Trong quá trình thực tập, nghiên cứu ở Vụ Công nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư , em nhận thấy rằng một thực tế cho cán bộ quản lý kinh tế quả là rất phong phú và phức tạp và có rất nhiều việc phải làm. Hiện tại, ở Vụ Công nghiệp đang có một nhóm nghiên cứu về dự án chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Được sự gợi ý giúp đỡ của chuyên viên Bùi Văn Hiền và cô giáo T.S Lê Thị Anh Vân cùng với những nỗ lực nghiên cứu của bản thân em đã hoàn thành đề tài trên về cơ bản, nhằm góp ý kiến của mình vào luận chứng khoa học chung về chính sách hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Mặc dù trong quá trình nghiên cứu em đã gặp không ít khó khăn như : Do trong một thời gian dài không có tiêu chí thống nhất và chính thức áp dụng để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên hệ thống số liệu thống kê rất phân tán và khó sử dụng để phân tích đánh giá một cách chính xác, khả quan về vai trò vị trí của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phần lớn các chỉ tiêu thống kê không được phân nhóm theo quy mô doanh nghiệp mà chỉ nhóm theo thành phần kinh tế hoặc loại hình doanh nghiệp. Đây là những khó khăn khách quan trong việc nghiên cứu khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ hai là: Do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn nên cũng có rất nhiều hạn chế. Tuy nhiên, em đã khắc phục khó khăn trên bằng cách sử dụng các số liệu, tư liệu gián tiếp liên quan đến doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời đưa ra một số ước tính mức độ đóng góp của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đối với nền kinh tế. Ngoài ra, cũng có sử dụng số liệu thống kê của khu vực ngoài quốc doanh hay trong ngành công nghiệp để minh hoạ cho thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này trong thực tế là có thể chấp nhận được vì phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô vừa và nhỏ cũng như thực trạng của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp cũng là thực trạng chung cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. Số liệu đưa ra phân tích đánh giá thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ mang tính tương đối nhằm xác định đặc điểm, xu thế phát triển và nhìn nhận đúng mức vị trí vai trò của khu vực này trong phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Trong khuôn khổ cho phép của chuyên đề em đã cố gắng trình bày sơ lược về thực trạng của chính sách hiện nay và đi kèm với các giải pháp và kiến nghị cụ thể. Tất nhiên, sẽ không tránh khỏi sơ suất trong lý luận và sắp xếp bố cục, em rất mong được sự thông cảm và ý kiến nhận xét của thầy cô cũng như tập thể cơ quan nơi em thực tập. Em xin chân thành cảm ơn!
101 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1492 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển khai chính sách vào thực tế.
Kết quả điều tra sâu với 2 vấn đề: doanh nghiệp vừa và nhỏ cần hỗ trợ những vấn đề gì và mức độ cần thiết của các vấn đề đó như thế nào đã cho kết quả là, các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất cần hỗ trợ về các mặt như theo thứ tự quan trọng giảm dần. (Xem bảng)
Thứ nhất: Có chính sách hỗ trợ đồng bộ; Thứ hai: hỗ trợ vốn; Thứ ba: hỗ trợ qua chính sách đầu tư, đất đai, thuế; Thứ tư: hỗ trợ về đào tạo, tiếp thị, chuyển giao công nghệ; Thứ năm: sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền; Thứ 6: hỗ trợ về cơ sở hạ tầng; Thứ bảy: tư vấn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Bảng 22: Những vấn đề cần hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ xếp theo thứ tự mức độ quan trọng giảm dần
Những vấn đề cần hỗ trợ
Mức độ quan quan trọng theo thứ tự giảm dần (%)
1
2
3
4
5
6
7
1. Chính sách đồng bộ
63,2
6,9
11,5
4,6
2,3
2,3
0
3. Chính sách đầu tư, đất đai, thuế
6,9
27,6
12,3
18,4
6,9
9,2
3,4
5. Giúp đỡ của chính quyền
3,4
9,2
13,8
5,7
19,5
17,2
21
2. Hỗ trợ về vốn
16,1
28,7
23,0
10,3
9,2
2,3
4. Hỗ trợ đào tạo, tiếp thị, chuyển giao công nghệ
2,3
14,9
14,9
23,0
11,4
13,8
3,4
7. Tư vấn cho doanh nghiệp
3,4
1,1
69
6,9
13,8
23,0
31
6. Xây dựng cơ sở hạ tầng
3,4
6,9
10,3
10,3
20,6
11,4
21
Nguồn: Kết quả điều tra về tác động của chính sách đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các tỉnh phía Bắc.
Ghi chú: Đối tượng điều tra: gồm 3 nhóm đối tượng.
- Quan chức hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách: 33,9%
- Chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ và những người hoạt động kinh doanh: 28,7%
- Các đối tượng khác: 13,65%
Từ kết quả trên có thể thấy, yêu cầu về hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn mang tính sơ khai, là những vấn đề rất căn bản (tháo gỡ chính sách, hỗ trợ vốn...) chứ chưa phải là những yêu cầu hỗ trợ theo chiều sâu (tư vấn, công nghệ, quản lý...). Trên thực tế, đến nay sự hỗ trợ đó của Nhà nước vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được các yêu cầu đó. ở các địa phương, sự hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng còn hạn chế, chưa thiết thực đối với các doanh nghiệp.
Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhà nước trung ương và chính quyền địa phương các cấp còn nhiều hạn chế và có thể nói đây là một trong những vấn đề yếu kém nhất trong hệ thống hỗ trợ chính sách doanh nghiệp vừa và nhỏ. Dưới đây là một số nét chính về những hạn chế của chính sách hỗ trợ:
- Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa rõ ràng và chưa có biện pháp thực hiện.
- Chưa tập trung hỗ trợ các vấn đề then chốt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ: vốn, thị trường, đào tạo...
- Phạm vi hỗ trợ còn rất hạn chế trong khi số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần hỗ trợ rất lớn.
Từ phân tích kết quả điều tra có thể khái quát thành mô hình "Những trở ngại của chính sách hỗ trợ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ" theo 8 yếu tố như dưới đây:
- Thuế: 24,1%
- Chính sách đầu tư: 52,9%.
- Điều kiện và khả năng huy động vốn: 56,3%.
- Hỗ trợ thị trường tiêu thụ sản phẩm.: 64,4%.
- Hỗ trợ về phát triển công nghệ: 66,7%.
- Hỗ trợ về đào tạo: 46,0%.
- Tư vấn lập nghiệp và tư vấn kinh doanh: 39,1%.
(Xem thêm bảng, được xử lý từ kết quả điều tra về sự tác động của chính sách đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các tỉnh phía Bắc).
