LỜI MỞ ĐẦU
Bắt đầu từ khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời vào cuối năm 1987, tính đến hết năm 2007, nước ta đã thu hút gần 100 tỉ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI nhằm bổ sung vốn cho phát triển kinh tế, tạo đà cho sự tăng trưởng. Đặc biệt, từ năm 2003 đến nay, lượng vốn FDI vào nước ta liên tục tăng, với tốc độ năm sau bằng khoảng 1,5 lần năm trước và đến năm 2007 đã đạt mốc kỷ lục 20,3 tỷ USD. Để đạt được tốc độ cao như vậy chúng ta có thể kể đến rất nhiều nguyên nhân như tình hình chính trị - an ninh tiếp tục được duy trì ổn định, hệ thống chính sách đầu tư được cải cách, cơ sở hạ tầng đã nâng cấp và phát triển hơn Tựu chung lại, tất cả các yếu tố đó đều phản ánh môi trường đầu tư của nước ta đã được cải thiện ngày càng tốt hơn và sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài đến môi trường đầu tư tại Việt nam ngày càng lớn.
Tuy nhiên, cũng trong quá trình này, bên cạnh các dự án được tiến hành thành công, tạo tâm lý an tâm, tin tưởng nơi nhà đầu tư khiến họ mở rộng, tăng quy mô của dự án, cam kết làm ăn lâu dài tại Việt nam thì cũng có nhiều dự án khi thực hiện đã gặp phải thất bại, bị thu hồi giấy phép đầu tư hay giải thể trước thời hạn do các nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan khác nhau trong đó nguyên nhân chính vẫn là do công tác chuẩn bị đầu tư bao gồm sự chuẩn bị của bản thân nhà đầu tư và sự hỗ trợ từ phía Việt nam chưa được thực hiện tốt gây ảnh hưởng xấu tới môi trường đầu tư cũng như lãng phí thời gian, công sức của nhà đầu tư cũng như các nguồn lực của đất nước. Từ đó, vấn đề hoàn thiện công tác chuẩn bị đầu tư nhằm tăng hiệu quả thực hiện của dự án, cải thiện môi trường đầu tư tại Việt nam được đặt ra cấp thiết. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Công tác chuẩn bị đầu tư của dự án FDI tại Việt nam: Thực trạng và giải pháp” làm luận văn tốt nghiệp của mình. Luận văn đã hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về dự án FDI và chuẩn bị đầu tư của dự án FDI, phân tích thực tế công tác chuẩn bị đầu tư của dự án FDI về phía nhà đầu tư và sự hỗ trợ về phía Việt nam để từ đó đưa ra những giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cũng như một số kiến nghị với nhà đầu tư trong công tác chuẩn bị đầu tư dự án. Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lí luận chung về dự án FDI và chuẩn bị đầu tư của dự án FDI
Chương II: Thực trạng công tác chuẩn bị đầu tư của các dự án FDI tại Việt nam (1988 -2007)
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác chuẩn bị đầu tư đối với các dự án FDI tại Việt nam
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ DỰ ÁN FDI VÀ CHUẨN BỊ ĐẦU TƯ CỦA DỰ ÁN FDI 3
I. Lí luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và dự án FDI 3
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài: 3
1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài: 3
1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài: 4
2. Dự án FDI: 5
2.1. Khái niệm dự án FDI: 5
2.2. Vai trò của dự án FDI: 5
2.2.1. Với nhà đầu tư nước ngoài: 6
2.2.2. Với nước nhận đầu tư: 6
2.3. Đặc trưng của dự án FDI: 7
2.4. Phân loại dự án FDI: 9
2.5. Chu kì của một dự án FDI: 10
II. Chuẩn bị đầu tư của dự án FDI 14
1. Tổng quan về chuẩn bị đầu tư của dự án FDI 14
2. Các công việc chính cần tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư : 15
2.1. Nghiên cứu tìm hiểu cơ hội đầu tư vào Việt nam: 17
2.1.1. Về phía nhà đầu tư nước ngoài: 17
2.1.2. Các hoạt động hỗ trợ từ phía nước nhận đầu tư: 17
2.2. Lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi, tìm đối tác phía Việt nam (nếu có) 24
2.2.1. Những nội dung nghiên cứu của dự án FDI: 24
2.2.2. Nhà đầu tư nước ngoài tiến hành đàm phán, kí kết hợp đồng, chuẩn bị các tài liệu cần thiết cho hồ sơ dự án: 29
2.2.3. Các hoạt động hỗ trợ từ phía cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư 30
2.3. Thực hiện thủ tục trong cấp giấy chứng nhận đầu tư với dự án FDI: 30
2.3.1. Nhà đầu tư chuẩn bị hồ sơ dự án xin cấp giấy chứng nhận đầu tư: 32
2.3.2. Trình tự cấp giấy chứng nhận đầu tư: 33
2.3.3. Nhà đầu tư nhận giấy chứng nhận đầu tư, chuẩn bị cho giai đoạn triển khai dự án: 37
2.3.4. Các hoạt động hỗ trợ từ phía cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư: 37
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHUẨN BỊ ĐẦU TƯ CỦA CÁC DỰ ÁN FDI TẠI VIỆT NAM 47
I. Tổng quan về FDI của Việt nam qua 20 năm tiến hành hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài (1987 – 2007): 39
1. Tình hình thực hiện các dự án FDI: 39
1.1. Số lượng dự án, lượng vốn FDI được cấp mới và thực hiện: 39
1.2. Tình hình tăng vốn đầu tư: 42
1.3. Quy mô dự án : 44
1.4. Số lượng dự án phải rút giấy phép đầu tư, giải thể trước thời hạn: 45
2. Hiệu quả kinh tế - xã hội từ những dự án FDI được thực hiện trong thời gian qua (1988-2007): 48
2.1. Những thành công trong thu hút FDI và hiệu quả kinh tế - xã hội mà các dự án FDI được cấp phép mang lại : 48
2.2. Những hạn chế trong quá trình thu hút FDI và tác động của các dự án FDI gặp thất bại trong quá trình thực hiện tới hiệu quả thu hút FDI : 51
2.2.1. Những hạn chế trong quá trình thu hút FDI: 51
2.2.2. Tác động của các dự án FDI gặp thất bại trong quá trình thực hiện tới hiệu quả thu hút FDI ở giai đoạn sau: 53
3. Một số nguyên nhân chủ yếu khiến nhiều dự án FDI gặp thất bại trong quá trình thực hiện: 54
II. Thực trạng công tác chuẩn bị đầu tư của dự án FDI ở Việt nam: 56
1. Giai đoạn nhà đầu tư nước ngoài nghiên cứu tìm hiểu cơ hội đầu tư vào Việt nam: 56
1.1. Về phía nhà đầu tư nước ngoài: 56
1.2. Các hoạt động từ phía Việt nam: 56
1.2.1. Quá trình hoàn thiện của khung pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài: 57
1.2.2. Môi trường kinh tế cho hoạt động đầu tư nước ngoài: 59
1.2.3. Thực trạng công tác xúctiến đầu tư: 60
2. Giai đoạn nhà đầu tư nước ngoài lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, khả thi, tìm đối tác phía Việt nam: 63
2.1. Về phía nhà đầu tư nước ngoài và các đơn vị tư vấn đầu tư trong soạn thảo dự án 63
2.2. Về phía các bên Việt nam trong liên doanh: 63
3. Giai đoạn nhà đầu tư nước ngoài thực hiện thủ tục để được nhận giấy chứng nhận đầu tư: 64
3.1. Hoạt động cấp giấy chứng nhận đầu tư: 64
3.1.1. Phân cấp trong cấp giấy chứng nhận đầu tư: 64
3.1.2. Hoạt động thẩm định/thẩm tra trong cấp giấy chứng nhận đầu tư với dự án FDI: 65
3.2. Hoạt động hỗ trợ của cơ quan quản lý Nhà nước sau cấp giấy chứng nhận đầu tư 66
III. Đánh giá công tác chuẩn bị đầu tư của dự án FDI thời gian qua (1988 – 2007) 67
1. Những thành tích đạt được: 67
2. Các tồn tại trong công tác chuẩn bị đầu tư của dự án FDI: 68
2.1. Về phía nhà đầu tư nước ngoài: 68
2.1.1. Thiếu thông tin về quy hoạch đất đai, cơ sở hạ tầng: 68
2.1.2. Nhà đầu tư chưa thích nghi với hệ thống pháp luật của Việt nam cũng như thiếu năng lực tài chính thực hiện dự án: 71
2.1.3. Bước nghiên cứu thị trường chưa đầy đủ: 72
2.2. Về phía cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư : 72
2.2.1. Thiếu quy hoạch phát triển ngành, vùng, lãnh thổ: 72
2.2.2. Các cơ quan, đơn vị có chuyên môn cao trong soạn thảo dự án FDI còn chưa nhiều: 75
2.2.3. Hạn chế trong hoạt động xúctiến đầu tư của các tỉnh, thành phố: 75
2.2.4. Công tác quản lý đầu tư còn có nhiều yếu kém: 76
2.3. Bên Việt nam trong liên doanh: 77
3. Nguyên nhân của những tồn tại trên: 78
3.1. Về phía các nhà đầu tư nước ngoài: 78
3.2. Về phía các bên Việt nam trong liên doanh: 79
3.3. Về phía cơ quan quản lý Nhà nước Việt nam: 79
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC CHUẨN BỊ ĐẦU TƯ CỦA DỰ ÁN FDI TẠI VIỆT NAM 82
1. Kinh nghiệm của một số nước trong hỗ trợ nhà đầu tư nước ngoài thực hiện chuẩn bị đầu tư: 82
1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc: 82
