Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với người lao động, nhằm đảm bảo cuốc sống vật chất, ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ trong các trường hợp bị ốm đau, thai sản, suy giảm khả năng lao động, mất việc làm, hết tuổi lao động hoặc chết. Chính sách BHXH ở nước ta được thực hiện ngay từ những ngày đầu mới thành lập nước, 60 năm qua, trong quá trình tổ chức thực hiện, chính sách BHXH ngày càng được hoàn thiện và không ngừng đổi mới, bổ xung cho phù hợp với điều kiện hiện tại của đất nước. Cùng với quá trình đổi mới của nền kinh tế từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), chính sách BHXH và tổ chức quản lí hoạt động cũng có nhiều đổi mới tích cực.
Từ việc nghiên cứu quá trình đổi mới của BHXH tôi nhận thấy BHXH thực sự là một chính sách quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển của đất nước. BHXH không những góp phần ổn định đời sống của người lao động mà còn khuyến khích họ tích cực lao động sản xuất tạo ra của cải cho xã hội, xây dựng đất nước. Trong quá trình thực hiện BHXH đã không ngừng phát triển cả về chất lượng lẫn số lượng. Số người tham gia ngày càng tăng lên, mở rộng cho các đối tượng tham gia, hoàn thiện dần hệ thống chính sách BHXH tiến tới thực hiện đủ các chế độ của Tổ chức lao động quốc tế (ILO). Đặc biệt là sự đổi mới về cơ chế quản lí từ cơ chế quản lí kế hoạch hoá, tập chung, bao cấp, hoàn toàn do NSNN đảm bảo đã chuyển sang cơ chế thực hiện có thu và quỹ hoạt động trên nguyên tắc cân bằng thu chi. Cách thực hiện như vậy không những giảm được gánh nặng cho NSNN mà còn thể hiện trách nhiệm của cả người sử dụng lao động đối với người lao động. Nhà nước nước đóng vai trò tổ chức thực hiện và quản lí thông qua BHXH Việt Nam, là hệ thống ngành dọc được tổ chức từ Trung ương đến địa phương.
Bên cạnh những mặt đạt được, BHXH Việt Nam cũng còn rất nhiều tồn tại cần sớm được khắc phục cả về nội dung chính sách, tổ chức quản lí hoạt động. Đây là những đòi hỏi cấp thiết cần được nghiên cứu để góp phần hoàn thiện chính sách và tổ chức quản lí hoạt động của BHXH Việt Nam. Trong đó quản lí tài chính BHXH Việt Nam là một mảng lớn, cần được chú trọng và quan tâm vì tài chính BHXH có vững thì các chế độ trợ cấp mới được đảm bảo thực hiện tốt mà không dẫn đến tình trạng thâm hụt NSNN. Chính vì vậy với ngành học được đào tạo, sau khi về thực tập tại BHXH Việt Nam, tôi đã chọn đề tài: “Công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” để nghiên cứu công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam, với mục đích là rút ra những kết quả đạt được để phát huy, những tồn tại cần khắc phục. Hơn nữa thông qua đó có thể đưa ra những đóng góp, góp phần hoàn thiện hệ thống BHXH Việt Nam, phát huy tối đa chức năng của BHXH trong thời đại mới.
Kết cấu của đề tài gồm ba chương:
Chương I: Lí luận chung về BHXH và quản lí tài chính BHXH.
Chương II: Thực trạng công tác quản lí tài chính BHXH tại Việt Nam hiện nay.
Chương III: Một số giải pháp đối với công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam trong thời kì tới.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ BHXH VÀ QUẢN LÍ TÀI CHÍNH BHXH 3
I. Những vấn đề cơ bản về BHXH. 3
1. Tính tất yếu khách quan của BHXH. 3
2. Khái niệm BHXH. 4
3. Bản chất và chức năng của BHXH. 5
3.1. Bản chất của BHXH. 5
3.2. Chức năng của BHXH. 6
4. Nguyên tắc hoạt động của BHXH. 7
5. Các chế độ của BHXH. 8
6. Quỹ BHXH và phân loại quỹ BHXH. 9
6.1. Quỹ BHXH. 9
6.2. Phân loại quỹ BHXH: 11
II. Quản lí tài chính BHXH. 12
1. Khái niệm chung về quản lí tài chính BHXH. 12
2. Nội dung quản lí tài chính BHXH. 14
2.1.Quản lí thu BHXH. 14
2.2. Quản lí chi BHXH. 15
2.3. Quản lí hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ. 16
2.4. Quản lí hoạt động cân đối quỹ. 17
3.Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động quản lí tài chính BHXH. 17
III. Kinh nghiệm của một số nước về quản lí tài chính BHXH. 18
1. Quản lí tài chính BHXH của Cộng hoà Liên bang Đức. 19
2. Quản lí tài chính BHXH của Trung Quốc. 20
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÍ TÀI CHÍNH BHXH TẠI VIỆT NAM 22
I. Giới thiệu chung về BHXH Việt Nam. 22
1. Khái quát về sự hình thành và quá trình phát triển của BHXH Việt Nam 22
1.1.BHXH Việt Nam giai đoạn trước 1995. 22
1.2. BHXH Việt Nam giai đoạn sau 1995. 23
2. Chính sách BHXH Việt Nam từ năm 1995 đến nay. 25
3. Cơ cấu tổ chức, quản lí của BHXH Việt Nam. 27
II. Thực trạng của công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam. 30
1. Công tác quản lí thu. 30
1.1.Quản lí đối tượng tham gia. 30
1.2. Quản lí quỹ lương của doanh nghiệp. 34
1.3. Quản lí tiền thu BHXH. 35
2. Quản lí chi BHXH. 38
2.1. Chi các chế độ BHXH. 38
2.1.1. Phân cấp chi trả. 39
2.1.2. Phương thức chi trả. 39
2.1.3. Quản lí đối tượng được hưởng và số tiền chi trả. 40
2.2. Chi quản lí hoạt động bộ máy. 42
3. Quản lí hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. 43
3. Quản lí hoạt động cân đối quỹ BHXH. 45
III. Đánh giá chung về công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam. 48
1. Những kết quả đạt được. 48
1.1. Hình thành hệ thống pháp lí làm cơ sở cho cơ chế quản lí tài chính BHXH: 48
1.2. Hình thành quỹ BHXH được quản lí tập trung và độc lập với NSNN. 48
1.3. Công tác thu được phân cấp, tổ chức thu hợp lí an toàn qua hệ thống tài khoản thu BHXH Việt Nam. 49
1.4. Thực hiện chi trả các chế độ vừa nhanh chóng, kịp thời vừa đảm bảo tính chính xác. 49
1.5. Quỹ đã có thu từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ, giảm được nhược điểm của cơ chế quản lí PAYGO. 50
2. Những tồn tại cần khắc phục và nguyên nhân. 50
2.1. Việc số người tham gia còn ít đặc biệt là tình trạng trốn tham gia, trốn đóng, nợ đọng phí BHXH còn rất phổ biến. 50
2.2. Trong công tác chi trả BHXH Việt Nam còn nhiều hiện tượng sai sót trong xét duyệt, tình trạng tồn đọng trong giải quyết chế độ vẫn tồn tại. 51
2.3. Công tác đầu tư bảo tồn và phát triển quỹ tuy đã có thu nhưng còn hạn chế lợi nhuận từ đầu tư còn rất nhỏ. 51
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUẢN LÍ TÀI CHÍNH BHXH VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ TỚI 53
I. Những quan điểm chủ yếu về vấn đề quản lí tài chính BHXH Việt Nam trong giai đoạn tới. 53
1. Quan điểm trong xây dựng chính sách BHXH. 53
2. Những quan điểm cụ thể trong công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam trong giai đoạn tới. 53
II. Giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng hoạt động quản lí tài chính BHXH trong gian đoạn tới. 54
1. Bài học kinh nghiệm từ hệ thống BHXH CHLB Đức và Trung Quốc. 54
2. Những giải pháp cụ thể. 55
2.1. Giải pháp cho công tác quản lí thu BHXH. 55
2.2. Giải pháp cho công tác quản lí chi các chế độ BHXH. 57
2.3. Giải pháp cho công tác chi quản lí. 58
2.4. Giải pháp đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. 59
2.5. Giải pháp về quản lí cân đối quỹ. 60
3. Một số kiến nghị. 62
3.1. Kiến nghị về phía Nhà nước. 62
3.2. Kiến nghị về phía BHXH. 62
KẾT LUẬN 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO 65
72 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1859 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Công tác quản lí tài chính Bảo hiểm xã hội Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp, hưu tuổi già, tử tuất cho các đối tượng trên địa bàn quản lí và chi trả trợ cấp cho cán bộ xã phường thị trấn đã tham gia BHXH. Như vậy là đã có sự phân cấp cụ thể cho từng cấp quản lí, ngoài ra để thực hiện quản lí việc chi trả trợ cấp cơ quan BHXH các cấp còn phải lập các báo cáo và tổng hợp các khoản chi trợ cấp để nộp lên cơ quan BHXH cấp trên theo định kì. Dựa vào các báo cáo này mà cơ quan BHXH cấp trên sẽ thực hiện thẩm định, xét duyệt chi trợ cấp BHXH theo đúng quy định hiện hành.
