MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài .1
2. Mục đích nghiên cứu .2
3. Phạm vi nghiên cứu .2
4. Phương pháp nghiên cứu .2
5. Bố cục luận văn .3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN
1.1. Công ty trách nhiệm một thành viên một loại hình doanh nghiệp .4
1.1.1. Lich sử hình thành công ty trách nhiệm hữu hạn 4
1.1.2. Khái niệm về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 6
1.1.3. Những ưu thế của việc tổ chức kinh doanh dưới hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên 6
1.1.4. Đặc điểm pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 7
1.1.5. Vai trò kinh tế của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 8
1.2. Đăng ký thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo luật doanh nghiệp
1.2.1.Điều kiện về chủ thể của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên .9
1.2.2. Điều kiện về ngành nghề kinh doanh của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên12
1.2.2.1. Ngành nghề kinh doanh có điều kiện và đủ điều kiện kinh doanh13
1.2.2.2. Các ngành nghề cấm kinh doanh .14
1.2.3. Thủ tục đăng ký kinh doanh của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên16
1.2.3.1 Lập hồ sơ đăng ký kinh doanh .16
1.2.3.2. Nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh 18
1.2.3.3. Cơ quan đăng ký kinh doanh .20
1.2.4. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh .22
1.2.5. Thủ tục sau đăng ký kinh doanh 25
1.3. Các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên26
1.3.1. Quyền của chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 26
1.3.1.1. Quyền của chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là tổ chức26
1.3.1.2. Quyền của chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân28
1.3.2. Nghĩa vụ của chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 28
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM
HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP THỰC TIỄN VÀ ĐỀ XUẤT
2.1. Cơ cấu tổ chức và quản lý của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên30
2.1.1. Cơ cấu tổ chức và quản lý của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là tổ chức31
2.1.1.2. Hội đồng thành viên 32
2.1.1.3. Chủ tịch công ty 36
2.1.1.4. Giám đốc hoặc tổng giám đốc .37
2.1.1.5. Kiểm soát viên .39
2.1.1.6. Nghĩa vụ của Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên41
2.1.1.7. Thù lao, tiền lương và lợi ích khác của người quản lý công ty và kiểm soát viên 42
2.1.2. Cơ cấu tổ chức và quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân 43
2.1.3. Một số hạn chế đối với quyền của chủ sở hữu công ty trách nhiệm một thành viên46
2.1.4. Hợp đồng giao dịch của công ty với những người có liên quan .48
2.2 . Thực tiễn và hướng đề xuất 51
2.2.1. Cơ sở lý luận và thực tiển cho sự hiện diện của loại hình công ty trách nhiệm một thành viên51
2.2.2. Thực trạng hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên tại việt nam 53
2.2.2.1. Thuận Lợi 53
2.2.2.2. Khó Khăn (Hạn Chế) .55
2.2.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế định công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên57
KẾT LUẬN 60
69 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3198 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
luật của
công ty được quy định tại Điều lệ công ty
Chủ tịch công ty có thể kiêm nhiệm hoặc thuê người làm Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc. Vấn đề Luật quy định ở đây Chủ tịch công ty có thể kiêm nhiệm hoặc thuê
người làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc vậy liệu với quy định như thế này có hợp lý
không. Theo Điều 74 Luật doanh nghiệp 2005 thì Cơ cấu quản lý của Công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân là Chủ tịch công ty, Giám Đốc (hoặc Tổng
