hụt ngân sách thấp và
tỷ lệ tích luỹ, đầu tư tăng lên gấp hai lần, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng trung
bình 20%/năm, cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng chú trọng vào các ngành
công nghiệp và dịch vụ.
Bên cạnh những biến đổi về lượng, nền kinh tế cũng biến đổi về chất: thể
chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp đã được thay thế bằng thể
chế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tính chất tự cấp, tự
túc và khép kín trong nền kinh tế và trong đời sống xã hội đã được thay thế bằng
xu hướng mở cửa và chủ động hội nhập quốc tế, kết hợp nội lực và ngoại lực
thành sức mạnh tổng hợp. (Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam: phác
thảo lộ trình – Trần Đình Thiên – NXB Chính trị Quốc gia - 2002)
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
86
Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi tình trạng kém phát
triển, nền kinh tế vẫn đang ở giữa giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường. Việt Nam vẫn là một trong những nước có mức thu nhập bình quân đầu
người thấp nhất trên thế giới (400 USD năm 2002), hiệu quả của nền kinh tế còn
thấp. Các thể chế quan trọng như hệ thống pháp lý, ngân hàng, các thị trường
vốn, lao động…còn chưa phát triển đầy đủ, môi trường kinh doanh và cạnh
tranh kém hấp dẫn, không đủ cạnh tranh quốc tế, chất lượng đầu tư thấp…
Trước bối cảnh kinh tế mới, để có thể phát triển được nền kinh tế - xã hội,
Việt Nam cần phải đẩy mạnh hơn nữa công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
đẩy mạnh cải cách, phát triển thị trường và hội nhập nền kinh tế thế giới. Chính
sách công nghiệp của Việt Nam cần phải được điều chỉnh để góp phần thực hiện
hiệu quả các nhiệm vụ nói trên.
II. PHƯƠNG HƯỚNG MỚI CỦA CSCN VIỆT NAM
1. Quan điểm phát triển công nghiệp.
Theo quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước cùng với Bộ Công
nghiệp trong “Chính sách thương mại, chính sách công nghiệp” đã nêu rõ:
Công nghiệp phải được phát triển phù hợp với các quan điểm:
- Phát triển công nghiệp với nhịp độ cao, bền vững, hiệu quả làm động lực
thúc đẩy kinh tế xã hội, đặc biệt trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước từ nay đến năm 2020.
- Phát triển công nghiệp trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng loại
sản phẩm ở từng địa phương nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm
và doanh nghiệp, thông qua phát huy cao độ nội lực và hết sức tranh thủ hợp tác
quốc tế.
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
87
- Kết hợp hài hoà giữa phát triển công nghiệp hướng về xuất khẩu và thay
thế nhập khẩu có hiệu quả, có những biện pháp bảo hộ hợp lý, có thời gian để
bảo đảm công nghiệp phát triển với khả năng cạnh tranh cao, tiến tới xoá bỏ
ranh giới giữa hàng xuất khẩu và hàng thay thế nhập khẩu.
- Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển sản xuất công
nghiệp theo cơ chế thị trường mở, có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước.
Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo ra sự phân công
chuyên môn hoá và hợp tác hóa trong sản xuất công nghiệp. Trong giai đầu công
nghiệp hóa, hiện đại hoá phải tập trung sức của công nghiệp quốc doanh vào
một số ngành, một số lĩnh vực chủ đạo.
- Đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bản thân ngành
công nghiệp theo hướng đi thẳng vào hiện đại, rút ngắn khoảng cách với các
nước trong khu vực.
- Phát triển công nghiệp phù hợp với yêu cầu củng cố quốc phòng và an
ninh. Tận dụng công nghiệp quốc phòng phục vụ cho mục tiêu kinh tế và ngược
lại, có thể huy động lực lượng kinh tế phục vụ cho quốc phòng.
- Phát triển công nghiệp gắn với quy hoạch tổng thể đô thị và bảo vệ môi
trường sinh thái, phát triển công nghiệp nông thôn, đảm bảo giữ gìn giá trị các di
sản thiên nhiên, các công trình văn hóa có giá trị của dân tộc.
- Lựa chọn các ngành công nghiệp ưu tiên, phù hợp với định hướng chung
và lợi thế của từng vùng, từng địa phương, phát huy thế mạnh của nông nghiệp
để tập trung cho công nghiệp chế biến, công nghiệp sử dụng nhiều lao động và
công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, lựa chọn bước đi thích hợp với các ngành
công nghiệp thuộc lĩnh vực cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin, hoá chất, hoá
dầu, luyện kim.
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
88
Đối với việc phát triển công nghiệp theo vùng lãnh thổ, các quan điểm
phát triển là:
- Ưu tiên phát triển công nghiệp ở các khu vực kém phát triển, vùng sâu,
vùng xa để làm động lực phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xoá đói giảm
nghèo, nâng cao dân trí và phát triển văn hoá, xã hội ở địa phương trên cơ sở
phát huy tối đa lợi thế so sánh của từng vùng, từng địa phương và chính sách ưu
đãi hợp lý của Chính phủ.
- Đối với những vùng kinh tế trọng điểm, phát triển công nghiệp theo
hướng chuyển dần sang các ngành công nghiệp với công nghiệp kỹ thuật cao,
công nghiệp có giá trị gia tăng cao để lôi kéo các vùng khác phát triển theo.
- Chuyển dần các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, công
nghiệp chế biến nông lâm hải sản về các vùng nguyên liệu và vùng nông thôn,
miền núi nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá nông thôn.
2. Quan điểm về chính sách công nghiệp
Trong “Chính sách thương mại, chính sách công nghiệp” do Đảng, Nhà
nước cùng Bộ công nghiệp đưa ra cũng nêu rõ các quan điểm về chính sách
công nghiệp của Việt Nam như sau:
- Các chính sách công nghiệp phải nhằm phát triển công nghiệp và thực
hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Các chính sách này vừa phải đảm bảo cho tăng
trưởng kinh tế cao vừa đảm bảo nâng mặt bằng kinh tế và độ đồng đều để thực
hiện công bằng xã hội, sự phát triển ổn định và bền vững.