Bảng 23: Những yếu tố thuận lợi và khó khăn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (%)
Các yếu tố
Thuận lợi
Bình thường
Khó khăn
1. Thuế
21,8
50,6
24,1
2. Chính sách đầu tư
18,4
28,7
52,9
3. Chính sách đất đai
14,9
63,2
20,7
4. Điều kiện và khả năng huy động vốn
17,2
18,4
56,3
5. Thị trường tiêu thụ sản phẩm
14,9
26,4
64,3
6. Hỗ trợ về phát triển công nghệ
18,4
14,9
66,7
7. Hỗ trợ về đào tạo
18,4
32,2
46,0
8. Tư vấn lập nghiệp và tư vấn kinh doanh
11,5
37,9
39,1
Xem lại số liệu này, ta thấy không có yếu tố nào của chính sách được đánh giá là thuận lợi. Phải chăng các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang đứng trước một môi trường chính sách không mấy thuận lợi. Chỉ có chính sách thuế và chính sách đất đai được đánh giá cao hơn cả. Tuy nhiên, cũng cần xem xét thêm những khó khăn nhất về chính sách đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ đó ta có thể phác họa mô hình những điểm "tắc nghẽn" trong lộ trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam như sau: (Dựa vào số liệu ở bảng trên).
Hình1: Những đặc tắc nghẽn trong lộ trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
79,3%
75,9%
60,9%
54,9%
48,1%
43,7%
35,6%
33,3%
Chính sách đất đai
Chính sách thuế
Tư vấn
Đào tạo
Chính sách đầu tư
Chính sách huy động vốn
Hỗ trợ Marketing
Hỗ trợ công nghệ
Như vậy, để tháo gỡ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển chúng ta cần tập trung vào những điểm nút như: Hỗ trợ công nghệ, hỗ trợ Marketing, chính sách huy động vốn...
Chương III
Một số giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
I. Cần có các chính sách về hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
1. Có cơ chế mô hình hỗ trợ hợp lý
ở Việt Nam cơ chế và mô hình hỗ trợ được đổi mới, cùng với việc đổi mới nền kinh tế, chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. So với trước đây, nhiều vấn đề về cơ chế hỗ trợ đã thay đổi căn bản. Tuy nhiên, do đổi mới sang nền kinh tế thị trường, nên cơ chế và mô hình hỗ trợ một mặt, chịu ảnh hưởng của tư duy theo cơ chế cũ mặt khác chưa thật phù hợp với điều kiện của nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường.
Điểm khác biệt lớn nhất trong cơ chế và mô hình hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ là có sự phân biệt giữa 2 nhóm doanh nghiệp: hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước khác với hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh.
Từ Đại hội VI của Đảng ( 1986 ) đến nay, với việc xoá bỏ cơ chế cũ, hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đã thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển mạnh, nhất là khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh. Do đó, đối tượng quản lý nhà nước đã thay đổi căn bản. Vì vậy, việc hỗ trợ các doanh nghiệp không chỉ cho các doanh nghiệp nhà nước mà còn cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Hơn nữa, trong chính sách kinh tế đã chú ý tới hiệu quả kinh tế, không quá chú trọng vào quy mô doanh nghiệp lớn như trước đây và việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ là chiến lược lâu dài trong sự đan xen với doanh nghiệp lớn. Nhiều văn kiện của Đại hội Đảng đã đề cập tới vấn đề này như : Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII và các Nghị quyết của các Hội nghị TW Đảng. Nhà nước và xã hội ủng hộ và khuyến khích các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động có hiệu quả và hợp pháp.
Điều quan trọng nhất của quan điểm hỗ trợ thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới là "cởi trói" cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để được phép kinh doanh. Hiện nay, quan điểm hỗ trợ các doanh nghiệp chủ yếu là làm cho các doanh nghiệp phát triển ngày càng tiên tiến, hiện đại và kinh doanh có hiệu quả, Hội nghị Ban chấp hành TW lần thứ 7khoá VIII chủ trương : " phát triển các loại hình doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ với công nghệ tiên tiến, vốn đầu tư ít, sinh lời cao, thời gian thu hồi vốn nhanh".
ở Việt Nam, hiện mới chỉ có chiến lược phát triển kinh tế chung cho toàn bộ nền kinh tế, chưa có chiến lược xác định ưu tiên cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong chiến lược chung việc xác định ưu tiên ( ngành, nghề, sản phẩm, địa bàn... ) chưa thực sự dựa trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế và lợi thế so sánh của từng vùng làm căn cứ. Việc thực thi chiến lược và quy hoạch còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng bao cấp. Điều đó, được thể hiện rõ nét qua chiến lược đầu tư mà trước hết là cơ cấu đầu tư. Cơ cấu đầu tư tuy đã có đổi mới, nhưng vẫn chú trọng vào công nghiệp nặng hoặc vẫn dồn vốn vào những ngành, công trình, dự án chưa được đánh giá hoạt động kinh tế - xã hội một cách chặt chẽ. Nhà nước vẫn còn bao cấp nhiều lĩnh vực trong đầu tư vốn mà lẽ ra phải để cho nhân dân tự làm.
Chưa kết hợp đúng đắn giữa chiến lược ( định hướng lớn ) với kế hoạch (bước đi và giải pháp cho từng thời kỳ) và chính sách (các biện pháp cụ thể thực hiện các định hướng đó ). Hiện đang có xu hướng coi nhẹ kế hoạch, quy hoạch, dự báo... khi chuyển sang cơ chế thị trường.
2. Đổi mới quan điểm hỗ trợ
2.1. Quan điểm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ cần đặt trên cơ sở quan điểm, mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế đất nước
Để có thể đổi mới quan điểm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trước hết cần phải nhận thức đúng vai trò quan trọng của các doanh nghiệp này trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về phát triển chiến lược kết hợp quy mô lớn trong sự đan xen với quy mô vừa và nhỏ. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định : " Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn, thực sự cần thiết và có hiệu quả"( Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII -Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội, 1997, tr 85.
).
Đây là một quan điểm chiến lược vừa có ý nghĩa định hướng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển đúng đắn, vừa định hướng hoạt động hỗ trợ cho các doanh nghiệp này từ các phía các ngành các cấp. Như vậy, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ không phải là sự ưu ái, ban ơn mà là trách nhiệm của các tổ chức Đảng, chính quyền và toàn xã hội, trong đó có các doanh nghiệp lớn.
2.2. Quan điểm hỗ trợ trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm thước đo
Vấn đề này tưởng như hiển nhiên, nhưng trên thực tế ở Việt Nam vẫn chưa được thực hiện đúng mức.
Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ theo quan điểm kinh tế - xã hội thể hiện : một mặt, hỗ trợ nhằm đạt được mục đích làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ doanh nghiệp hiệu quả hơn, mặt khác, cần tính đến cả hiệu quả của việc hỗ trợ. Trong điều kiện nguồn lực có hạn, nhu cầu hỗ trợ thì vô hạn nên cần phải xây dựng thứ tự ưu tiên. Dưới đây là một số nét chính:
- Hỗ trợ trước hết đối với doanh nghiệp ngành trong lĩnh vực có hiệu quả kinh tế: suất sinh lợi cao cả trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao, bao gồm cả hiệu quả kinh tế và cả ý nghĩa xã hội trong từng giai đoạn phát triển, góp phần thực hiện các mục đích xã hội như giải quyết việc làm, công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo...
- Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ làm ăn hiệu quả đồng thời gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái. Qua kết quả điều tra cho thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã góp phần to lớn vào việc làm ô nhiễm đó ( do công nghệ của các doanh nghiệp này quá lạc hậu, các cơ quan chức năng chưa có các giải pháp hữu hiệu để kiểm soát nhằm hạn chế việc gây ô nhiễm). Nhà nước đã chi rất nhiều công sức, tiền của để khắc phục nhưng kết quả được không đáng kể.
- Hỗ trợ theo phương thức hiệu quả nhất : xu hướng hỗ trợ ở nhiều nước là giảm những tác động trực tiếp, tăng những giải pháp gián tiếp, tác động ít nhưng hiệu quả cao và hiệu ứng rộng. Hiện nay, các nước có rất nhiều cách
thức hỗ trợ có hiệu quả: chẳng hạn thay vì cấp vốn lãi suất ưu đãi hoặc bắt buộc ngân hàng cho các doanh nghiệp vay thì chỉ cần trợ cấp lãi ( Nhà nước bù chênh lệch lãi suất giữa thị trường và lãi suất cho vay ưu đãi đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ).
- Kết hợp hỗ trợ của Nhà nước với hỗ trợ của cộng đồng, thông qua các hiệp hội nghề nghiệp, sự hỗ trợ của doanh nghiệp lớn, các tổ chức phi chính phủ trong nước và nước ngoài.
2.3. Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ cần thiết thực và gắn với thực tế
Điều này có ý nghĩa là hỗ trợ những mắt khâu mà doanh nghiệp rất cần và tự doanh nghiệp không thể giải quyết được. Đồng thời, việc hỗ trợ cần gắn với điều kiện cụ thể của từng địa phương, trong từng thời kỳ nhất định. Ngoài ra cần tìm những phương thức phù hợp để các nguồn lực hỗ trợ đến đúng đối tượng, tránh thất thoát và tiêu cực có thể xẩy ra.
2.4. Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng ngành nghề
Trong chính sách hỗ trợ cần có những vấn đề chung nhưng đồng thời cần có những điểm riêng biệt để phát huy lợi thế của từng vùng, từng ngành nghề. Chẳng hạn, cần chú trọng đặc điểm phát triển và những khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp ở nông thôn và miền núi khác với ở đô thị. Việc khuyến khích phát triển các làng nghề truyền thống khác với phát triển các nghề mới, phát triển các ngành cần nhiều lao động khác với các ngành cần nhiều vốn... Hiện nay, nhiều tiềm năng trong dân như : vốn, lao động tay nghề tinh xảo, trí tuệ, kinh nghiệm kinh doanh.. cũng như các tiềm năng tự nhiên như khả năng phát triển du lịch, dịch vụ... chưa được khai thác tốt. Việc khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ không nên dàn đều mà căn cứ vào lợi thế của từng nơi, từng ngành nghề để có các giải pháp hỗ trợ đúng lúc, đúng cách.
2.5. Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cho các doanh nghiệp này phát triển theo hướng công nghiệp hoá kinh doanh ngày càng văn minh hiện đại
Để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần đặc biệt chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các khâu quan trọng như công nghệ, đào tạo, cung cấp thông tin thị trường và dự báo xu hướng phát triển trong nước và quốc tế... Đồng thời, cần có những giải pháp để khuyến khích đầu tư công nghệ sạch, công nghệ mới, tìm kiếm các giải pháp cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất...
Để thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh ngày càng văn minh, cần khuyến khích các doanh nghiệp này kinh doanh đúng luật, làm ăn công khai... Cùng với việc hỗ trợ, cần thiết phải có biện pháp tốt để kiểm soát việc sử dụng các công nghệ, đặc biệt là công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường.
3. Đổi mới phương thức hỗ trợ
Việc lựa chọn phương thức hỗ trợ có ý nghĩa quan trọng, quyết định tính thực thi và hiệu quả các hình thức hỗ trợ. Phương thức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thực tế ở Việt Nam hiện nay thường đi theo hai hướng : Đối với các doanh nghiệp nhà nước quy mô vừa và nhỏ trong thời kỳ đầu thì thiên về hỗ trợ trực tiếp (cấp vốn, mặt bằng, đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp) với nhiều chính sách ưu đãi hơn; đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh; phương thức hỗ trợ chủ yếu là gián tiếp dưới dạng giảm thuế, cho vay với lãi suất ưu đãi. Tuy nhiên mức độ hỗ trợ còn ít so với nhu cầu của các doanh nghiệp.
Có nhiều phương thức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ: hỗ trợ trực tiếp, hỗ trợ gián tiếp, kết hợp cả trực tiếp và gián tiếp, hỗ trợ dẫn đường, hỗ trợ qua trung gian...
Hỗ trợ trực tiếp bao gồm:
- Đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép, rút giấy phép, kiểm tra.
- Cấp vốn.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Đào tạo chủ doanh nghiệp, người lao động.
- Cung cấp thông tin.
- Cung cấp ưu đãi về mặt hàng sản xuất - kinh doanh.
Hỗ trợ gián tiếp: Chủ yếu là tác động thông qua môi trường kinh doanh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Các giải pháp chủ yếu là:
- Hình thành môi trường kinh doanh ổn định, an toàn và bảo hộ quyền lợi hợp pháp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (bao gồm môi trường thể chế, môi trường luật pháp, môi trường thị trường, môi trường cơ sở hạ tầng...)
- Ưu đãi về thuế (giảm thuế, miễn thuế).
- Bảo hộ sản xuất trong nước hợp lý, chống nhập lậu hàng ngoại.
- Tạo điều kiện để các doanh nghiệp vừa và nhỏ hợp tác và liên doanh với nước ngoài.
Hỗ trợ dẫn đường: Nhà nước có vai trò đi tiên phong trong những lĩnh vực hỗ trợ các công ty tư vấn, các viên nghiên cứu ...
ở Việt Nam hiện nay, để hỗ trợ có kết quả tốt cần chú trọng một số phương thức sau:
Kết hợp hỗ trợ trực tiếp với gián tiếp. Trong đó, cần đặc biệt chú trọng các giải pháp: Đơn giản hoá thủ tục hành chính; hỗ trợ thông qua chiến lược, chính sách, đồng thời với hỗ trợ trực tiếp thông qua cung cấp cơ sở hạ tầng, hỗ trợ lãi suất, miễn, giảm thuế; hỗ trợ đào tạo chủ doanh nghiệp; cung cấp thông tin về công nghệ, thị trường trong và ngoài nước. Khuyến khích các hình thức hỗ trợ mang tính cộng đồng, liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ bởi cơ cấu sản xuất nhiều tầng.
Ngoài ra, cần chú ý tới cách thức hỗ trợ bằng quy hoạch phát triển, tạo lập cơ sở hạ tầng, xây dựng các cơ sở kinh tế làm tiên phong trong một số lĩnh vực đòi hỏi nhiều vốn như công nghệ cao; hỗ trợ thông qua tổ chức trung gian như ngân hàng, các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các biện pháp cụ thể, thiết thực khuyến khích hình thành và phát triển các công ty... dịch vụ tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ (thay vì Nhà nước phải đứng ra thành lập các cơ sở hỗ trợ thì chỉ cần hỗ trợ một phần cho các trung tâm này hoạt động).