1.2. Kinh nghiệm của Thái Lan: 83
1.3. Kinh nghiệm của Malaysia: 83
1.4. Bài học kinh nghiệm với Việt nam: 84
2. Định hướng thu hút đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 – 2010: 85
3. Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện công tác chuẩn bị đầu tư của dự án FDI 86
3.1. Về phía Nhà nước: 86
3.1.1. Đảm bảo các cam kết về quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài: 86
3.1.2. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài theo hướng đồng bộ, tăng cường tính minh bạch, dự đoán được: 87
3.1.3. Hoàn thiện công tác quy hoạch ngành, vùng lãnh thổ: 88
3.1.4. Tăng cường quản lý Nhà nước trong cấp giấy chứng nhận đầu tư: 89
3.1.5. Cải cách hành chính trong tiến hành thủ tục đầu tư theo hướng minh bạch, giảm bớt các thủ tục phiền hà: 89
3.1.6. Cần tăng cường vai trò của cơ quan chuyên trách về xúc tiến đầu tư: 90
3.2. Về phía các địa phương, ban quản lý KCN: 91
3.2.1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch: 91
3.2.2. Nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến đầu tư cũng như hoạt động cấp giấy chứng nhận đầu tư: 92
3.3. Về phía các bộ ngành: 93
3.3.1. Hoàn thiện các quy định chuẩn mực, định mức trong ngành mình phụ trách: 93
3.3.2. Giảm thiểu các thủ tục hành chính phiền hà cho nhà đầu tư: 93
3.3.3. Tăng cường sự phối hợp với các địa phương, ban quản lý KCN: 94
3.4. Về phía Cục đầu tư nước ngoài: 94
3.4.1. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện pháp luật và chính sách về đầu tư nước ngoài: 94
3.4.2. Tăng cường vai trò trong quản lý Nhà nước với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài: 94
3.4.3. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư và hợp tác quốc tế: 95
3.5. Một số kiến nghị với các nhà đầu tư: 96
3.5.1. Đối với các bên Việt nam trong liên doanh: 96
3.5.2. Đối với nhà đầu tư nước ngoài: 96
KẾT LUẬN 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
107 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1778 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Công tác chuẩn bị đầu tư của dự án FDI tại Việt nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ố sẽ sử dụng mảnh đất đó vào mục đích khác. Có thể nói, vấn đề đất đai là vấn đề bức xúc không chỉ với giai đoạn triển khai dự án mà ngay ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư của dự án. Theo một chuyên gia thuộc Sở Kế hoạch và đầu tư của thành phố Hồ Chí Minh, nguyên nhân chính khiến thành phố chưa thể hoàn thành kế hoạch thu hút vốn năm 2005 là do vấn đề đất đai. Dù thành phố đã đề ra chương trình “5 sẵn sàng” bao gồm cả “sẵn sàng về đất” cho dự án nhưng chương trình này cũng không thành công do những khó khăn trong giải quyết vấn đề đất đai.
Cũng chính vì chưa có quy hoạch chi tiết về phát triển kinh tế của ngành, địa phương nên danh mục dự án kêu gọi đầu tư mà các địa phương đưa ra trong nhiều còn thiếu cụ thể, có những trường hợp chỉ mới dừng ở mức nêu tên dự án hay có trường hợp lại quy định quá chi tiết về hình thức đầu tư khiến nhà đầu tư cảm thấy gò bó, khó khăn trong lựa chọn dự án.
2.2.2. Các cơ quan, đơn vị có chuyên môn cao trong soạn thảo dự án FDI còn chưa nhiều:
Đặc trưng của dự án FDI là có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài cùng với những quy định khác nhau về thủ tục đầu tư giữa các nước. Do đó, những thông tin về pháp luật, chính sách liên quan tới đầu tư cũng như thủ tục đầu tư là những thông tin mà nhà đầu tư rất cần trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Dự án FDI được hình thành không chỉ dựa trên nỗ lực của nhà đầu tư mà rất cần sự hỗ trợ từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư mà cụ thể là các cơ quan xúc tiến đầu tư cũng như các đơn vị tư vấn. Tuy nhiên, thực tế hiện nay các cơ quan có chuyên môn cao trong hỗ trợ nhà đầu tư soạn thảo dự án FDI, tìm hiểu thị trường còn chưa nhiều.
2.2.3. Hạn chế trong hoạt động xúc tiến đầu tư của các tỉnh, thành phố:
Các hoạt động xúc tiến đầu tư trong thời gian qua còn chồng lấn lên nhau, tính gắn kết giữa chương trình xúc tiến đầu tư mỗi tỉnh với các vùng, miền và chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia còn hạn chế, phổ biến tình trạng mạnh ai nấy làm dẫn tới có quá nhiều các hội thảo, hội nghị xúc tiến đầu tư do các tỉnh tổ chức mà hiệu quả trong thu hút sự quan tâm với nhà đầu tư nước ngoài chưa cao, vẫn còn thiếu các chương trình xúc tiến đầu tư có phạm vi cả vùng, miền.
Bên cạnh đó, danh mục dự án kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài của các tỉnh chưa được kịp thời bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. thông tin được cung cấp trong bản danh sách lại khiến các nhà đầu tư cảm thấy bị hạn chế sự linh hoạt khi đưa ra các quyết định đầu tư. Quy định về hình thức đầu tư và quy mô dự án trong bản danh sách của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Sở Kế hoạch và Đầu tư là một trong các thông tin kiểu này. Bản danh sách của Hà Nội thậm chí còn chứa đựng các con số ước tính vốn pháp định và vốn vay, phần vốn góp của bên Việt Nam, thời gian của dự án và tỷ lệ xuất khẩu,... Đây hầu hết là các vấn đề rất nhạy cảm cần nhiều sự tính toán và cân nhắc. Dù đó chỉ là các thông tin để tham khảo nhưng nó cũng phần nào khiến các nhà đầu tư cảm thấy bị hạn chế. Một vài nhà đầu tư còn cho rằng các bản danh sách này được đề ra trên cơ sở mối quan tâm của chính phủ chứ không phải của các nhà đầu tư và họ nghi ngờ về khả năng sinh lợi của dự án.
2.2.4. Công tác quản lý đầu tư còn có nhiều yếu kém:
Luật đầu tư chung 2005 đã thực hiện phân cấp triệt để trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài cho UBND các địa phương cũng như ban quản lý các khu công nghiệp trong quản lý hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, trong quá trình phân cấp này cũng bộc lộ một số yếu kém như:
2.2.4.1. Về phía các địa phương:
Nhiều địa phương đã thể hiện sự lúng túng trong cấp giấy chứng nhận đầu tư nước ngoài. Vì vậy việc cấp giấy chứng nhận đầu tư ở một số địa phương còn bộc lộ nhiều thiếu sót như dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư không thuộc thẩm quyền, dự án thuộc nhóm A thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ nhưng UBND các địa phương hay ban quản lý các khu công nghiệp vẫn cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Bên cạnh đó, đối với các dự án thuộc diện thẩm tra, cần lấy ý kiến của các bộ, ngành trước khi cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng không được thực hiện nghiêm túc, thậm chí có một số dự án được cấp chứng nhận đầu tư trước khi trình xin ý kiến của Văn phòng Chính phủ.
Bên cạnh đó, trong quá trình cấp giấy chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài, các địa phương thiếu thông tin về năng lực của nhà đầu tư. Từ đó dẫn tới các địa phương hết sức lúng túng trong cấp giấy chứng nhận đầu tư. Có thể lấy ví dụ với trường hợp của tỉnh Hưng yên, có nhà đầu tư Đài Loan đến làm việc với tỉnh về khả năng xây dựng nhà máy sản xuất chip điện tử trên diện tích sử dụng đất 1.000 ha, nhưng tỉnh không có thông tin gì về loại sản phẩm này cũng như thông tin về nhà đầu tư nên băn khoăn không biết nên nhận hay không? Nhà đầu tư đã sẵn sàng, việc quyết định như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào phía tỉnh. Đồng thời, địa phương rất muốn làm nốt các thủ tục còn lại để có thể cấp giấy chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư này. Tuy nhiên, địa phương vẫn còn đang băn khoăn trong xác thực năng lực của nhà đầu tư nước ngoài. Trước đây, các dự án đều tập trung về một đầu mối là Bộ kế hoạch và đầu tư thì hiện nay, cũng với sự phân cấp triệt để cho các địa phương, các địa phương cũng rất cần sự hỗ trợ từ phía các bộ, ngành khác trong cấp chứng nhận đầu tư.
