Luận văn Công đoàn Xí nghiệp vận dụng toa xe khách Hà Nội thuộc Công ty vận tải hành khách Đường sắt Hà Nội với việc tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh

- Cán bộ Công đoàn cũng cần phải khắc phục tư tưởng bị động, ngần ngại, cả nể, mạnh dạn đề xuất ý kiến với lãnh đạo và chuyên môn trong việc tham gia quản lý, trong đó có việc tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động trong Xí nghịêp. Công đoàn luôn luôn phải là người đại diện hợp pháp chính đáng của người lao động. Từ đó cũng đặt ra một yêu cầu là lãnh đạo và chuyên môn cần phải tôn trọng những ý kiến đề xuất của Công đoàn, cùng Công đoàn tham gia bàn bạc, quyết định mọi vấn đề trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.

doc109 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1406 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Công đoàn Xí nghiệp vận dụng toa xe khách Hà Nội thuộc Công ty vận tải hành khách Đường sắt Hà Nội với việc tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng giờ làm việc căng thẳng, tạo không khí đoàn kết, vui tươi, hiểu biết lẫn nhau. Điều này có ý nghĩa rất to lớn trong việc đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh chung của toàn Xí nghiệp. Không chỉ quan tâm đến công tác nâng cao đời sống tư tưởng, văn hoá, tinh thần cho người lao động, Công đoàn còn rất chú trọng đến công tác cải thiện điều kiện vật chất của CBCNV. Là một đơn vị có số CBCNV đông nhưng Xí nghiệp luôn quan tâm đảm bảo mọi người đều có đủ việc làm, thu nhập ổn định. Công đoàn đã tham mưu cho Xí nghiệp xây dựng và ban hành “Quy chế trả lương” mới đối với CBCNV. Tiền lương, thu nhập của người lao động trong Xí nghịêp phụ thuộc vào số lượng, chất lượng của từng người đối với sản phẩm được giao và kết quả sản xuất, kinh doanh chung của Xí nghiệp. Việc trả lương hàng tháng của người lao động được trả theo thảo thuận trong hợp đồng lao động đã ký kết và Quy chế trả lương của Xí nghiệp hiện hành trên cơ sở chất lượng, số lượng công tác của từng người lao động. Theo đó, tiền lương hàng tháng phân phối cho người lao động dựa sẽ vào hệ số chức danh, hệ số trình độ, hệ số thâm niên công tác đối với lao động gián tiếp bổ trợ. Riêng đối với lao động trực tiếp, tiền lương phân phối cho người lao động sẽ dựa vào hệ số cấp bậc (hoặc hệ số chức danh) và được trả lương theo chuyến. Công đoàn đã tham gia với chuyên môn căn cứ vào trình độ tay nghề, năng suất lao động cùng với độ phức tạp của công việc để xây dựng nên chế độ trả lương. Còn tiền thưởng thì căn cứ vào phân loại lao động hàng tháng, hàng chuyến để đề ra quy chế thưởng. Ngoài ra, để động viên khuyến khích phong trào phát huy sáng kiến hợp lý hoá sản xuất, công đoàn còn đề nghị với chuyên môn có mức thưởng thoả đáng. Nhìn chung, thu nhập bình quân của người lao động trong những năm vừa qua ngày càng được cải thiện, năm sau cao hơn năm trước. (Biểu 5) Biểu5: Thu nhập bình quân của CBCNV qua các năm Năm Lương bình quân (người/tháng) So với năm trước 2000 905.000 đồng 2001 1.220.000 đồng Tăng 7,4% 2002 1.305.000 đồng Tăng 9,3% 2003 1.354.000 đồng Tăng 12% Nguồn: [17] Trong đó năm 2003: Biểu 6: Thu nhập bình quân của bộ phận lao động trực tiếp Stt Các bộ phận Lương bình quân 1 Khối đi tàu Thống Nhất 1.590.000 đồng/người/ tháng 2 Khối đi tàu địa phương 1.310.000 đồng/người/ tháng 3 Khối sữa chữa, khám chỉnh bị 1.450.000 đồng/người/ tháng 4 Khối sản xuất dịch vụ 1.290.000 đồng/người/ tháng Nguồn: [17] Thu nhập ổn định là một yếu tố hết sức quan trọng giúp cho người lao động có điều kiện cải thiện cuộc sống, bảo đảm cuộc sống của bản thân và gia đình. Từ đó có tư tưởng yêu ngành, yêu nghề, quyết tâm hoàn thành tốt các nhiệm vụ, kế hoạch sản xuất, kinh doanh mà Xí nghiệp đã giao cho. Công đoàn với công tác tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của người lao động. Tập trung giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng đội ngũ CNVC giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị tư tưởng, có học vấn, tay nghề và chuyên môn nghiệp vụ cao, lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có kỹ năng tiếp thị đáp ứng với yêu cầu của công cuộc đổi mới đã được các tổ và các Công đoàn bộ phận coi trọng. Công tác tư tưởng, tuyên truyền giáo dục của Công đoàn được thực hiện thông qua các hình thức sinh hoạt tập trung và thông qua các hoạt động mang tính giáo dục. Các cấp Công đoàn trong Xí nghiệp đã làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, làm cho CBCNV hiểu rõ, hiểu đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, cung cấp cho CBCNV chức những thông tin có định hướng về tình hình trong nước và Quốc tế để nâng cao năng lực làm chủ. Công đoàn bám sát nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh để tuyên truyền giáo dục làm cho CBCNV nắm được những chủ trương, giải pháp trong sản xuất, kinh doanh của đơn vị, thấy được những thắng lợi và yếu kém cần khắc phục trong quá trình đổi mới để từ đó có suy nghĩ và hành động đúng cũng như sẽ chấp nhận sự phân công lao động của cấp trên vì mục tiêu chung của cả đơn vị. Qua phỏng vấn trực tiếp Anh Nguyễn Văn Minh- Nhân viên tàu Thống nhất S1 cho biết: “Công đoàn là người tuyên truyền các chủ trương, chính sách, chỉ thị, Nghị quyết của Nhà nước, của Ngành, của Xí nghiệp. Vì vậy, chúng tôi luôn luôn nắm bắt được kịp thời các chủ trương, đường lối của các cấp lãnh đạo xung quanh tình hình sản xuất, kinh doanh”. (Trích phỏng vấn sâu số 5). Nhân dịp các ngày lễ lớn của đất nước, của Đảng, của Ngành…Công đoàn đã tổ chức nhiều đợt tuyên truyền, giáo dục, học tập các chỉ thị Nghị quyết như: Chỉ thị 1048 về “trật tự an toàn trên tàu, dưới ga”, quy định 1290 của Tổng giám đốc Tổng Công ty vận tải hành khách Đường sắt Việt Nam về việc “coi hành khách là ân nhân”, chỉ thị 64 về “công tác phục vụ hành khách”, chỉ thị đặc biệt số 01 ngày 2/1/2002 của Tổng Giám đốc Tổng Công ty vận tải Đường sắt Việt Nam về “tiến quân mạnh mẽ vào khoa học công nghệ, đảm bảo an toàn và triệt để tiết kiệm nâng cao đời sống”. Tiếp tục vận động CNVC để thực hiện chỉ thị 1520 về “công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông Đường sắt”…Việc tuyên truyền, giáo dục, học tập các chỉ thị, Nghị quyết đó giúp cho việc nâng cao trình độ nhận thức tay nghề, học vấn và hiểu biết pháp luật, tham gia chống tiêu cực, nâng cao chất lượng phục vụ hành khách…Đó chính là động lực to lớn nhằm đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh, tuân thủ sự phân công bố trí từ cấp trên. Công đoàn coi phối hợp với chuyên môn đưa Bộ luật lao động đã sửa đổi đi vào cuộc sống, tổ chức hội thảo “Tìm hiểu Bộ luật lao động”. Thông qua việc nêu vấn đề để CNVC và lao động cùng thảo luận và viết bài thu hoạch nhằm giáo dục cho người lao động các nội quy lao động, nghiêm chỉnh chấp hành các quy định trong cơ quan Xí nghiệp và sự phân công lao động của cấp trên. Từ đó giúp cho họ có được ý thức tự giác lao động và tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc. Phỏng vấn trực tiếp đồng chí Trần Khắc Hợi- Xưởng trưởng Xưởng chế biến sẵn đã cho biết: “Công đoàn giáo dục anh chị em công nhân hiểu rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình, quyền lợi đó của mỗi cá nhân gắn với quyền lợi chung của tập thể” .