Phương thức chi trả.
Như chúng ta đã biết việc chi trả trợ cấp hiện nay có hai phương thức chính để chi trả, mỗi phương thức đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh mà chúng ta nên lựa chọn cho phủ hợp. Tại Việt Nam hiện nay phương thức chi trả gián tiếp thông qua hệ thốnh đại lí chi trả là phổ biến nhất. Hệ thống đại lí chi trả hầu hết là quan hệ dựa trên hợp đồng lao động và thường là chính người sử dụng lao động, cán bộ xã phường, bưu điện hoặc ngân hàng. Thường các đại lí chi trả là người sử dụng lao động được BHXH Việt Nam sử dụng cho việc chi trả cho các trợ cấp ngắn hạn như ốm đau, tai nạn, bệnh nghề nghiệp... rất tiện lợi. Các đại lí còn lại phù hợp hơn với các chế độ dài hạn. Với điều kiện như hiện nay của Việt Nam thì phương thức chi trả như vậy là hợp lí, chi phí thấp, tiện lợi đối với người được hưởng trợ cấp.
Cùng với sự phát triển của nước ta như hiện nay BHXH cũng cần nghiên cứu và xem xét tới các phương thức thanh toán khác như chi trả gián tiếp qua hệ thống tài khoản ngân hàng. Với sự phát triển của hệ thống ngân hàng như hiện nay thì tại các thành phố có thể nghiên cứu và ứng dụng chó phương pháp chi trả hiện đại này. Ưu điểm lớn nhất của phương thức này là nhanh chóng và tiết kiệm chi phí.
Quản lí đối tượng được hưởng và số tiền chi trả.
Quản lí chi trả trợ cấp BHXH yêu cầu cơ quan BHXH quản lí đối tượng được hưởng theo từng loại chế độ, tình hình biến động tăng giảm và kiểm tra xác định đúng đối tượng hưởng, quản lí số tiền chi trả theo từng kì thanh toán và đảm bảo an toàn nguồn tiền mặt trong suốt quá trình chi trả.
Quản lí người phụ thuộc: ngay từ khi thực hiện việc đăng kí tham gia BHXH và ghi hồ sơ, phải cập nhật các thông tin chính xác về đối tượng phụ thuộc đủ điều kiện hưởng trợ cấp.
Lập báo cáo thống kê định kì về đối tưọng hưởng BHXH riêng cho từng loại trợ cấp định kì hay một lần, chi tiết theo từng loại chế độ và tách riêng theo từng đối tượng hưởng từ NSNN hay từ quỹ BHXH.
Thiết kế, cải tiến và sửa đổi thủ tục xét hưởng trợ cấp đảm bảo đơn giảm, khoa học nhưng vẫn nhanh chóng và chính xác. Kiểm tra kĩ các điều kiện hưởng BHXH dựa vào các quy định về điều kiện hưởng cán bộ sẽ xem xét tư cách được hưởng của đối tượng và nhanh chóng ra quyết định từ chối hay chấp nhận trợ cấp. Để đảm bảo công việc trên được thực hiện nhanh chóng và chính xác yêu cầu cán bộ xét hưởng phải có trình độ và đạo đức tốt và nhận thức rõ được tầm quan trọng của công việc.
Thu hồi số tiền chi sai nếu có căn cứ chính xác, xác định việc giả mạo hồ sơ giấy tờ để được hưởng trợ cấp BHXH. Khi đó cơ quan BHXH phải ngừng ngay việc thực hiện chi trợ cấp và nhanh chónh thu hồi số tiền đã chi sai về đồng thời nhanh chóng có biện pháp xử lí thích đáng.
Kết quả chi BHXH Việt Nam thực hiện sau đổi mới 1995 được thể hiện ở bảng số liệu 3.
Bảng 3: Tình hình chi các chế độ BHXH từ 1995- 2004.
Năm
Tổng chi BHXH ( triệu đồng)
Tỉ trọng từ NSNN (%)
Tỉ trọng từ quỹ BHXH (%)
Chi BHYT (%)
1995
1.153.984
96
4
-
1996
4.711.054
92
8
-
1997
5.756.618
90
10
-
1998
5.885.055
87
13
-
1999
5.955.971
84
16
-
2000
7.574.775
82
18
-
2001
9.215.061
79
21
-
2002
9.480.875
74
26
-
2003
15.934.778
62
31
7
2004
16.832.957
60
29
11
( Nguồn BHXH Việt Nam)
Qua bảng 3 ta có thể nhận thấy BHXH Việt Nam số chi ngày càng tăng đặc biệt là từ năm 2003 khi chi BHYT được tính vào chi BHXH. Tình hình chi của BHXH Việt Nam có nhiều phức tạp vì những người về hưu trước năm 1995 còn hưởng các chế độ do NSNN cấp, quỹ BHXH chỉ chi trợ cấp cho các lao động về hưu sau 1995. Đặc biệt năm 2002 BHYT chính thức chuyển sang BHXH nên chi còn bao gồm cả mảng BHYT. Tỉ trọng chi từ nguồn ngân sách giảm, chi từ quỹ BHXH tăng đều, điều này cũng phù hợp với thực tiễn đối tượng chi trả của NSNN theo thời gian giảm dần, các đối tượng chi trả của quỹ BHXH ngày càng tăng. Theo tình hình như hiện nay thì chi từ NSNN sẽ giảm và theo dự tính 2050 thì các đối tượng này sẽ giảm hết và chi từ quỹ BHXH sẽ chiếm 100%, lúc đó NSNN chỉ đóng vài trò hỗ trợ trong trường hợp cần thiết.
Năm 2004, toàn ngành giải quyết cho 93.289 người hưởng trợ cấp định kì, trong đó có 70.000 người hưởng chế độ hưu trí và giải quyết cho 159.989 lượt người hưởng trợ cấp một lần tăng 20.7% so với năm 2003. Khó khăn trong công tác này là sau khi nghỉ lao động nhiều người đã chuyển đến nơi khác vậy nên việc giải quyết các trợ cấp một lần là còn nhiều tồn đọng.
2.2. Chi quản lí hoạt động bộ máy.
Theo quy chế tài chính hiện nay có quy định chi quản lí hoạt động của hệ thống BHXH Việt Nam được chia làm hai phần chính là chi thường xuyên và kinh phí mua sắm tài sản có định, xây dựng cơ sở vật chất. Chi thường xuyên là khoản chi bao gồm cả chi phí nghiên cứu khoa học, đào tạo và đào tạo lại. Khoản chi này được trích từ tiền sinh lời do thực hiện các biện pháp bảo tồn và tăng trưởng quỹ, mức trích bằng 4% trên số thực thu của BHXH và BHYT được áp dụng đến năm 2005. Chi xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm tài sản cố định là khoản chi được trích từ tiền sinh lời do thực hiện các biện pháp bảo tồn và tăng trưởng quỹ.
Chi phí quản lí của hệ thống BHXH Việt Nam do Hội đồng quản lí quyết định trên cơ sở định mức, tiêu chuẩn hiện hành của Nhà nước Việt Nam và hoạt động đặc thu của ngàn, đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm có hiệu quả. BHXH Việt Nam có trách nhiệm phân bổ chi phí quản lí cho BHXH các cấp phù hợp với nhiệm vụ được giao, đảm bảo kinh phí phân bổ cho BHXH các cấp không được vượt quá so với tổng mức.
Nội dung quản lí chi hoạt động thường xuyên tập chung vào các nội dung cụ thể sau:
+ Quản lí lao động và quỹ lương đối với các đơn vị, cơ quan BHXH.
+ Quản lí chi cho công tác tuyên truyền về chính sách BHXH.
+ Quản lí chi hoạt động nghiệp vụ: chi cho công tác thu, chi BHXH; chi tiếp khách.
+ Quản lí kinh phí cấp cho đào tạo và đào tạo lại cán bộ công nhân viên.
+ Quản lí chi cho các chuyến công tác.
+ Ngoài ra BHXH Việt Nam còn thực hiện quản lí chi hỗ trợ đời sống cho cán bộ, chi hỏi thăm các đối tượng được hưởng các chế độ.
Chi hoạt động được BHXH Việt Nam cân đối góp phần ổn định cuộc sống của đội ngũ nhân viên trong ngành, cải thiện trang thiết bị làm việc giúp cho việc quản lí các đối tượng, lưu trữ thông tin, ... tốt hơn. Đặc biệt là việc nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng của BHXH như trụ sở BHXH Việt Nam, trụ sở BHXH ở cả các tỉnh và huyện đã được nâng cấp, xây mới và đang dần hoàn thiện đồng bộ. Các khoản chi là đúng với quy định của Nhà nước. Sau đây là những số liệu về chi quản lí trong một vài năm qua:
Bảng 4: Tình hình chi quản lí BHXH Việt Nam giai đoạn 2001-2004.