2.2.4.2. Về phía các bộ, ngành:
Cùng với những quy định về phân cấp, các bộ ngành đóng vai trò quản lý hoạt động đầu tư trong lĩnh vực mình phụ trách, đồng thời có trách nhiệm đưa ra các ý kiến đối với các dự án thuộc phạm vi, lĩnh vực của mình. Nhưng thực tế hiện nay, nhiều dự án do ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp giấy chứng nhận đầu tư nhưng bộ quản lý chuyên ngành không biết hay không được hỏi ý kiến dẫn tới đầu tư trùng lặp.
Bên cạnh đó, một số quy định hướng dẫn của các bộ, ngành chưa đủ chi tiết khiến các địa phương lúng túng trong vận dụng, kéo dài thời gian thẩm tra dự án do thời gian lấy ý kiến kéo dài.
2.3. Bên Việt nam trong liên doanh:
Trong quá trình kí kết hợp đồng, các nhà đầu tư Việt nam cũng giống như các địa phương, ban quản lý rất thiếu thông tin về các đối tác nước ngoài. Do thiếu thông tin để thẩm định tư cách pháp lý, năng lực tài chính, quản lý cũng như khả năng kinh doanh của phía đối tác nên đã lựa chọn các đối tác không có khả năng thực hiện dự án. Ví dụ như dự án liên doanh sản xuất lúa gạo xuất khẩu tại Cần Thơ giữa bên Việt nam là tổng công ty lương thực trung ương 2 và phía đối tác là American Rise Inc của Mỹ có tổng vốn đầu tư là 18 triệu USD do vi phạm các quy định của Nhà nước về thu mua lúa gạo nên dẫn tới bị rút giấy phép đầu tư.
3. Nguyên nhân của những tồn tại trên:
Những tồn tại trong công tác chuẩn bị đầu tư nói trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có những nguyên nhân khách quan từ phía các nhà đầu tư và có những nguyên nhân khách quan từ phía Việt nam đã chưa tạo ra được các điều kiện thuận lợi trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu cũng như làm các thủ tục xin giấy chứng nhận đầu tư.
3.1. Về phía các nhà đầu tư nước ngoài:
Nguyên nhân chính vẫn là do họ chưa lường trước được các rủi ro trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu cơ hội đầu tư, đặc biệt là nghiên cứu thị trường khiến trong quá trình soạn thảo dự án chưa tốt, các bước nghiên cứu thị trường, công nghệ đã đưa ra thông tin không chính xác về phương án sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh đó là các khác biệt về phong tục tập quán, về văn hóa, về các điều kiện tự nhiên:khí hậu, nhiệt độ, độ ẩm làm chất lượng sản phẩm suy giảm cũng như các hao mòn về thiết bị cũng như các biện pháp kĩ thuật khác đã không được nhà đầu tư tính tới. Sự sụt lún của đất nơi đặt máy móc, thiết bị trong khu chế xuất Tân Thuận chưa được tính tới khi lập dự án đã khiến nhiều nhà đầu tư trong quá trình vận hành dự án phải tăng thêm các khoản chi phí để khắc phục. Thực tế cho thấy, với sự hấp dẫn của quy mô thị trường hơn 80 triệu dân của Việt nam, nhà đầu tư nước ngoài tiến hành đầu tư không theo sức mua của thị trường mà vẫn quyết định đầu tư theo kiểu đón đầu để chờ cơ hội dẫn tới quy mô dự án lựa chọn không sát với thị trường. Như vậy, khả năng dự báo và mức độ am hiểu thị trường là yếu tố còn thiếu hụt của nhà đầu tư nước ngoài khi tiến hành đầu tư vào Việt nam. Khi đó, vai trò của các dịch vụ tư vấn đầu tư trong nước hay nước ngoài được phép hoạt động tại Việt nam đóng vai trò quan trọng hỗ trợ nhà đầu tư chuẩn bị đầu tư tốt. Nhưng với yêu cầu cũng như tính phức tạp của dự án FDI, hiện tại có chưa nhiều các tổ chức dịch vụ tư vấn ở Việt nam có khả năng thực hiện tư vấn cho các dự án FDI có quy mô lớn.
3.2. Về phía các bên Việt nam trong liên doanh:
Khả năng về vốn cũng như kinh nghiệm trong quản lý, đàm phán của các đối tác phía Việt nam còn hạn chế khiến cho sự thành bại của dự án FDI hầu như phụ thuộc vào phía đối tác nước ngoài, bên Việt nam ít có tiếng nói trong các liên doanh do tỉ lệ vốn góp quá thấp. Đồng thời, trong quá trình đàm phán, do có ít kinh nghiệm nên phía Việt nam thường bị đối tác nước ngoài chèn ép cộng thêm với năng lực về công nghệ còn hạn chế nên trong nhiều trường hợp đã chấp nhận các công nghệ cũ, lạc hậu mà giá trị vẫn cao hơn giá trị thực của chúng.
Bên cạnh đó, một nguyên nhân tiếp theo là do phía Việt nam thiếu các thông tin về các đối tác đầu tư nước ngoài do ta chưa có hệ thống dữ liệu chung về dự án và các nhà đầu tư thực hiện dự án tại Việt nam cộng thêm năng lực quản lý yếu kém, chủ quan nên khi thẩm định đã không kiểm tra kĩ tư cách pháp lý, năng lực tài chính của đối tác nên đã lựa chọn đối tác nước ngoài không có hay thiếu khả năng thực hiện dự án.
3.3. Về phía cơ quan quản lý Nhà nước Việt nam:
Hệ thống luật pháp về đầu tư nước ngoài của Việt nam còn trong quá trình hoàn thiện nên có nhiều yếu tố bất định, các chính sách còn thiếu nhất quán, thậm chí chồng chéo lên nhau và thường xuyên thay đổi khiến nhà đầu tư nước ngoài rất khó khăn trong việc xác định những chủ trương trong thu hút đầu tư nước ngoài của Việt nam. Để thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư, ta tạo cho họ một hệ thống các ưu đãi. Tuy nhiên, ở thời điểm trước khi Luật đầu tư chung 2005 ra đời, hệ thống các ưu đãi được đề cập trong nhiều ngành luật khác nhau gây khó khăn cho nhà đầu tư nước ngoài khi muốn tìm hiểu cơ hội đầu tư. Luật đầu tư chung 2005 quy định cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư: Bộ kế hoạch và đầu tư, Sở kế hoạch đầu tư các tỉnh, Ban quản lý các KCN, KCX, KCNC là đầu mối tiếp nhận hồ sơ và cấp giấy chứng nhận đăng kí đầu tư, tức là thực hiện theo cơ chế một cửa nhưng mới chỉ là một cửa ở mức độ khi đã có đủ các tài liệu trong hồ sơ. Một số tài liệu khác trong hồ sơ thẩm tra như báo cáo đánh giá tác động môi trường, nhà đầu tư vẫn cần phải có hồ sơ thẩm định của cơ quan quản lý môi trường. Hay thủ tục mở tài khoản tại ngân hàng thì phải có chữ ký của ngân hàng. Hay liên quan đến xác định tư cách pháp nhân của nhà đầu tư thì phải có cơ quan công an, cơ quan nội vụ...Như vậy, nhà đầu tư vẫn cần phải đến rất nhiều cơ quan trong quá trình hoàn thiện hồ sơ dự án của mình mà không có cơ quan đứng ra làm đầu mối chung, từ đó lại đẻ ra rất nhiều các giấy phép con, kéo dài thời gian cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng như tăng tính phiền hà của các thủ tục đối với nhà đầu tư. Thêm vào đó, theo quy trình hiện tại thì để được cấp giấy chứng nhận đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài cần có thỏa thuận về cho phép thuê đất với địa phương (trên nguyên tắc) nhưng khi đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư, nhà đầu tư lại phải gặp lại cơ quan này để làm thủ tục về giải phóng mặt bằng, làm tăng thời gian chuẩn bị của nhà đầu tư với dự án.
Ngoài ra, năng lực công nghệ trong các dự án có chuyển giao công nghệ còn chưa cao dẫn tới chất lượng công tác thẩm định với dự án FDI còn tồn tại nhiều hạn chế, có những dự án FDI không đủ điều kiện về vốn, không có khả năng đưa vào các công nghệ mới cũng như khả năng tổ chức quản lý kém mà vẫn được cấp giấy chứng nhận đầu tư khiến cho các dự án có công nghệ cũ, lạc hậu được chấp thuận ảnh hưởng lớn tới môi trường.