(Trích phỏng vấn sâu số 1) Công đoàn tham gia công tác an toàn lao động và vệ sinh lao động. Công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động của Xí nghiệp trong những năm vừa qua luôn được quan tâm và củng cố. Với vai trò là người bảo vệ chăm lo quyền lợi hợp pháp chính đáng của CBCNV nên Công đoàn đã tham gia tích cực trong công tác phối hợp với Giám đốc và chuyên môn tạo mọi điều kiện cải thiện điều kiện làm việc cho CNVC trong Xí nghiệp. Công đoàn thường xuyên phối hợp với các đoàn khảo sát của Công đoàn Tổng công ty Đường sắt Việt Nam tiến hành khảo sát thời gian làm việc, nghỉ ngơi, thu nhập và điều kiện làm việc của công nhân lao động để từ đó có những kiến nghị kịp thời với cấp trên nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người lao động làm việc. Công đoàn chủ động đề xuất với chuyên môn trong việc bố trí, sắp xếp lao động lớn tuổi, lao động có sức khoẻ yếu được làm việc tại mặt đất (trong các đội dịch vụ, phân xưởng chế biến sẵn thức ăn trên tàu, phân xưởng khám chữa chỉnh bị, đội cơ điện lạnh…) chứ không phải làm việc đi theo các đoàn tàu. Đặc biệt, đối với trường hợp là nữ nhân viên đang có thai từ tháng thứ 7 hoặc nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi. Công đoàn đề nghị không bố trí làm thêm giờ, làm đêm và đi công tác xa. Công đoàn cùng với chuyên môn luôn quan tâm đến công tác bảo hộ lao động. Tại các đơn vị, các tổ tàu đều được đảm bảo cấp phát đủ, đúng chế độ bảo hộ lao động tạo điều kiện bảo đảm an toàn cho người lao động yên tâm làm việc. Trong năm 2003, Công đoàn đã tham mưu cho Xí nghiệp tiến hành xây mới khu văn phòng B, cải tạo nâng cấp khu chỉnh bị, các nhà lưu trú Vinh, Lào Cai…, mua mới nhiều trang thiết bị mới (bàn ghế, điều hoà không khí, bình tắm nóng lạnh v..v…) cho các tổ sản xuất, phòng ban, đơn vị. Qua đó, điều kiện làm việc, sinh hoạt của CBCNV đã được cải thiện một cách đáng kể. Đặc biệt, tại các xưởng chế biến sẵn thức ăn- là một đơn vị có đa số là lao động nữ, lại làm việc trong môi trường vừa đông lạnh, công tác an toàn vệ sinh lao động được đặt lên hàng đầu. Người lao động trong xưởng thường xuyên được trang bị các phương tiện bảo hộ lao động cần thiết (ủng, găng tay…) nhằm đảm bảo cho công tác vệ sinh lao động đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh nhưng nếu phải đảm bảo an toàn sức khoẻ của người lao động. Qua đó giúp cho họ cảm thấy yên tâm làm việc. Kết quả phỏng vấn cán bộ quản lý Trần Khắc Hợi đã đánh giá: “Chúng tôi tuy phải làm việc trong một môi trường có nhiều ảnh hưởng đến sức khoẻ nhưng do được trang bị các phương tiện bảo hộ lao động cần thiết nên đã phần nào hạn chế được những ảnh hưởng đó. Tất cả chúng tôi đều vì một nhiệm vụ đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, vệ sinh thực phẩm chế biến”. (Trích phỏng vấn sâu số 1) Công đoàn Xí nghiệp đã cùng với chuyên môn thường xuyên giám sát, kiểm tra việc thực hiện các quy trình, quy phạm về trang bị bảo hộ lao động, an toàn lao động và vệ sinh lao động. 100% Công đoàn bộ phận đã triển khai và tổ chức cho 97% CBCNV học tập và ký cam kết công văn 127 của Công đoàn Đường sắt Việt Nam về nghĩa vụ và quyền lợi đối với an toàn vận tải. Công đoàn Xí nghiệp đã tiến hành khảo sát và có chế độ khen thưởng đối với các tổ Công đoàn (12 tổ) và 4 công đoàn bộ phận đã làm tốt công tác này. Để nâng cao chất lượng phục vụ hành khách, Công đoàn đã phối hợp cùng với chuyên môn mở các lớp học an toàn vệ sinh viên và an toàn vệ sinh thực phẩm thu hút đông đảo công nhân lao động tham gia. Tổ chức các đợt thi an toàn vệ sinh viên giỏi trong Xí nghiệp và cử người đi dự hội thi an toàn vệ sinh viên giỏi cấp Công ty. Qua các hoạt động đó nhằm tăng thêm sự hiểu biết và tinh thần trách nhịêm của CBCNV đối với công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động. Từ đó điều kiện làm việc của người công nhân luôn được cải thiện, đảm bảo sức khoẻ công tác của tất cả CBCNV, giúp cho họ thấy thoải mái ở nơi làm việc của mình. Chế độ chăm sóc sức khoẻ cho người lao động cũng được đặc biệt quan tâm. Công đoàn đã phối hợp với trạm y tế của Xí nghiệp tổ chức tốt việc lập hồ sơ theo dõi sức khoẻ cho CBCNV. Năm 2003 đã tổ chức khám định kỳ cho 97% CBCNV và 100% lao động mới tuyển dụng. Bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho 256 lượt người với tổng số tiền 70.500.000 đồng. Công nhân viên ốm đau được chữa trị kịp thời, cấp đủ cơ số thuốc cho vệ sinh viên trên các đoàn tàu. Tổng kinh phí thực hiện chăm sóc sức khoẻ cho người lao động là 114.500.000 đồng. Trong năm 2003 toàn Xí nghiệp không để xảy ra tai nạn lao động, sự cố cháy nổ, vi phạm chạy tàu nghiêm trọng do chủ quan. Có được kết quả trên là do Xí nghiệp có biện pháp đảm bảo an toàn, trang thiết bị đầy đủ, đảm bảo chất lượng và thời gian các trang thiết bị phòng hộ, mua sắm cấp phát đầy đủ trang thiết bị bảo hộ lao động cho CBCNV. Các chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đều được thực thi đầy đủ. Đặc biệt, Công đoàn còn phối hợp với chuyên môn ký hợp đồng vệ sinh toa xe với đối tác. Qua đó góp phần tạo điều kiện cho công nhân viên khối đi tàu có thêm thời gian nghỉ ngơi phục hồi sức khoẻ nhất là trong cá chiến dịch vận tải cao điểm Tết, Hè. Như vậy, Công đoàn tham gia với chuyên môn trong công tác an toàn lao động- vệ sinh lao động là một việc làm thiết thực nhằm cải thiện điều kiện làm việc của người lao động. Điều kiện làm việc được bảo đảm sẽ là một yếu tố quan trọng tạo tâm lý yên tâm, thoải mái công tác. Có như vậy mới hạn chế được sự phản đối bất lợi từ việc bố trí, sắp xếp lại lao động của lãnh đạo cấp trên. Công đoàn tổ chức các phong trào thi đua góp phần tổ chức, sắp xếp lao động nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Công tác thi đua là động lực thúc đẩy và phát huy khả năng tiềm tàng của công nhân lao động trong việc xây dựng và phát triển doanh