Năm
2001
2002
2003
2004
Tổng chi (triệu đồng)
238.092
279.240
572.359
512.000
Tốc độ tăng chi (%)
-----
17,28
104,97
- 10.70
(Nguồn BHXH Việt Nam)
Qua bảng 4 ta có thể nhận thấy số chi quản lí của BHXH Việt Nam ngày càng tăng đặc biệt là số chi của năm 2003 tăng gần gấp đôi số chi của năm 2002. Song số chi của năm 2004 đã giảm so với năm 2004, như vậy là BHXH đã có những điều chỉnh kịp thời tránh được tình trạng bội chi quá lớn.
3. Quản lí hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ.
Hiện nay BHXH Việt Nam có quản lí quỹ dựa trên các tài khoản mở tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và tại Kho bạc Nhà nước. Theo quy định hiện nay thì số dư trong quỹ BHXH được dùng để đầu tư tăng trưởng nhằm mục đích bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Đây cũng là một hoạt động hữu hiệu để đảm bảo chi mà không phải tăng thu, hơn nữa đây cũng là một nguồn thu rất lớn của BHXH Việt Nam. Đối với hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ phải đảm bảo được yêu cầu an toàn, bảo tồn được giá trị và có hiệu quả về kinh tế- xã hội. Năm 1996 hoạt động đầu tư mới chỉ dừng lại ở việc nhận lãi suất 0,3% theo quy định hưởng lãi suất không kì hạn thì đến năm 1997 các biện pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ đã được mở rộng, hiện nay hoạt động này gồm có:
+ Mua trái phiếu, tín phiếu, kì phiếu, công trái của Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại của Nhà nước.
+ Cho NSNN, Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển, các ngân hàng thương mại của Nhà nước, ngân hàng chính sách vay.
+ Đầu tư vào một số dự án có nhu cầu về vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Nhìn chung công tác đầu tư tăng trưởng quỹ đã được triển khai thực hiện ở BHXH Việt Nam, đây cũng là mảng hoạt động quan trọng và bước đầu đã đem lại những hiệu quả nhất định. Tại BHXH Việt Nam hoạt động này do Ban kế hoạch- tài chính thưc hiện, theo những đánh giá chung thì số tiền lãi đã có những đóng góp đáng kể vào chi tiêu xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, tríc lập Quỹ khen thưởng, phúc lợi ... . Hoạt động đầu tư được tiến hành quản lí để đảm bảo được hoạt động theo đúng danh mục, quản lí quá trình xây dựng và thẩm định để đưa ra những phương án khả thi và có hệu quả nhất. Kết quả hoạt động đầu tư quỹ BHXH Việt Nam qua những năm vừa qua được thể hiện ở bảng 5.
Bảng 5: Lãi hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH Việt Nam.
Năm
Lãi thu trong năm (triệu đồng)
Tăng trưởng lãi (triệu đồng)
Tỉ lệ tăng trưởng lãi (%)
1997
209.800
209.800
1998
472.579
262.779
78,84
1999
665.715
193.136
40,86
2000
824.164
158.449
23,80
2001
870.942
46.778
5,68
2002
1.300.100
360.100
41,35
2003
1.911.000
611.000
47,00
2004
2.197.302
268.302
14,04
( Nguồn BHXH Việt Nam)
Từ bảng trên ta có thể thấy được tình hình thực hiện của công tác đầu tư tăng trưởng quỹ đã có những bước tiến đáng kể. Tuy năm 2001là năm hoạt động có số lãi tăng lên là nhỏ nhất nhưng những năm gần đây số lãi đầu tư đang tăng dần, đặc biệt là năm 2004 số lãi đầu tư đã lên tới 2.197.302 triệu đồng. Như vậy, đầu tư chiếm một vị trí quan trọng trong tổng thu BHXH và đặc biệt trong những năm tới chắc chắn vai trò của hoạt động đầu tư còn phải lớn hơn nữa. Ba năm gần đây tỉ lệ tăng trưởng lãi đầu tư của BHXH là tương đối cao, ổn định ở mức tỉ lệ là sấp sỉ 40%. Riêng có năm 2004 vừa qua tỉ lệ lãi đầu tư chưa cao vì tình hình giá cả trong nước có nhiều biến động. Tỉ lệ lạm phát tăng khá cao, thị trường tài chính biến động mạnh. Sang đầu năm 2005 Nhà nước ta đã có những biện pháp đối với thì trường tiền tệ. Hiện nay NHNN đang sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, nâng lãi suất đầu tư của Việt Nam đồng. Có thể trong năm 2005 này số thu lãi đầu tư của BHXH Việt Nam sẽ cao hơn.
Quản lí hoạt động cân đối quỹ BHXH.
Sau Nghị định 12/CP được thực hiện, quỹ BHXH Việt Nam mới chính thức đi vào hoạt động và được quản lí thống nhất, hạch toán độc lập với NSNN. BHXH là một chính sách xã hội, hệ thống BHXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà hoạt động vì mục tiêu xã hội, do vậy quỹ BHXH hoạt động và được bằng thu chi hợp lí (tthu bù chi). Để quản lí tốt việc cân đối thu chi quỹ trước hết ta phải quản lí tốt các hoạt động thu, chi BHXH và cả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. Trên lí thuyết là như vậy song quá trình thực hiện quả là khó khăn bởi thứ nhất là đặc trưng của ngành này là thu trước chi sau, các khoản chi ta không thể xác định chính xác ngay khi triển khai để xác định mức thu cho hợp lí. Hơn nữa điều kiện kinh tế xã hội thì luôn luôn vận động không ngừng, các biến cố có thể xảy ra mà chúng ta không thể điều kiển được.
Đặc biệt là ở Việt Nam hiện nay, BHXH được hoạt động theo nguyên tắc tài chính PAYGO đối với chế độ hưu trí. Tức là các khoản thu trong năm sẽ dùng để chi trả cho các khoản chi trong năm đó. Nhìn chung hệ thống tài chính BHXH theo cơ chế PAYGO hầu như không có hoặc có rất ít các khoản tích luỹ cho các giai đoạn sau, việc quản lí là rất đơn giản. Đối với cơ chế quản lí tài chính này, chu kì thực hiện được chia làm 3 giai đoạn sau:
Giai đoạn thanh niên: là giai đoạn khoảng 20 năm sau khi bắt đầu áp dụng cơ chế nay (ở Việt Nam là khoảng thời gian từ 1995- 2015). Giai đoạn này chưa có nhiều người về hưu, số người tham gia tăng, như vậy là số người phụ thuộc ít, tỉ lệ thay thế cao dẫn đến tỉ lệ đóng góp thấp.
Giai đoạn già hoá: là khoảng 30 năm tiếp theo giai đoạn thanh niên (ở Việt Nam là khoảng thời gian từ 2015- 2045). Giai đoạn này số người về hưu tăng, tỉ lệ phụ thuộc tăng, để đảm bảo cân đối thu chi người ta có thể dùng hai cách hoặc giảm tỉ lệ thay thế hoặc là tăng tỉ lệ đóng góp.
Giai đoạn già hoá hoàn toàn: là giai đoạn khoảng trên 50 áp dụng chế độ PAYGO như vậy ở Việt Nam là khoảng từ 2045 trở đi. Giai đoạn này tỉ lệ phụ thuộc tăng lên rất cao và tỉ lệ đóng góp buộc phải tăng lên.
Theo dự báo thì BHXH Việt Nam đến khoảng năm 20036 là bắt đầu chuyển sang giai đoạn già hoá (tức là thu không đủ chi, số dư quỹ sẽ âm). Dự tính, quỹ BHXH Việt Nam sẽ phát triển đến tận năm 2022, tại đây số dư quỹ sẽ lớn nhất. Nếu tỉ lệ tham gia BHXH thực hiện theo xu thế như hiện nay thì đối tượng tham gia BHXH đến năm 2020 vào khoảng 15 triệu người, đến năm 2030 là 22,4 triệu người và năm 2040 là khoảng 31 triệu người. Tương đương với đó, số dư dự kiến của BHXH Việt Nam vào năm 2022 là khoảng 200.000 tỷ đồng, sau đó sẽ giảm dần và đến năm 2036 dự kiến sẽ âm. Do vậy vấn đề nêu ra hiện nay là quỹ BHXH đang tồn dư lớn, BHXH Việt Nam ngay từ lúc này nên thực hiện các biện pháp, hoạch định chính sách cho tương lai thâm hụt quỹ không xa.
Chế độ quản lí tài chính như vậy có ưu điểm là đơn giản song lại cũng có nhiều nhược điểm cần khắc phục như sự tồn tại quỹ, quyền lợi của người lao động và ngay cả những tác động không tốt đến nền kinh tế. Tuy nhiên ở nước ta, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy đây là lựa chọn chuyển cơ chế quản lí tài chính sang cơ chế quản lí có đầu tư. Thực hiện các hoạt động đầu tư để giảm những hạn chế của cơ chế quản lí này. Như vậy đầu tư là việc làm rất quan trọng đối với việc cân đối quỹ BHXH cả hiện nay và trong tương lai. Thu từ đầu tư có thể giúp bảo toàn giá trị quỹ và giúp chúng tăng trưởng bù đắp được sự mất giá của đồng tiền do lạm phát. Chúng ta có thể thấy được hoạt động cân đối quỹ BHXH Việt Nam được thực hiện trong những năm qua:
Bảng 6: Tình hình cân đối quỹ BHXH Việt Nam từ 1995- 2004.