Sự phối hợp giữa các cơ quan còn thiếu hiệu quả đi kèm với thủ tục hành chính trong cấp giấy chứng nhận đầu tư còn phức tạp làm tăng thời gian chờ đợi của nhà đầu tư. Tuy Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong cải cách thủ tục hành chính cũng như việc phân cấp quản lý đầu tư cho các địa phương để tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nhưng thời gian thẩm định một số dự án vẫn rất dài do phải thống nhất ý kiến giữa các bộ, ngành. Theo quy định hiện hành của Chính phủ, trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận được hồ sơ, cơ quan chức năng phải có ý kiến bằng văn bản nhưng thực tế có trường hợp phải chờ đến 1 hoặc 2 tháng, thậm chí lâu hơn. Có thể đưa ra các ví dụ điển hình như: dự án trung tâm thời trang London sau 2 tháng mà Bộ Lao động Thương binh và Xã hội vẫn chưa có ý kiến; dự án công ty chuyển phát nhanh ICS mất 4 tháng, Bộ Giao thông Vận tải mới có ý kiến sau hai lần có công văn và một lần công thư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Bên cạnh đó, công tác dự báo còn thiếu chuẩn xác, chưa lường hết diễn biến phức tạp của thị trường, từ đó dẫn tới chất lượng các quy hoạch còn chưa cao, dẫn tới có quá nhiều dự án đầu tư vào một lĩnh vực khiến cho nhu cầu sản phẩm dư thừa hay thiếu vùng nguyên liệu cho dự án dẫn tới dự án không thể triển khai hoặc triển khai xong nhưng không thể đi vào hoạt động. Tình trạng này đã xảy ra với các dự án FDI thuộc lĩnh vực mía, đường, xi măng…
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC CHUẨN BỊ ĐẦU TƯ CỦA DỰ ÁN FDI
TẠI VIỆT NAM
1. Kinh nghiệm của một số nước trong hỗ trợ nhà đầu tư nước ngoài thực hiện chuẩn bị đầu tư:
1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Sau hơn 30 năm thực hiện chính sách mở cửa, Trung Quốc đã rất thành công trong thu hút FDI vào nước mình nhờ liên tục sửa đổi và hoàn thiện cơ chế chính sách về đầu tư nước ngoài. Trung Quốc là nước có nhiều điểm tương đồng với Việt nam trong thu hút đầu tư nước ngoài nên những kinh nghiệm từ Trung Quốc rất có ý nghĩa đối với Việt nam trong tạo lập cơ chế hỗ trợ cho các nhà đầu tư nước ngoài trong chuẩn bị đầu tư.
Bên cạnh việc cải thiện chính sách đối với các công ty có vốn nước ngoài đã đầu tư để tạo nên hình ảnh tốt lành, tạo sự an tâm nơi nhà đầu tư. Trung Quốc cũng có những biện pháp giới thiệu về môi trường đầu tư của mình rất tích cực tới nhà đầu tư nước ngoài trong giai đoạn họ đang tìm hiểu cơ hội đầu tư tại Trung Quốc. Hồi cuối thập niên 80, thế kỷ trước các lãnh đạo cấp cao nhất của Trung Quốc thường xuyên tiếp xúc và đưa yêu cầu cụ thể với những công ty đa quốc gia lớn mà họ muốn đầu tư, đến xây dựng các nhóm cứ điểm công nghiệp. Họ quảng bá điểm khác biệt trong các khu công nghiệp của đất nước mình, phát huy "giá trị gia tăng" của mình để thu hút đầu tư. Không chỉ ở cấp trung ương, mà các địa phương của Trung Quốc cũng đã rất tích cực trong việc thu hút FDI. Chẳng hạn thị trấn Đông Hoản gần đặc khu kinh tế Thẩm Quyến, dù chỉ là thành phố mới nổi từ năm 1990, mà họ đã có văn phòng đại diện ở Tokyo để thu thập thông tin thị trường và tìm đối tác đến đầu tư.
Bên cạnh đó, tại Trung Quốc, sự phát triển và phân bổ các khu công nghiệp được thực hiện theo nguyên tắc: lấp đầy và phát triển hiệu quả các khu công nghiệp đã có, khi nào các khu công nghiệp lấp đầy 60 - 70% diện tích thì mới cho phép triển khai các khu công nghiệp tiếp theo. Thời gian gần đây, Trung Quốc đã cắt giảm tới 500 khu công nghiệp, nhằm hạn chế việc sử dụng quá mức và lãng phí quỹ đất canh tác. Các hồ sơ xin duyệt và mở rộng các khu công nghiệp bị chững lại và nhiều nơi đã rút hồ sơ lập khu công nghiệp mới khỏi danh sách được phê duyệt. Từ đó ta có thể thấy Trung Quốc đã chú trọng hơn vào công tác quy hoạch sử dụng đất đai, tránh lãng phí tài nguyên.
1.2. Kinh nghiệm của Thái Lan:
Thái Lan là nước có nhiều điểm tương đồng với Việt nam về điều kiện tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế. Trong những thập niên gần đây, ngoài cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997 có ảnh hưởng nặng nề tới dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Thái Lan thì Thái Lan đã thu hút rất thành công dòng vốn FDI vào nước mình, đặc biệt trong phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ cho các dự án FDI. Cũng như Trung Quốc, hồi cuối thập niên 80, các nhà lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc thường xuyên tham dự các hội nghị về xúc tiến đầu tư lớn, trực tiếp tiếp xúc với các tập đoàn đa quốc gia lớn để giải đáp các thắc mắc của họ.
1.3. Kinh nghiệm của Malaysia:
Ở Malaysia, cơ quan phát triển công nghiệp Malaysia MIDA trực thuộc Bộ công nghiệp và thương mại quốc tế là cơ quan thực hiện chức năng cấp phép và xét duyệt các ưu đãi về đầu tư. Để tư vấn và hỗ trợ nhà đầu tư trong thành lập và hoạt động của các dự án sản xuất, Malaysia có trung tâm dịch vụ tư vấn của MIDA gồm các công chức từ các cơ quan chủ chốt của Chính phủ. Bên cạnh đó, hình thức trung tâm dịch vụ một cửa cũng được thành lập ở cấp bang để hỗ trợ cho nhà đầu tư trong khâu chuẩn bị dự án đầu tư.
1.4. Bài học kinh nghiệm với Việt nam:
Qua kinh nghiệm của một số nước như Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia ta có thể thấy được một số bài học kinh nghiệm với Việt nam như:
Trong quá trình thu hút FDI cần có những quy hoạch cụ thể trong sử dụng đất đai và cơ sở hạ tầng, từ đó nhà đầu tư mới có thể dễ dàng có được các thông tin về quy hoạch của nơi mình định đầu tư nhằm đưa ra quyết định đầu tư chính xác.
Vai trò của cơ quan hỗ trợ, cung cấp các dịch vụ trong chuẩn bị đầu tư là rất quan trọng. Văn phòng cung cấp dịch vụ tổng hợp như trong trường hợp của Malaysia có tác động hỗ trợ rất nhiều cho các nhà đầu tư vốn e ngại cac thủ tục hành chính phức tạp cũng như những khác biệt về hệ thống luật pháp mà nhà đầu tư vẫn chưa hoàn toàn nắm rõ.
Thông tin về các dự án đầu tư thành công có ý nghĩa rất lớn: hình ảnh các công ty có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tốt có thể mang lại một hiệu quả thúc đẩy nhà đầu tư nước ngoài trong tìm hiểu cơ hội đầu tư. Ngược lại nếu có nhiều các thông tin về những dự án đầu tư kém hiệu quả thì rất khó kiểm soát được các tác động tiêu cực tới việc thu hút đầu tư . Thành công của các tập đoàn Unilever, P&G, Coca Cola, Volkswagen và Boeing tại Trung Quốc đã tạo được ấn tượng rất tốt đẹp với giới đầu tư quốc tế.
Bên cạnh các thủ tục được giảm bớt, cần có một ủy ban xúc tiến đầu tư. Uỷ ban xúc tiến đầu tư là cơ quan chính trực tiếp quan hệ với các nhà đầu tư, nên có một vị trí tương đối trong cơ cấu của Chính phủ và độc lập với các bộ phận khác, nhất là các cơ quan liên quan đến kế hoạch,thực hiện chức năng quản lý tài sản Nhà nước. Một cơ cấu như vậy sẽ đưa tới cho các nhà đầu tư thông điệp là” đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế như bất kỳ hoạt động nào khác” và một thông điệp khác nữa là “cơ quan này sẽ đại diện cho các nhà đầu tư làm lợi cho Chính phủ, chứ không phải đại diện cho Chính phủ làm lợi cho các nhà đầu tư”. Bên cạnh đó, ủy ban này có tác dụng thúc đẩy các biện pháp nhằm tạo thuận lợi hơn cho nhà đầu tư nước ngoài trong tìm hiểu thông tin về chính sách, ưu đãi cũng như trực tiếp tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho nhà đầu tư.
Sự cam kết cũng như các ưu đãi từ phía Chính phủ có tác động lớn tới nhà đầu tư. Các nhà đầu tư thường mong muốn có được sự cam kết từ các nhà lãnh đạo cao cấp về mục tiêu nhất định sẽ đạt được trong tương lai. Một bài thuyết trình hoặc một lời mời đầu tư chung chung sẽ không mấy tác dụng. Cần phải nhấn mạnh vào một khía cạnh nào đó của hoạt động FDI, ví dụ như “Những hoạt động và nỗ lực của Chính phủ sẽ tập trung vào cải thiện môi trường đầu tư”.