4. Hình thành khung khổ pháp lý hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hỗ trợ là một trong những chức năng cơ bản của Nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp này thì cần thiết phải có một khung khổ pháp lý rõ ràng và chuẩn xác. Vì nó là điều kiện quan trọng đầu tiên làm cơ sở pháp lý cho việc hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ. Khung khổ pháp lý bao gồm những quy định có liên quan tới doanh nghiệp vừa và nhỏ và những quy định riêng cho các doanh nghiệp này. Trên tinh thần đó, cần tập trung thực hiện một số biện pháp sau:
Ban hành, bổ sung và sửa đổi các chính sách, quy định hiện hành liên quan đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là giải pháp nhằm để loại bỏ sự mâu thuẫn trong hệ thống các văn bản, quy phạm pháp luật, gây khó khăn, cản trở cho các doanh nghiệp. Hệ thống chính sách này định kỳ cần được xem xét, nghiên cứu và sửa đổi, bổ sung những điểm không còn phù hợp với hoàn cảnh kinh tế hiện tại và không thích hợp với môt trường kinh doanh của các doanh nghiệp. Đồng thời, cần thay đổi quy trình xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật. Hiện nay, các văn bản pháp luật khi ban hành nên kèm theo văn bản hướng dẫn. Vì, để tránh tình trạng mất bình đẳng do không thống nhất về thời gian và không gian.
Trên cơ sở những định hướng của Đảng, trong thời gian Nhà nước tiến hành tạo lập khung khổ pháp luật cần thiết cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động. Mở đầu là một số Nghị định của Chính phủ nhằm khuyến khích khu vực ngoài quốc doanh (Chủ yếu là quy mô nhỏ) như các Nghị định 27, 28, 29/HĐBT về kinh tế tư nhân, cá thể, hợp tác xã và kinh tế gia đình; Nghị định 66/HDBT về hộ kinh doanh dưới vốn pháp định... Nhà nước đã ban hành các luật liên quan đến doanh nghiệp vừa và nhỏ như Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật Hợp tác xã, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài, Luật doanh nghiệp nhà nước và gần đây Luật doanh nghiệp đã có hiệu lực từ ngày 1/1/2006. Tuy còn thiếu nhiều luật, đặc biệt là luật bảo vệ lợi ích và khuyến khích phát triển xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng bước đầu đã tạo ra cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động.
Sớm ban hành các luật riêng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ:
+ Xác định rõ đối tượng điều chỉnh (doanh nghiệp cần hỗ trợ) tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như khung khổ các trị số của các tiêu chí, địa vị pháp lý của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mối quan hệ với cơ quan quản lý nhà nước.
+ Có các giải pháp khung hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+ Các giải pháp khung để bảo hộ quyền lợi ích hợp pháp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+ Xác định trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và toàn xã hội trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp này.
Các luật riêng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể là: Luật Cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ, Luật Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ, Luật Bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ...
Hiện nay, việc quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khác nhau tuỳ vào loại hình doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ do các Bộ, các ngành, các địa phương hoặc do một số cơ quan (doanh nghiệp toàn thể) quản lý. Trong khi đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh chưa có cơ quan quản lý nhà nước đích thực mà mới chỉ thực hiện cấp giấy phép kinh doanh, đăng ký kinh doanh và thực hiện các chức năng rất hạn chế như thu thuế, kiểm tra ô nhiễm môi trường... Tuy nhiên, trên thực tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại có quá nhiều đầu mối "quản": các cơ quan chính quyền, các tổ chức xã hội, thậm chí cả cá tổ chức đoàn thể ... gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó đã đến lúc cần thành lập cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, cơ quan này là đầu nối giữa Nhà nước và doanh nghiệp, có chức năng chủ yếu là :
- Giúp Nhà nước hoạch định chiến lược và chính sách phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Nắm bắt tình hình nguyện vọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, dự báo xu hướng phát triển.
- Cung cấp thông tin cần thiết về chính sách, thị trường, công nghệ, lao động... cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Thực hiện các chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ về các mặt như chuyển giao công nghệ, đào tạo chủ doanh nghiệp, hỗ trợ vốn...
- Xúc tiến hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc tìm kiếm các đối tác trong nước và ngoài nước, giúp các doanh nghiệp ký kết các hợp đồng kinh tế.
- Thực hiện việc kiểm tra chất lượng sản phẩm.
- Quản lý môi trường.
- Đào tạo chủ doanh nghiệp.
- Kiểm tra việc chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Hợp tác quốc tế về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhà nước hoạch định chiến lược và chính sách phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Một trong những yếu tố quan trọng nhất có tính chất quyết định trong chiến lược hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là sớm ban hành các văn bản thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước trong việc khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ (về tài chính, tín dụng, thuế, đất đai, đào tạo, chuyển giao công nghệ, thông tin...)
II. Các giải pháp cụ thể mang tính cấp bách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Cùng với chính sách của Nhà nước, Chính phủ cần tiến hành đồng bộ các chương trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chẳng hạn như:
1. Chương trình hỗ trợ đào tào.
Cần thiết phải đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ vì họ có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Họ là những người trực tiếp sử dụng các nguồn lực để tạo ra của cải và vật chất, trực tiếp quản lý người lao động. ở Việt Nam, đội ngũ các nhà kinh doanh hiện nay còn nhiều vấn đề bất cập. Việc đào tạo nhằm củng cố cung cấp kiến thức về luật pháp, kinh tế, công nghệ, quản lý... Các hình thức đào tạo chủ yếu là:
- Mở các lớp đào tạo ngắn hạn, dài hạn cho các chuyên gia Việt Nam và nước ngoài giảng dạy.
- Khuyến khích và hỗ trợ hoạt động đào tạo nghề công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp để sản xuất hàng xuất khẩu với chất lượng tốt.
- Hướng dẫn các doanh nghiệp vừa và nhỏ phương thức, kinh nghiệm tìm hiểu, thâm nhập thị trường ngoài nước.
- Sử dụng quỹ đào tạo lại, bồi dưỡng nghiệp vụ kinh doanh cho các chủ doanh nghiệp.
- Khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ tự đào tạo, Nhà nước có thể trích một phần thuế trong nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp giữ lại làm quỹ đào tạo, giảm phần chi phí đào tạo trong tổng thu nhập chịu thuế cho các doanh nghiệp.
2. Chương trình cung cấp thông tin.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang rất thiếu thông tin về thị trường, công nghệ, luật pháp, kinh tế, khách hàng, đối tác kinh doanh... do đó Nhà nước cần thiết phải hỗ trợ, thiết lập hệ thống thông tin cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các giải pháp thông tin hỗ trợ có thể là:
+ Thành lập các ngân hàng dữ liệu về các doanh nghiệp vừa và nhỏ về thị trường, công nghệ... để cung cấp hoặc bán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ với giá hợp lý.