- Các chính sách công nghiệp đưa ra phải mang tính khách quan, có căn
cứ khoa học, dựa vào điều kiện và yêu cầu thực tế của đất nước và quốc tế.
Chính sách công nghiệp cũng như các chính sách kinh tế vĩ mô khác phải dựa
vào năng lực nội sinh cũng như các yếu tố nguồn lực bên ngoài và phù hợp với
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
89
năng của Nhà nước. Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thông qua các
chính sách kinh tế có thể gặp phải thất bại vì nhiều lý do trong đó có lý do về
khả năng điều hành và quản lý của Chính phủ không đáp ứng được yêu cầu phát
triển của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên trong bối cảnh mới, Nhà nước không
thể không can thiệp mà sự can thiệp đó phải nhằm tạo điều kiện cho thị trường
hoạt động nhiều hơn dựa trên việc tăng cường năng lực của Nhà nước bằng cách
đưa ra và thực hiện chính sách công nghiệp một cách trọng điểm và có lựa chọn.
- Các chính sách công nghiệp phải nhằm đẩy nhanh quá trình phát triển
kinh tế thị trường, đồng thời phải làm rõ và phát huy lợi thế so sánh của các
ngành công nghiệp, trên cơ sở đó nhanh chóng tạo ra và tăng cường lợi thế cạnh
tranh của ngành công nghiệp trên thị trường quốc tế. Nhà nước không nên can
thiệp quá mức vào thị trường, nếu những gì mà thị trường có thể làm được thì
Nhà nước nên để thị trường tự điều tiết. Nhà nước cần duy trì tính cạnh tranh
giữa các ngành, giữa các doanh nghiệp trên thị trường nội địa và quốc tế ngay cả
khi Nhà nước ưu tiên phát triển một số ngành nhất định. Chính sách công nghiệp
phải được thực hiện từng bước một phù hợp với các lợi thế so sánh. Nếu hiện
tại, lợi thế so sánh của Việt Nam chỉ là các ngành sử dụng nhiều tài nguyên
khoáng sản hay lao động thì việc tập trung các ngành công nghiệp công nghệ
cao sẽ không đem lại hiệu quả, vì vậy, có thể chỉ phát triển một số ngành công
nghiệp công nghệ cao để làm bàn đạp cho việc hình thành và phát triển các
ngành công nghệ kỹ thuật cao khác trong tương lai.
- Chính sách công nghiệp lấy con người làm chủ thể thực hiện và đối
tượng phục vụ của mình. Chính sách công nghiệp không có mục đích tự thân,
không phải phát triển để có trình độ công nghiệp cao, hay một cơ cấu công
nghiệp tốt mà nhằm vào mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân
Việt Nam.
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
90
3. Các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách công nghiệp
3.1. Xác định các ngành công nghiệp ưu tiên trong giai đoạn mới.
Việc lựa chọn các ngành công nghiệp ưu tiên là nhằm khai thác tốt nội
lực, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động, hợp tác quốc tế để đáp ứng
được các mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, phát triển có trọng điểm
với tốc độ cao và bền vững, đảm bảo công bằng xã hội, giữ vững an ninh quốc
phòng, bảo vệ môi trường sinh thái và hội nhập vững chắc, có hiệu quả.
Với mục tiêu đó, việc lựa chọn các ngành công nghiệp ưu tiên phải được
xem xét trong bối cảnh kinh tế và công nghiệp nói chung cũng như dựa vào từng
giai đoạn phát triển cụ thể của đất nước và bối cảnh quốc tế.
Các ngành công nghiệp thường được chia ra làm ba thế hệ , và dựa vào đó
có thể thực hiện việc lựa chọn cũng như chuyển đổi cơ cấu và tạo ra chính sách
phát triển thoả đáng cho từng ngành.
3.1.1. Các ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất
Các sản phẩm của các ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất thuộc dạng
nguyên vật liệu như dầu, gạo, cà phê và hải sản…Đây là những mặt hàng công
nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay. Các sản phẩm này đều là
những sản phẩm thuộc dạng sơ chế, chưa chế biến sâu. Những ngành này sử
dụng nhiều tài nguyên và lao động, cần ít vốn nên dễ xây dựng. Tuy nhiên, các
ngành này có ít sự sáng tạo và giá trị gia tăng thấp. Các nước đã và đang thực
hiện quá trình công nghiệp hoá đều phải trải qua giai đoạn phát triển các ngành
công nghiệp thế hệ thứ nhất vì việc xuất khẩu sản phẩm của các ngành này có
thể tạo ra nguồn thu ngoại tệ để phát triển công nghiệp, tạo ra nhiều việc làm;
nghĩa là tạo ra những khởi động cho quá trình công nghiệp hoá đất nước. Đặc
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
91
biệt, đối với những ngành sản xuất theo hợp đồng gia công chế biến còn tạo ra
nhu cầu phát triển cho các ngành công nghiệp tiếp theo nếu như công nghiệp
nước ngoài được chuyển giao và có khả năng tiếp nhận các công nghệ đó.
Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của quá trình Việt Nam hoá, với một
xuất phát điểm thấp thì việc ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp thế hệ
thứ nhất này là một điều không thể phủ nhận. Với nguồn tài nguyên tương đối
đa dạng và nguồn lao động lớn, từ nay đến năm 2010, Việt Nam cần phát triển
các ngành công nghiệp chế biến nông lâm hải sản, khai thác khoáng sản (nhất là
khai thác than, dầu thô và khí tự nhiên, quặng kim loại)...