2. Định hướng thu hút đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 – 2010:
Hiện nay, giữa các nước đang có sự cạnh tranh gay gắt trong thu hút nguồn vốn FDI, nếu nước ta không có những biện pháp thích hợp nhằm thu hút nhà đầu tư nước ngoài thì họ sẽ chuyển sang các nước khác để đầu tư. Vì vậy, ta cần có các giải pháp nhằm tạo thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài khi họ tìm hiểu và đến làm ăn tại Việt nam. Các quan điểm cũng như định hướng của Nhà nước trong hoàn thiện công tác chuẩn bị đầu tư không được đề cập một cách riêng biệt trong một văn bản mà được bao hàm trong quan điểm, định hướng chung về nhu cầu thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong các giai đoạn Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã đề ra các chỉ tiêu trong thu hút đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 – 2010 như:
Vốn đầu tư nước ngoài thực hiện: đạt khoảng 24 - 25 tỷ USD (tăng 70-75% so với giai đoạn 2001-2005) chiếm khoảng 17,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Vốn đăng ký bao gồm cả vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng vốn đạt khoảng 55 tỷ USD (tăng hơn 2 lần so với giai đoạn 2001–2005), trong đó vốn cấp mới đạt 41 tỷ USD và vốn bổ sung đạt khoảng 14 tỷ USD. Bình quân mỗi năm đạt khoảng 11 tỷ USD.
Bên cạnh đó, cần phải chú trọng thu hút đầu tư từ các nước G7 có công nghệ cao, đảm bảo phát triển bền vững.
Từ đó, đại hội cũng đề ra một số phương hướng phát triển cụ thể có liên quan đến tạo các điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài như: Đơn giản hoá thủ tục cấp phép đầu tư đối với đầu tư nước ngoài; thu hẹp các lĩnh vực không cho phép đầu tư và những lĩnh vực đầu tư có điều kiện, mở rộng lĩnh vực đăng ký đầu tư. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển các lĩnh vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế. Bên cạnh đó là khuyến khích, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia phát triển lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng quy hoạch ngành, vùng lãnh thổ và cả nước, dự báo chuẩn xác nhu cầu thị trường làm cơ sở cho việc xây dựng và công bố danh mục dự án và thu hút vốn FDI phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả hợp tác đầu tư.
3. Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện công tác chuẩn bị đầu tư của dự án FDI:
3.1. Về phía Nhà nước:
3.1.1. Đảm bảo các cam kết về quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài:
Đối với nhà đầu tư nước ngoài, các cam kết của Nhà nước đối với quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư nước ngoài có vai trò giúp họ an tâm trong quá trình đầu tư tại Việt nam, từ đó họ có thể tiến hành bỏ vốn để đầu tư trong dài hạn. Đặc biệt khi Việt nam đã tham gia vào tổ chức thương mại quốc tế WTO cũng như tham gia vào tổ chức quốc tế khác thì cần phải tuân thủ theo các quy định của họ như nguyên tắc tối huệ quốc, nguyên tắc đối xử quốc gia…
Đồng thời, nhà đầu tư nước ngoài cũng rất quan tâm đến việc mình được đối xử như thế nào so với các nhà đầu tư trong nước. Qua các cuộc điều tra cho thấy, khi các nhà đầu tư nước ngoài được hỏi liệu họ mong muốn điều gì nhất ở quốc gia mà họ tới đầu tư, câu trả lời chung sẽ là “mong muốn được đối xử bình đẳng như các nhà đầu tư trong nước”. Trong 20 năm thu hút đầu tư nước ngoài vừa qua, mức độ đối xử bình đẳng giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài ngày càng tăng. Nếu như ở thời điểm ban đầu, nhà đầu tư nước ngoài không được đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài mà chỉ được liên doanh với các công ty nhà nước ở trong nước, đồng thời có sự phân biệt trong chi phí điện, nước…giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài (cơ chế 2 giá) thì đến Luật đầu tư chung 2005, cơ chế 2 giá áp dụng với nhà đầu tư nước ngoài đã bị bãi bỏ, đồng thời các hình thức đầu tư cũng được đưa ra đa dạng hơn, nhà đầu tư nước ngoài có thể lựa chọn giữa hình thức 100% vốn nước ngoài, liên doanh hay hợp đồng hợp tác kinh doanh, BOT khi tiến hành đầu tư. Tuy nhiên, vẫn có sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào % tỉ lệ vốn cổ phần mà nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trong các công ty cổ phần hay nhà đầu tư nước ngoài vẫn phải đăng kí khi thực hiện dự án tại Việt nam với lý giải để bảo vệ các ngành sản xuất trong nước. Về lâu dài, cần tạo ra sự bình đẳng hơn nữa giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời coi trọng những quyền hợp pháp mà nhà đầu tư nước ngoài nhận được khi có những thay đổi từ luật pháp trên cơ sở nguyên tắc không hồi tố, theo hướng áp dụng các chính sách có lợi hơn cho nhà đầu tư nước ngoài nếu có sự thay đổi từ phía luật pháp Việt nam.
3.1.2. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài theo hướng đồng bộ, tăng cường tính minh bạch, dự đoán được:
Do vẫn đang trong quá trình hoàn thiện nên hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài của Việt nam vẫn còn nhiều bất cập, các quy định chồng chéo, mâu thuẫn nhau, hướng dẫn chậm ban hành không chỉ gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước mà còn gây khó khăn cho nhà đầu tư trong tìm hiểu cũng như thực hiện các thủ tục. Vì vậy, hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài trong thời gian tới cần được sửa đổi theo một số nguyên tắc như:
- Phù hợp với các thông lệ quốc tế cũng như đảm bảo đưa ra được các ưu đãi cạnh tranh hơn so với các nước khác.
- Các văn bản luật được ban hành phải phù hợp với các cam kết mà Việt nam đã kí.
- Các văn bản luật phải nhất quán, có sự đồng thuận của các bộ ngành cũng như sự tham gia của các nhà đầu tư, doanh nghiệp.
Muốn vậy, trong thời gian tới, cần tăng cường rà soát các văn bản luật hiện hành để tìm ra và sửa đổi hay loại bỏ các văn bản không còn phù hợp với tình hình thực tiễn hay các văn bản hiện đang có sự chồng chéo, mâu thuẫn nhau, đồng thời có sự so sánh với các cam kết quốc tế mà Việt nam đã kí kết để có sự điều chỉnh cho phù hợp nhằm đảm bảo tính nhất quán, đồng bộ của các văn bản luật. Đồng thời, trong quá trình tổ chức soạn thảo luật cần có sự tham khảo ý kiến rộng rãi của các bộ ngành có liên quan cũng như lấy ý kiến từ phía các nhà đầu tư, các doanh nghiệp trước được ban hành. Có như vậy mới đảm bảo tính nhất quán, minh bạch cũng như gắn liền với hoạt động thực tế của mỗi văn bản, quy định. Bên cạnh đó, trong quá trình soạn thảo luật, cần lựa chọn được đội ngũ cán bộ, chuyên gia giỏi tham gia soạn thảo cũng như cần có sự tham khảo kinh nghiệm xây dựng văn bản pháp luật của các nước.
Chủ trương phân cấp triệt để cho địa phương và các ban quản lý trong quản lý hoạt động đầu tư theo tinh thần của Luật đầu tư chung 2005 đã đem lại những kết quả tốt trong rút ngắn thời gian cấp giấy chứng nhận, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài nhưng vẫn còn có những khó khăn do năng lực địa phương còn hạn chế. Vì vậy, cần phải có những tổng kết, đánh giá những quy định trong phân cấp để phát hiện các điểm còn bất cập, sai sót. Đồng thời cần tăng cường các hoạt động thanh tra, giám sát của Chính phủ trong ban hành các quy định về thu hút đầu tư của các địa phương cũng như các ban quản lý.
Các văn bản pháp luật sau khi đã được phê duyệt cần được thông báo công khai đến các bộ ngành, địa phương và đặc biệt là trên các phương tiện thông tin đại chúng, Internet…để nhà đầu tư có thể nhanh chóng nắm bắt. Đồng thời, các văn bản hướng dẫn đi kèm luật cần được nhanh chóng đưa ra để các đơn vị có thể thực hiện, tránh tình trạng chờ đợi.
3.1.3. Hoàn thiện công tác quy hoạch ngành, vùng lãnh thổ:
Công tác xây dựng các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương, quy hoạch phát triển ngành, vùng lãnh thổ là một vấn đề rất bức xúc dù đã được các cơ quan hữu quan của Việt nam đề cập tới nhiều lần. Một thực tế đặt ra là nhiều địa phương, ngành đã phát triển không có quy hoạch hay chất lượng công tác lập quy hoạch thấp, không phù hợp với yêu cầu thực tiễn đã dẫn tới nhiều bất cập như đã phân tích ở phần II. Đồng thời các quy hoạch này, đặc biệt là quy hoạch về đất đai, cũng không được công khai tới nhà đầu tư khiến họ thiếu thông tin, ảnh hưởng lớn tới công tác chuẩn bị đầu tư của họ. Chính vì vậy, yêu cầu đặt với mỗi ngành, địa phương ra là phải nâng cao chất lượng công tác quy hoạch ngành, vùng lãnh thổ, gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương, đồng thời với tăng cường tính công khai, minh bạch của các quy hoạch này ( các giải pháp cụ thể sẽ được đề cập ở phần 3.2 và 3.3 trong các giải pháp với bộ, ngành và địa phương)
3.1.4. Tăng cường quản lý Nhà nước trong cấp giấy chứng nhận đầu tư:
Tăng cường quản lý với cấp giấy chứng nhận đầu tư không có nghĩa là Nhà nước giám sát chặt chẽ mọi hoạt động của các cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư mà Nhà nước, với vai trò quản lý ở tầm vĩ mô của mình sẽ tạo ra hành lang pháp lý cũng như các định mức chuẩn chung thống nhất cho hoạt động cấp giấy chứng nhận đầu tư của các địa phương, ban quản lý, tránh tình trạng cấp giấy chứng nhận đầu tư không đúng với thẩm quyền của mình cũng như những tiêu cực, gian lận trong cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Để làm được điều này, Nhà nước cần tăng cường các hoạt động thanh tra, giám sát trong cấp giấy chứng nhận đầu tư của các địa phương, ban quản lý đồng thời tăng cường kênh thông tin giữa địa phương với các bộ chuyên ngành nhằm giúp cho các bộ chuyên ngành này có thể quản lý được tình hình cấp giấy chứng nhận đầu tư trong lĩnh vực mà mình phụ trách.