Giám Đốc). Chủ tịch công ty có thể kiêm nhiệm hoặc thuê người khác làm Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc. Như vậy yếu tố “cơ cơ cấu tổ chức chặt chẽ” của một pháp nhân
theo Điều 84 bộ Luật Dân Sự 2005 là không đảm bảo trong trường hợp Chủ tịch công
ty đồng thời là Giám đốc hoặc Tổng giám đốc26. Kiến nghị: Cơ cấu ở đây là không
chặt chẽ vì vậy cần phải sửa đổi lại là Chủ tịch công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên không được kiêm nhiệm làm Giám đốc. Tại vì nếu Chủ sở hữu công ty kiêm
nhiệm luôn cả Giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là không đảm
bảo và không phù hợp và thực sự không khách quan đối với công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên là cá nhân. Nếu chủ sở hữu kiêm nhiệm luôn cả Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc thì ta nhìn nhận kỹ lại cả một công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên có cơ cấu tổ chức chặt chẽ mà chỉ do có một người làm chủ và kiêm nhiệm luôn
cả Giám đốc hoặc Tổng giám đốc thật sự không đảm bảo trong việc điều hành công
việc của công ty, không khách quan với các đối tác trong việc tìm kiếm có hội hợp tác
và tin cây lẫn nhau, cơ cấu tổ chức quản lý của công ty không chặt chẽ không đi đúng
tin thần của Luật doanh nghiệp mặc dù Luật doanh nghiệp không cấm nhưng sự kiêm
nhiệm nhiều chức danh như vậy là điều hoàn toàn không hợp lý trong điều kiện kinh tế
ngày nay dẫn đến hệ quả là khó xác định được tài sản riêng của doanh nghiệp với tài
sản của chủ sở hữu công ty vì trong hoàn cảnh này khó có thể xác định được tài sản
công và tài sản tư của chủ sở hữu công ty. Có thể tài sản công của công sẽ chuyển sang
tài sản tư bất cứ lúc nào.Vì vậy điều luật này cần được các nhà lập pháp nên xem xét
và sửa đổi.
Quyền, nghĩa vụ, nhiệm vụ cụ thể của Giám đốc được quy định tại Điều lệ công
ty, hợp đồng lao động mà Giám đốc hoặc Tổng giám đốc ký với Chủ tịch công ty.
Quyền của Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hanh một thành viên là cá
nhân: Được ghi nhận trong Điều 64 của Luật doanh nghiệp 2005 cụ thể:
- Quyết định nội dung và Điều lệ công ty, sửa đổi bổ sung Điều lệ công ty;
26
Những điểm còn hạn chế của Luật doanh nghiệp 2005, Tác giả Cao bá Trung- Nguyễn thị Vân (HKLP
8/2006) Bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 98 ngày 22/01/2007.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý
GVHD: Th.s Dương Kim Thế Nguyên Trang 45 SVTH: Trần Văn Cường
Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân là người
quyết định nội dung và Điều lệ công ty đảm bảo phù hợp với quy định của pháp luật
và ngành nghề kinh doanh. Điều lệ công ty là bản cam kết của chủ sở hữu về thành
lập, tổ chức, tổ chức và hoạt động công ty. Điều lệ phải có nội dung chủ yếu theo quy
định tại Điều 22 Luật doanh nghiệp. Mặc khác trong quá trình hoạt động chủ sở hữu
có thể sửa đổi, bổ sung nội dung Điều lệ cho hoàn cảnh thực tại của doanh nghiệp.
Việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ thường đặt ra khi chủ sở hữu quyết định tăng vốn điều lệ
(Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền giảm vốn
Điều lệ), sửa đổi bổ sung cơ cấu tổ chức và quản lý công ty, điều hành công việc kinh
doanh của công ty (thường có sự tham vấn của Kiểm soát viên) những trường hợp
khác theo quy định của pháp luật. Nhìn chung quyết định nội dung, sửa đổi, bổ sung
Điều lệ công ty là hoạt động mang tính nội bộ của công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên. Những quyết định này có vai trò quan trọng đặt nền tảng cho hoạt động
của doanh nghiệp phù hợp với ngành nghề kinh doanh và hoàn cảnh thực tế trong
khuôn khổ quy định của pháp luật.
+ Quyết định đầu tư, kinh doanh và quản trị nội bộ doanh nghiệp, trừ trường
hợp Điều lệ công ty có quy dịnh khác.
+ Chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn Điều lệ của công ty cho tổ
chức, cá nhân khác.
Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có thể rút vốn bằng
cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn điều lệ cho tổ chức hoặc cá nhân
khác, sau đó công ty phải đăng ký chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày chuyển nhượng.
+ Quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các
nghĩa vụ tài chính khác của công ty.
Sau khi thanh toán theo định kỳ, doanh nghiêp xác định có lợi nhuận từ hoạt
động kinh doanh. Thì chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên quyết
định việc sử dụng lợi nhận. Thông thường việc sử dụng lợi nhuận vào việc tái đầu tư
các dự án, kế hoạch phát triển của doanh nghiệp, tăng vốn điều lệ...Quyết định sử dụng
lợi nhuận nhằm tạo ra sức doanh cho doanh nghiệp trong tương lai. Đây được xem là
yếu tố quyết định quan trọng thể hiện quyền hoạt động kinh doanh của chủ sở hữu.
+ Quyết định tổ chức lại, giải thể và yêu cầu phá sản công ty.
Hoạt động doanh nghiệp đôi lúc phải đương đầu với những khó khăn do nhiều
yếu tố mang lại như sự cạnh tranh quyết liệt của thị trường, chiến lược của doanh
nghiệp chưa phù hợp, thị trường bị ngưng trệ, do các lý do khách quan khác. Lúc này
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý
GVHD: Th.s Dương Kim Thế Nguyên Trang 46 SVTH: Trần Văn Cường
chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phải đương đầu với tình trạng
hoạt động không hiệu quả của doanh nghiệp và dần dần doanh nghiệp kinh doanh thua
lỗ kéo dài. Thậm chí doanh nghiệp không thể thanh toán các khoản nợ khi đến hạn.
Trong trường hợp này, pháp luật cho phép chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên ra các quyết định như: tổ chức lại, giải thể và yêu cầu phá sản công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Mục đích của việc tổ chức lại công ty là nhằm giúp cho doanh nghiệp vượt qua
tình trạng hoạt động không hiệu quả, tìm kiếm một sức sống mới cho phù hợp với
hoàn cảnh cuả doanh nghiệp thực tại
+ Thu hồi toàn bộ giá trị tài sản của công ty sau khi đã hoàn thành giải thể hoặc
phá sản.
Trường hợp doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ trong một thời gian kéo dài và
Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không muốn tiếp tục công
việc kinh doanh. Lúc này chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có
thể đưa ra quyết định giải thể công ty. Quyết định phải được gởi đến các chủ nợ, người
lao động, những người có liên quan và cơ quan đăng ký kinh doanh. Lúc này doanh
nghiệp bị áp dụng các quy định liên quan đến giải thể doanh nghiệp. Quyết định giải
thể có hiệu lực cũng là lúc doanh nghiệp chấm dứt hoạt động.
Nếu doanh nghiệp kinh doanh lỗ đến nổi không thanh toán đủ các khoản nợ khi
đến hạn thì chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có thể nộp đơn
yêu cầu phá sản doanh nghiệp và sau khi doanh nghiệp đã hoàn toàn bị phá sản và đã
thanh toán đủ các khoản nợ cho chủ nợ, thực hiện đầy đủ các khoản thuế đối với Nhà
Nước thì phần dư lại Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có
quyền thu hồi lại sau khi đã hoàn thành tấc cả các nghĩa vụ của công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên.
2.1.3. Một số hạn chế đối với quyền của chủ sở hữu công ty trách nhiệm một
thành viên.
Đặc điểm đặt thù của mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
được thể hiện ở chổ: Thành viên duy nhất của công ty cũng chính là chủ sở hữu công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Vì vậy để tránh được sự lạm dụng quyền hạn
của chủ sở hữu công ty. Luật doanh nghiệp 2005 đã đưa ra những quy định nghiêm
ngặt hơn đối với chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn mộ thành viên.