3.1.2. Các ngành công nghiệp thứ hai
Là những ngành công nghiệp yêu cầu công nghệ cao hơn như công
nghiệp dệt, cơ khí chế tạo, điện tử…Các sản phẩm của các ngành này có độ
chính xác, có chất lượng cao và tạo ra giá trị gia tăng cao hơn sản phẩm của các
ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất. Các ngành này được xây dựng trên cơ sở và
có mối liên kết với các ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất đã có. Các ngành
công nghiệp thế hệ thứ hai có nhiều tác động đối với nền kinh tế, đặc biệt là một
số ngành như cơ khí, điện tử còn có tác động lan toả, nâng cao năng suất lao
động của nhiều ngành công nghiệp và kinh tế khác.
Hiện nay, Việt Nam đang kết hợp phát triển các ngành công nghiệp thế hệ
thứ nhất với các ngành công nghiệp thế hệ thứ hai, tuy nhiên vẫn chủ yếu dựa
vào các ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất. Trong tương lai gần từ nay đến năm
2010 thì việc chuyển dần sang các ngành công nghiệp thế hệ thứ hai cần phải
được ưu tiên hơn nữa vì các ngành này sẽ phát huy được lợi thế tương đối về
nguồn nhân lực có chất lượng trong các công việc đòi hỏi kỹ năng cao. Mặt
khác, việc xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp thế hệ thứ hai này sẽ
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
92
giúp nền kinh tế của đất nước đối phó được với các tác động từ bên ngoài cũng
như tăng cường khả năng thu hút và tiếp nhận chuyển giao công nghệ.
3.1.3. Các ngành công nghiệp thế hệ thứ ba
Là các ngành sản xuất ra nguyên vật liệu như công nghiệp hoá chất quy
mô lớn, công nghiệp luyện kim…Những ngành này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, hàm
lượng công nghệ cao. Các loại nguyên liệu do các ngành này sản xuất ra sẽ có
nhu cầu lớn về số lượng và ngày càng cao về chất lượng một khi nền kinh tế của
đất nước phát triển đến một mức độ nhất định. Các loại nguyên liệu này sẽ có
một phần thay thế cho các nguyên liệu truyền thống ngày càng cạn kiệt do sự
khai thác của con người.
Đối với những ngành công nghiệp thế hệ thứ ba này, hiện nay Việt Nam
phần lớn phải nhập khẩu và khả năng sản xuất trong nước gần như là không có.
Với mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 thì chắc chắn trong việc
lựa chọn các ngành công nghiệp ưu tiên trong thời gian tới, Việt Nam phải cân
nhắc, xem xét tới các khả năng phát triển và tận dụng hiệu quả nguồn vốn và
công nghệ. Tuy nhiên, việc phát triển các công nghiệp thế hệ thứ ba này ở nước
ta chỉ có thể thực hiện được sau một thời gian nữa, khi mà nền công nghiệp đã
có những tiến bộ nhất định và khi ưu tiên phát triển chỉ có thể chọn một hoặc
một vài ngành vì Việt Nam không có đủ vốn để đầu tư tràn lan cũng như chưa
đủ khả năng quản lý các ngành này hiệu quả.
Việc phát triển tuần tự hay đồng thời các ngành công nghiệp các thế hệ
phải phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng giai đoạn. Có thể, trong những
năm tới Việt Nam cần tập trung phát triển các ngành công nghiệp nhẹ như may,
da giày, các ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm từ nông lâm hải sản.
Đồng thời, cũng cần tích cực chuẩn bị các điều kiện và tranh thủ chuyển mạnh
sang phát triển các ngành công nghiệp thế hệ tiếp theo, đặc biệt là ở lĩnh vực
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
93
điện tử và công nghệ thông tin. Nhưng nhìn chung, việc lựa chọn các ngành
công nghiệp ưu tiên phải đi từ các ngành công nghiệp có trình độ công nghệ
thấp lên ngành công nghiệp có trình độ công nghệ cao, gắn sự phát triển công
nghiệp với sự phát triển công nghệ, đồng thời phải phát huy được lợi thế về
nguồn nhân lực được đào tạo có trình độ cao nhằm tạo ra những ngành công
nghiệp có lợi thế cạnh tranh mới.
Như vậy, từ nay đến năm 2010, Việt Nam cần ưu tiên đầu tư phát triển
các ngành công nghiệp chế biến, nhất là chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp
gắn với việc phát triển các vùng nguyên liệu nông lâm thuỷ hải sản; các ngành
công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và hàng tiêu dùng, tiểu thủ công nghiệp
thu hút nhiều lao động như dệt may, da giầy, thủ công mỹ nghệ…; các ngành
phát huy lợi thế về trí tuệ con người Việt Nam như công nghiệp phần mềml; các
ngành công nghiệp năng lượng để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia như
điện, dầu khí, than. Đối với ngành công nghiệp cơ bản (cơ khí, điện tử, luyện
kim…), cần lựa chọn để phát triển một số công trình có ý nghĩa cấp bách, có
điều kiện về tài nguyên, có khả năng tìm nguồn vốn và đảm bảo được hiệu quả
để tạo nên nền tảng cho công nghiệp và cho cả nền kinh tế phát triển.