3.1.5. Cải cách hành chính trong tiến hành thủ tục đầu tư theo hướng minh bạch, giảm bớt các thủ tục phiền hà:
So với thời điểm trước đây, các thủ tục mà nhà đầu tư nước ngoài phải tiến hành giảm bớt đi rất nhiều. Theo quy định phân cấp, các cơ quan quản lý nhà nước về cấp giấy chứng nhận đầu tư sẽ đứng ra làm đầu mối nhận hồ sơ đăng kí cấp giấy chứng nhận đầu tư và có trách nhiệm liên hệ với các cơ quan, bộ ngành có liên quan trong thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư và nhà đầu tư cũng nhận giấy chứng nhận đầu tư tại nơi mình nộp hồ sơ ( thủ tục “một cửa”). Tuy nhiên, đây mới chỉ là một cửa trong cấp giấy chứng nhận khi đã có đủ hồ sơ, nhà đầu tư nước ngoài vẫn phải đến các nơi khác để xin báo cáo đánh giá tác động môi trường, giấy chứng nhận năng lực tài chính của nhà đầu tư, tức là vẫn phải có các giấy phép con, cơ chế xin cho dễ nảy sinh tiêu cực. Vì vậy, nếu các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư này có thể làm cho nhà đầu tư bước này tức là hình thành cơ chế “một cửa” theo đúng nghĩa sẽ tạo thuận lợi rất nhiều cho nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, các thủ tục hành chính cần được công bố công khai qua các phương tiện thông tin đại chúng, các giới thiệu của địa phương khi xúc tiến đầu tư và đặc biệt trên Internet để nhà đầu tư có thể biết được. Hiện tại, thành phố Hồ Chí Minh là địa phương điển hình trong thực hiện công khai, minh bạch thủ tục hành chính. Mọi thông tin nhà đầu tư quan tâm hay khó khăn vướng mắc nhà đầu tư nước ngoài gặp phải đều được cơ quan chuyên trách là Trung tâm xúc tiến thương mại và Đầu tư giải quyết. Điểm đặc biệt là thủ tục đăng kí đầu tư đã được đưa lên website của trung tâm nên thời gian chờ đợi cho nhà đầu tư được rút ngắn rất nhiều, chỉ còn 2 ngày so với quy định của Luật là 15 ngày. Đây là mô hình cần được phát triển rộng trên phạm vi cả nước để giảm bớt các thủ tục phiền hà cũng như tiêu cực trong hoạt động cấp giấy chứng nhận đầu tư nước ngoài.
3.1.6. Cần tăng cường vai trò của cơ quan chuyên trách về xúc tiến đầu tư:
Hiện tại, Cục đầu tư nước ngoài với 3 trung tâm xúc tiến đầu tư ở 3 miền đảm nhiệm vai trò là đơn vị thống nhất quản lý Nhà nước về xúc tiến đầu tư trên phạm vi toàn quốc. Với những quy định về phân cấp triệt để trong cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các địa phương và ban quản lý các khu công nghiệp, Cục đầu tư nước ngoài hiện không còn tiếp nhận hồ sơ dự án mà hoạt động sẽ chuyển nhiều sang xúc tiến đầu tư. Trong thời gian tới, để tăng cường vai trò là cơ quan chuyên trách về xúc tiến đầu tư của Cục đầu tư nước ngoài, cần có thêm những quy định rõ ràng hơn về quyền hạn cũng như trách nhiệm của Cục trong quản lý hoạt động xúc tiến đầu tư để thống nhất quản lý trong xúc tiến đầu tư, tăng cường thông tin tới nhà đầu tư đồng thời nâng cao các dịch vụ trước khi cấp giấy phép và dịch vụ cấp giấy phép trong chuẩn bị đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài ở các địa phương, ban quản lý khu công nghiệp.
3.2. Về phía các địa phương, ban quản lý KCN:
3.2.1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch:
Thời gian qua, các địa phương có chất lượng quy hoạch chưa tốt, thậm chí phát triển không có quy hoạch dẫn tới nhiều vấn đề bức xúc. Nguyên nhân là do hệ thống thông tin dự báo không tốt, không dựa trên các điều kiện tự nhiên xã hội của tỉnh mình mà chạy theo số đông, từ đó dẫn tới tình trạng một số ngành có quá nhiều giấy phép đầu tư được cấp, cung lớn hơn cầu dẫn tới sản phẩm dư thừa, ảnh hưởng lớn tới thực hiện dự án của nhà đầu tư nước ngoài. Đây là nguyên nhân chủ quan từ phía Việt nam nhưng lại gây thiệt hại cho nhà đầu tư nước ngoài, thể hiện sự hỗ trợ cho nhà đầu tư nước ngoài chưa tốt.
Vì vậy, các địa phương cần rà soát cũng như xây dựng lại tất cả các quy hoạch ngành, vùng của mình, từ đó bổ sung, thay đổi cho phù hợp thực tế theo hướng dựa trên các dự báo dài hạn, có thể mời các nhà đầu tư nước ngoài tham gia. Đồng thời, khi có những thay đổi trong quy hoạch, địa phương cần thông báo trước cho nhà đầu tư để họ có những điều chỉnh kịp thời. Điều này cũng thể hiện tính công khai, minh bạch của các địa phương trong xây dựng quy hoạch.
Bên cạnh đó, các địa phương cũng cần xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư cho tỉnh mình trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương, tham khảo ý kiến các bộ, ngành để đưa ra được các danh mục dự án chi tiết hơn, thực tế hơn, có thể gồm cả báo cáo nghiên cứu tiền khả thi chứ không chỉ là tên dự án như hiện nay. Đồng thời, nếu có thể, không nên quy định quá chi tiết hình thức đầu tư mà nên để nhà đầu tư có nhiều lựa chọn hơn.
3.2.2. Nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến đầu tư cũng như hoạt động cấp giấy chứng nhận đầu tư:
Nâng cao chất lượng trong cấp giấy chứng nhận đầu tư sẽ cho phép các địa phương giảm bớt thời gian chờ đợi cho nhà đầu tư cũng như lựa chọn được các nhà đầu tư có năng lực có thể tiến hành dự án. Để làm được điều này các địa phương, ban quản lý cần phải:
Tăng cường đào tạo nguồn nhân lưc, lựa chọn các cán bộ có chuyên môn cao, có phẩm chất, năng lực tốt trong hoạt động lập quy hoạch, danh mục dự án kêu gọi đầu tư, xúc tiến đầu tư. Yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng nhất.
Bên cạnh đó, các địa phương cần tăng cường phối hợp với các bộ ngành có liên quan trong xin ý kiến thẩm tra các dự án cũng như để các bộ liên quan có thể thực hiện chức năng quản lý trong lĩnh vực của mình. Giữa địa phương và trung ương hiện nay đều đã có đường truyền Internet tốc độ cao nhưng mới chỉ có một số ít địa phương sử dụng website để tạo kênh thông tin riêng cho mình. Vì vậy, các địa phương cũng như ban quản lý cần tăng cường sử dụng kênh thông tin này không chỉ với các bộ ngành mà còn có thể tạo ra kênh thông tin về xúc tiến đầu tư vào tỉnh, KCN mình.
Ngoài ra, cải cách thủ tục hành chính trong cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng là một phương thức nhằm tạo thuận lợi hơn cho nhà đầu tư nước ngoài. Ở các cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư có thể thành lập một bộ phận chuyên trách có trách nhiệm trong giải quyết khó khăn cho nhà đầu tư nước ngoài. Hiện nay, ở các cơ quan về xúc tiến đầu tư cũng có bộ phận có chức năng tương tự nhưng hoạt động vẫn chưa thực sự hiệu quả, các dịch vụ cung cấp tới nhà đầu tư còn ít. Bộ phận chuyên trách này có chức năng cung cấp dịch vụ về chuẩn bị đầu tư tới các nhà đầu tư nước ngoài: dịch vụ trước khi cấp giấy chứng nhận: cung cấp thông tin pháp luật, lập hồ sơ dự án; dịch vụ cấp giấy chứng nhận; dịch vụ sau khi cấp giấy chứng nhận trên cơ sở nhà đầu tư nước ngoài sẽ đóng thêm một khoản phí nhưng tạo sự yên tâm cho họ trong quá trình chuẩn bị đầu tư của mình khi họ chưa tin tưởng vào các dịch vụ tư vấn tư nhân. Thêm vào đó, nhờ có cơ quan này mà thời gian cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng nhanh hơn do cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư đã nắm rõ các thông tin về dự án của nhà đầu tư. Bên cạnh đó, cơ quan chuyên trách này sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng trong trả lời các vướng mắc của nhà đầu tư nước ngoài. Với chức năng như vậy, cơ quan này có thể đặt trong cơ quan xúc tiến đầu tư của địa phương, ban quản lý để tăng tính hiệu quả trong hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện dự án.