Từ việc thừa nhận công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân làm chủ
sở hữu. Luật doanh nghiệp 2005 quy định các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu công ty
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý
GVHD: Th.s Dương Kim Thế Nguyên Trang 47 SVTH: Trần Văn Cường
là cá nhân, đặc biệt là nghĩa vụ phải tách biệt các chi tiêu cá nhân và gia đình mình với các
chi tiêu trên cương vị là Chủ tịch công ty và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
Toàn bộ tài sản của công ty chính là sự giới hạn về trách nhiệm đối với các
khoản nợ của công ty, phương án này là nhằm ngăn chặn sự chuyển dịch tài sản công
ty trở thành tài sản của chủ sở hữu công ty. Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên không có quyền rút một phần vốn hoặc toàn bộ vốn ra khỏi công ty.
Trường hợp chủ công ty rút vốn thì chỉ rút bằng cách chuyển nhượng cho một các
nhân hoặc một pháp nhân khác. Còn nếu rút vốn một cách trực tiếp là không được
quyền, việc chuyển nhượng phần vốn góp của chủ sở hữu phải tuân theo các quy định
của pháp luật.
Bên cạnh đó cũng giống như Luật doanh nghiệp 1999, Luật doanh nghiệp 2005
quy định Chủ sở hữu công ty chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một
phần hoặc toàn bộ số vốn Điều lệ cho tổ chức hoặc cá nhân khác. Tuy nhiên theo
Khoản 1 Điều 66 Luật doanh nghiệp năm 2005 trường hợp rút một phần hoặc toàn bộ
số vốn đã góp ra khỏi công ty dưới hình thức khác thì phải liên đới chịu trách nhiệm về
các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của Công ty.
Trường hợp chuyển nhượng một phần vốn Điều lệ cho tổ chức hoặc cá nhân
khác, công ty phải đăng ký chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hai thành viên trở
lên trong thời hạn mười lăm ngày kêt từ ngày chuyển nhượng.
Không được rút lợi nhận khi công ty không thanh toán đủ các khoản nợi và các
nghĩa vụ tài sản khác.
Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền
giảm vốn điều lệ. Mục đích mà luật đưa ra là nhằm hạn chế lợi dụng quyền hạn của
chủ sở hữu vì mục đích để trục lợi, pháp luật đã đưa ra những quy định pháp lý ràng
buộc đối với chủ sở hữu nhằm trách trường hợp tẩu tán tài sản của công ty. Tuy nhiên
có một điều không hợp lý mà khản 1 Điều 76 luật doanh nghiệp đang đọng lại. Tức là
không cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên giảm vốn điều lệ. Thông
thường chủ sở hữu góp vốn vào công ty đã có sự tách biệt giữa hai khối tài sản đó là
tài sản của công ty và tài sản của chủ sở hữu, tài sản này được thể hiện bằng việc góp
vốn vào công ty. Như vây nếu sau này việc làm ăn của công ty có thua lỗ thì trách
nhiệm nghĩa vụ về tài sản của chủ sở hữu công ty chỉ dừng lại ở phần vốn góp vào
công ty. Trong khi đó khoản 1 Điều 63 Luật doanh nghiệp 2005 quy định chủ sở hữ
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên chịu trách nhiệm về các khoản và các
nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Rỏ ràng theo điều luật
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý
GVHD: Th.s Dương Kim Thế Nguyên Trang 48 SVTH: Trần Văn Cường
này có sự tách biệt giữa tài sản công ty và tài sản riêng của chủ sở hữu được thể hiện ở
vốn điều lệ của công ty. Điều luật này đã tạo ra sự nhầm lẫn giữa Điều lệ công ty và
vốn góp vào công ty của chủ sở hữu. Chính vì vậy, luật doanh nghiệp 2005 không cho
phép công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên được giảm vốn điều lệ là điều hoand
toàn không hợp lý.
2.1.4. Hợp đồng giao dịch của công ty với những người có liên quan.
Hợp đồng, giao dịch giữa công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là tổ
chức với các đối tượng sau đây phải được Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty,
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viêm xem xét quyết định theo nguyên tắc
đa số, mỗi người có một số biểu quyết:
- Chủ sở hữu công ty và người có liên quan của chủ sở hữu công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên.
- Người đại diện theo uỷ quyền, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên.