Bảng 5: Quy hoạch phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ
sản giai đoạn 2005 - 2010
Vùng Ngành công nghiệp
1 Chế biến chè, cà phê, rau quả
2
Chế biến thịt xuất khẩu, rau quả, chè, gạo, mía đường, sữa,
dầu thực vật, giấy
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
94
3 Chế biến mía đường, chế biến gỗ, điều, thủy sản
4 Chế biến cà phê, cao su, bột giấy, điều nhân
5 Chế biến mủ cao su, giấy, thịt, dầu thực vật, điều gạo
6 Chế biến gạo, điều, rau quả, thịt xuất khẩu, thuỷ sản
Nguồn: Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp - Bộ Công
nghiệp
Bảng 6: Dự báo giá trị và tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp
giai đoạn 2001 - 2010
Đơn vị tính: Tỷ đồng ( theo giá cố định năm 1994)
Tốc độ tăng trưởng
TT Các ngành công nghiệp 2005 2010
2001-2005 2005-2010
Tổng số 351.221 618.698 12,45 11,99
I Công nghiệp khai thác 41.912 54.495 9,61 5,39
II Công nghiệp cơ bản 120.299 295.373 16,44 16,61
1 Ngành cơ khí 51.098 121.436 18,47 18,90
2 Ngành luyện kim 9.579 20.849 10,67 16,83
3 Ngành điện tử và CNTT 23.113 50.527 18,90 16,93
4 Ngành hóa chất 36.509 66.561 14,17 12,76
III Ngành công nghiệp nông, lâm,
thuỷ sản 86.244 128.723 8,64
8,34
IV Ngành dệt may, da giày 47.080 89.923 14,14 13,82
V Ngành sản xuất vật liệu xây
dựng 30.046 4.153 11,58
8,49
VI Ngành điện ga và nước 22.234 35.921 13,78 10,07
VII Công nghiệp khác 3.415 5.110 8,07 8,39
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
95
Nguồn: Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp - Bộ Công nghiệp
Nói chung, trong vòng 20 năm, GDP công nghiệp và xây dựng có thể tăng
từ 5 đến 8,2 lần (tuỳ từng phương án) so với việc tăng GDP của cả nước là 3,8-5
lần. Cơ cấu kinh tế sẽ chuyển dịch dần theo hướng công nghiệp hoá, tỷ trọng
GDP công nghiệp và xây dựng trong tổng GDP của cả nước sẽ tăng từ 36,7%
năm 2000 lên 45-51% năm 2020. Tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghiệp chiếm
85-90% hàng xuất khẩu của cả nước.
Cơ cấu ngành công nghiệp đến năm 2020 sẽ chuyển dịch theo hướng tăng
nhanh tỷ trọng của công nghiệp chế biến từ 80,4% năm 2000 lên 82-83% năm
2010 và 87-88% năm 2020. Ngược lại, công nghiệp khai khoáng sẽ có tỷ trọng
giảm dần từ 13,5% năm 2000 xuống còn 10-11% năm 2010 và 5-6% năm 2020,
công nghiệp sản xuất điện, ga, nước sẽ ít biến động tỷ trọng tăng từ 5,97% năm
2000 lên 6-6,5% năm 2010 và 5-6% năm 2020.
Trong nhóm các ngành công nghiệp chế biến thì công nghiệp thu hút
nhiều lao động và hướng ra xuất khẩu như giày da, may mặc, công nghiệp chế
biến nông lâm thuỷ sản sẽ phát triển nhanh trong giai đoạn đến 2010 và tốc độ
tăng trưởng sẽ giảm dần trong giai đoạn 2011- 2020. Ngược lại, các ngành công
nghiệp có công nghệ cao và công nghiệp cơ bản sẽ tăng nhanh trong giai đoạn
2011- 2020 như điện tử, công nghệ thông tin, cơ khí hoá chất và các ngành sản
xuất vật liệu mới…
Đến 2020, Việt Nam cũng sẽ bước đầu xây dựng một số ngành công
nghiệp nòng cốt quan trọng với công nghệ tiên tiến như điện lực, khai thác và
chế biến dầu khí, một số ngành cơ khí và công nghệ thông tin, hoá chất, hoá
dầu…Các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng cơ bản được hiện đại hoá,
đủ sức cạnh tranh bình đẳng trên thị trường nội địa và thế giới.
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
96
Đối với việc phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên ở nông thôn trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, trong giai đoạn
tới Việt Nam cần chú trọng phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản
gắn với vùng nguyên liệu, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Việc phát
triển các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản phù hợp với điều kiện
từng vùng sẽ tạo được một mạng lưới công nghiệp chế biến rộng khắp ở các
vùng nông thôn. Bên cạnh đó, việc áp dụng những thành tựu của cách mạng
khoa học - công nghệ, nhất là các công nghệ sinh học sẽ tạo được những sản
phẩm có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu của thị trường nội địa và thế
giới, từ đó giúp nông thôn phát triển.
Cùng với việc chọn các ngành công nghiệp chế biến là ngành công nghiệp
ưu tiên, khu vực nông thôn cũng cần lựa chọn và phát triển các ngành công
nghiệp khác như dệt, may mặc, hàng da giầy, sành sứ, thuỷ tinh, vật liệu xây
dựng và sửa chữa công cụ lao động nông nghiệp vì đây là nhóm ngành tạo nhiều
việc làm cho người dân nông thôn với trình độ lao động phổ thông.
3.2. Hoàn thiện các chính sách khuyến khích và hỗ trợ phát triển các ngành
công nghiệp
Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, hội nhập
kinh tế quốc tế một cách hiệu quả, Nhà nước cần có nhưng chính sách khuyến
khích và hỗ trợ các ngành công nghiệp, nhất là những ngành được lựa chọn,ưu
tiên phát triển. Các chính sách khuyến khích, hỗ trợ của Nhà nước thông qua
việc áp dụng công cụ kinh tế nói chung và chính sách công nghiệp nói riêng
được coi là một động lực ban đầu cho sự phát triển của các ngành công nghiệp.
Về dài hạn, cần tập trung vào các biện pháp nhằm tạo ra các tiền đề cần thiết cho
ngành công nghiệp phát triển. Từng ngành công nghiệp có những đặc điểm riêng
nhưng nhìn chung những biện pháp về tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, hỗ trợ
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
97
mạnh mẽ về khoa học và công nghệ, tạo ra hạ tầng cơ sở cần thiết…đều là
những biện pháp quan trọng không chỉ đối với công nghiệp mà đối với tất cả các
ngành kinh tế. Còn trước mắt, các chính sách cần tạo ra môi trường thuận lợi
cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, khuyến khích hỗ trợ các ngành công
nghiệp, nhất là những ngành công nghiệp ưu tiên phát triển, tạo môi trường thu
hút các thành phần kinh tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia đầu tư phát
triển các ngành công nghiệp.
3.3. Đẩy mạnh thu hút và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư phát triển các
ngành công nghiệp.