3.3. Về phía các bộ ngành:
3.3.1. Hoàn thiện các quy định chuẩn mực, định mức trong ngành mình phụ trách:
Các bộ ngành với chức năng là cơ quan quản lý trong lĩnh vực mà mình phụ trách sẽ đưa ra các quy định, chuẩn mực trong ngành của mình như: Bộ tài nguyên môi trường đưa ra các chuẩn mực trong báo cáo đánh giá tác động môi trường, bộ xây dựng ban hành các tiêu chuẩn trong xây dựng…Với một số loại dự án có quy mô lớn phù hợp với quy hoạch, đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và không có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường lớn thuộc lĩnh vực kinh doanh khu đô thị, khu nghỉ dưỡng thì việc lập Đánh giá tác động môi trường theo nhà đầu tư là không cần thiết. Đã có kiến nghị xem xét trong danh mục các dự án cần lập và trình duyệt Đánh giá tác động môi trường cần phân thành nhóm các dự án phải lập và trình duyệt Đánh giá tác động môi trường trước và nhóm các dự án có thể lập và trình duyệt sau khi cấp chứng nhận đầu tư. Vì vậy, trong thời gian tới các bộ ngành cần rà soát lại các quy định, chuẩn mực, định mức trong lĩnh vực mình phụ trách nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn trong thẩm tra cấp chứng nhận đầu tư cho dự án.
3.3.2. Giảm thiểu các thủ tục hành chính phiền hà cho nhà đầu tư:
Luật đầu tư chung 2005 tuy có quy định về thủ tục “một cửa” nhưng mới chỉ là một cửa trong cấp chứng nhận đầu tư, thực tế nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình hoàn thiện hồ sơ dự án vẫn phải đến các cơ quan khác như đến bộ tài nguyên môi trường để có xác nhận về báo cáo đánh giá tác động môi trường, đến các cơ quan an ninh để xin xác nhận về phòng cháy chữa cháy…Vì vậy, các bộ ngành cần giảm thiểu các thủ tục hành chính để rút ngắn thời gian chờ đợi cho nhà đầu tư.
3.3.3. Tăng cường sự phối hợp với các địa phương, ban quản lý KCN:
Đối với các dự án địa phương, ban quản lý KCN cần xin ý kiến của các bộ ngành có liên quan, thông tin giữa các cơ quan này đóng vai trò quan trọng trong rút ngắn thời gian chờ xin ý kiến, từ đó rút ngắn thời gian chờ được cấp giấy chứng nhận đầu tư. Vì vậy, giữa các cơ quan này cần tăng cường kênh thông tin với nhau nhằm quản lý có hiệu quả hơn với các dự án.
3.4. Về phía Cục đầu tư nước ngoài:
3.4.1. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện pháp luật và chính sách về đầu tư nước ngoài:
Với chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư nước ngoài của mình, trong thời gian tới, Cục cần tiếp tục công tác tuyên truyền, tập huấn kịp thời cho các cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp về nội dung của các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp và các cam kết quốc tế có liên quan đến đầu tư.
Bên cạnh đó, Cục cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật cho phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt nam, trong đó đặc biệt chú trọng trong rà soát các thủ tục về đầu tư và các mẫu văn bản áp dụng trong thủ tục đầu tư để đề xuất phương án điều chỉnh thích hợp.
Đồng thời, Cục cũng cần nghiên cứu, đề xuất các nội dung để đưa vào Thông tư hướng dẫn thi hành nghị định 108/2006/NĐ – CP trên cơ sở tập hợp các vướng mắc của các địa phương, doanh nghiệp trong quá trình thực hiện, từ đó có những bổ sung, hoàn thiện cho cơ chế chính sách về đầu tư.
3.4.2. Tăng cường vai trò trong quản lý Nhà nước với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Trong thời gian tới, Cục cần đổi mới và tăng cường năng lực cho công tác thu thập, tổng hợp thông tin, đánh giá hiệu quả đầu tư, nghiên cứu chuyên đề về đầu tư nước ngoài nhằm đảm bảo cho việc nắm bắt kịp thời thông tin về tình hình đầu tư trên phạm vi cả nước, phục vụ cho công tác nghiên cứu, xây dựng quy hoạch, kế hoạch và công tác xúc tiến đầu tư.
Đồng thời, cần tăng cường rà soát công tác cấp giấy chứng nhận đầu tư, kiểm tra, giám sát tình hình cấp phép và quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài của các địa phương nhằm giúp Bộ thực hiện thẩm quyền quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô về đầu tư nước ngoài trên phạm vi cả nước.
3.4.3. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư và hợp tác quốc tế:
Đóng vai trò là cơ quan được giao đầu mối trong tổng hợp, xây dựng và theo dõi thực hiện chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia, thông qua đó thống nhất hoạt động xúc tiến đầu tư trên phạm vi cả nước, trong thời gian tới, Cục cần tiếp tục đổi mới công tác xúc tiến đầu tư phù hợp với yêu cầu thực tế và định hướng thu hút đầu tư nước ngoài trong thời gian tới, chú trọng xúc tiến đầu tư theo các đối tác, dự án cụ thể.
Bên cạnh đó, cần chú trọng công tác nghiên cứu thị trường, đối tác đầu tư để phục vụ cho công tác xúc tiến đầu tư cũng như hỗ trợ thông tin cho các doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài; tăng cường hơn nữa các hoạt động tập huấn, đào tạo, tăng cường năng lực về công tác xúc tiến đầu tư, tiếp tục xây dựng và triển khai thực hiện chương trình xúc tiến đầu tư nước ngoài hàng năm sử dụng ngân sách nhà nước.
Đồng thời, cần tổng hợp, xây dựng và theo dõi thực hiện chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia, thông qua đó nhằm thống nhất quản lý nhà nước đối với hoạt động xúc tiến đầu tư trên phạm vi cả nước.
Đi đôi với tổ chức các hoạt động quảng bá, tổ chức hội thảo giới thiệu môi trường đầu tư ở trong nước, cần triển khai thực hiện đề án tăng cường bộ phận xúc tiến đầu tư ở nước ngoài theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại thông báo số 103/TB – VPCP ngày 9/5/2007. Trước mắt cần sớm ban hành thông tư liên bộ với Bộ ngoại giao để triển khai thực hiện.
Ngoài ra, trong hoạt động xúc tiến đầu tư, Cục cần phải tăng cường hợp tác, phối hợp giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư ở các cấp, giữa trong nước với các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài, đồng thời nâng cao chất lượng tài liệu, cán bộ, kĩ thuật cho xúc tiến đầu tư.
3.5. Một số kiến nghị với các nhà đầu tư:
Công việc chuẩn bị đầu tư là yếu tố có tính chất chủ quan, thuộc bản thân các nhà đầu tư. Qua thực trạng công tác chuẩn bị đầu tư thời gian qua, có thể đưa ra một số giải pháp có tính chất định hướng để nhà đầu tư có thể tham khảo như sau:
3.5.1. Đối với các bên Việt nam trong liên doanh:
Các bên Việt nam khi tham gia liên doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh sử dụng vốn Nhà nước tham gia liên doanh cần lựa chọn những người có đủ trình độ chuyên môn cũng như khả năng ngoại ngữ, phẩm chất tốt khi tham gia đại diện cho phía Việt nam trong các liên doanh để từ đó giảm bớt được các mâu thuẫn dễ nảy sinh trong quá trình triển khai dự án ở giai đoạn sau.
Bên cạnh đó, trong quá trình tìm kiếm đối tác liên doanh nước ngoài, bên Việt nam cần đa dạng hóa các kênh thông tin để lựa chọn đối tác có đủ năng lực thông qua tìm hiểu mục đích của nhà đầu tư nước ngoài là muốn làm ăn lâu dài tại Việt nam hay chỉ muốn lợi dụng để kiếm lời. Mặt khác, cần có những nhận định đúng đắn về năng lực tài chính, công nghệ của phía đối tác thông qua nhiều nguồn thông tin khác nhau: từ các bộ ngành, ban quản lý KCN để lựa chọn nhà đầu tư thích hợp.
3.5.2. Đối với nhà đầu tư nước ngoài:
3.5.2.1. Nâng cao chất lượng công tác lập dự án:
Qua các tồn tại đã nêu ở trên ta có thể thấy, một trong những nguyên nhân khiến dự án bị giải thể là do hoạt động ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư chưa tốt: nhà đầu tư nghiên cứu chưa kĩ các quy định, thị trường tại Việt nam khiến không lường trước được các rủi ro trong giai đoạn triển khai. Vì vậy, nhà đầu tư nước ngoài cần nghiên cứu kĩ lưỡng về thị trường, các quy định, thủ tục đầu tư cũng như các ưu đãi đầu tư mà dự án được nhận khi tiến hành lập dự án để đưa ra được các quyết định đúng đắn. Đồng thời, nhà đầu tư nước ngoài cần chuẩn bị kĩ lưỡng về mặt tài chính, đảm bảo các nguồn vốn có thể huy động để hoàn thiện hơn công tác chuẩn bị đầu tư của mình.