- Người có liên quan của người đại diện theo uỷ quyền, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc và Kiểm soát viên.
- Người quản lý chủ sở hữu công ty, người có thẩm quyền bổ nhiệm những
người quản lý đó.
- Người có liên quan của người quản lý chủ sở hữu, người có thẩm quyền bổ
nhiệm những người quản lý đó.
Người đại diện theo pháp luật của công ty phải gửi cho Hội đồng thành viên
hoặc Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên. Đồng thời
niêm yết tại trụ sở chính và chi nhánh của công ty dự thảo hợp đồng hoặc thông báo
nội dung giao dịch đó.
Hợp đồng giao dịch quy định trên chỉ được chấp thuận khi có đủ các điều kiên sau:
- Các bên ký hợp đồng hoặc thực hiên giao dịch là những chủ thể pháp lý độc
lập có quyền, nghĩa vụ, tài sản và lợi ích riêng biệt.
- Giá sử dụng trong hợp đồng hoặc giao dịch là gia thị trường tại thời điểm hợp
đồng được ký kết hoặc giao dịch đã thực hiện.
- Chủ sở hữu công ty phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật về hợp đồng và
pháp luật có liên quan trong việc mua bán, vay, thuê và các giao dịch khác giữa công
ty và chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Do quy chế trách nhiệm hữu hạn mà loại hình doanh nghiệp này mang lại mà
chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên được đảm bảo sự tách biệt
giữa hai khối tài sản, đó là tài sản của chủ sở hữu và tài sản của công ty. Chính vì vây
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý
GVHD: Th.s Dương Kim Thế Nguyên Trang 49 SVTH: Trần Văn Cường
chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cần phải tuân thủ các quy định
của pháp luật đối với các giao dịch giữa công ty với chỏ sở hữu công ty. Mục đích là
nhằm hạn chế sự lạm quyền của chủ sở hữu thông qua các giao dịch liên quan giữa
công ty và chủ sở hữu công ty.
- Hợp đồng giao dịch bị vô hiệu và xử lý theo quy định của pháp luật nếu được
giao kết không đúng quy định như nêu trên. Người đại diện theo pháp luật của công ty
và các bên của hợp đồng phải bồi thường thiệt hại phát sinh, hoàn trả cho công ty và
các khoản lợi thu được từ việc thực hiện hợp đồng, giao dịch đó.
- Hợp đồng giao dịch giữa công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá
nhân với chủ sở hữu công ty hoặc người có liên quan của chủ sở hữu công ty phải
được ghi chép lại và lưu trữ thành hồ sơ riêng của công ty27.
Khi nghiên cứu điều luật này chúng ta có thể thấy rằng việc quy định của luật là
rất chặt chẽ, việc quy định như trên của luật cũng là nhằm có sự tách biệt tài sản của
công ty và tài sản của cá nhân. Điều luật đưa ra nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của công
ty, ngăn ngừa mục đích vụ lợi của thành viên có liên quan trong công ty.
Nhận xét: So với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là tổ chức thì công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân có những điểm tương tự như sau28:
- Chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Chủ sở hữu công ty không được rút lợi
nhuận khi công ty không thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác khi đến
hạn. Chủ sở hữu công ty chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần
hoặc toàn bộ số vốn điều lệ cho tổ chức hoặc cá nhân khác; trường hợp rút một phần
hoặc toàn bộ số vốn đã góp ra khỏi công ty dưới hình thức khác thì phải liên đới chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty. Trường hợp chuyển
nhượng một phần vốn điều lệ cho tổ chức, cá nhân khác thì công ty phải chuyển đổi
thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên trong thời hạn mười lăm
ngày kể từ ngày chuyển nhượng. Chủ sở hữu công ty có nghĩa vụ góp vốn đầy đủ và
đúng hạn số vốn đã cam kết thì phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài
sản khác của công ty, tuân thủ Điều lệ công ty, phải xác định và tách biệt tài sản của
chủ sở hữu công ty, tuân thủ các quy định của pháp luật về hợp đồng và pháp luật có
liên quan trong việc mua, bán, vay, thuê, cho thuê và các giao dịch khác giữa công ty
27
Điều 75 Luật Doanh Nghiệp 2005.