( triệu đồng)
Năm
Số dư năm trước
Số thu trong năm
Tổng thu
Tổng chi
Số dư cuối năm
1995
0
788486
788486
41954
746532
1996
746532
2569733
3316265
383150
2933115
1997
2933115
3724269
6657384
693525
5963862
1998
5963862
4394569
10358431
971630
9386801
1999
9386801
4867167
14253968
1200351
13053635
2000
13053635
6032387
19086022
1606783
17479239
2001
17479239
7229810
24709049
2381915
22327134
2002
22327134
8117437
30444571
2606542
50165163
2003
50165163
13565660
63730823
6150010
57580813
2004
57580813
15365802
73046615
7021000
66025615
( Nguồn BHXH Việt Nam)
Bảng cân đối cho ta cái nhìn tổng quan về hoạt động tài chính của BHXH Việt Nam. Chúng ta có thể nhận thấy số dư quỹ hiện nay của chúng ta đang rất lớn vì tình hình thu vào nhiều mà chi thì ít do có sự hỗ trợ rất lớn từ NSNN. Qua đó ta nhận thấy, đối với tình hình như hiện nay hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ cần phát huy hơn nữa. Số dư quỹ cuối năm tăng lên đều đặn, số dư tính đến tháng 12/2004 lên tới 66025615 triệu đồng, đây là con số rất lớn so với năm 1995. Tốc độ tăng tổng thu quỹ lớn hơn tổng chi quỹ, đây là lí do khiến cho số dư quỹ tăng cao. Hơn nữa như chúng ta biết BHXH Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của cơ chế PAYGO nên việc số dư quỹ cao là hoàn toàn hợp lí. Điều cần thiết hiện nay là cần có những biện pháp hợp lí nhằm khắc phục những nhược điểm của chế độ quản lí tài chính này. Số dư quỹ ngày càng tăng, theo tỉ lệ tăng số dư quỹ như hiện nay có lẽ chỉ khoảng năm 2030 là số dư quỹ đạt được mức 200.000 tỷ đồng, mức cao nhất theo dự báo.
III. Đánh giá chung về công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam.
Những kết quả đạt được.
1.1. Hình thành hệ thống pháp lí làm cơ sở cho cơ chế quản lí tài chính BHXH:
Từ ngay sau 1995, Chính phủ đã ban hành hàng loạt các Nghị định về BHXH quy định và hoàn thiện dần các quy chế quản lí cũng như hoạt động của ngành nói chung và của tài chính BHXH nói riêng. Đây chính là nền tảng, là định hướng quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách BHXH. Hơn nữa trong quá trình hoạt động hệ thống pháp lí của BHXH Việt Nam luôn được sửa đổi bổ xung cho phù hợp với sự thay đổi của điều kiện kinh tế, xã hội. Hệ thống BHXH Việt Nam ngày càng phát triển với số người tham gia BHXH tăng, năm 1995 mới có 2.275.998 người tham gia BHXH thì tính cho đến cuối năm 2004 số người tham gia đã lên tới 6.344.508 người (tăng gần 3 lần). Như vậy là chính sách đổi mới là hoàn toàn phù hợp và phát huy được hiệu quả hoạt động. Điều này thể hiện trong kết quả đạt được trong mọi mặt, song trong khuôn khổ của đề tài chỉ xin đề cập đến khía cạnh quản lí tài chính của BHXH Việt Nam.
Hình thành quỹ BHXH được quản lí tập trung và độc lập với NSNN.
Trước đây quỹ BHXH chỉ tồn tại trên danh nghĩa và hầu như không có thu, nguồn chi trả cho các chính sách phụ thuộc vào NSNN. Hiện nay BHXH đã hình thành nên quỹ BHXH, độc lập với NSNN. Thu BHXH từ hai đối tượng là người lao động và người sử dụng lao động với quy định trích nộp theo % lương của người lao động và quỹ lương của doanh nghiệp. Hoạt động thu chi được thực hiện tương đối thuận lợi chi phí thấp mà hiệu quả công việc cao. Việc phân cấp thu chi theo ba cấp, thu bằng chuyển khoản, thực hiện chi trả thông qua đaị lí là rất phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay. Mức chi BHXH dựa trên những căn cứ thực tế, mức lương tối thiểu tính làm căn cứ đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người lao động. Tỉ lệ hưởng BHXH Việt Nam là tương đối cao so với các nước trên thế giới thể hiện chức năng phân phối lại thu nhập của BHXH. Quỹ BHXH hiện nay luôn tăng trưởng qua các năm, quỹ đang thay thế dần các khoản chi với tỉ trọng chi từ quỹ BHXH tăng, giảm tỉ trọng chi từ NSNN. Việc ra đời và phát triển quỹ BHXH Việt Nam là bước ngoặt lớn trong sự phát triểm của ngành BHXH, đánh dấu sự chuyển biến về cơ chế quản lí.
. Công tác thu được phân cấp, tổ chức thu hợp lí an toàn qua hệ thống tài khoản thu BHXH Việt Nam.
Cấp Trung ương, cấp khu vực, cấp cơ sở là ba phân cấp quản lí của hệ thống BHXH Việt Nam dựa trên phân cấp hành chính. Trên cơ sở phân cấp này hoạt động thu, chi của BHXH được triển khai rộng khắp cả nước. Việc thực hiện thu chủ yếu là thông qua chuyển khoản từ tài khoản của doanh nghiệp vào tài khoản thu BHXH lập tại Kho bạc Nhà nước, hay ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt nam. Hình thức thu nộp trên vừa đảm bảo tính an toàn, chính xác lại giúp cho các doanh nghiệp và cơ quan BHXH thực hiện dễ dàng. Kết quả là số thu của BHXH Việt Nam năm sau luôn tăng hơn năm trước, giảm tình trạng nợ đóng, trốn đóng, chậm đóng. Từ đó quỹ BHXH được ổn định, thực hiện theo đúng kế hoạch quản lí, bảo tồn và tăng trưởng quỹ, đảm bảo được khả năng chi trả của quỹ BHXH.
. Thực hiện chi trả các chế độ vừa nhanh chóng, kịp thời vừa đảm bảo tính chính xác.
Hiện nay BHXH Việt Nam cũng như các ban ngành trong cả nước đang thực hiện tốt công tác đơn giảm hoá thủ tục hành chính. Việc xét duyệt các hồ sơ hưởng các loại chế độ đã dần được đổi mới, thủ tục nhanh chóng, đơn giảm nhưng vẫn hiệu quả. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng từ 1/1/2005 theo quy trình xét duyệt mới, việc xét duyệt hồ sơ được thực hiện ở BHXH tỉnh bằng chương trình tin học, BHXH Việt Nam chỉ theo dõi, chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện của BHXH tỉnh. Công tác chi trả được thực hiện chủ yếu thông qua hệ thống đại lí là chủ sử dụng lao động đối với các chế độ ngắn hạn, cán bộ xã phường với các chế độ dài hạn. Việc chi trả hiện nay thực hiện kịp thời giúp người lao động đảm bảo cuộc sống của họ. Quỹ BHXH đang có số chi chiếm tỉ trọng ngày càng cao, dần thay thế NSNN trong vai trò chi trả các chế độ. Sau khi sát nhập BHYT sang BHXH, công tác thu chi thực hiện đơn giản gọn nhẹ, giảm được chi phí quản lí vì các đối tượng phải tham gia BHXH thì đồng thời cũng phải tham gia BHYT. Các khoản chi vào công tác nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lí BHXH đã làm giảm các loại chi phí quản lí khác.
1.5. Quỹ đã có thu từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ, giảm được nhược điểm của cơ chế quản lí PAYGO.
Từ sau 1997 BHXH Việt Nam thực sự có thu từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. Đây là một hoạt động đóng vai trò vị trí thực sự quan trọng không những làm tăng thu mà còn góp phần bảo toàn khả năng chi trả của quỹ BHXH. Tuy thu từ đầu tư chưa cao song đảm bảo an toàn, không để xảy ra thất thoát, nó đã thể hiện sự đúng đắn trong quản lí tài chính BHXH. Đặc biệt như điều kiện nước ta hiện nay chỉ số giá tiêu dùng tương đối cao (tỉ lệ lạm phát cao) có thể dẫn tới việc Nhà nước phải quy định lại mức lương tối thiểu. Như vậy nếu không có sự đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ thì sự bù thiếu cho những chênh lệch khi nộp và khi hưởng là không có. Hơn nữa, hoạt động đầu tư còn mang lại không những lợi ích về mặt kinh tế mà cả về mặt xã hội. Các dự án đầu tư có thể mang đến việc làm cho nhiều lao động thất nghiệp giảm gánh nặng cho xã hội ... . Việc đầu tư đã được thực hiện theo đúng danh mục đầu tư, đúng hạn mức đầu tư và đảm bảo an toàn, tăng trưởng quỹ BHXH góp phần đảm bảo khả năng chi trả cho các chế độ.