Bên cạnh đó, các quy định về nội dung, hình thức của dự án đầu tư, hợp đồng liên doanh cần được nhà đầu tư tìm hiểu kĩ, tránh các sai sót khiến phải sửa chữa nhiều lần.
3.5.2.2. Cần sử dụng các dịch vụ tư vấn trong chuẩn bị đầu tư:
Thực tế ở Việt nam hiện nay, các dịch vụ tư vấn trong hoạt động chuẩn bị đầu tư nước ngoài vẫn còn rất ít và chất lượng chưa cao. Vì vậy, các tổ chức tư vấn trong nước với những ưu thế về hiểu rõ các quy định, trình tự, thủ tục trong chuẩn bị đầu tư của các dự án FDI cũng như trong lập dự án FDI, nhà đầu tư nước ngoài có thể tiếp cận để được cung cấp thông tin đầy đủ về pháp luật, chính sách liên quan tới đầu tư, giảm bớt số công việc mình cần tự thực hiện, đồng thời rút ngắn thời gian dự án được cấp chứng nhận, đáp ứng kịp thời về tiến độ thời gian, tránh bỏ lỡ cơ hội đầu tư.
KẾT LUẬN
Tóm lại, trong thời gian qua, Việt nam đã có nỗ lực rất nhiều trong cải thiện môi trường đầu tư, từ đó tạo thuận lợi hơn cho nhà đầu tư nước ngoài khi tiến hành tìm hiểu cơ hội đầu tư nói riêng cũng như trong hoạt động chuẩn bị đầu tư nói chung. Tuy nhiên, những quy định, thủ tục có liên quan tới hoạt động chuẩn bị đầu tư với dự án FDI ở nước ta hiện nay vẫn còn rất nhiều điểm hạn chế. Đồng thời, các dự án FDI đăng kí có quy mô ngày càng lớn nên đòi hỏi công tác chuẩn bị đầu tư phải tiến hành kĩ càng, tránh các rủi ro trong các giai đoạn sau, hiệu quả của các dự án FDI được thực hiện là yêu cầu bắt buộc để có thể nâng cao khả năng thu hút vốn FDI cũng như tạo sự tin tưởng làm ăn lâu dài nơi nhà đầu tư. Chính vì vậy, những giải pháp đưa ra cần phải tiến hành mạnh mẽ, bởi có những cơ hội đầu tư nếu bỏ lỡ sẽ không thể có lần thứ hai. Báo cáo khả quan của UNCTAD cũng như những đánh giá tích cực của World Bank đối với nước ta trong cải thiện môi trường đầu tư những năm qua đã tạo thêm động lực để chúng ta tiếp tục quá trình này.
Với đề tài: “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác chuẩn bị đầu tư của dự án FDI”, chuyên đề đã đưa ra những khó khăn, vướng mắc trong công tác chuẩn bị đầu tư từ phía các nhà đầu tư nước ngoài, phía đối tác Việt nam cũng như của các cơ quan quản lý Nhà nước. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn về pháp luật, chính sách cũng như các thủ tục hành chính trong giai đoạn này đối với các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như một số gợi ý đối với nhà đầu tư nước ngoài cũng như phía đối tác Việt nam để hoạt động chuẩn bị đầu tư ngày càng được thuận lợi, nhanh chóng hơn và hiệu quả của các dự án đầu tư cũng cao hơn.
Danh mục tài liệu tham khảo
PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt – TS Từ Quang Phương, Giáo trình Kinh tế Đầu tư, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2007.
PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt – Giáo trình lập dự án đầu tư, NXB thống kê, 2005.
TS. Nguyễn thị Hường – Giáo trình quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI, NXB thống kê, 2002.
Bộ KH – ĐT – Bài giảng lập và thẩm định dự án đầu tư, 1998.
Nhiều tác giả - 20 năm đầu tư nước ngoài, nhìn lại và hướng tới 1987 – 2007, NXB tri thức 2008.
Viện quản lý kinh tế TW - Tìm hiểu Luật đầu tư 2005, 2007.
Bộ KH – ĐT, Kỷ yếu 20 năm đầu tư nước ngoài tại Việt nam, 2008
ThS Đinh Đào Ánh Thuỷ, Bài giảng Đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ, Hà Nội, 8/2007.
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Khoa Luật Kinh tế - Tổ Bộ môn Luật Đầu tư, Văn bản pháp luật về Đầu tư, NXB Công an Nhân dân, 2007.
Cục đầu tư nước ngoài – Tập bài giảng giới thiệu thủ tục pháp lý khi tiến hành đầu tư tại Việt nam.
John F.Kenedy School Goverment, Chương trình Châu Á – Lựa chọn thành công, bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai Việt nam.
Cục đầu tư nước ngoài – Tập bài giảng giới thiệu quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam.
ThS Nguyễn Văn Tuấn, Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế Việt Nam, NXB Tư pháp, 2005.
Ngân hàng Thế giới, Báo cáo phát triển Thế giới 2005: Môi trường đầu tư tốt hơn cho mọi người, NXB Văn hoá – Thông tin, 2005.
Ngân hàng Thế giới, Báo cáo phát triển Việt Nam 2006 – Kinh doanh, Báo cáo chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam, Hà Nội 6-7/12/2005.
Ngân hàng Thế giới, Báo cáo phát triển Việt Nam 2007 – Hướng đến tầm cao mới, Báo cáo chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam, Hà Nội 14-15/12/2006.
Nghị quyết đại hội Đảng cộng sản Việt nam toàn quốc khóa VII, VIII, IX, X.
Trang tin điện tử - Bài học thu hút đầu tư nước ngoài,quy hoạch KCN có lợi thế; Đầu tư nước ngoài vào Việt nam: thiếu quy hoạch dài hạn; Hiện trạng đi trước, quy hoạch theo sau?
Làn sóng FDI lãng quên nông nghiệp,
Loay hoay giải bài toán thu hút đầu tư; Pháp luật đầu tư nước ngoài trong quá trình đổi mới kinh tế tại Việt nam,
Cung cấp miễn phí thông tin quy hoạch cho nhà đầu tư,
Đầu tư tại Việt nam thiếu hiệu quả,
Luật đầu tư và những bất cập,
Đầu tư nước ngoài còn thiếu quy hoạch trong dài hạn,
Thực trạng quy hoạch KCN, KCX ở Việt nam những năm qua,
Rút giấy phép của các dự án FDI: diễn biến, nguyên nhân và các giải pháp,
Thực trạng khổng lồ của quy hoạch treo, dự án treo,
Thu hút đầu tư nước ngoài: chủ trương chưa đi cùng thực tiễn; Cấp phép đầu tư: qua nhiều cửa mới đến một cửa?
Nên tháo bỏ rào cản đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài; Tính hình thức trong đăng kí kinh doanh,
Xúc tiến đầu tư, khắc phục tình trạng khép kín, phá vỡ lợi ích của nhau,
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Trang
Hình 1.1 – Chu trình của một dự án FDI 11
Hình 1.2 - Các điểm mốc trong thực hiện dự án FDI 12
Hình 1.3 – Các công việc chính cần thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư 15
Hình 1.4 – Thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư 31
Hình 1.5 – Các bước công việc trong hoàn thiện thủ tục pháp lý của dự án FDI 32
Hình 1.6 – Quy trình cấp giấy chứng nhận đầu tư với dự án thuộc diện đăng kí đầu tư 34
Hình 1.7 – Quy trình thẩm tra dự án cầnTTCP chấp thuận chủ trương đầu tư 36
Hình 1.8 – Quy trình thẩm tra dự án không cần TTCP phải chấp thuận chủ trương đầu tư 37
Hình 2.1 – Vốn FDI đăng kí và vốn thực hiện 1988-2007 39
Hình 2.2 – Số lượng dự án FDI cấp mới 1988-2007 40
Hình 2.3 – Tỷ lệ dự án giải thể và cấp mới trên tổng số dự án đăng kí 45
Hình 2.4 – Nguyên nhân khiến nhiều dự án FDI phải giải thể trước thời hạn 54
Bảng 2.1 – Quy mô, số lượng dự án FDI tăng vốn giai đoạn 1988 – 2007 43
Bảng 2.2 – Số lượng dự án bị giải thể giai đoạn 1988 -2007 46
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
BẢN CAM ĐOAN
Kính gửi: Khoa Đầu tư trường Đại học kinh tế Quốc dân
Tôi là : Cao Tiến Đạt
Sinh viên lớp : Kinh tế Đầu tư 46B
Mã số sinh viên : CQ 460565
Tôi xin cam đoan luận văn "Công tác chuẩn bị đầu tư của dự án FDI tại Việt Nam - thực trạng và giải pháp" là công trình nghiên cứu và làm việc độc lập của tôi, không có sự trao chép nội dung trái phép. Nếu không tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước nhà trường và Khoa.
Hà Nội, ngày tháng năm 2008
Người làm đơn
Cao Tiến Đạt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DT05.docx