28
Những nội dung cơ bản Của Luật Doanh Nghiệp 2005. Nhà Xuất Bản Tư Pháp. Vụ Công tác Lập pháp. Trang
43, 44, 45,46, 47.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý
GVHD: Th.s Dương Kim Thế Nguyên Trang 50 SVTH: Trần Văn Cường
và chủ sở hữu công ty và phải thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật
doanh nghiệp 2005 và Điều lệ công ty.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày
được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; không được quyền phát hành cổ phần;
không được giảm vốn điều lệ. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên chỉ có thể
tăng vốn điều lệ bằng việc chủ sở hữu công ty đầu tư thêm hoặc huy động thêm vốn
góp của người khác. Chủ sở hữu công ty quyết định hình thức tăng và mức tăng vốn
điều lệ. Trường hợp muốn tăng vốn điều lệ bằng việc huy động vốn góp của người
khác thì công ty phải chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày cam kết góp vốn vào công ty.
Bên cạnh những điểm chung như đã trình bày, công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên là cá nhân có những điểm riêng về quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu công ty, cơ
cấu tổ chức và quản lý công ty, việc ghi chép và lưu giữ hợp đồng, giao dịch. Cụ thể:
- Về quyền của Chủ sở hữu công ty:
Chủ sở hữu công ty có quyền quyết định nội dung và Điều lệ công ty, sửa đổi
bổ sung, Điều lệ công ty, quyết định đầu tư, kinh doanh và quản lý nội bộ doanh
nghiệp, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác; chuyển nhượng một phần
hoặc toàn bộ vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác, quyết định việc sử
dụng lợi nhuận sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác của
công ty, quyết định tổ chức lại, giải thể và yêu cầu phá sản công ty, thu hồi toàn bộ giá
trị tài sản của công ty sau khi công ty hoàn thành giải thể hoặc phá sản và các quyền
khác quy định trong luật doanh nghiệp 2005 và Điều lệ công ty quy định.
- Về nghĩa vụ của Chủ sở hữu công ty:
Chủ sở hữu công ty phải tách biệt các chi tiêu cá nhân và gia đình với các chi
tiêu trên cương vị là Chủ tịch công ty và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
- Về cơ cấu tổ chức công ty:
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân có Chủ tịch công ty,
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Chủ sở hữu công ty đồng thời là Chủ tịch công ty. Chủ
tịch công ty hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của
công ty theo quy định tại Điều lệ công ty.
Chủ tịch công ty có thể kiêm nhiệm hoặc thuê người khác làm Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc. Quyền, nghĩa vụ, nhiệm vụ của Giám đốc được quy định tại Điều lệ
công ty, hợp đồng lao động mà Giám đốc hoặc Tổng giám đốc ký với Chủ tịch công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý
GVHD: Th.s Dương Kim Thế Nguyên Trang 51 SVTH: Trần Văn Cường
- Về việc ghi chép và lưu giữ hợp đồng, giao dịch:
Hợp đồng, giao dịch giữa công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá
nhân với chủ sở hữu công ty hoặc người có liên quan của chủ sở hữu công ty phải
được ghi chép lại và lưu giữ thành hồ sơ riêng của công ty.