nghiệp. Hiểu rõ tầm quan trọng của phong trào thi đua, Công đoàn đã chủ động đề xuất với chuyên môn phát động các phong trào thi đua có tác động tích cực đến sản xuất, kinh doanh và các mặt công tác. Công đoàn cùng chuyên môn xác định mục đích, ý nghĩa của các đợt thi đua để từ đó xây dựng mục tiêu thi đua, nội dung thi đua, chỉ tiêu thi đua. Khi tổ chức phong trào thi đua, Công đoàn cùng với chuyên môn đã đưa vào Nghị quyết của Đảng uỷ Xí nghiệp để thực hiện đúng mục tiêu kinh tế- chính trị- xã hội do Đảng vạch ra, tập trung sức lực, trí tuệ của mọi người cùng hoàn thành nhiệm vụ. Trước khi tổ chức phong trào thi đua, Công đoàn đã tuyên truyền, phổ biến đến CNVC và lao động biết được mục đích, mục tiêu, nội dung và chỉ tiêu thi đua. Để đảm bảo dân chủ, Công đoàn cùng chuyên môn đã tổ chức cho CNVC và lao động được tham gia trong xây dựng các chỉ tiêu thi đua. Khi tiến hành bình xét thi đua đã tiến hành từ cấp tổ sản xuất, phân xưởng sản xuất trở lên để đảm bảo công bằng, chính xác. Sau các đợt thi đua tổng kết khen thưởng kịp thời các cá nhân, tập thể có thành tích, đồng thời rút kinh nghiệm khắc phục những khuyết điểm trong công tác chỉ đạo, tổ chức phong trào. Để tạo ra bầu không khí đoàn kết, phấn khởi hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh, hàng năm, Công đoàn đã phối hợp với chuyên môn phát động các phong trào thi đua thường xuyên, liên tục thu hút đông đảo CBCNV hưởng ứng tham gia, đạt kết quả tốt. Công đoàn đã phối hợp với chuyên môn phát động phong trào thi đua với mục tiêu “An toàn, chất lượng, hiệu quả, việc làm, tăng thu nhập”. Kết quả: CBCNV Xí nghiệp đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao đặc biệt là trong chiến dịch vận tải Tết Quý Mùi và phục vụ Hè 2003 được Ngành, Công ty biểu dương khen thưởng. Phong trào xây dựng đơn vị, tổ “Chính quy- Văn hoá- An toàn” được duy trì, giữ vững cả về hình thức và nội dung. Kết quả qua đợt kiểm tra cuối năm 2003 đã công nhận 6/6 (100%) đơn vị đạt “Văn hoá- Chính quy- An toàn”, 75/79 (95%) tổ sản xuất đạt “Văn hoá- Chính quy- An toàn”. Để khuyến khích khả năng sáng tạo của CBCNV, phong trào sáng kiến, cải tiến hợp lý hoá sản xuất trong những năm vừa qua đã được phát đọng mạnh mẽ và thu được những kết quả rất khả quan. Năm 2003 đã có 52 sáng kiến, tăng 9 sáng kiến so với năm 2002, làm lợi trên 300 triệu đồng. Trong đó, Xí nghịêp đã một đề tài khoa học kỹ thuật cấp Tổng công ty về quy trình khám chữa toa xe khách 2 tầng. Phong trào thi đua xe sạch đã duy trì thành nền nếp. Từ năm 2000 đến 6 tháng đầu năm 2003 đã tổ chức 12 đợt thi xe sạch, tổng số toa xe đã chấm được là 2186 lượt toa xe. Qua đó đã kịp thời chấn chỉnh công tác vệ sinh toa xe trong toàn Xí nghiệp. Phong trào “Xanh- Sạch- Đẹp” đảm bảo an toàn vệ sinh lao động được phát triển đều khắp. Nhân ngày Môi trường Đường sắt hàng năm (5/11) đều tổ chức thực hiện làm sạch môi trường Đường sắt khu vực cơ quan, khu chỉnh bị, hưởng ứng “Tết trồng cây” tạo ra một môi trường làm việc trong lành. Công đoàn còn phối hợp với chuyên môn và Đoàn thanh niên tổ chức ôn luyện nghiệp vụ tay nghề, tham gia các hội thi “ Người sử dụng tiếng Anh giỏi” cấp công ty, cấp Ngành. Tổ chức “Hội thi khám xe giỏi” cấp Xí nghiệp và cấp Ngành và Hội thi “ Nhân viên giỏi thanh lịch” cấp ngành Đường sắt. ở tất cả các hội thi Xí nghiệp đều đạt được nhiều giải cao. Năm 2003, phong trào thi đua đã được đông đảo CBCNV hưởng ứng sôi nổi. Kết quả: cuối năm Xí nghiệp đã bình chọn 05 đơn vị dẫn đầu thi đua, 85 chiến sỹ thi đua cấp cơ sở, 08 chiến sỹ thi đua cấp Bộ Giao thông vận tải, 36 tổ lao động giỏi, 17 tổ lao động xuất sắc, 466 lao động giỏi Thông qua các phong trào thi đua, các hội thi đã thu hút đông đảo CNVC tham gia, có tác dụng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh trong công cuộc đổi mới. Qua các phong trào thi đua đó cũng sẽ phát hiện được tài năng của CBCNV trong Xí nghiệp để sau đó có những bố trí, sắp xếp lao động cho phù hợp với khả năng, trình độ của mỗi người. Kết quả phỏng vấn đồng chí Nguyễn Hữu Thọ được biết: “Phong trào thi đua là nơi thử nghiệm tài năng, sở trường của mỗi cá nhân trong việc đáp ứng những yêu cầu của sản xuất, kinh doanh. Qua đó sẽ thấy được cá nhân nào phù hợp với công việc này và cá nhân nào phù hợp với công việc kia” (Trích phỏng vấn sâu số 2) Chương 3 Kết luận và khuyến nghị 3.1 Kết luận Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì không còn cách nào khác là phải lựa chọn hướng đi phù hợp với nó. Để có thể củng cố địa vị của mình trên thị trường các doanh nghiệp không chỉ cần xây dựng cho mình các chiến lược sản xuất, kinh doanh mà còn cần phải có chiến lược quản lý, tổ chức lao động. Như vậy, nó đòi hỏi các nhà quản lý doanh nghiệp phải thay đổi cách nhìn và thực hiện công tác tổ chức quản lý lao động theo hướng tích cực, có hiệu quả hơn, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Để phù hợp với sự biến đổi của sản xuất và đời sống trong cơ chế hiện nay và không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải tổ chức, sắp xếp lao động hợp lý. 3.1.1 Kết quả đạt được: Qua nghiên cứu thực tế tại XNVDTXK Hà Nội, thuộc Công ty vận tải hành khách Đường sắt Hà Nội, tác giả nhận thấy rằng: Xí nghiệp đã gặp không ít khó khăn trong điều kiện hoạt động của nền kinh tế thị trường. Song nhờ sự quan tâm sâu sắc, chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo Ngành và lãnh đạo Công ty, nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa chuyên môn, Công đoàn và các đoàn thể, sự chỉ đạo kịp thời của Đảng uỷ cùng với sự nỗ lực, tinh thần đoàn kết của tập thể CBCNV chức lao động, Xí nghiệp đã nhanh chóng thích ứng với cơ chế thị trường đổi mới cơ chế quản lý. Đặc biệt, Xí nghiệp đã có nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc tổ chức, sắp xếp lại lao động, giải quyết việc làm, chăm lo bảo vệ lợi ích người lao động. Đây chính là các yếu tố cơ bản để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển. Trong thời gian qua, Công đoàn Xí nghiệp đã có những thành công đáng kể trong việc tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động. Cụ thể: Công đoàn Xí nghiệp đã tập hợp được trí tuệ của cán bộ, công nhân, viên chức, lao động, đề ra phương hướng hoạt động công đoàn thích hợp với quá trình đổi mới sản xuất, kinh doanh của Xí nghiệp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ, sự ủng hộ, giúp đỡ của Ban giám đốc Xí nghiệp cùng với lòng nhiệt tình, sự đoàn kết và ý chí quyết tâm của toàn thể cán bộ, đoàn viên. Công đoàn đã góp phần đưa Xí nghiệp ngày càng phát triên