Vốn là yếu tố quyết định cho tăng trưởng và phát triển các ngành công
nghiệp, nhất là các ngành công nghiệp trọng điểm.Trong giai đoạn 2000 - 2020,
Việt Nam cần mở rộng đầu tư với mọi thành phần kinh tế và tăng cường quy mô
đầu tư cho những ngành công nghiệp ưu tiên.
3.3.1. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Là một trong những cách thức quan trọng để phát triển các ngành công
nghiệp trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay. Các nhà sản xuất nước
ngoài với tiềm lực vốn lớn sẽ cung cấp công nghệ và mở ra thị trường mới cho
xuất khẩu, mặt khác có thể giúp cơ cấu lại các ngành công nghiệp. Thực tế, luật
sửa đổi bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã làm cho môi trường
đầu tư vào các ngành công nghiệp được cải thiện tốt hơn.
Tuy nhiên, để có thể tăng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài vào các
ngành công nghiệp, Nhà nước có thể thực hiện một số biện pháp như sau:
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế chính sách về
đầu tư trực tiếp nước ngoài, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, đẩy mạnh
xúc tiến đầu tư vào các ngành công nghiệp.
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
98
- Xây dựng chính sách “ bảo hộ theo giai đoạn ” trong một khoảng thời
gian nhất định đối với các ngành công nghiệp “non trẻ” nhằm thu hút sự đầu tư
của các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia, phát triển nhanh các ngành công
nghiệp này trước khi phải cạnh tranh trong khu vực (2006 với việc thực hiện
CEPT) và thế giới (WTO trong tương lai).
- Xây dựng một số đơn đặt hàng hấp dẫn để thu hút các nhà sản xuất nước
ngoài thiết lập cơ sở sản xuất tại Việt Nam đối với ngành công nghiệp có công
nghệ cao như điện tử, công nghệ thông tin (nhất là công nghệ phần mềm).
- Thực hiện các chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, thủ tục hải quan nhằm
thu hút các nhà nước ngoài đưa các dự án đầu tư vào các khu công nghiệp, khu
chế xuất nhằm thu sử dụng hết công suất các khu công nghiệp, khu chế xuất
cũng như tận dụng được công nghệ kỹ thuật và khả năng quản lý của các nhà
đầu tư này.
- Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các vùng nông thôn và miền núi.
Các nhà đầu tư có thể liên doanh liên kết với các doanh nghiệp ở các vùng này
nhằm khai thác được những thế mạnh của các vùng, đồng thời tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp Việt Nam phát huy tính năng động và học hỏi được nhiều kinh
nghiệm từ các nhà đầu tư nước ngoài.
3.3.2. Thu hút vốn đầu tư trong nước
Bên cạnh nguồn vốn đầu tư của nước ngoài, nguồn vốn trong nước cũng
có vai trò rất lớn trong việc phát triển các ngành công nghiệp. Tuy nhiên, hiện
nay việc đầu tư bằng nguồn vốn trong nước vào các ngành công nghiệp còn rất
nhỏ bé so với khả năng thực tế. Để thu hút nguồn vốn trong nước đầu tư vào các
ngành công nghiệp trong thời gian tới, Nhà nước cần thực thi một số giải pháp:
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
99
- Nhà nước cần xây dựng lại cơ cấu đầu tư theo hướng tăng tỉ lệ đầu tư
trên GDP cao hơn, chú trọng đầu tư theo chiều sâu theo hướng nâng cấp, hiện
đại hoá dây chuyền sản xuất trong các doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước.
- Ngoài đầu tư trực tiếp, Nhà nước có thể đầu tư gián tiếp cho các ngành
công nghiệp thông qua việc tạo nhu cầu và thực hiện mua sắm các sản phẩm
công nghiệp, nhất là những sản phẩm tiêu dùng phục vụ cho bộ máy Nhà nước.
- Đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp Nhà nước trong các ngành công
nghiệp, đồng thời cải tổ mạnh mẽ các tổng công ty bằng các biện pháp như cổ
phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước nhằm nâng cao
hiệu quả sức cạnh tranh của các doanh nghiệp này, đồng thời có thể huy động
được vốn nhàn rỗi của dân, của các thành phần kinh tế.
- Khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân, các doanh nghiệp vừa
và nhỏ trong đầu tư phát triển công nghiệp bằng các biện pháp như tháo gỡ
những rào cản phân biệt đối xử với khu vực kinh tế tư nhân, tổ chức các hiệp hội
doanh nghiệp, thực hiện hỗ trợ R&D; phát huy vai trò của khu vực kinh tế tư
nhân, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc thiết lập và phát triển các
ngành công nghiệp bổ trợ cho các ngành công nghiệp chủ đạo; thiết lập hệ thống
các biện pháp nhằm khắc phục những bất lợi trong kinh doanh liên quan đến
hoạt động tài chính kế toán, thị trường tiêu thụ, khả năng cạnh tranh… của khu
vực này.
- Đối với những ngành công nghiệp trọng điểm, trong giai đoạn đầu, Nhà
nước tạo điều kiện cho vay dài hạn với lãi suất thấp, vốn đầu tư vào một số dự
án quan trọng nhằm tạo được vốn và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các
doanh nghiệp trong ngành công nghiệp ưu tiên.
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
100
- Cải cách toàn diện hệ thống ngân hàng, phát triển các loại hình ngân
hàng thương mại nhằm thu hút các nguồn tiết kiệm trong dân cư và các nguồn
tiết kiệm khác dành cho đầu tư.
- Đưa ra chính sách đồng bộ nhằm thu hút được các nguồn đầu tư trong
nước từ các địa phương thông qua việc đảm bảo cho các khoản đầu tư từ phía
Nhà nước như hỗ trợ đầu ra cho sản phẩm, chia xẻ một phần đầu tư ban đầu, hỗ
trợ kỹ thuật và chuyển giao công nghệ, đào tạo…
3.4. Xúc tiến xuất khẩu và bảo vệ thị trường cho các ngành công nghiệp
Nhà nước cần có chính sách tạo dựng thị trường trong và ngoài nước cũng
như bảo vệ thị trường cho các sản phẩm của các ngành công nghiệp, nhất là
những ngành công nghiệp “non trẻ”, có tiềm lực phát triển trong tương lai. Việc
tìm kiếm thị trường là vấn đề cốt lõi nhằm giải quyết tình trạng đình đốn trong
một số ngành công nghiệp hiện nay cũng như để phát triển các ngành công
nghiệp khác.