2. Những tồn tại cần khắc phục và nguyên nhân.
2.1. Việc số người tham gia còn ít đặc biệt là tình trạng trốn tham gia, trốn đóng, nợ đọng phí BHXH còn rất phổ biến.
Hiện nay theo quy định thì số lao động bắt buộc tham gia là rất lớn song số người tham gia BHXH tính đến thời điểm này là chưa cao. Tình trạng trốn tham gia BHXH của các đối tượng, đặc biệt là khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, những công ty tư nhân, cổ phần, trách nhiệm hữu hạn vừa và nhỏ là tương đối cao. Thứ nhất là tình trạng khai giảm, khai thiếu số lao động trong doanh nghiêp, trường hợp thứ hai là không tham gia hoàn toàn. Tồn tại tình trạng trên một phần do sự thiếu tích cực của chủ sử dụng lao động, một phần do sự quản lí chưa chặt của cơ quan ban ngành có liên quan. Chưa có sự phối kết hợp cần thiết giữa các đơn vị quản lí, bên cạnh đó các chế tài pháp luật cũng chưa có những biện pháp sử phạt nghiêm minh đối với tình trạng này.
Các doanh nghiệp hiện nay trong việc đóng phí BHXH vẫn diễn ra tình trạng khai giảm quỹ lương của doanh nghiệp để trốn đóng . Đặc biệt hơn là tình trạng nợ đọng, nợ chậm đóng còn nhiều. Tình trạng trên còn tồn tại là do cơ quan BHXH Việt Nam chưa có những biện pháp quản lí hữu hiệu, các quy định về xử phạt là chưa thực sự nghiêm khắc.
2.2. Trong công tác chi trả BHXH Việt Nam còn nhiều hiện tượng sai sót trong xét duyệt, tình trạng tồn đọng trong giải quyết chế độ vẫn tồn tại.
Qua việc kiểm tra các hồ sơ xét hưởng BHXH Việt Nam còn phát hiện những trường hợp xét duyệt sai, như xét duyệt không đúng chế độ, chính sách, tính toán sai, thiếu giấy tờ,... . Trong những năm qua BHXH Việt Nam thông qua công tác thẩm định đã trả lại không ít hồ sơ để BHXH tỉnh bổ xung, hoàn chỉnh lại. Có tình trạng này là do công tác đào tạo, hướng dẫn nâng cao nghiệp vụ chưa được quan tâm đúng mức.
Tình trạng tồn đọng trong giải quyết các chế độ còn phổ biến, tức là các đối tượng đặc biệt là các đối tượng được hưởng trợ cấp một lần sau khi nghỉ việc đã chuyển đến nơi khác gây ra rất nhiều khó khăn cho công tác chi trả. Đây là những hạn chế do nguyên nhân khách quan, hiện nay đang được khắc phục bằng cách đưa những thông tin đó lên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương để đối tượng được hưởng chế độ được biết.
2.3. Công tác đầu tư bảo tồn và phát triển quỹ tuy đã có thu nhưng còn hạn chế lợi nhuận từ đầu tư còn rất nhỏ.
Vấn đề ở đây là hiệu quả đồng vốn bỏ ra là chưa cao, lí do chủ yếu các hoạt động đầu tư còn theo chỉ định của Chính phủ. Các quy định về hạng mục đầu tư còn hạn hẹp, hình thức đầu tư đơn điệu. Các ngân hàng được phép vay mới chỉ bó hẹp trong các ngân hàng Nhà nước: NH Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, NH Công thương, NH Ngoại thương, NH Đầu tư và Phát triển. Trong quản lí đầu tư BHXH Việt Nam chưa có sự phân định trách nhiệm rõ ràng, chưa có bộ phận chuyên môn quản lí nghiệp vụ này mà chỉ mới giao cho Ban Kế hoạch- tài chính đảm nhiệm.
Hoạt động đầu tư hiện nay vẫn hoàn toàn thụ động, chưa tiếp cận được với những dự án lớn, lợi nhuận cao. Hiện nay lãi suất trung bình là rất thấp, nếu cứ như hiện nay thì các biện pháp đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ chưa đủ để khác phục sự mất cân đối lâu dài của quỹ BHXH trong tương lai. Tình hình tài chính khu vực mới ổn định trở lại sau khủng hoảng kinh tế khu vực năm 1997, nền kinh tế nước ta còn kém khả năng hấp thụ vốn đầu tư. Bên cạnh đó thị trường tài chính Việt Nam chưa thực sự ổn định, tỷ lệ lạm phát ở mức tương đối cao. Nhà nước hiện nay đang thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, tỷ lệ lãi suất huy động tiền gửi thấp.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUẢN LÍ TÀI CHÍNH BHXH VIỆT NAM
TRONG THỜI KÌ TỚI
I. Những quan điểm chủ yếu về vấn đề quản lí tài chính BHXH Việt Nam trong giai đoạn tới.
1. Quan điểm trong xây dựng chính sách BHXH.
Trong quá trình xây dựng chính sách BHXH phải thực sự quan tâm tới đường lối, điều kiện kinh tế của đất nước để từ đó đưa ra được những chính sách phù hợp. Sau đây là những quan điểm chủ yếu trong xây dựng chính sách BHXH Việt Nam:
Chính sách BHXH phải thể hiện được đường lối đổi mới, phát triển của Đảng và Nhà nước ta trong thời kì mới, thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chính sách BHXH phải phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của nước ta hiện nay.
Nhà nước thống nhất quản lí và ban hành chính sách BHXH theo hướng phát huy quyền của các bên tham gia BHXH.
Đa dạng hoá các hình thức BHXH.
Hoàn thiện cơ chế hoạt động và tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHXH cho phù hợp với điều kiện của đất nước.
Những quan điểm cụ thể trong công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam trong giai đoạn tới.
Quỹ BHXH hình thành nên từ những đóng góp của các bên than gia, trong đó gồm người lao động và cả chủ sử dụng lao động. Bên cạnh đó có sự hỗ trợ của NSNN, tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ và các nguồn thu hợp pháp khác.
Quỹ BHXH được quản lí tập trung, thống nhất, dân chủ và công khai trong toàn hệ thống BHXH Việt Nam; hoạch toán theo quỹ thành phần độc lập với NSNN và được Nhà nước bảo hộ.
Quỹ BHXH đảm bảo cho các đối tượng hưởng chế độ sau ngày 1/10/1995 (trước ngày này do NSNN đảm bảo); chi BHYT cho các đối tượng tham gia BHYT; chi quản lí bộ máy của hệ thống BHXH Việt Nam; chi xây dựng cơ bản và các khoản chi khác.
BHXH có trách nhiệm dùng quỹ nhàn rỗi để đầu tư an toàn, bảo toàn được giá trị quỹ và có hiệu quả về mặt kinh tế- xã hội.
Quỹ BHXH được hoạch toán riêng và cân đối thu chi theo từng năm.
II. Giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng hoạt động quản lí tài chính BHXH trong gian đoạn tới.
1. Bài học kinh nghiệm từ hệ thống BHXH CHLB Đức và Trung Quốc.
Qua tìm hiểu về tổ chức quản lí và hoạt động tài chính của hai hệ thống BHXH trên ta nhận thấy một số những ưu điểm như khắc phục được sự ảnh hưởng từ môi trường kinh tế. Đặc biệt là hệ thống BHXH của CHLB Đức hiện nay đang thực hiện theo phương thức hàng năm sẽ thống kê ra số chi, trên cơ sở số liệu đó tính toán số thu hợp lí cho năm đó. Thực hiện như vậy lạm phát không thể ảnh hưởng tới quỹ BHXH cũng như việc chi trả các chế độ chính sách. Vì vậy, BHXH sẽ chủ động hơn trong việc quản lí tài chính. Hiện nay dự trữ quỹ BHXH là rất nhỏ chứng tỏ quỹ BHXH đảm bảo được khả năng chi trả một cách tương đối ổn định. Tuy vậy việc triển khai thực hiện phương thức này đòi hỏi phải có những điều kiện nhất định. Thường là ở những nước phát triển, có tiềm năng kinh tế đủ mạnh thì mới có thể áp dụng được phương pháp này. Việc triển khai phương thức này tại Việt Nam là tương đối khó khăn, việc thống kê là rất khó chính xác, chi phí lớn. Hơn nữa điều kiện kinh tế nước ta là nước đang phát triển, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn. Tuy vậy BHXH CHLB Đức hiện nay được tổ chức thực hiện thông qua cả tổ chức BHXH tư nhân, như vậy sẽ có sự cạnh tranh và tất yếu của cạnh tranh là hiệu quả hoạt động càng cao. Từ hoạt động của BHXH CHLB Đức có thể đưa việc triển khai việc thực hiện một số chính sách thông qua hệ thống BHXH tư nhân là khả thi tại BHXH Việt Nam.