đi lên. Công đoàn đã tham gia với chuyên môn trong công tác tổ chức, sắp xếp lao động một cách hợp lý, có hiệu quả, đảm bảo tất cả CBCNV đều có việc làm, thu nhập ổn định, không ai phải nghỉ làm. Công đoàn đã tham gia với chuyên môn trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh tập hợp, thu thập ý kiến đóng góp của CBCNV toàn Xí nghiệp thông qua Đại hội CNVC nhằm phát huy tính dân chủ của người lao động và kế hoạch sản xuất, kinh doanh của toàn đơn vị. Công đoàn còn phối hợp với chuyên môn xây dựng tiêu chuẩn lao động, phân loại lao động nhằm góp phần ngày một nâng cao chất lượng nguồn lao động. Tham gia với chuyên môn trong công tác xây dựng định mức lao động hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của Xí nghiệp nhưng vẫn đảm bảo được quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động. Công đoàn trực tiếp tham gia với chuyên môn trong việc bố trí, điều chuyển, sử dụng lao động một cách hợp lý. Công đoàn tiến hành khảo sát thời gian làm việc, nghỉ ngơi, điều kiện làm việc của CBCNV và có những ý kiến đề xuất với chuyên môn nhằm đảm bảo những quyền lợi hợp pháp của người lao động. Để phù hợp với công tác, bố trí sắp xếp lại lao động trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, Công đoàn cũng rất quan tâm đến việc tuyển dụng, đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề có khả năng thích ứng với điều kiện sản xuất mới, không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Đội ngũ lao động của Xí nghiệp ngày càng được trẻ hoá, có trình độ, tay nghề, có thể đảm đương được các công việc phức tạp của Xí nghiệp giao cho. Công đoàn đã giám sát với chuyên môn bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động, thực hiện “công bằng- dân chủ- công khai” trong mọi chế độ, chính sách tiền lương, tiền thưởng, tài chính công đoàn với CNVC tạo sự phấn khởi tin tưởng trong công nhân lao động, để CBCNV yên tâm công tác, chấp hành mọi sự phân công, bố trí, sắp xếp lao động từ cấp trên. Việc tổ chức và sắp xếp lại lao đọng đã hạn chế được những bất cập trong công tác quản lý sản xuất, kinh doanh của Xí nghiệp nói chung là của toàn ngành Đường sắt. Có thể nói rằng Công đoàn Xí nghiệp với chức năng là người đại diện cho CNVC và lao động đã góp phần với cùng chuyên môn từng bước tổ chức, sắp xếp lao động trong Xí nghiệp và nâng cao các mặt tham gia quản lý theo đúng chế độ, chính sách của Nhà nước, tạo quyền làm chủ cho công nhân lao động, tạo sự đoàn kết gắn bó giữa người lao động đối với tổ chức Công đoàn, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, nâng cao đời sống của người lao động. Qua đó cũng ngày càng khẳng định được vai trò, vị trí của tổ chức Công đoàn. Với sự tham gia của tổ chức Công đoàn phối hợp cùng với chuyên môn trong những năm vừa qua, phong trào CNVC và hoạt động Công đoàn, hoạt động sản xuất, kinh doanh của Xí nghiệp đã thu được nhiều kết quả đáng mừng. Nổi bật là: đảm bảo giữ vững an toàn các mặt, thường xuyên cải tiến nâng cao chất lượng phục vụ hành khách. Do đó các chỉ tiêu hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch tăng trưởng cao, sản xuất, kinh doanh ngày càng phát triển. Đời sống CBCNV được cải thiện, mọi người có đủ việc làm. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ được nâng cao. Đội ngũ công nhân lao động ngày càng trưởng thành, được bố trí, sắp xếp làm những công việc phù hợp với khả năng, trình độ, sức khoẻ của từng người. Công tác tổ chức, quản lý lao động ngày càng khoa học đem lại hiệu quả cao, trước hết là cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Sự phối hợp giữa các tổ chức quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Đảng bộ Xí nghiệp là nhịp nhàng, thống nhất để giải quyết tốt những vấn đề phát sinh trong điều hành sản xuất. 3.1.2 Một số tồn tại: Bên cạnh những thành tích nêu trên, trong quá trình Công đoàn tham gia thực hiện tổ chức, sắp xếp lại lao động nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của Xí nghiệp vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Đó là: Tuy đã có nhiều cố gắng, song trong cơ chế thị trường vai trò của Ban chấp hành Công đoàn còn bộc lộ sự bị động, ngần ngại khi tham gia với chuyên môn vào việc thao gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh. Việc tham gia quản lý của một số công đoàn bộ phận còn hạn chế bởi trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ và hiểu biết về pháp luật còn hạn chế. Về chăm lo đời sống, bảo vệ quyền lợi chính đáng hợp pháp chính đáng hợp pháp của CNVC , có nơi, có bộ phận thiếu biện pháp giải quyết cụ thể, chưa làm đầy đủ chức năng là người đại diện bảo vệ lợi ích của CNVC . Phong trào thi đua, tổ chức các hội thi, hội thảo, hội diễn có tiến bộ nhưng một số phong trào chỉ đạt chiều rộng, chưa có chiều sâu, chưa phát huy tác dụng kết quả của nó vào sản xuất, đời sống vật chất, tinh thần của CBCNV. Giáo dục thông qua các đợt triển khai Nghị quyết, cũng như các đợt sinh hoạt chính trị thì làm tốt, nhưng giáo dục cá biệt còn yếu. Một số cán bộ tổ Công đoàn chưa chịu học tập rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề, do đó chưa theo kịp với đòi hỏi của cơ chế mới. Có một bộ phận nhỏ cán bộ công nhân thực hiện kỷ cương, ý thức trách nhiệm thấp, còn vi phạm quy trình, quy phạm, nội quy lao động, bao khách bao hàng, chưa được chặn đứng. Hoạt động Công đoàn chủ yếu mới tập trung ở Công đoàn Xí nghiệp và bộ phận, đa số cán bộ bán chuyên trách có hạn chế đến ý thức, trách nhiệm, nhiệt tình hoạt động công đoàn. Vai trò của một số tổ trưởng công đoàn còn yếu cả về trình độ và năng lực, thiếu nhiệt tình hoạt động công đoàn. Nguyên nhân của những hạn chế trên: Nguyên nhân khách quan: trong thời gian qua, nhiều chính sách cuả Nhà nước có liên quan đến quyền và lợi ích của công nhân lao động có sự điều chỉnh, thay đổi, chưa đồng bộ, chưa hợp lý đã tác động trực tiếp đến người lao động. Vì vậy, vai trò đại diện của Công đoàn gặp nhiều khó khăn. Chính sách cán bộ Công đoàn chưa được thoả đáng nên chưa động viên được cán bộ có năng lực, nhiệt tình làm công tác công đoàn. Nguyên nhân chủ quan: năng lực và trình độ của một số cán bộ tổ công đoàn còn hạn chế. ý thức trách nhiệm của một bộ phận CNVC và đoàn viên chưa cao. Bài học kinh nghiệm: Qua việc đánh giá tổng quát những thành tích và những hạn chế của Công đoàn Xí nghiệp, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau: Từ Công đoàn Xí nghiệp đến các bộ phận phải lấy “3 chức năng” của Công đoàn làm cơ sở hoạt động. Từ đó, hướng mọi hoạt động và phong trào vào việc kế hoạch sản xuất, kinh