3.4.1. Đối với thị trường nội địa
Để mở rộng và bảo vệ thị trường trong nước, Nhà nước cần thực hiện một
số biện pháp sau:
- Nhà nước phải trở thành khách hàng của các ngành công nghiệp, các
công trình đầu tư hay mua sắm của Nhà nước sẽ được đặt hàng cho các ngành
sản xuất công nghiệp này, nhất là các sản phẩm về cơ khí chế tạo, điện tử và
công nghệ thông tin.
- Có chính sách khuyến khích tăng tỷ lệ nội địa hoá của các sản phẩm
công nghiệp và khuyến khích người dân dùng hàng nội địa khi trong nước đã có
khả năng sản xuất được.
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
101
- Thực hiện biện pháp kích cầu đối với thị trường nông thôn sức mua còn
hạn hẹp như cho nông dân vay vốn với lãi suất thấp, trả chậm để mua sắm các
thiết bị cơ giới hoá, phân bón thuốc trừ sâu…
- Đẩy mạnh công tác chống buôn lậu, ngăn chặn hàng nhập lậu, hàng kém
chất lượng, hàng giả thâm nhập vào thị trường lấn át hàng sản xuất trong nước.
- Ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật đối với những sản phẩm công nghiệp
quan trọng để ngăn chặn những hàng hoá, sản phẩm không mong muốn trên thị
trường, đồng thời cung cấp thông tin cho khách hàng, hướng dẫn họ mua những
sản phẩm đảm bảo chất lượng.
3.4.2. Đối với thị trường nước ngoài
Đi đôi với việc khuyến khích phát triển thị trường nội địa, Chính phủ cần
có các chính sách và biện pháp nhằm tìm kiếm thị trường nước ngoài cho các
sản phẩm công nghiệp:
- Xây dựng một số chương trình xúc tiến xuất khẩu các sản phẩm công
nghiệp bao gồm việc tăng cường các cơ hội tiếp cận thị trường ngoài nước cho
mọi thành phần kinh tế, cải thiện điều kiện tài trợ xuất khẩu cho các sản phẩm
này.
- Khuyến khích xuất khẩu thông qua thực hiện các ưu đãi về tín dụng,
thuế đối với các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu, nhất là đối với những mặt
hàng có giá trị gia tăng cao.
- Lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu cho các sản phẩm công nghiệp để tránh
những tác động tiêu cực do sự biến động của thị trường hàng hoá thế giới (khi
giá trên thị trường thế giới xuống thấp), khuyến khích các Hiệp hội của từng
ngành công nghiệp lập quỹ bảo hiểm riêng cho từng ngành.
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
102
- Hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp trong việc nghiên cứu thị trường
nước ngoài, thực hiện marketing đối với việc xuất khẩu, mở rộng mạng lưới đại
diện thương mại ở nước ngoài, tổ chức các cuộc triển lãm, thiết lập các quan hệ
với các tổ chức xuất nhập khẩu của các nước khác…
- Đưa ra các chính sách hướng tới tạo lập một môi trường thông tin đầy đủ
hơn, cho phép doanh nghiệp công nghiệp phản ứng nhanh hơn với những tín
hiệu của thị trường, nhất là thị trường quốc tế.
3.5. Hỗ trợ tài chính và cải cách hệ thống thuế
Trên quan điểm phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên và phát triển thị
trường sản phẩm công nghiệp, Nhà nước cần hỗ trợ về tài chính cho các ngành
công nghiệp như sau:
- Tạo lập quỹ hỗ trợ và bảo lãnh cho các doanh nghiệp công nghiệp nhất
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ để các doanh nghiệp có đủ khả năng để sản xuất
ra các sản phẩm xuất khẩu và đáp ứng nhu cầu trong nước.
- Đổi mới cơ chế chính sách cho phép các doanh nghiệp tiếp cận nguồn
vốn không cần thế chấp giống như cho nông dân vay vốn không cần thế chấp
trong lĩnh vực nông nghiệp. Việc này giảm bớt gánh nặng cho các doanh nghiệp,
khuyến khích họ mạnh dàn đầu tư và phát triển kinh doanh ở trong những lĩnh
vực mới.
Bên cạnh những hỗ trợ về tài chính, Nhà nước cần có những cải cách đối
với hệ thống thuế trên cơ sở:
- Đánh thuế theo tỷ lệ nội địa hoá để hạn chế nhập khẩu và khuyến khích
các doanh nghiệp sản xuất ngay trong nước, góp phần thúc đẩy phát triển các
ngành công nghiệp nguyên liệu, sản xuất các sản phẩm đầu vào cho các ngành
công nghiệp khác.
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
103
- Thuế suất đối với các mặt hàng xuất nhập khẩu nói chung, trong đó có
các sản phẩm công nghiệp nói riêng phải có tính ổn định tương đối, phải được
áp dụng trong một thời gian nhất định, không nên thay đổi một cách thường
xuyên như hiện nay.
- Đối với những ngành công nghiệp được khuyến khích phát triển và
những doanh nghiệp công nghiệp ở khu vực nông thôn, miền núi, Chính phủ có
chế độ miễn giảm thuế thật cụ thể.
3.6. Hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ trong các ngành công nghiệp
Công nghệ là một trong các yếu tố quan trọng nhằm nâng cao năng suất
lao động, chất lượng sản phẩm và tăng khả năng của doanh nghiệp và của ngành
công nghiệp. Đối với các ngành công nghiệp trọng điểm, yếu tố công nghệ càng
trở nên quan trọng hơn, giữ vai trò quyết định đối với sự tăng trưởng và phát
triển của ngành.