Đối với hệ thống BHXH Trung Quốc, đây là hệ thống BHXH được tổ chức như một hệ thống mở, các chính sách được cụ thể hóa và thực hiện chưa thực sự thống nhất trong cả nước song tính hiệu lực tương đối cao. Đây cũng là một điểm mạnh mà BHXH Việt Nam cần xem xét vì hiện nay tính hiệu lực trong các quy định của nước ta là chưa cao. Các đối tượng bắt buộc tham gia của BHXH Việt Nam thực hiện chưa đầy đủ, việc trốn đóng hay nợ đọng vẫn là những vấn đề còn tồn tại. Bên cạnh đó, việc tổ chức quỹ thành hai phần: phần thứ nhất là một phần phí do người sử dụng lao động nộp để sử dụng chung, phần thứ hai bao gồm phần phí do người lao động nộp và phần còn lại do người sử dụng nôp. Phần thứ hai này được tổ chức thành tài khoản cho người lao động, họ có thể chủ động hơn trong các kế hoạch tài chính của mình.
2. Những giải pháp cụ thể.
2.1. Giải pháp cho công tác quản lí thu BHXH.
Quản lí đối tượng tham gia và đóng góp đầy đủ, chính xác, đúng thời hạn là mục tiêu của chính sách quản lí thu. Để thực hiện tốt công tác quản lí thu BHXH, cần thực hiện áp dụng những biện pháp sau:
Cần tích cực phối kết hợp với các ban ngành quản lí từ Trung ương đến địa phương, trước tiên là quản lí tốt các đơn vị bắt buộc tham gia BHXH, sau đó ta mới quản lí đến lao động trong đơn vị đó. Một thực tế hiện nay là còn rất nhiều đơn vị nhỏ chưa thực hiện tham gia BHXH cho những lao động của đơn vị mình. Muốn thực hiện tốt công việc này chúng ta có thể thông qua những đơn vị, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động như: Sở kế hoạch và đầu tư, cơ quan quản lí, cục thế,... . Như vậy ngay khi thành lập các đơn vị này phải tham gia thực hiện ngay từ đầu và trong quá trình hoạt động sau này BHXH Việt Nam sẽ dễ dàng quản lí hơn.
Trên cơ sở quản lí các đối tượng tham gia, BHXH Việt Nam có thể thực hiện phân loại các đơn vị sử dụng lao động để dễ dàng trong công tác kiểm tra theo dõi việc thực hiện chính sách BHXH. Chúng ta có thể phân loại các đơn vị như sau: khối hành chính sự nghiệp, khối doanh nghiệp Nhà nước, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các đơn vị khác (cán bộ xã phường, các tổ chức, ....). Việc phân loại trên giúp cho BHXH Việt Nam dễ dàng hơn trong việc quản lí các đối tượng, có thể phân công cán bộ hợp lí hơn.
Thứ hai là công tác cấp sổ cho người lao động để theo dõi quá trình tham gia và đóng góp của họ vào quỹ BHXH. Hiện nay công tác này thực hiện tương đối tốt, song cần đưa những ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lí hoạt động này. Công nghệ mới này sẽ thay thế các phương pháp thủ công trong việc cập nhật những thay đổi về của đối tượng tham gia BHXH. Công việc này có thể giúp giảm chi phí mà tính chính xác lại cao, đây cũng là lĩnh vực được ưu tiên áp dụng công nghệ trong quản lí sớm nhất. Cần tích cực hơn nữa trong việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ cho công tác quản lí thu phù hợp với từng loại đối tượng, từng địa phương. Đây là hướng đi lâu dài, đảm bảo thực hiện nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm được chi phí quản lí.
Bên cạnh những biện pháp quản lí trên chúng ta cũng cần đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền cho các đối tượng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Qua đó họ có thể nhận thức được tầm quan trọng cũng như ý nghĩa của việc tham gia BHXH. Có thể từ đó ngay chính người chủ sử dụng cũng nhận thức được lợi ích của việc tham gia BHXH và họ sẽ tự nguyện thực hiện mà không cần có những biện pháp cưỡng chế. Đối với nội dung tuyên truyền phải dễ hiểu, dễ tiếp thu, gần gũi với đời sống của người lao động, phù hợp với truyền thống dân tộc.
Trong công tác thu cần đẩy mạnh việc kiểm tra đôn đốc việc thực hiện thu nộp đối với những đơn vị chậm đóng hay nợ đọng thường xuyên. Đặc biệt là phối hợp chặt chẽ với các bên như thanh tra, tổ chức chính trị xã hội ( Liên đoàn lao động, tổ chức Đảng, Đoàn thể,...) để kiểm tra việc kê khai lao động, kê khai quỹ lương của doanh nghiệp. Ngoài ra cần có những biện pháp xử phạt nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm. Hiện nay các biện pháp xử phạt của chúng ta chỉ mang tính chất cảnh cao, chưa đủ nghiêm khắc để điều chỉnh hành vi chốn nộp hay nợ đọng. Bên cạnh những quy định xử phạt, BHXH cũng nên thường xuyên thông báo cho các đơn vị số nợ lãnh đạo các đơn vị tham gia BHXH được biết.
Trong bản thân ngành cũng cần có những biện pháp quản lí tốt đối với cán bộ thu, tránh tình trạng cán bộ BHXH thông đồng với các đơn vị tham gia BHXH. Đối với các trường hợp vi phạm cần có những biện pháp xử phạt nghiêm minh. Bên cạnh đó BHXH cũng cần có những chế độ khen thưởng khuyến khích đối với các cá nhân đơn vị thực hiện tốt gồm cả các đơn vị tham gia BHXH lẫn các cá nhân, đơn vị trong ngành.
2.2. Giải pháp cho công tác quản lí chi các chế độ BHXH.
Mục tiêu của công tác quản lí chi chế độ là chi đúng, kịp thời đảm bảo an toàn tránh thất thoát quỹ BHXH. Chi cho các chế độ được quy định rõ cho từng loại chế độ với mức hưởng, thời gian hưởng trong các văn bản. Sau đây tôi chỉ xin đưa ra một số biện pháp để quản lí các khoản chi chế độ mà không đị sâu vào các quy định hưởng của từng loại chế độ. Để quản lí chi cần thực hiện tốt các giải pháp sau đây:
Xây dựng một quy trình xét duyệt hồ sơ đơn giản nhanh chóng nhưng phải đảm bảo chính xác, đúng chế độ, đúng đối tượng và đúng mức trợ cấp. Quy trình xét duyệt hồ sơ được thực hiện thông qua ba cấp: đơn vị sử dụng lao động hướng dẫn người lao động lập hồ sơ, BHXH cấp tỉnh sẽ thực hiện kiểm tra và ra quyết định mức hưởng cho người lao động, BHXH Việt Nam thẩm định tính chính xác của quyết định trên. Muốn thực hiện được như vậy trước tiên chúng ta phải có những cán bộ xét duyệt được đào tạo và có năng lực, trình độ và phải có đạo đức nghề nghiệp, tránh tình trạng thông đồng. Phải thực hiện việc đào tạo các cán bộ chuyên trách của đơn vị tham gia BHXH về thủ tục và các giấy tờ cần thiết để họ hướng dẫn lại cho các đối tượng được hưởng của đơn vị mình, tránh tình trạng thiếu giấy tờ cần thiết trong hồ sơ. Phải phối hợp với các cơ quan đơn vị khác để kiểm tra tính hợp pháp của các hồ sơ hưởng như: bên bệnh viện, cảnh sát, toà án, ... .
Cần tích cực kiểm tra và rà soát lại các hồ sơ đã xét duyệt, nếu phát hiện ra những vi phạm phải lập tức điều chỉnh hoặc dừng việc trợ cấp lại ngay. Và việc kiểm tra này phải được thực hiện định kì, nếu có sai sót mà BHXH tỉnh không thu hồi lại được thì phải có trách nhiệm bội thường cho quỹ. Đặc biệt nếu phát hiện ra cán bộ BHXH có thông đồng với người được hưởng trợ cấp thì phải xử phạt nghiêm minh.
Lập hệ thống đại lí thực hiện chi trả kịp thời đảm bảo công tác chi được thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác. Theo như tình hình hiện nay, đối với các chế độ ngắn hạn đại lí chính là người sử dụng lao động, đối với các chế độ dài hạn chủ yếu là các cán bộ xã phường là phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay. Tuy vậy cùng với sự phát triển của hệ thống ngân hàng hiện nay thì chúng ta có thể triểm khai áp dụng hình thức chi tra thông qua hệ thống tài khoản. Đây cũng là định hướng tốt bởi nếu thực hiện được thì chi phí quản lí sẽ tiết kiệm được chi phí quản lí lại vừa đảm bảo tính an toàn.
2.3. Giải pháp cho công tác chi quản lí.
Như chúng ta đã biết chi quản lí hiện nay có hai khoản chi lớn đó là chi hoạt động thường xuyên của bộ máy quản lí và chi đầu tư xây dựng cơ bản. Đối với khoản chi thường xuyên của bộ máy quán lí cần áp dụng những biện pháp sau để tiết kiệm chi phí quản lí mà vẫn đảm bảo được hiệu quả hoạt động của hệ thống BHXH:
Thứ nhất là cần phải ngiên cứu xem xét các khoản chi cho hợp lí cân đối với các ngành khác. Vì hiện nay BHXH vẫn thực hiện quản lí lao động dưới hình thức biên chế như các đơn vị hành chính khác, mức lương vẫn tính trên cơ sở bảng lương Nhà nước.