doanh, tạo điều kiện cho CBCNV làm việc có hiệu quả và thực sự là chỗ dựa về mặt tinh thần cho họ. Có như vậy thì mới tập hợp được sức mạnh của các Công đoàn bộ phận và toàn thể đoàn viên- CNVC lao động. Công đoàn cần phải tạo được sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa chuyên môn, Công đoàn và Đoàn thanh niên dưới sự lãnh đạo của Đảng trên cơ sở tính độc lập của từng tổ chức. Thực hiện tốt việc ký cam kết phối hợp hoạt động hàng năm giữa chuyên môn với Công đoàn Xí nghiệp. Phải thường xuyên sâu sát đơn vị , hiện trường để kịp thời phát hiện, bổ cứu những vấn đề có liên quan đến sản xuất, kinh doanh và đời sống người lao động. Cán bộ là yếu tố quan trọng quyết định mọi vấn đề. Do vậy, phải thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, đảm bảo sự đoàn kết nhất trí, có lịch trình công tác cụ thể, khoa học; sơ, tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời; có sự phân công trách nhiệm rõ ràng, hợp lý tới từng bộ phận. Đặc biệt, đối với đội ngũ tổ trưởng sản xuất, trưởng tàu là những cán bộ trực tiếp với sản xuất, thay mặt Xí nghiệp, Ngành tiếp xúc với hành khách, đội ngũ này tốt, chất lượng chỉnh bị, phục vụ hành khách sẽ tốt và ngược lại. Coi trọng công tác phát động thi đua có trọng tâm, trọng điểm. 3.2 Khuyến nghị Qua thời gian thực tập tại Xí nghiệp, dù còn nhiều hạn chế về nhận thức, tác giả cũng xin mạnh dạn đưa ra một số khuyến nghị với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc tổ chức, sắp xếp lao động của Xí nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh như sau: Một là: Nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng lao động và đào tạo, đào tạo lại CNVC và lao động. Hiện trạng: Công tác tuyển dụng và đào tạo phát triển nguồn nhân lực là yếu tố hàng đầu để hiện đại hoá sản xuất. Người lao động với tư cách là một yếu tố sản xuất, nếu được lựa chọn kỹ càng và huấn luyện tốt sẽ trở thành một khoản đầu tư có giá trị. Xí nghiệp hiện đang quản lý một đội ngũ lao động đông đảo nhưng không đồng đều cả về lứa tuổi lẫn trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ. Một bộ phận lớn lao động lâu năm, nhiều tuổi do quen với cơ chế bao cấp từ trước nên đã có hạn chế về trình độ văn hoá, khó thích ứng được với sự cạnh tranh trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay. Vì vậy, Xí nghiệp cần phải có kế hoạch tuyển chọn và đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực cho phù hợp với quy mô phát triển trong những năm tới. Phải xác định đúng đối tượng tuyển dụng, đào tạo, đào tạo đúng nghề, kết hợp giữa đào tạo lý luận và đào tạo thực tế, giữa đào tạo mới và đào tạo lại, đào tạo liên tục thường xuyên để có được nguồn nhân lực có trình độ, sức khoẻ và đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh của Xí nghiệp. Giải pháp: Xí nghiệp cần tiến hành tuyển chọn lao động một cách công khai, khách quan thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, phỏng vấn trực tiếp, cho thử việc…để tuyển chọn được những lao động giỏi, có trình độ thực sự chứ không vì cả nể là con em cán bộ trong ngành mà xuề xoà cho qua. Tuyển chọn, đào tạo lao động cần phải có sự kết hợp giữa những tiêu chuẩn mới kết hợp với những kinh nghiệm của người cũ. Tăng cường giao lưu học tập kỹ năng nghiệp vụ của các ngành vận tải có trình độ tiên tiến (như ngành hàng không…), thông qua đó để giúp cho đội ngũ nhân viên có được trình độ ứng xử, giao tiếp tốt. Đó chính là tiêu chí thu hút ngày càng đông hành khách đi tàu. Xây dựng quy chế đào tạo để bắt buộc các đơn vị phải cho CBCNV có trách nhiệm tham gia đào tạo, nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sản xuất. Việc đào tạo phải gắn với mục dích sử dụng và hiệu quả sản xuất, kinh doanh, tránh tình trạng đào tạo xong khôn sử dụng, gây tâm lý tiêu cực, không muốn đi học trong CNVC và lao động. Công đoàn phải động viên công nhân lao động học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng kịp thời yêu cầu của sản xuất, kinh doanh. Phối hợp với chuyên môn tạo mọi điều kiện để người lao động được yên tâm học tập, nâng cao trình độ. Hai là: Cải thiện điều kiện làm việc để công nhân lao động yên tâm công tác. Hiện trạng: Ngành Đường sắt Việt Nam là một ngành vận tải có từ lâu đời. Hiện nay, ngành Đường sắt đang thừa hưởng một hệ thống trang thiết bị, phương tiện làm việc vừa mới vừa cũ (chẳng hạn như sử dụng nhiều chủng loại toa xe : thế hệ 1- cũ và thế hệ 2- mới). Mặt khác, do nhu cầu của hành khách ngày càng cao, cường độ lao động ngày càng lớn, số quay vòng của các toa xe ngày càng nhanh. Do vậy, cần phải đảm bảo chất lượng trang thiết bị, toa xe…Hơn nữa, môi trường làm việc của nhân viên ngành đường sắt bị ảnh hưởng bởi tiếng ồn, độ rung…Tính chất của công việc trong từng khâu đòi hỏi kỹ thuật và sức khoẻ không giống nhau. Vì vậy, Công đoàn cần phải tham gia với Xí nghiệp để có biện pháp cải thiện điều kiện lao động, giảm sự căng thẳng về thần kinh, nhịp độ lao động, vệ sinh an toàn lao động.  Giải pháp : Từng bước đóng mới thêm toa xe thế hệ 2 để thay thế dần cho hệ thống toa xe thế hệ 1 đảm bảo cho nhân viên được làm việc trong một môi trường hiện đại, tiện lợi và an toàn vệ sinh. Toa xe được đóng mới với trang thiết bị tiện nghi cũng là một nhân tố để thu hút, khuyến khích đông đảo hành khách đến với Ngành Đường sắt. Công đoàn cũng cần chủ động tham gia vào việc trang bị, nâng cấp khu chỉnh bị để có điều kiện sửa chữa toa xe khi cần thiết. Công đoàn cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc khảo sát điều kiện làm việc của từng người lao động. Qua đó mạnh dạn đề xuất với Giám đốc và chuyên môn trong việc cải thiện điều kiện làm việc, tạo cơ hội để người lao động được tiếp cận với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Đề xuất với chuyên môn tăng cường phụ cấp cho mạng lưới an toàn vệ sinh viên. Ba là : Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động để họ yên tâm công tác. Hiện trạng : Trong những năm vừa qua, thu nhập bình quân của CBCNV ngành Đường sắt nói chung và của Xí nghiệp nói riêng đã được cải thiện, năm sau cao hơn năm trước. Nhưng nếu xét về mặt bằng lương so với nhiều ngành kinh tế khác thì thu nhập của CBCNV trong Xí nghiệp vẫn chưa phải là cao. Thu nhập không cao sẽ dẫn tới những hành vi tiêu cực như bao hàng, bao người. Mặt khác, do địa bàn hoạt động của Xí nghiệp trải dài khắp miền đất nước, công nhân viên làm việc bị phân tán, lưu động trên các đoàn tàu (như một xã hội thu nhỏ). Tiêu cực xã hội đang hàng ngày, hàng giờ tác động đến CNVC . Do vậy, Công đoàn cần phối hợp với chuyên