2.2. THỰC TIỂN VÀ HƯỚNG ĐỀ XUẤT
2.2.1. Cơ sở lý luận và thực tiển cho sự hiện diện của loại hình công ty trách
nhiệm một thành viên
Khi bàn về loại hình công ty trách nhiệm một thành viên có nhiều ý kiến cho
rằng việc cho phép một cá nhân có quyền thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên là sự bất hợp lý. Đó là một cá nhân có quyền sở hữu riêng một công ty
nhưng lại chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về các hoạt động của mình, trong khi đó có
một số cá nhân khác lại phải chịu trách nhiệm vô hạn cho các hoạt động của cùng một
hình thức sở hữu29. Một số ý kiến khác lại cho rằng: Mặc dù về mặt hình thức, Doanh
nghiệp tư nhân và Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (Trong trường hợp
một cá nhân có quyền thành lập) đều do một người làm chủ sở hữu công ty nhưng đây
lại là hai loại hình kinh tế khác nhau với những ưu điểm và hạn chế riêng biệt, do vậy
chúng ta vẫn có thể cùng thừa nhận trong cùng một nền kinh tế. Bên cạnh đó hai loại
hình doanh nghiệp này vẫn còn tồn tại những điểm khác biệt về vật chất: Doanh
nghiệp tư nhân là một đơn vị kinh doanh do một cá nhân bỏ vốn ra thành lập và làm
chủ, cá nhân này vừa là Chủ sở hữu vừa là người sử sụng tài sản đồng thời cũng là
người quản lý hoạt động của doanh nghiệp, còn đối công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên là một doanh nghiệp do một tổ chức hay một cá nhân làm Chủ sở hữu theo
Luật doanh nghiệp 2005 (Còn đối với Luật Doanh nghiệp 1999 thì Chủ sở hữu chỉ là
tổ chức không quy định cá nhân là chủ sở hữu công ty. Đây là điểm khác biệt giữa
Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp 2005). Chủ sở hữu chịu trách nhiệm
về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn
điều lệ của mình30.
- Từ việc thừa nhận một cá nhân có quyền thành lập công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân có thể chuyển thành
29
Xem viên nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương đánh giá tổng kết luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân
Hà Nội 2000
30
xem nguyễn văn thông , tìm hiều Luật Doanh Nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành NXB thông kê 2001
và Luật Doanh Nghiệp 2005
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý
GVHD: Th.s Dương Kim Thế Nguyên Trang 52 SVTH: Trần Văn Cường
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc các nhà đầu tư có thể lựa chọn hình
thức công ty trách nhiêm hữu hạn một thành viên để kinh doanh ngay từ khi thành lập
doanh nghiệp. Có thể nói đây là một quy định rất phù hợp với thực tế, thể chế hoá kịp
thời các mối quan hệ hoá phát sinh trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh của một nền
kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của công ty phát huy được thế mạnh
của loại hình doanh nghiệp này đồng thời vẫn đảm bảo được sự quản lý của cơ quan
Nhà Nước, quy định này có thể xem là một thể chế hoá “Quyền tự do kinh doanh”
đuợc ghi nhận trong Hiến pháp 1992. Vì quyền tự do lựa chọn hình thức kinh doanh là
một yếu tố quan trọng của quyền tự do kinh doanh. Ngoài ra quy định này còn có ý
nghĩa góp phần làm đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh làm phong phú thêm các
nhân tố với tư cách là một chủ thể độc lập trong nền kinh tế.
- Trên thực tế trong tổng số các doanh nghiệp vừa được thành lập với mô hình
công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên không ít doanh nghiệp về
thực chất là sự biến hoá của hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Điều này có ý nghĩa là ngay khi thành lập, Công ty chỉ có một thành viên đích thực
còn các thành viên và số vốn góp của họ hoàn toàn chỉ mang tính hình thức. Để giải
thích nguyên nhân của hành vi này có nhiều ý kiến khác nhau tuy nhiên quan điểm của
họ đều cho rằng hiện tượng “lách luật” này xuất phát từ tâm lý chung của các nhà đầu
tư. Đó là tâm lý tự mình điều hành hoạt động kinh doanh của công ty không muốn
phân chia lợi nhuận nhưng lại muốn chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động của công ty
trong phạm vi phần vốn góp vào công ty, tức chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn bằng số
vốn họ đem vào hoạt động kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường với nhiều cơ hội
kinh doanh phát triển nhưng có cũng không ít rủi ro, phức tạp, việc quy định hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên với những lợi thế của nó đã đáp ứng
nguyện vọng của nhiều nhà đầu tư. Điều này sẽ tạo nên động lực giúp cho những
người có tiềm năng về vốn, có khả năng về kinh doanh mạnh dạn bỏ vốn, bỏ công sức
đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau từ đó góp phần tạo nên một môi trường kinh
doanh sôi động, giải phóng động lực sản xuất, tạo đà phát triển cho một nền kinh tế.