Cũng giống như các đơn vị hành chính khác BHXH vẫn còn bộ máy quản lí tương đối cồng kềnh. Do vậy cần thực hiện các biện pháp sắp xếp lại bộ máy quản lí, tuyển dụng những lao động được đào tạo chính quy, có năng lực, có trình độ và đặc biệt có đạo đức. Tránh tình trạng số lao động nhiều song hiệu quả công việc không cao. Bên cạnh đó cần khuyến khích lao động phát huy hiệu quả công việc.
Tiếp theo là những biện pháp đối với chi đầu tư xây dựng cơ bản.
Trước hết, chúng ta đã biết khoản chi này lấy từ lãi đầu tư để nâng cấp các trụ sở BHXH tỉnh, huyện hay mua sắm các trang thiết bị phục vụ cho quản lí. Đối với các khoản chi này cần lập các dự án và quyết toán để thẩm định xem xét lĩnh vực này có thực sự cần thiết đối với hoạt động của BHXH. Phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quy định, trình tự về công tác quản lí đầu tư, thực thi công việc đúng thẩm quyền, trách nhiệm theo phân cấp.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thẩm, định ở tất cả các giai đoạn từ khâu lập dự án cho đến khâu tổ chức thi công, bàn giao công trình đưa công trình vào sử dụng. Trong ba khâu đó cần đặc biệt chú trọng đến khâu giám sát thi công, xem xét công trình phải được xây dựng theo đúng thiết kế dự án, đúng chủng loại vật tư, đúng giá cả trên thị trường. Kịp thời báo cáo tiến độ của dự án, sau đó đưa ra những biện pháp khi có những thay đổi.
Các dự án được thông qua phải là các dự án phù hợp với công tác quản lí của từng đìa vừa đảm bảo tính hiện đại, không bị lạc hậu ít nhất trong mười năm tới. Và việc áp dụng các dự án phải thực sự có ích và tiết kiện chi phí tối đa. Cán bộ quản lí của những hoạt động này cần phải học hỏi, nghiên cứu tài liệu để nâng cao kiến thức, trình độ nghiệp vụ về lĩnh vực đầu tư xây dựng và mua sắm trang thiết bị. Thông qua những kiến thức đó BHXH có thể tự quản lí các khoản chi đầu tư nâng cấp xây dựng mà không lãng phí vào các công trình không có ích.
2.4. Giải pháp đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng trưởng quỹ hiện nay đang là hoạt động cần thiết giúp cho quỹ BHXH có đủ tiềm lực tài chính đáp ứng được nhu cầu chi trả cho các đối tượng. Đây là lĩnh vực đáng quan tâm và cần có những giải pháp cụ thể để đẩy mạnh hoạt động đầu tư một cách có hiệu quả. Với điều kiện kinh tế trong nước như hiện nay hướng đầu tư tăng trưởng quỹ cần được quan tâm đúng mức và đây cũng là giải pháp cho tương lai.
Hiện nay tỉ lệ quỹ nhàn rỗi được đem đi đầu tư là khá cao song thực sự hiệu quả trên đồng vốn còn thấp. Một số cho rằng nên đầu tư khoảng 80% vốn nhàn rỗi vào các lĩnh vực an toàn mà chủ yếu là thông qua các tổ chức tài chính và tiền tệ cuả Nhà nước. Đây cũng chính là những biện pháp bảo tồn quỹ BHXH được quy định trong quy chế tài chính BHXH ban hành kèm Nghị quyết 2/2003 của Thủ tướng Chính phủ. Các hoạt động đó bao gồm:
+ Mua trái phiếu, tín phiếu, kì phiếu, công trái của Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại của Nhà nước.
+ Cho NSNN, Quỹ hô trợ đầu tư và phát triển, các ngân hàng thương mại của Nhà nước, ngân hàng chính sách vay.
+ Đầu tư vào một số dự án có nhu cầu về vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
20% quỹ nhàn rỗi còn lại có thể đem đầu tư vào các hình thức đầu tư khác với tỷ lệ lợi nhuận cao hơn. Chẳng hạn như đầu tư bất động sản, đầu tư vào thị trường chứng khoán, đầu tư trực tiếp vào các dự án sản suất kinh doanh khác,....
Với thời điểm hiện nay nền kinh tế nước ta đang tương đối ổn định, nhu cầu về vốn đầu tư rất cao, thị trường trong nước hiện nay đang khuyến khích sự tham gia đầu tư vốn từ nước ngoài. Việc đầu tư thị trường trong nướcc hiện nay là rất cần thiết, vả lại đầu tư trong nước còn mang lại nhiều lợi ích về mặt xã hội khác. Do vậy nên mở rộng danh mục đầu tư đối với quỹ nhàn rỗi của BHXH Việt Nam hiện nay.
Cùng với việc mở rộng danh mục đầu tư, hạn mức đầu tư chúng ta có thể phân cấp quyết định đầu tư. Đối với các hạng mục đầu tư ít rủi ro để giám đốc BHXH Việt Nam quyết định, Chính phủ chỉ quyết định đối với các hình thức đầu tư khác nhiều rủi ro hơn. Như vậy BHXH sẽ chủ động và có trách nhiệm hơn trong công tác đâu tư của mình, Chính phủ thì không phải bận tâm đến những việc không thực sự cần thiết.
Nhà nước cũng cần có những biện pháp khuyến khích hoạt động đầu tư quỹ BHXH như chính sách miễn giảm thuế, ưu tiên trong những hạng mục đầu tư có lợi nhuận cao như lĩnh vực dầu khí, điện tử viễn thông,...
Bản thân BHXH cũng nên lập ra bộ phân chuyên trách thực hiện hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH, tránh tình trạng kiêm nhiệm không chuyên sâu vào lĩnh vực này. Có những cán bộ chuyên trách có trình độ và kinh nghiệm về đầu tư và phân tích tài chính, chúng ta mới có thể có hiệu quả cao trong đầu tư tăng trưởng quỹ.
2.5. Giải pháp về quản lí cân đối quỹ.
Hiện nay quỹ BHXH đang được quản lí tập chung thống nhất ở cơ quan cao nhất đó là BHXH Việt Nam. Quỹ BHXH được hoạch toán cuối năm theo hình thức cân đối thu chi, hiện nay quỹ BHXH đang trong giai đoạn đầu của quá trình thực hiện theo cơ chế PAYGO nên số dư quỹ hàng năm còn tương đối cao. Việc đẩy mạnh hoạt động thu, đặc biệt là thu từ đầu tư tăng trưởng quỹ và tiết kiệm chi là hợp lí. Theo các dự báo tài chính thì BHXH Việt Năm đến khoảng 40 năm nữa, thu của BHXH không đủ chi, quỹ BHXH sẽ bị thâm hụt. Trong những năm tới chúng ta nên có những biện pháp khắc phục tình trạng đó trong tương lai. Sau đây là một vài giải pháp đưa ra để khắc phục tình trạng trên:
Tăng thu BHXH: Đây là biện pháp dễ thực hiện song với mức thu phí BHXH như hiện nay đã là cao so với đồng lương chi trả cuộc sống của bản thân người lao động. Nếu thực hiện biện pháp này có lẽ là không phù hợp và chắc chắn người lao động và chủ sử dụng sẽ không đồng tình cho lắm.
Biện pháp thứ hai có thể áp dụng là giảm chi: Theo các nghiên cứu cho biết tỷ lệ hưởng của các chế độ đặc biệt là chế độ hưu chí hiện nay của Việt Nam là tương đối cao, thời gian hưởng trợ cấp thai sản dài so với các nước khác trên thế giới. Do vậy giảm tỉ lệ hưởng cũng có thể là một hướng giải quyết cần đưa ra để nghiên cứu và xem xét.
Hướng thứ ba là tăng thời gian đóng góp, tức là giảm tuổi nghỉ hưu đối với các đối tượng. Trong ba hướng trên thì đây có lẽ là hướng hợp lí nhất, tăng thời gian đóng đồng nghĩa với việc giảm thời gian hưởng. Như vậy vừa làm giảm chi lại vừa tăng thu. Xu thế này cũng phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thế giới hiện nay. Thứ nhất là tình hình sức khoẻ của người lao động ngày càng tốt, tuổi thọ trung bình của người dân ngày càng tăng. Thứ hai là xu hướng thế giới hiện nay đang tăng độ tuổi về hưu của người lao động, đặc biệt là đối với lao động nữ.