môn tạo mọi điều kiện để nâng cao thu nhập cho người lao động, tuyên truyền giáo dục để họ yên tâm làm việc, chấp hành mọi sự phân công lao động từ cấp trên, tránh những tư tưởng tiêu cực ảnh hưởng đến việc hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của Xí nghiệp. Giải pháp : Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ trên tàu cũng như các hoạt động ngoài sản xuất chính nhằm tăng thêm thu nhập cho người lao động để họ yên tâm công tác. Công đoàn phối hợp với chuyên môn tổ chức các hoạt động thăm quan, du lịch, nghỉ mát cho CBCNV để họ phấn khởi, tạo thêm động lực để hoàn thành kế hoạch sản xuất, kinh doanh của đơn vị, Xí nghiệp (thậm chí còn hoàn thành vượt mức). Công đoàn cũng cần phải tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục cho công nhân lao động để họ thấy được trách nhiệm và quyền lợi gắn với nhau, giúp họ thêm yêu ngành, yêu nghề, hiểu rõ tầm quan trọng của vấn đề tổ chức, sắp xếp lại lao động trong cơ quan, Xí nghiệp. Thường xuyên tổ chức hơn nữa các hoạt động văn hoá, thể thao, giao lưu với các đơn vị khác trong và ngoài ngành để tạo cho người lao động có được tâm lý thoải mái sau những giờ làm việc căng thẳng. Từ đó chất lượng cuộc sống của người lao động cũng được nâng cao, góp phần to lớn vào việc kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Bốn là : Thực hiện nội quy lao động, tăng cường kỷ luật lao động. Hiện trạng Hiện nay, Xí nghiệp đang quản lý một số ít CBCNV có tư tưởng bảo thủ trì trệ, làm việc theo nếp cũ, sức năng động kém, tính tự giác chưa cao lại thêm bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng tiêu cực do nền kinh tế thị trường đem lại. Do vậy, cần phải tăng cường kỷ luật lao động- là biện pháp hữu hiệu nhất để người lao động nghiêm chỉnh chấp hành các quy định về thời gian làm việc, quy trình- quy phạm. Thông qua kỷ luật lao động để giáo dục ý thức cho người lao động trong từng công việc cụ thể và trong việc thực hiện nội quy chung của toàn Xí nghiệp. Giải pháp: Niêm yết, thông báo rộng rãi cho toàn thể CBCNV được biết về nội quy lao động của Xí nghiệp. Tổ chức tuyên truyền, giáo dục, học tập các quy định trong nội quy lao động. Khi người lao động vi phạm kỷ luật lao động cần phải tiến hành kỷ luật nghiêm chỉnh với các hình thức khác nhau tuỳ theo mức độ của hành vi vi phạm. Tiến hành xử lý kỷ luật lao động theo nguyên tắc công bằng- dân chủ- khách quan, không bao che, thiên vị. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đặc biệt là hoạt động chống thất thu trên tàu nhằm phát hiện kịp thời những nhân viên có hành vi bao khách, bao hàng để vụ lợi, làm ảnh hưởng đến uy tín của Ngành, của Xí nghiệp và từ đó có hình thức xử lý kỷ luật thoả đáng. Năm là: Tiếp tục phát triển tổ chức các phong trào thi đua. Hiện trạng Xí nghiệp tuy đã tổ chức được nhiều phong trào thi đua và đem lại những kết quả nhất định. Tuy nhiên, phong trào thi đua của Xí nghiệp vẫn còn bộc lộ một số tồn tại cần khắc phục như: nhiều phong trào chỉ mang tính hình thức, bề nổi, chiều rộng chứ chưa mang tính giáo dục, chiều sâu. CNVC và lao động tham gia phong trào nhiều khi chỉ mang tính cưỡng chế, bắt buộc chứ chưa có ý thức tự giác cao. Do đó, một số phong trào thi đua chưa phát huy được tác dụng tích cực và trong thực tiễn đời sống và sản xuất. Do vậy, Xí nghiệp đặc biệt là tổ chức Công đoàn cần quan tâm hơn nữa đến việc phát động các phong trào thi đua sao cho có hiệu quả thiết thực. Giải pháp: Coi trọng công tác phát động thi đua có trọng tâm, trọng điểm. Xuất phát từ thực tiễn tình hình sản xuất, kinh doanh của Xí nghiệp để phát động các phong trào thi đua cho phù hợp. Phát huy tối đa ý nghĩa tích cực của các phong trào thi đua vào thực tiễn đời sống và sản xuất. Muốn vậy đòi hỏi cần phải thường xuyên giáo dục tinh thần ý thức trách nhiệm tới toàn thể CBCNV. Tiếp tục phát triển tổ chức các phong trào thi đua theo hướng tập trung vào nội dung phát huy sáng kiến, hợp lý hoá sản xuất nhằm phát huy được tài năng, sáng tạo của CNVC và lao động vào việc thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh của đơn vị thông qua các phong trào thi đua để tạo ra bầu không khí vui tươi, lành mạnh, đoàn kết và hiểu biết lẫn nhau. Làm công tác tư tưởng, tuyên truyền đối với CBCNV để họ hiểu rõ ý nghĩa của việc thực hiện phong trào thi đua. Từ đó sẽ phát huy được tính tích cực, tự giác, hăng hái tham gia các phong trào. Sáu là: Phát huy vai trò đại diện của Công đoàn trong việc tham gia quản lý doanh nghiệp. Hiện trạng: Hiện tại, Xí nghiệp đã có quy chế phối hợp hoạt động giữa Công đoàn và chuyên môn, trong đó đã quy định trách nhiệm của tổ chức Công đoàn trong việc tham gia quản lý. Song trên thực tế, Ban chấp hành Công đoàn còn bộc lộ sự bị động, ngần ngại khi tham gia với chuyên môn vào việc thao gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh cũng như trong công tác tổ chức, sắp xếp lại lao động. Đội ngũ cán bộ công đoàn phần lớn là hoạt động bán chuyên trách nên có một số hạn chế về thời gian, trình độ, năng lực và sự nhiệt tình trong hoạt động công đoàn. Do đó để có thể phát huy tốt vai trò là người đại diện cho CBCNV trong toàn Xí nghiệp, Công đoàn cần phải tiếp tục đổi mới công tác tổ chức và hoạt động của mình, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Công đoàn phát huy tốt vai trò, chức năng của mình. Giải pháp: Công đoàn với tư cách là “người giáo dục” cần phải đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tuyên truyền cho đoàn viên, công nhân lao động hiểu rõ và nhận thức được tình hình sản xuất của Xí nghiệp gắn liền với những thuận lợi và khó khăn gì. Giáo dục, tuyên truyền cho người lao động thấy được sự cần thiết của công tác tổ chức, sắp xếp lại lao động để từ đó họ có ý thức, trách nhiệm với kết quả lao động và sự phân công bố trí lại lao động của lãnh đạo cấp trên. Tăng cường công tác giáo dục vận động CBCNV tích cực học nghề, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn để sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của sản xuất khi có sự phân công, bố trí lại lao động. Xây dựng mạng lưới cộng tác viên công đoàn gồm những cán bộ giỏi, công nhân giàu kinh nghiệm và đoàn viên công đoàn xuất sắc. Để mạng lưới hoạt động có hiệu quả, Công đoàn cần có kế hoạch bồ dưỡng về phương pháp hoạt động và phân công nhiệm vụ rõ ràng, giao việc cụ thể theo kỳ hạn…Thông qua mạng lưới cộng tác viên để tuyên truyền và vận động công nhân lao động, đồng thời thu nhận những thông tin về tình hình sản xuất, kinh doanh, về tổ chức lao động để có ý kiến đề xuất với chuyên môn được