+ Phổ biến kinh nghiệm sản xuất kinh doanh hàng hoá xuất khẩu bằng nhiều hình thức.
+ Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất hàng xuất khẩu, tham gia các chợ triển lãm ở trong và ngoài nước, ký kết hợp đồng kinh tế với các đối tác trong và ngoài nước.
+ Tổ chức các câu lạc bộ, các hiệp hội ngành nghề để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể trao đổi học tập kinh nghiệm của nhau trong sản xuất kinh doanh.
+ Khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu và sử dụng phương tiện quản lý thông tin hiện đại như: mạng thông tin... để các doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc với các cơ sở dữ liệu hiện đại trong và ngoài nước.
3. Chương trình hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng.
Xây dựng cơ sở hạ tầng là điều kiện cơ bản, là tiền đề rất quan trọng thúc đẩy phát triển sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. ở nhiều vùng trong nước, cơ sở hạ tầng như giao thông, điện nước kém phát triển, đó là trở ngại lớn đối với các doanh nghiệp. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng rất tốn kém, chậm thu hồi vốn và sinh lãi nên các doanh nghiệp không muốn đầu tư hơn nữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ không đủ sức đầu tư vào cơ sở hạ tầng, do đó rất cần sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước. Đây là một trong những lĩnh vực hỗ trợ chủ yếu của Nhà nước. Tuy nhiên, do ngân sách nhà nước Trung ương và địa phương còn hạn chế, nên cần:
+ Đầu tư theo trọng điểm, tập trung vào những công trình mang hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
+ Hỗ trợ việc củng cố, nâng cao chất lượng các làng nghề truyền thống và xây dựng các khu công nghiệp vừa và nhỏ để giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ mở rộng sản xuất.
+ Kết hợp với Nhà nước, địa phương và nhân dân cùng làm. ở một số địa phương đã có một số mô hình có hiệu quả. Kết hợp giữa vốn của Nhà nước, một phần vốn và quản lý của địa phương với một phần vốn và lao động của nhân dân, của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
4. Chương trình hỗ trợ chuyển giao công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những nơi thu hút đông đảo lao động, ít vốn cần được phát triển mạnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá khi có sự hỗ trợ của Nhà nước để tạo ra thị trường rộng lớn, có thiết bị công nghệ tiên tiến thích hợp để sản xuất hàng hoá chất lượng cao (có đủ sức cạnh tranh với hàng ngoaị nhập).
Trong quá trình toàn cầu hoá, hàng hoá được sản xuất trên cơ sở công nghệ cao đóng vai trò rất quan trọng trong sự cạnh tranh quốc tế khốc liệt, vì vậy Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ và các hoạt động phát triển kỹ thuật khác. Hỗ trợ việc xây dựng hệ thống tổ chức sản xuất cho các doanh nghiệp này theo tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000 và các mô hình quản lý chất lượng khác.
5. Chương trình hỗ trợ về tài chính, tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để có vốn sản xuất kinh doanh.
Một trong những khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là thiếu vốn. ở Hàn Quốc, Chính phủ đã quy định các tổ chức tài chính dành một tỷ lệ nhất định trong toàn bộ khoản cho vay với lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, Nhà nước nên sớm thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng, quỹ hỗ trợ kinh doanh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các quỹ này được sử dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay ưu đãi để có vốn đầu tư công nghệ, tự động hoá trang thiết bị, phát triển công nghệ cao để nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành xuất khẩu để có đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nhà nước và các địa phương cần quy định mức thưởng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất các mặt hàng xuất khẩu và thay thế nhập khẩu.
6. Chương trình hỗ trợ xúc tiến thương mại, tiếp thị, hợp tác quốc tế và đầu tư .
Việc nghiên cứu, nắm bắt các thông tin về thị trường sẽ giúp các bộ quản lý, các nhà hoạch định, các doanh nghiệp vạch ra những chiến lược trong việc giữ vững thị trường hiện có và mở rộng thị trường kinh doanh sang lĩnh vực khác. Trong giai đoạn hiện nay, ngoài phương pháp tiếp thị truyền thống (đi khảo sát ngiên cứu thị trường...) đã đề xuất phương pháp tiếp thị hiện đại qua Intenet, Nhà nước cần quan tâm hỗ trợ lập chương trình hệ thống thông tin quản lý bằng máy tính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Sự phát triển nhanh chóng của quá trình toàn cầu hoá và của nền kinh tế thế giới đã khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ các nước mở rộng sự hợp tác đầu tư và cạnh tranh với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. Đây là một cơ hội đồng thời cũng là thách thức đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn tới.
III. Các giải pháp hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là vấn đề rất cấp bách hiện nay:
- Vì với số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ khá lớn như hiện nay, các giải pháp hỗ trợ trực tiếp rất khó bao quát hết mà chỉ có thông qua chính sách hỗ trợ mới có thể tác động được trên diện rộng. Thực tế công cuộc đổi mới ở Việt Nam cho thấy, việc tháo gỡ trong chính sách có tác động rất nhanh chóng tới toàn bộ nền kinh tế nhờ đó, chỉ trong thời gian ngắn đã làm cho Việt Nam từ một nước thường xuyên phải nhập khẩu gạo thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới.
- Mặc dù chính sách có vai trò lớn như vậy, nhưng trong chính sách của Nhà nước hiện nay còn nhiều trở ngại cho phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (như phân tích ở trên), đặc biệt là trong chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Dưới đây là một số đề xuất về đổi mới chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
1. Hoàn thiện chính sách thuế.
Cần đổi mới chính sách thuế theo hai nội dung.
* Hệ thống thuế chung đổi mới theo các hướng:
- Đơn giản hoá hệ thống thuế suất, hạ mức thuế suất.
- Tránh đánh thuế chồng chéo.
- Cải cách cơ chế định - thu- kiểm tra thuế theo hướng có sự độc lập giữa các bộ phận này, có thể kiểm tra lẫn nhau.
- Thực hiện cơ chế tự khai báo mức thuế, Nhà nước kiểm định và doanh nghiệp tự nộp thuế...
- Đảm bảo công bằng, bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc và thành phần kinh tế, đồng thời ưu tiên các doanh nghiệp trong nước hơn. Hiện nay đang có tình trạng trái ngược: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có nhiều ưu thế hơn thì lại nộp thuế lợi tức thấp hơn các doanh nghiệp trong nước.
* Chính sách thuế đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ: cần đổi mới theo hướng mở rộng đối tượng được ưu đãi, tăng mức độ ưu đãi...
- Mở rộng đối tượng được ưu đãi: đến nay, trong các chính sách thuế của Nhà nước loại đối tượng được ưu đãi về thuế không nhiều, chỉ có các doanh nghiệp mới thành lập sau năm 1999 (mà phần lớn đã qua hạn 2 năm được ưu đãi theo luật định), doanh nghiệp ở vùng núi hải đảo, một dố doanh nghiệp trong ngành nghề chế biến nông sản. Như vậy, trong chính sách ưu đãi thuế chưa quan tâm tới sự phát triển yếu ớt của các doanh nghiệp vừa và nhỏ để hỗ trợ các doanh nghiệp này đứng vững và kinh doanh có hiệu quả.