Để có được những công nghệ tiên tiến, phù hợp với trình độ của từng
ngành thì nhận chuyển giao công nghệ nước ngoài là con đường nhanh và hiệu
quả nhất. Nhận chuyển giao công nghệ được thực hiện qua hai kênh là nhập
khẩu thiết bị hay tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, hiện nay,
hiệu quả chuyển giao công nghệ vào các ngành công nghiệp chưa cao vì phần
lớn công nghệ được chuyển giao không phải là loại đạt tiêu chuẩn hàng đầu
quốc tế và còn thiếu các biện pháp tiếp thu và phát triển công nghệ thông qua
việc thu hút các kỹ sư, kỹ thuật viên tham gia hoàn thiện, sửa đổi chúng cho phù
hợp với điều kiện trong nước. Như vậy, để chuyển giao có hiệu quả cần tăng
cường năng lực tự thân của các doanh nghiệp công nghiệp trong việc tiếp nhận,
áp dụng và nâng cấp công nghệ.
Bên cạnh đó, Nhà nước có thể hỗ trợ phát triển khoa học công nghiệp
trong các ngành công nghiệp thông qua những biện pháp sau:
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
104
- Xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia về các thiết bị, công nghệ nhập
khẩu; nâng cao chất lượng thẩm định các dự án đầu tư đổi mới công nghệ trong
công nghiệp.
- Thực hiện nghiêm ngặt vấn đề sở hữu trí tuệ với hệ thống pháp lý có
hiệu lực, tăng cường khả năng tư vấn giúp các doanh nghiệp trong việc mua bán
công nghệ.
- Cho phép chuyển giao công nghệ theo các hợp đồng trên cơ sở tự do
thoả thuận và chịu sự điều chỉnh của các Bộ luật mà không cần đòi hỏi sự phê
duyệt của Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường trong từng trường hợp.
- Cho phép các công ty nước ngoài ký kết các hợp đồng dịch vụ chuyên
gia một cách rộng rãi với các doanh nghiệp trong nước, tài trợ tín dụng cho
doanh nghiệp công nghiệp trong việc đổi mới công nghệ.
Đồng thời, để đảm bảo cho sự phát triển độc lập và vững chắc của các
ngành công nghiệp, Nhà nước cũng cần đưa ra các biện pháp nhằm hỗ trợ,
khuyến khích nghiên cứu và triển khai:
- Tăng tỷ lệ chi ngân sách cho nghiên cứu và triển khai, giành ưu tiên
ngân sách nghiên cứu và triển khai cho các ngành công nghiệp trọng điểm, thực
hiện việc miễn thuế, cung cấp tín dụng và bảo lãnh tín dụng cho việc ứng dụng
công nghệ mới, giảm hoặc miễn thuế trong thời gian đầu với các sản phẩm có
hàm lượng công nghệ cao.
- Nâng cấp các trung tâm nghiên cứu khoa học và công nghệ tại các
trường đại học, phối hợp các dự án, các chương trình nghiên cứu với các doanh
nghiệp công nghiệp và các ứng dụng thương mại.
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
105
- Củng cố lĩnh vực dịch vụ kỹ thuật, công nghệ trong nước, đưa ra những
biện pháp khuyến khích sự phát triển của các văn phòng tư vấn thiết kế và kỹ
thuật của tư nhân.
Với sự nỗ lực từ phía các doanh nghiệp cộng thêm sự hỗ trợ của Nhà nước
thì nhất định ngành công nghiệp Việt Nam sẽ có được những công nghệ tiên tiến
và phù hợp nhất sự phát triển của mình.
3.7. Phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực cũng là yếu tố quyết định việc thực hiện thành công chiến
lược phát triển công nghiệp, phát triển những ngành công nghiệp trọng điểm.
Hiện tại, nguồn lao động Việt Nam dồi dào về số lượng nhưng chất lượng và thể
lực của đội ngũ này chưa cao. Có tới 86% tổng nguồn lao động của cả nước là
lao động thiếu kỹ năng. Chính vì vậy, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cho công
nghiệp cho phù hợp với nhu cầu sử dụng của các doanh nghiệp trong nền kinh tế
thị trường hiện đại là rất cần thiết. Các chính sách phát triển nguồn nhân lực cần
được triển khai theo hai hướng sau:
+ Đổi mới hệ thống giáo dục, đặc biệt là hệ đại học, đồng thời phát triển
các loại hình đào tạo nghề. Để có nguồn nhân lực chất lượng cao, cải cách từ
dưới lên là hướng đi cần thiết.
+ Xây dựng các chính sách thu hút và sử dụng nhân tài hợp lý, hiệu quả
nghiêm túc, tránh tình trạng lãng phí nhân tài, chảy máu chất xám. Các chính
sách này sẽ khiến nguồn nhân lực của nước ta dồi dào, chất lượng và có khả
năng phát triển cao.
3.8. Nâng cao năng lực hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
106
Không thể phủ nhận được ảnh hưởng của năng lực hoạt động quản lý kinh
tế của Nhà nước đối với việc lựa chọn các ngành công nghiệp ưu tiên cũng như
đề ra và thực hiện các chính sách khuyến khích hỗ trợ các ngành này. Chính vì
vậy, để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả chính sách công nghiệp , chú trọng vào
nâng cao năng lực hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước là việc làm rất cần
thiết
Năng lực hoạt động quản lý của Nhà nước có thể được nâng cao qua các
biện pháp:
- Thường xuyên hoàn thiện các chính sách kinh tế một cách đồng bộ theo
yêu cầu của cơ chế thị trường.
- Đào tạo đội ngũ chuyên gia thực sự có năng lực, có phẩm chất chính trị
trong lĩnh vực hoạch định chiến lược, phát triển kinh tế xã hội tầm vĩ mô. Đào
tạo mới và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, tạo cho họ những nhận thức mới
trong cơ chế thị trường. Sa thải những cán bộ thoái hoá biến chất, không còn
năng lực, kiên quyết chống lại và loại bỏ tình trạng tham nhũng trong bộ máy
quản lý của Nhà nước.