sát thực, chất lượng hơn. Công đoàn cần phải tổ chức, giáo dục đội ngũ cán bộ công đoàn giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, nhiệt tình với công tác công đoàn, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có khả năng thuyết phục, vận động được quần chúng. Tăng cường đẩy mạnh hoạt động công đoàn bộ phận và các tổ công đoàn với nhiều nội dung và hình thức khác nhau. Tăng cường sự phối hợp hoạt động giữa công đoàn và chuyên môn. Cần xây dựng quy chế quan hệ làm việc giữa công đoàn với chuyên môn một cách cụ thể hơn nữa. Cán bộ Công đoàn cũng cần phải khắc phục tư tưởng bị động, ngần ngại, cả nể, mạnh dạn đề xuất ý kiến với lãnh đạo và chuyên môn trong việc tham gia quản lý, trong đó có việc tham gia tổ chức, sắp xếp lại lao động trong Xí nghịêp. Công đoàn luôn luôn phải là người đại diện hợp pháp chính đáng của người lao động. Từ đó cũng đặt ra một yêu cầu là lãnh đạo và chuyên môn cần phải tôn trọng những ý kiến đề xuất của Công đoàn, cùng Công đoàn tham gia bàn bạc, quyết định mọi vấn đề trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Trên đây là những ý kiến đề xuất của cá nhân tôi đối với lãnh đạo, Ban chấp hành Công đoàn Xí nghiệp trong việc tổ chức, sắp xếp lại lao động. Tôi nghĩ rằng nếu thực hiện tốt sẽ góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của Xí nghiệp, chăm lo, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của người lao động. Qua đó cũng sẽ khẳng định được vị thế, vai trò của tổ chức Công đoàn Xí nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay. Phụ lục Phỏng vấn sâu số 1 Người phỏng vấn : Nguyễn Thị Thu Hiền Người được phỏng vấn : Trần Khắc Hợi Chức vụ : Xưởng trưởng Xưởng chế biến sẵn Hỏi: Xin Chú cho biết Chú tham gia vào Công đoàn là tự nguyện hay bắt buộc? Đáp: Tự nguyện. Hỏi: Hiện nay, Chú được hưởng những quyền lợi gì từ tổ chức Công đoàn? Đáp: Tôi được Công đoàn tổ chức cho đi tham quan du lịch, chăm sóc sức khoẻ, đào tạo nâng cao tay nghề, tạo việc làm ổn định. Hỏi: Xưởng chế biến sẵn mà Chú làm việc là một môi trường vừa đông lạnh vừa có nhiệt độ nóng cao. Điều này có ảnh hưởng gì tới sức khoẻ của anh chị em công nhân làm việc trong Xưởng hay không? Đáp: Chúng tôi tuy phải làm việc trong một môi trường có nhiều ảnh hưởng đến sức khoẻ nhưng do được trang bị các phương tiện bảo hộ lao động cần thiết nên đã phần nào hạn chế được những ảnh hưởng đó. Tất cả chúng tôi đều vì một nhiệm vụ đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, vệ sinh thực phẩm chế biến. Hỏi: Để có được tinh thần làm việc nghiêm túc đó, xin Chú cho biết Công đoàn có đóng góp được vai trò gì không? Đáp: Có. Công đoàn giáo dục anh chị em công nhân hiểu rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình, quyền lợi đó của mỗi cá nhân gắn với quyền lợi chung của tập thể. Vì vậy, anh em công nhân luôn ý thức rõ được trách nhiệm của mình đối với công việc. Hỏi: Với tư cách là người quản lý của Xưởng, Chú cho biết công tác bố trí, sắp xếp lao động trong Xưởng được thực hiện như thế nào? Đáp: Nhìn chung là hợp lý. Đa số công nhân là nữ được bố trí làm ở khâu chế biến, đóng hộp còn nam giới làm nhiệm vụ đứng bếp và vận chuyển. Xin chân thành cảm ơn Chú! Phỏng vấn sâu số 2 Người phỏng vấn : Nguyễn Thị Thu Hiền Người được phỏng vấn : Nguyễn Hữu Thọ Chức vụ : Chủ tịch Công đoàn cơ quan Xí nghiệp Hỏi: Xin Bác cho biết Bác làm việc trong Ngành Đường sắt đã lâu chưa? Đáp: Từ năm 1963 và làm việc tại Xí nghiệp khi Xí nghiệp vừa thành lập. Hỏi: Bác giữ chức vụ Chủ tịch Công đoàn cơ quan Xí nghiệp từ năm nào? Đáp: Từ năm 2000 đến nay. Hỏi: Bác đánh giá thế nào về mối quan hệ phối hợp giữa chuyên môn với Công đoàn Xí nghiệp? Đáp: Khá chặt chẽ. Chuyên môn luôn lắng nghe ý kiến của Công đoàn vì đó là đại diện cho tiếng nói của người lao động. Ngược lại, Công đoàn tuyên truyền giáo dục, vận động CNVC chấp hành nội quy, quy định của Xí nghiệp cũng như của lãnh đạo, chuyên môn Hỏi: Như vậy, Công đoàn đã làm gì để phối hợp cùng với chuyên môn trong công tác bố trí, sắp xếp lại lao động trong Xí nghiệp? Đáp: Công đoàn đã làm được rất nhiều việc, trong đó có việc tổ chức các phong trào thi đua. Phong trào thi đua là nơi thử nghiệm tài năng, sở trường của mỗi cá nhân trong việc đáp ứng những yêu cầu của sản xuất, kinh doanh. Qua đó sẽ thấy được cá nhân nào phù hợp với công việc này và cá nhân nào phù hợp với công việc kia. Từ đó mà có những ý kiến đề xuất với chuyên môn cho chính xác. Hỏi: Theo Bác, Công đoàn đã có vai trò gì thiết thực đối với CBCNVC trong hoạt động phối hợp với lãnh đạo, chuyên môn? Đáp: Công đoàn đã phối hợp với chuyên môn và ban giám đốc cho phép một số con em CBCNV vào làm việc trong Xí nghịêp. Vì vậy, đã góp phần vào việc giải quyết bớt khó khăn cho công nhân lao động, tạo niềm tin trong công nhân lao động đối với tổ chức Công đoàn. Xin chân thành cảm ơn Bác! Phỏng vấn sâu số 3 Người phỏng vấn : Nguyễn Thị Thu Hiền Người được phỏng vấn : Nguyễn Văn Chí Chức vụ : Trưởng tàu khách- Trạm CT3 Vinh Hỏi: Xin Chú cho biết tổ Công đoàn của tổ tàu Chú có hoạt động thường xuyên không và có sự liên hệ gì với Công đoàn cấp trên không? Đáp: Có thường xuyên; Tổ trưởng tổ Công đoàn là người tập hợp các ý kiến, tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân viên trong tổ để đề xuất lên Công đoàn cấp trên. Đồng thời, đồng chí tổ trưởng Công đoàn cũng là người tuyên truyền các Nghị quyết của Công đoàn cấp trên tới từng đoàn viên trong tổ. Đó là mối quan hệ luôn khăng khít lẫn nhau Hỏi: Chú có thể cho biết Công đoàn đã có vai trò gì thiết thực nhất đối với bản thân chú? Đáp: Công đoàn đã tạo điều kiện chăm lo đời sống vật chất cho tôi và gia đình của tôi. Hỏi: Về mặt chuyên môn, nghiệp vụ Công đoàn có vai trò gì đối với chú hay không? Đáp: Có. Công đoàn phối hợp cùng với phòng Kỹ thuật nghiệp vụ tổ chức cho chúng tôi làm bài thi định kỳ. Làm bài nghiệp vụ hàng tháng giúp cho tôi cũng như nhiều anh em bạn bè đồng nghiệp khác hiểu biết sâu thêm về nghiệp vụ để có thể chủ động ứng phó với mọi sự cố xảy ra trên tàu. Hỏi: Với cương vị là một Trưởng tàu khách, trong mọi quyết định có liên quan đến quyền lợi người lao động Chú có thông qua tổ Công đoàn không? Đáp: Có. ở tổ tàu của tôi, tổ Công đoàn và chuyên môn luôn có sự phối hợp tốt với nhau. Chúng tôi cùng tổ chức đi thăm hỏi, động viên anh em nhân viên trong tổ và gia đình của họ. Trong khi quyết định các vấn đề chuyên môn tôi cũng đều thông qua tổ Công đoàn, trừ những trường hợp đột xuất Xin chân thành cảm ơn Chú! Phỏng vấn sâu số 4 Người phỏng vấn : Nguyễn Thị Thu Hiền