Do đó, trong chính sách ưu đãi thuế cần mở rộng đối tượng hơn nữa, vì có như vậy mới nuôi dưỡng được nguồn thu đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tích lũy, phát triển sản xuất, mở rộng quy mô.
- Tăng mức độ ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ: thời gian qua, mức ưu đãi đã tăng lên nhưng vẫn còn rất dè dặt, chỉ miễn giảm thuế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ 1 - 2 năm, trong khi mức ưu đãi thuế ở nhiều nước là từ 4 - 5 năm. Hơn nữa mức giảm thuế còn thấp, số đối tượng được miễn thuế còn ít. Do đó, để các doanh nghiệp có tích luỹ ban đầu cho phát triển sản xuất, đứng vững được thì cần phải tăng mức ưu đãi thuế từ 3 - 5 năm. Miễn thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào công nghệ hiện đại, công nghệ sạch. Miễn thuế cho các khâu chi phí đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, cũng như đầu tư vào sản xuất sản phẩm mới.
- Có hình thức và mức độ ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, huy động nhiều vốn. Hiện nay đang có tình trạng, doanh nghiệp càng huy động nhiều lao động (chi phí biên tăng lên) thì mức thuế càng cao. Như vậy, sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng quy mô. Mà các nước khác thì đều có xu hướng mở rộng quy mô doanh nghiệp, vì quy mô quá nhỏ sẽ không hiệu quả.
2. Hoàn thiện chính sách tín dụng.
Bao gồm các giải pháp cho việc tạo lập, huy động và sử dụng vốn có hiệu quả cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các giải pháp tháo gỡ về vốn có vai trò rất lớn đối với các doanh nghiệp doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó, cần thiết phải có hai nhóm giải pháp tác động tới tình hình vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ: chính sách tín dụng nói chung (tác động tới nền kinh tế, trong đó có doanh nghiệp vừa và nhỏ) và các chính sách tín dụng riêng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
* Chính sách tín dụng chung chính sách này có tác động mạnh tới cải thiện tình hành vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để tạo điều kiện thuận lợi cho, các doanh nghiệp huy động vốn an toàn thuận lợi và có hiệu quả, cần thiết phải có đổi mới theo hướng:
- Nhà nước chỉ nên điều tiết lãi suất bằng phương pháp thị trường mở và dự trữ bắt buộc, điều chỉnh lãi suất trần một cách linh hoạt cần sát với cân bằng cung cầu vốn trên thị trường. Việc khống chế mức lãi suất trần cứng nhắc như hiện nay sẽ làm hoạt động cho vay của ngân hàng bị hạn chế đáng kể.
- Mở rộng cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng: giải pháp này nhằm thiết lập thị trường thực sự, ổn định lãi suất, giảm bớt phiền hà cho khách hàng trong việc vay vốn.
- Giảm bớt thủ tục vay vốn, mở rộng mạng lưới cho vay và các hình thức huy động, khuyến khích cạnh tranh hợp pháp.
- Phát hiện quỹ tín dụng nhân dân.
- Phát triển các định chế tài chính cung cấp vốn trung và dài hạn như thị trường chứng khoán, thị trường vốn trung – dài hạn.
* Chính sách và các giải pháp về vốn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Như trên đã phân tích, do yếu thế nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tiếp cận được với các nguồn vốn. Vì vậy, ngoài chính sách vốn chung cho các doanh nghiệp, cần thiết phải có những ưu đãi vốn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ để hỗ trợ cho các doanh nghiệp này phát triển bình thường. Để hỗ trợ vốn có hiệu quả cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần thiết phải đổi mới chính sách tín dụng đối với các doanh nghiệp này theo hướng: ưu đãi lãi suất và khuyến khích thành lập các trung tâm hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Ưu đãi lãi suất: như đã phân tích, lãi suất tiền vay là khá cao đối với các doanh nghiệp và càng cao hơn nữa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, do số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ khá lớn trong nền kinh tế, mà nguồn tài chính để hỗ trợ thì có hạn, nên không thể ưu đãi được tất cả các doanh nghiệp này. Vì vậy, cần chọn đúng đối tượng thì với nguồn lực ít mới có thể hỗ trợ hiệu quả. Chỉ nên ưu đãi lãi suất cho các doanh nghiệp có triển vọng kinh doanh hiệu quả, các doanh nghiệp gắn với các nhiệm vụ, chiến lược và hỗ trợ cho các hoạt động như đầu tư vào công nghệ mới, sản xuất thử, nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ mới, đào tạo nghề...Tuy nhiên, để hỗ trợ được nhiều doanh nghiệp trong điều kiện nguồn lực (nguồn tài chính có hạn) cần có những biện pháp đặc biệt. Một trong những giải pháp đó là trợ cấp lãi suất cho đối tượng được hỗ trợ, tức là bù chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay.
- Thành lập các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các nguồn đó có thể là: từ ngân sách nhà nước trung ương và địa phương, từ các doanh nghiệp lớn, thị trường từ các tổ chức trong và ngoài nước. Quỹ này có thể do Nhà nước quản lý và cũng có thể thuê một trung tâm chuyên trách quản lý. Việc sử dụng quỹ này do Nhà nước quản lý với sự nhất trí của người tài trợ thông qua trung gian là người chuyên trách về vốn (thường là ngân hàng). Quỹ này hỗ trợ cho các hoạt động như đào tạo chủ doanh nghiệp, đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ các trung tâm tư vấn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hoạt động về cung cấp thông tin kinh tế, khoa học công nghệ... cần thiết cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Thành lập trung tâm bảo lãnh: đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một trong những khó khăn nhất là không có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Do đó rất cần tổ chức trung gian là cầu nối giữa doanh nghiệp và ngân hàng để tạo cho các doanh nghiệp vay vốn. Một trong các hình thức đó là quỹ bão lãnh tín dụng. Thực chất của quỹ bão lãnh tín dụng là giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhu cầu vay vốn ở ngân hàng và có dự án khả thi nhưng không đủ tài sản để thế chấp thì quỹ này đứng ra bão lãnh cho các doanh nghiệp này được vay. Quỹ bão lãnh tín dụng vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn, vừa là hình thức ràng buộc chặt chẽ giữa người vay ( doanh nghiệp) người cho vay ( ngân hàng), các tổ chức trung gian (các công ty bão lãnh) và Nhà nước, nhờ đó mà giảm bớt mức độ rũi ro khi vay vốn. Đề án quỹ bão lãnh tín dụng này đã được Hội đồng trung ương liên minh các HTX Việt Nam xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ngày 25 - 12 - 2004 .
Cũng do nhiều điều kiện nên quỹ này hoạt động chưa rộng. Tuy vậy , đây là mô hình cần được ngiên cứu để nhân rộng ra cả nước, đặc biệt là các tỉnh phía nam mới có nền kinh tế thị trường phát triển, nhu cầu vốn lớn.