Việc quan trọng hiên nay là nếu thực hiện các biện pháp trên thì áp dụng và triển khai nó như thế nào? Nếu tăng tỉ lệ đóng góp, giảm tỉ lệ hưởng, tăng độ tuổi nghỉ hưu thì độ tuổi ấy là bao nhiêu? Sau đây tôi xin trình bầy phương pháp triển khai đối với hướng thứ ba, tức là tăng độ tuổi về hưu. Chúng ta nên áp dụng quy định tăng tuổi nghỉ hưu đối với các lao động bắt đầu tham gia lao động (và tham gia BHXH) từ ngày 1/1/2010. Như vậy 35 năm sau là lúc họ khoảng 60 tuổi là tuổi họ sẽ về hưu, khi đó họ sẽ tiếp tục đóng góp thêm một số năm nhất định tức là BHXH lức đó sẽ tăng thu từ khoản đóng góp thêm của họ và giảm chi đối với những khoản chi mà lẽ ra nếu về hưu sớm họ đã được nhận. Phương thức này có thể giải quyết được tình trạng thâm hụt quỹ BHXH trong 40 năm tới. Vấn đề thứ hai đặt ra độ tuổi tăng thêm bao nhiêu là hợp lí? Theo tôi trước tiên chúng ta nên tăng độ tuổi nghỉ hưu của nữ lên 58 và đối với nam là 63 (tức là tăng thêm ba năm) sau đó trong quá trình thực hiện chúng ta có thể tiếp tục điều chỉnh.
Có những ý kiến cho răng quỹ BHXH nên thực hiện chi trả cho mọi đối tượng tại thời điểm này vị hiện nay số dư quỹ là rất lớn. NSNN chỉ đóng vai trò hỗ trợ bù thiếu chứ không phải chi trả cho các đối tượng nghỉ hưu trước 1995 như hiện nay. Đây cũng là ý kiến đóng góp cần được nghiên cứu và xem xét kĩ lại vì trong điều kiện như hiện này thì quỹ BHXH đang có số dư rất lớn. Hoạt động đầu tư quỹ chưa thực sự hiệu quả, điều kiện kinh tế không ổn định lạm phát cao dễ dẫn đến những thay đổi trong quy định mức hưởng. Như vậy sẽ gây ra gánh nặng lớn cho quỹ BHXH trong tương lai.
3. Một số kiến nghị.
3.1. Kiến nghị về phía Nhà nước.
Sớm hoàn thiện hành lang pháp lí cho việc thực hiện BHXH, tạo điều kiện cho BHXH được thực hiện rộng rãi, mở rộng đối tượng và tiến tới dần hoàn thiện các chế độ theo quy định của ILO. Cần thay đổi các quy định về các thủ tục hành chính sao cho thuận tiện cho cả người lao động và quá trình xét duyệt của cán bộ BHXH. Đề nghị Chính phủ mở rộng danh mục đầu tư, hạn mức đầu tư, mở rộng hoạt động đầu tư tăng trưởng để tăng thu cho quỹ BHXH Việt Nam. Bên cạnh đó Nhà nước cũng nên có các hình thức khuyến khích và ưu đãi cho hoạt động đầu tư của ngành, các chính sách ưu đãi về thuế.
Cần đưa ra những quy định sử phạt nghiêm khắc đối với những sai phạm của đối tượng trốn tham gia, trốn đóng hay nợ đọng. Có những biện pháp xử phạt nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm làm giả giấy tờ để hưởng các chế độ BHXH nhằm trục lợi cho bản thân.
Đưa ra những quy định phân rõ quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lí Nhà nước, cơ quan quản lí sự nghiệp BHXH để phù hợp và tiện trong quá trình thực hiện các chế độ và các hoạt động khác.
3.2. Kiến nghị về phía BHXH.
Xây dựng bộ máy quản lí với các cán bộ có năng lực và trình độ chuyên môn. Phân cấp chức năng quản lí theo các cấp cụ thể đối với mỗi đơn vị cấp quản lí. Tích cực thức hiện việc đào tạo và nâng cao năng lực cán bộ trong ngành, thường xuyên thực hiện việc đánh giá lại đội ngũ cán bộ, viên chức của nganh.
Cần đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát kịp thời phát hiện những sai trái để có hình thức sử phạt hoặc báo cáo lên các ban ngành có liên quan. Bên cạnh đó cần có những hình thức kỉ luật nghiêm khắc đối với cán bộ của ngành có những sai phạm nghiêm trọng. Nên xây dựng phong trào thi đua, khen thưởng để kịp thời động viên các cán bộ có những thành tích trong công tác.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu cũng như trang bị các máy móc hiện đại giúp cho công việc vừa nhanh chóng vừa tiết kiệm được chi phí. Thực hiện công tác tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Nội dung tuyên truyền phải thể hiện được các chính sách mới, hình thức tuyên truyền phải sâu rộng và dễ hiểu, phù hợp với các loại đối tượng.
Cần phối hợp với các ban ngành chức năng có liên quan đến BHXH để kết hợp thực hiện công tác có hiệu quả. Đặc biệt với một số ban ngành sau: Liên đoàn lao động Việt Nam để đảm bảo quyền lợi tham gia BHXH của người lao động; Ngành thuế để phối hợp kiểm tra quỹ lương của doanh nghiệp cũng như sự tham gia BHXH cho người lao động của các doanh nghiệp đó; Hệ thống ngân hàng để truy thu BHXH từ tài khoản của các đơn vị có tài khoản tại các ngân hàng; Với các trường đại học trong vấn đề đào tạo cán bộ.
Xây dựng những báo cáo tài chính BHXH hàng năm và các dự toán tài chính trong những năm tiếp theo. Đồng thời phải dự tính được các thông số thông qua thống kê về số lượng, cơ cấu, độ tuổi,.... Từ đó phải dự toán được quá trình hưởng, khoản hưởng, mức hưởng, thời gian hưởng để triển khai thực hiện điều chỉnh các mức đóng góp, tỉ lệ hưởng cho từng giai đoạn sao cho phù hợp. Đây cũng là căn cứ để BHXH đề nghị thay đổi chính sách cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong thời gian tới.
KẾT LUẬN:
Cùng với sự đổi mới nền kinh tế, BHXH cũng được thực hiện đổi mới từ năm 1995. Với sự đổi mới trong quản lí BHXH cũng lập ra cơ chế tài chính mới với quỹ BHXH có thu và được quản lí độc lập với NSNN. Quỹ này do chính người lao động và người sử dụng lao động đóng góp tạo nên dùng chủ yếu để chi trả cho các chế độ nhằm bù đắp cho những rủi ro mà người lao động gặp phải. Để tạo lập và quản lí hợp lí quỹ BHXH, đảm bảo khả năng chi trả, BHXH cần có hoạt động quản lí tài chính của mình sao cho hợp lí. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động này tôi đã chọn đề tài:
“ Công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam thực trạng và giải pháp”
Trong chuyên đề thực tập của mình tôi muốn làm rõ vai trò, nội dung chính và những yếu tố tác động đế công tác quản lí tài chính của nước ta. Nghiên cứu thực trạng của công tác này đang được thực hiện tại BHXH Việt Nam và những kinh nghiệm quản tổ chức quản lí tài chính BHXH ở một số nước trên thế giới. Trên cơ sở phân tích các nội dung chính của hoạt động quản lí tài chính BHXH ở Việt Nam: hoạt động quản lí thu, chi, đầu tư tăng trưởng quỹ và cân đối quỹ. Với việc phân tích, tổng hợp đánh giá thông qua các số liệu của BHXH Việt Nam giai đoạn 1995- 2004 để từ đó đưa ra những kết quả đạt được, những tồn tại cần khắc phục và rút ra những bài học kinh nghiệm. Trên cơ sở phân tích đó có đưa ra những giải pháp và một số kiến nghị để khắc phục tình trạng tồn tại của BHXH Việt Nam trong thời gian tới.
Trong quá trình thực hiện đề tài tôi nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, những ý kiến đóng góp từ giáo viên hướng dẫn Tiến sĩ Phạm Thị Định và anh chị thuộc phòng Hành chính- Tổng hợp của BHXH Việt Nam. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ đặc biệt nay.
Cuối cùng mong nhân được sự đóng góp từ các ban độc giả cho đề tài này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hệ thống các văn bản quy định hiện hành về chính sách BHXH- Nhà xuất bản lao động xã hội, Hà nội 2003.
Giáo trình kinh tế bảo hiểm- Nhà xuất bản thống kê năm 2000.
Báo cáo tổng kết 5 năm hoạt động của BHXH Việt Nam (1995- 2000).
Báo cáo tổng kết năm 2001, 2002, 2003, 2004 của BHXH Việt Nam.
Tạp chí BHXH Việt Nam số 02/ 2004, số 2/2003, số 3/2003, số 9/2002, số 12/2002.
Tạp chí BHYT Việt Nam số 4/2002.
Luận văn K41- Khoa Bảo hiểm - Trường đại học Kinh tế quốc dân.
Đổi mới chính sách BHXH đối với người lao động, Ts Mạc Văn Tiến- Trần Quang Hùng- Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội 1994.
Góp phần đổi mới và hoàn thiện chính sách đảm bảo xã hội ở nước ta hiện nay, PGS- Ts Đỗ Minh Cương, PGS Mạc Văn Tiến- Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội 1996.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cng tc qu7843n l ti chnh BHXH Vi7879t Nam Th7921c tramp78.Doc