Người được phỏng vấn : Lê Tiến Dũng Chức vụ : Trưởng phòng tổng hợp Hỏi: Xin Chú cho biết Chú giữ chức vụ Trưởng phòng tổng hợp từ khi nào? Đáp: Từ năm 2001 Hỏi: Trước khi giữ chức vụ này Chú được bố trí làm công việc gì? Đáp: Trước đây tôi là nhân viên đi tàu Thống nhất, sau đó làm Phó tàu, Trưởng tàu, Trực ban trạm Thống nhất và sau đó là Xưởng trưởng Xưởng chế biến sẵn. Hỏi: Xin Chú cho biết Chú tham gia vào Công đoàn là tự nguyện hay bắt buộc? Đáp: Tự nguyện. Hỏi: Qua nhiều lần thay đổi công việc như vậy, theo Chú, Công đoàn có vai trò gì trong công tác điều chuyển bố trí lao động hay không? Đáp: Công đoàn đã có tiếng nói thiết thực với chuyên môn và ban lãnh đạo Xí nghiệp, nhờ đó chúng tôi đã được bố trí, sắp xếp làm những công việc phù hợp với năng lực, trình độ chuyên môn của mỗi người. Hỏi: Theo ý kiến của Chú, Công đoàn có cần phải điều chỉnh, bổ sung hay đổi mới hoạt động gì trong công tác phối hợp với chuyên môn hay không? Đáp: Tuy Công đoàn đã có tiếng nói thiết thực với chuyên môn nhưng đôi lúc còn rụt rè. Công đoàn cần phải đẩy mạnh, tăng cường hơn nữa, mạnh dạn đề xuất ý kiến với chuyên môn trong nhiều quyết định có liên quan đến người lao động. Xin chân thành cảm ơn Chú! Phỏng vấn sâu số 5 Người phỏng vấn : Nguyễn Thị Thu Hiền Người được phỏng vấn : Nguyễn Văn Minh Chức vụ : Nhân viên tàu Thống nhất S1 Hỏi: Xin Anh cho biết Công việc hiện nay của Anh có phù hợp với năng lực chuyên môn, sức khoẻ của Anh hay không? Đáp: Rất phù hợp. Hỏi: Trong quá trình làm việc Anh có được bồi dưỡng thêm về chuyên môn nghiệp vụ đi tàu hay không? Đáp: Có. Hàng tháng tôi vẫn làm bài nghiệp vụ và mỗi năm phải làm bài thi định kỳ. Qua mỗi lần thi và làm bài đó, tôi đã được trau dồi thêm nhiều kinh nghiệm mới trong công tác chuyên môn. Hỏi: Vậy theo Anh, Công đoàn có vai trò gì không trong việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động? Đáp: Công đoàn phối hợp cùng với nhiều bộ phận, phòng ban chuyên khác nhau tổ chức các cuộc hội thảo, tổ chức thi định kỳ nhằm nâng cao hiểu biết cho người lao động. Công đoàn tổ chức các hội thi nhằm kích thích năng lực của các cá nhân. Hỏi: Theo ý kiến của riêng Anh, Công đoàn có vai trò gì thiết thực nhất để góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh? Đáp: Công đoàn là người tuyên truyền các chủ trương, chính sách, chỉ thị, Nghị quyết của Nhà nước, của Ngành, của Xí nghiệp. Vì vậy, chúng tôi luôn luôn nắm bắt được kịp thời các chủ trương, đường lối của các cấp lãnh đạo xung quanh tình hình sản xuất, kinh doanh. Từ đó mà có những hành động đúng góp phần vào kết quả kinh doanh của Xí nghiệp. Hỏi: Anh có thường xuyên tham gia vào các hoạt động do Công đoàn tổ chức hay không? Đáp: Do tôi phải đi tàu nên tôi không thể tham gia một cách thường xuyên các hoạt động của Công đoàn tổ chức. Còn các hoạt động phong trào do Công đoàn phát động thì tôi đều tham gia cùng với các nhân viên khác trong tổ. Xin chân thành cảm ơn Anh! Phỏng vấn sâu số 6 Người phỏng vấn : Nguyễn Thị Thu Hiền Người được phỏng vấn : Bùi Thị Ngoan Chức vụ : Tổ trưởng tổ cung ứng tàu E1 Hỏi: Xin Cô cho biết Cô tham gia vào tổ chức Công đoàn là tự nguyện hay bắt buộc? Đáp: Tự nguyện Hỏi: Cô có thường xuyên tham gia vào các hoạt động của Công đoàn hay không? Đáp: Có, nhất là các hoạt động của nữ công. Hỏi: Công việc mà hiện tại Cô đang làm có phù hợp với Cô không? Đáp: Nói chung là phù hợp vì đoàn tàu của Cô sử dụng xuất ăn chế biến sẵn nên cũng không vất vả lắm. Hỏi: Sử dụng xuất ăn chế biến sẵn cũng phải tuân theo quy trình nhất định. Vậy Cô có được hướng dẫn hay bồi dưỡng thêm về chuyên môn đó không? Đáp: Có. Xí nghiệp có tổ chức các lớp học về an toàn vệ sinh thực phẩm, vệ sinh viên, các lớp bồi dưỡng kỹ năng giao tiếp cho nhân viên phục vụ. Cũng giống nhân viên bao xe chúng tôi cũng phải làm bài nghiệp vụ để bổ sung thêm các kinh nghiệm làm việc. Hỏi: Theo Cô Công đoàn có vai trò gì thiết thực nhất đối với chuyên môn nghiệp vụ của Cô hay không? Đáp: Công đoàn tổ chức các buổi hội thảo, toạ đàm. Nhờ tham gia vào các buổi hội thảo, toạ đàm do công đoàn phối hợp tổ chức nên tôi đã được trang bị nhiều kiến thức về an toàn vệ sinh thực phẩm phục vụ cho nhiệm vụ công tác của tôi trên tàu. Xin chân thành cảm ơn Cô! Tài liệu Tham khảo [1] Công đoàn XNVDTXK Hà Nội- Báo cáo của BCH Công đoàn XNVDTXK Hà Nội KhoáIV tại Đại hội Đại biểu Công đoàn lần thứ V- Hà Nội, năm 2003- Trang 5. [2] Gunter Endweit (chủ biên)- Các lý thuyết xã hội học hiện đại- NXB Thế giới, năm 1999. [3] Hoàng Phê (chủ biên)- Từ điển Tiếng Việt- NXB Đà Nẵng, năm 2001- Trang 1007. [4] Hoàng Phê (chủ biên)- Từ điển Tiếng Việt- NXB Đà Nẵng, năm 2001- Trang 852. [5] Luật lao động- Nước CHXHCN Việt Nam- NXBCTQG- Trang 7. [6] Lênin toàn tập- Tiếng Việt- NXB Tiến Bộ- Tập 42- Trang 250. [7] Lênin toàn tập- NXB Matxcơva- Tập 41- Trang 38,39. [8] Những lời kêu gọi của Hồ Chí Minh- NXB Sự thật Hà Nội- Tập 6, năm 1962- Trang 175. [9] PGS- TS Nguyễn Viết Vượng (chủ biên)- Giáo trình lý luận và nghiệp vụ Công đoàn- NXB Lao động- Tập 1,2,3, năm 1999. [10] Tổng liên đoàn lao động Việt Nam- Pháp luật về Công đoàn và những quy định của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam- NXB Lao động, năm 2002- Chương I- Trang 14. [11] Tổng liên đoàn lao động Việt Nam- Pháp luật về Công đoàn và những quy định của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam- NXB Lao động, năm 2002- Chương I- Trang 19. [12] Tổng liên đoàn lao động Việt Nam- Văn kiện Đại hội VIII Công đoàn Việt Nam- NXB Lao động. [13] Trường Đại học Kinh tế Quốc dân- Giáo trình tổ chức lao động khoa học- năm 1998. [14] Vũ Quang Hà (biên tập)- Lý thuyết Xã hội học hiện đại- NXB Đại học quốc gia, năm 2000. [15] XNVDTXK Hà Nội- Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2003. Nhiệm vụ- biện pháp thực hiện năm 2004- Hà Nội tháng 1năm 2004- Trang 2. [16] XNVDTXK Hà Nội- Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2003. Nhiệm vụ- biện pháp thực hiện năm 2004- Hà Nội tháng 1năm 2004- Trang 3. [17] XNVDTXK Hà Nội- Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2003. Nhiệm vụ- biện pháp thực hiện năm 2004- Hà Nội tháng 1năm 2004- Trang 5. [18] XNVDTXK Hà Nội- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm các phòng- đơn vị thuộc Xí nghiệp- Hà Nội 1999. [19] XNVDTXK Hà Nội- Điều chỉnh đơn giá tiền lương theo phiên vụ chuẩn đối với nhân viên công tác trên tàu- Hà Nội 2001- Phần A. Nhận xét của cơ sở thực tập Nhận xét của giáo viên hướng dẫn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33822.doc
Tài liệu liên quan