- Sớm hình thành thị trường thuê mua: Tín dụng thuê mua là một hình thức của đầu tư cơ bản, là biện pháp thay thế vốn ngân hàng. Tín dụng thuê mua có đặc điểm của hoạt động tín dụng nhưng vì tài sản sử dụng thuộc quyền sử dụng của công ty thuê mua nên thực tế các doanh nghiệp thuê nguồn sử dụng đó đã mang tính thế chấp trong vay mượn, điểm thuận lợi này giúp cho các nhà doanh nghiệp ít vốn hoặc không có tài sản thế chấp dễ dàng có được tài sản để tiến hành sản xuất kinh doanh. Tín dụng thuê mua còn có đặc điểm là: Công ty thuê mua sẽ hỗ trợ đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật cho người thuê để đạt được hiệu quả khi sử dụng tài sản cho thuê. Vậy hình thức này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiến hành sản xuất kinh doanh trong điều kiện thiéu vốn. Những thuận lợi đó là :
+ Doanh nghiệp có tài sản để tiến hành sản xuất kinh doanh mà không cần vay vốn trung hạn và dài hạn ở ngân hàng.
+ Doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội kinh doanh.
+ Thủ tục đơn giản, các hợp đồng cho thuê rõ ràng, có thể giảm được chi phí trong giao dịch.
Tuy nhiên, tín dụng thuê mua cũng có những hạn chế đối với người đi thuê.
+ Giá cả trong nghiệp vụ thuê mua sẽ cao hơn giá cả vay vốn trung và dài hạn.
+ Hợp đồng cho thuê bắt buộc doanh nghiệp nếu không sử dụng tài sản cho thuê thì cũng phải thanh toán tiền thuê và tiền lãi với người cho thuê đến khi hết hạn hợp đồng.
3. Hoàn thiện chính sách đất đai.
Đất đai là một yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh phổ biến là vừa và nhỏ, phân tán diện tích mặt bằng chật và hẹp, phải tận dụng nhà ở để sản xuất. Các cơ sở này gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng mặt bằng sản xuất nguyên nhân một phần do các doanh nghiệp Việt Nam thiếu vốn, giá đất cao, phần khác do nhiều vướng mắc trong những quy định hiện hành như sau: quyền sở hữu và sử dụng không rõ ràng, dứt khoát... để góp phần tháo gỡ những khó khăn về đất đai tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, cần thiết phải có những biện pháp tháo gỡ như:
- Nghiên cứu sửa đổi những quy định hiện hành chưa phù hợp, đặc biệt là vấn đề thời hạn giao đất việc chuyển quyền sử dụng đất.
Mở rộng quyền cho chính quyền địa phương trong việc cấp đất sử dụng vào mục đích sản xuất và cho vay đất.
- Cho thuê, đấu thầu những cơ sở sản xuất bị giải thể.
- Tăng thời hạn sử dụng và miễm giảm thuế đối với những phần vốn bỏ vào việc mở mang đất đai, tận dụng đất thừa, ao hồ, đầm lầy,... để đưa vào sản xuất.
- Đơn giản hoá thủ tục thuê đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp, khuyến khích sử dụng đất có hiệu quả kinh tế cao hơn.
- Tiến hành cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực ngoài quốc doanh được hưởng những quyền lợi về sử dụng đất như với các doanh nghiệp nhà nước: được Nhà nước giao quyền sử dụng đất, được thuê đất theo giá như doanh nghiệp nhà nước phải trả, được hưởng đầy đủ 5 quyền lợi với người có quyền sử dụng đất như Luật Đất đai (1999) đã quy định.
- Hình thành các khu công nghiệp tập trung để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Khuyến khích các doanh nghiệp liên kết xây dựng hạ tầng để cho thuê mặt bằng nhà xưởng đó là cách thức xây dựng “khu công nghiệp nội địa” mà Thành phố Hà Nội đang làm.
4. Hoàn thiện chính sách công nghệ.
Cần kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới công nghệ và thị trường quan điểm chung là đổi mới công nghệ để phục vụ thị trường và đưa vào thị trường để đổi mới công nghệ, không có thị trường thì không thể đổi mới công nghệ. Thị trường phải là điều kiện tiên quyết để đổi mới công nghệ . Thực tế ở một số nước đã cho thấy sự thất bại của việc đổi mới công nghệ không dựa vào nền tảng thị trường.
Nhà nước cần có chính sách rõ ràng như:
* Cho phép khấu hao nhanh, thậm chí khuyến khích khấu hao nhanh.
* Tăng thời hạn được xét miễn giảm thuế cho các dự án đổi mới công nghệ.
* Mở rộng các hình thức kinh doanh tài chính như thuê mua, vay mua nhằm giải quyết việc thiếu vốn tín dụng trung hạn dài hạn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới công nghệ.
Một số kiến nghị:
* Trong giai đoạn trước mắt.
- Chính phủ cần sớm ban hành các văn bản quy định thống nhất tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam làm cho cơ sở định hướng cho các hoạt động hỗ trợ cũng như các hoạt động khác liên quan đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì hiện nay số văn bản pháp quy liên quan tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn hạn chế hiện văn bản mới nhất ra ngày 20/6/2004 là thông báo số 618- KTN Thủ tướng Chính phủ đã tạm thời quy định thống nhất tiêu chí sử dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có sô lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Tuy nhiên, cần tiếp tục nghiên cứu khả thi chi tiết hơn tiêu chí, chẳng hạn tách tiêu chí áp dụng riêng cho lĩnh vực thương mại, lĩnh vực xây dựng và công nghiệp... như phần trên đã trình bày. Ngoài ra cũng cần phải giao chức năng nhiệm vụ cụ thể phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ cho các cơ quan thuộc Chính phủ, các địa phương.
- Sau khi các cơ quan chính phủ, địa phương được giao nhiệm vụ cần sớm tổ chức nghiên cứu để tiến hành bước đầu một dự thảo pháp lý về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong đó có quy định rõ vai trò, vị trí của doanh nghiệp vừa và nhỏ, hệ thống tổ chức và chức năng của các cơ quan quản lý và doanh nghiệp vừa và nhỏ, khung chính sách của Nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Nhà nước cần sớm xây dựng các tổ chức hỗ trợ, các quỹ hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam ra các địa phương nhằm giải quyết kịp thời những khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các địa phương đó. Đây là biện pháp trực tiếp hữu hiệu có trọng điểm, khắc phục được những nhược điểm của phương pháp gián tiếp thông qua các chính sách hỗ trợ.
- Cần quán triệt quan điểm: Không bao cấp về tài chính mà thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ qua biện pháp tài trợ dưới hình thức tín dụng nhà nước có hoàn trả cả vốn lẫn lãi, nhưng với lãi suất thấp (Nhà nước hỗ trợ sự chênh lệch giữa lãi suất ưu đãi và lãi suất thị trường nhằm giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh) .
* Về định hướng lâu dài.