- Thực hiện cải cách các thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hoá, tiến
tới thực hiện chế độ “một cửa, một dấu” nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất - kinh doanh cũng như người dân trong
cuộc sống hàng ngày.
- Xây dựng một hệ thống pháp lý đồng bộ và vững chắc bao gồm hệ thống
luật lệ, quy định và các định chế cần thiết cho việc thực thi pháp luật.
Như vậy, bối cảnh quốc tế mới với các xu hướng phát triển đã đặt ra
những cơ hội và thách thức mới đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và nền
công nghiệp nói riêng. Việt Nam cần phải thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hoá,
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
107
hiện đại hoá, đẩy mạnh cải cách, phát triển kinh tế thị trường, tăng cường hội
nhập quốc tế. Vì thế, các chính sách công nghiệp cần phải có những sự điều
chỉnh phù hợp trong giai đoạn mới nhằm đạt được các mục tiêu về kinh tế – xã
hội. Và để làm được điều này thì sự đổi mới các chính sách công nghiệp là một
việc làm tiên quyết, không thể thiếu.
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
108
KẾT LUẬN
Trong hệ thống chính sách phát triển kinh tế của các quốc gia hiện nay,
chính sách công nghiệp hiện nay là một trong những chính sách quan trọng đối
với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và nền công nghiệp nói riêng. Sự
phát triển này đạt được thông qua sự lựa chọn và phân bổ các nguồn lực cho các
ngành công nghiệp ưu tiên, thực hiện những biện pháp, chính sách khuyến
khích, hỗ trợ các ngành công nghiệp phát triển.
Xét về lý thuyết kinh tế, các thất bại thị trường là cơ sở để các quốc gia
thực hiện chính sách công nghiệp và các tiêu chuẩn mang tính thực tế là những
tiêu chuẩn hữu ích khi nghiên cứu và hoạch định chính sách công nghiệp của các
quốc gia, nhất là đối với những nước đang phát triển. Tuy nhiên, chính sách
công nghiệp nào cũng có khả năng thất bại do những giới hạn về năng lực của
Nhà nước trong việc ra quyết định chính sách, chính sách công nghiệp thiếu suy
tính và chi phí can thiệp cao.
Xét trong thực tiễn, nhiều chính sách công nghiệp được thực hiện được
trong một thời kỳ nhất định ở các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc đều
đạt được kết quả tốt nhưng cũng có những chính sách không đem lại kết quả như
mong muốn mà còn hạn chế sư phát triển cảu một số ngành công nghiệp, từ đó
làm ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của nền kinh tế. Những phân tích về chính
sách công nghiệp của các nước trên đã đưa lại cho Việt Nam không ít những bài
học kinh nghiệm trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách công nghiệp.
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
109
Việc phân tích và đánh giá chính sách công nghiệp của Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới cho phép rút ra nhận xét là việc hoạch định và thực thi chính
sách công nghiệp đã đóng góp phần quan trọng vào những thành công của công
cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Chính sách công nghiệp đã chú trọng vào việc
lựa chọn, phát triển các ngành công nghiệp “hướng ra xuất khẩu, đồng thời thay
thế nhập khẩu” trên cơ sở tận dụng được lợi thế so sánh về nguồn nhân lực và tài
nguyên (công nghiệp khai thác dầu khí, công nghiệp chế biến…), đồng thời phát
triển các ngành công nghiệp then chốt tạo đà tăng trưởng trong tương lai (công
nghệ thông tin, công nghiệp hoá dầu…). Các ngành này không những được ưu
tiên phát triển ở các vùng kinh tế khác nhau dựa trên điều kiện của vùng mà còn
được khuyến khích phát triển trong mọi thành phần kinh tế với sự hỗ trợ từ phía
Nhà nước. Các biện pháp, chính sách hỗ trợ Nhà nước cho các ngành công
nghiệp bao gồm chính sách đầu tư, chính sách tài chính – tiền tệ, chính sách
hình thành và phát triển các khu chế xuất – khu công nghệ, chính sách phát triển
khoa học – công nghệ… Tuy nhiên, chính sách công nghiệp trong thời kỳ này
cũng có nhiều bất cập, trong nhiều trường hợp sự lựa chọn các ngành ưu tiên
còn mang nặng tính chủ qua, chưa sát với thực tế và tiểm năng, đầu tư chưa hiệu
quả, chất lượng và nâng suất lao động công nghiệp còn thấp, công nghệ còn lạc
hậu…
Trong điều kiện phát triển mới, với các mục tiêu mới của nền kinh tế mà
nhiều nhất là mục tiêu “cơ bản trở thành nước công nghiệp năm 2020” và đang
đặt ra nhiều thách thức to lớn đối với việc hoạch định và thực hiện các chính
sách kinh tế nhất là đối với chính sách công nghiệp. Điều này đòi hỏi phải không
ngừng hoàn thiện nâng cao hiệu quả của chính sách công nghiệp, coi đó là một
trong những nhiệm vụ cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện nhiệm vụ
đó, Nhà nước cần tập trung xác định được một số ngành công nghiệp trọng
điểm, có vai trò to lớn và tác động lâu dài đối với sự tăng trưởng, phát triển kinh
Đại học Ngoại Thương Hà Nội Đề tài tốt nghiệp: Chính sách công nghiệp của Việt
Nam
Khoa Kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế hiện
nay
SV: Vũ Hải Yến Lớp Nhật 3 - K38 F
110
tế trong tương lai nhằm tăng hiệu quả đầu tư, tăng khả năng cạnh tranh để Việt
Nam có thể có được một số ngành công nghiệp giữ vị trí quan trọng trong nền
công nghiệp thế giới. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần đề ra và thực hiện một
cách đồng bộ các chính sách hỗ trợ và hệ thống pháp lý để tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp công nghiệp hoạt động và phát triển.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- pdf Lu7853n v259n t7889t nghi7879p 8220Chnh sch cng nghi7879.pdf