Để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nhà nước ta cần:
- Coi trọng vai trò vị trí của doanh nghiệp vừa và nhỏ đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh. Có nghĩa là phải không có sự phân biệt các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp phi nhà nước, quy mô lớn, nhỏ hay kinh tế gia đình. Vậy, trong việc hoạch định chính sách chiến lược phải xem các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quan hệ đối với các doanh nghiệp lớn hoặc ngược lại, chúng không loại trừ nhau mà bổ sung hỗ trợ cho nhau cùng phát triển, và làm cho nền kinh tế phát triển hợp lý, hiệu quả.
- Sớm ban hành luật doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cơ sở pháp lý bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đồng thời Chính phủ định hướng cho các ngành, các cấp phù hợp với chức năng của mình để quy định rõ những chính sách và biện pháp cụ thể hỗ trợ cho các hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, cần nhận thấy rõ rằng, để ban hành một bộ luật hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam như nhiều nước đã làm, chắc chắn là không thể tiến hành xong trong vài năm trước mắt.
- Chú ý tới sức mạnh tổng hợp của Nhà nước, địa phương, các tổ chức, các trường đại học, các doanh nghiệp trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hay sự hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ có hiệu quả khi có sự nổ lực từ 3 phía : Nhà nước, cộng đồng và bản thân doanh nghiệp.
-Thành lập tổ chức của Nhà nước để quản lý tập trung các vấn đề về doanh nghiệp vừa và nhỏ chẳng hạn như: “Uỷ ban nhà nước về doanh nghiệp vừa và nhỏ” trực thuộc Chính Phủ tham mưu Chính Phủ về các vấn đề đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Hình thành các khu công nghiệp tập trung cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tăng cường sự hỗ trợ theo chiều sâu dễ dàng hơn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ như: Thông tin, công nghệ, đào tạo nhân lực, nâng cao năng suất.
- Có các biện pháp trợ giúp mạnh mẽ hơn trong khâu đào tạo, dạy nghề cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chú ý đến các đối tượng như công nhân kỹ thuật, thợ lành nghề bậc cao, các loại cán bộ quản lý. Trước mắt quan tâm tới việc giữ được các làng nghề và tiếp tục phát huy khai thác các ngành nghề truyền thống của từng địa phương.
- Cần quan tâm đến hoạt động tư vấn, trước hết là các tư vấn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về đổi mới công nghệ bao gồm: chuyển giao, nhập công nghệ và cải tiến công nghệ được chuyển giao. Tiếp đến là tư vấn về thị trường cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ kể cả “đầu vào” (mua sắm vật tư, trang thiết bị kỹ thuật, tổ chức dây chuyền sản xuất...) và “đầu ra “ đảm bảo chất lượng sản phẩm sản xuất ra, thiết lập quan hệ với khách hàng... nhằm ổn định thị trường tiêu thụ tránh rủi ro.
- Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trở thành đối tác của các nhà đầu tư nước ngoài dưới các hình thức được quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài, từ đó các doanh nghiệp này có thể mở rộng hơn thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình.
Kết luận.
Trong quá trình thực tập, nghiên cứu ở Vụ Công nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư , em nhận thấy rằng một thực tế cho cán bộ quản lý kinh tế quả là rất phong phú và phức tạp và có rất nhiều việc phải làm. Hiện tại, ở Vụ Công nghiệp đang có một nhóm nghiên cứu về dự án chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Được sự gợi ý giúp đỡ của chuyên viên Bùi Văn Hiền và cô giáo T.S Lê Thị Anh Vân cùng với những nỗ lực nghiên cứu của bản thân em đã hoàn thành đề tài trên về cơ bản, nhằm góp ý kiến của mình vào luận chứng khoa học chung về chính sách hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Mặc dù trong quá trình nghiên cứu em đã gặp không ít khó khăn như : Do trong một thời gian dài không có tiêu chí thống nhất và chính thức áp dụng để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên hệ thống số liệu thống kê rất phân tán và khó sử dụng để phân tích đánh giá một cách chính xác, khả quan về vai trò vị trí của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phần lớn các chỉ tiêu thống kê không được phân nhóm theo quy mô doanh nghiệp mà chỉ nhóm theo thành phần kinh tế hoặc loại hình doanh nghiệp. Đây là những khó khăn khách quan trong việc nghiên cứu khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ hai là: Do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn nên cũng có rất nhiều hạn chế. Tuy nhiên, em đã khắc phục khó khăn trên bằng cách sử dụng các số liệu, tư liệu gián tiếp liên quan đến doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời đưa ra một số ước tính mức độ đóng góp của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đối với nền kinh tế. Ngoài ra, cũng có sử dụng số liệu thống kê của khu vực ngoài quốc doanh hay trong ngành công nghiệp để minh hoạ cho thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này trong thực tế là có thể chấp nhận được vì phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô vừa và nhỏ cũng như thực trạng của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp cũng là thực trạng chung cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. Số liệu đưa ra phân tích đánh giá thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ mang tính tương đối nhằm xác định đặc điểm, xu thế phát triển và nhìn nhận đúng mức vị trí vai trò của khu vực này trong phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Trong khuôn khổ cho phép của chuyên đề em đã cố gắng trình bày sơ lược về thực trạng của chính sách hiện nay và đi kèm với các giải pháp và kiến nghị cụ thể. Tất nhiên, sẽ không tránh khỏi sơ suất trong lý luận và sắp xếp bố cục, em rất mong được sự thông cảm và ý kiến nhận xét của thầy cô cũng như tập thể cơ quan nơi em thực tập. Em xin chân thành cảm ơn!
Tài liệu tham khảo
Đỗ Đức Thịnh: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước trên thế giới. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005.
PGS. PTS. Nguyễn Cúc: Chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2003.
Nguyễn Hải Hữu: Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001.
PGS. PTS. Nguyễn Đình Phan: Tham luận: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Đỗ Văn Hải - Phó Vụ Công nghiệp - Bộ KH & ĐT: Tham luận: Một số ý kiến về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Vụ Công nghiệp - Bộ KH & ĐT: Báo định hướng chiến lượng và khuyến nghị chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ từ nay đến 2010.
Khoa Khoa học quản lý - Đại học KTQD: Giáo trình Chính sách kinh tế - xã hội. NXB Khoa học và Kỹ thuật. Hà Nội 2006
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002.
Khoa Khoa học quản lý - Đại học KTQD: Giáo trình Quản lý kinh tế. NXB Khoa học và Kỹ thuật. Hà Nội 2005.
Luật Doanh nghiệp: NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2005.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. NXB NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1998.
Tạp chí Kinh tế và dự báo, Kinh tế phát triển, Nghiên cứu kinh tế, Việt Nam Đông Nam á - Ngày nay, Thông tin kinh tế kinh tế - kế hoạch.
Các báo: Thời báo kinh tế Việt Nam, Thông tin kinh tế - xã hội, Tuần báo quốc tế, đầu tư.
Vụ Công nghiệp - Bộ KH & ĐT: Dự thảo: Hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô, cải cách thủ tục hành chính để thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp ở Việt Nam.
S.Rouald: Quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ. NXB Thống kê. Hà Nội, 2000.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0047.doc