Chính yếu tố “chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn” đối với các hoạt động sản xuất kinh
doanh đã làm cho nhà đầu tư cảm thấy an tâm trên thương trường khi mà họ biết yếu
tố rủi ro sẽ được phân tán, điều kiện này giúp cho các nhà đầu tư vẫn có khả năng giữ
lại một số vốn để làm lại từ đầu khi hoạt động sản xuất kinh doanh của ho gặp thất bại.
- Ngược lại nếu không quy định hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên do một cá nhân thành lập vì lo ngại hiện tượng lợi dụng khe hở của pháp
luật, tiến hành thành lập công ty, thực hiện các giao dịch như: ký hợp đồng, vay vốn,
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý
GVHD: Th.s Dương Kim Thế Nguyên Trang 53 SVTH: Trần Văn Cường
cuối cùng là hậu quả thua lỗ mà chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về các hoạt động này thì
việc đó sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Trên thực tế như đã phân tích vẫn còn
tồn tại rất nhiều chủ thể về hình thức là công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành
viên trở lên nhưng bản chất của nó lại do một cá nhân làm Chủ sở hữu hiện tượng này
hiện nay trở nên khá phổ biến và nó nằm ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan quản lý
nhà nước về kinh tế. Hơn nữa các cơ quan quản lý nhà nước sẽ gặp rất nhiều khó khăn
khi giải quyết các hậu quả phát sinh từ hoạt động của loại hình doanh nghiệp này, bởi
vì bản thân nó không có sự thống nhất về hình thức, nội dung pháp lý. Do vậy việc cho
phép một cá nhân được thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là giải
pháp tốt nhất cho vấn đề này. Thực tế phát triển nền kinh tế thị trường hàng trăm năm
qua đã chứng minh rằng: Một hoạt động kinh doanh đã tồn tại trên thực tế đáp ứng nhu
cầu của xã hội được xã hội thừa nhận thì phải được pháp luật ghi nhận và điều chỉnh,
tức nó phải được Luật định31, ngược lại nếu các cơ quan quản lý nhà nước áp dụng các
biện pháp ngăn cấm hoặc hạn chế thì các hoạt động này dề có khuynh hướng đi vào
hoạt động ngầm và nằm ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan quản lý Nhà Nước. Như
vậy chúng ta có thể thấy rằng những yếu tố tích cực từ việc quy định hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn công ty trách nhiệm một thành viên đã vượt xa những yếu tố tích
cực có thể phát sinh từ hoạt động của loại hình doanh nghiệp này.
2.2.2. Thực trạng hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên tại
Việt Nam
2.2.2.1. Thuận Lợi
- Luật doanh nghiệp 2005 là một cuộc cải cách cơ bản trong hệ thống về doanh
nghiệp ở nước ta, dựa trên sự thành công đã được thừa nhận rộng rải trong Luật doanh
nghiệp 1999. Với số lượng công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không ngừng
tăng lên theo mỗi năm.
- Từ những môi trường pháp lý như hiện nay công ty trách nhiệm một thành
viên đã có những tiến bộ về mọi mặt trong quá trình kinh doanh, cùng với những thuận
lợi trên thì ngày nay số lượng công ty trách nhiệm hữu hạn nói chung và công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên nói riêng được thành lập rất nhiều trong khắp địa bàn
trên cả nước. Cùng với số lượng công ty trách nhiệm hữu hạn không ngừng tăng lên
theo mỗi năm và đó là yếu tố tích cực trong việc Nước ta đã và đang hội nhập vào nền
kinh tế thị trường của thế giới.
31
Trường Đại học Hà Nội giáo trình luật kinh tế nhà xuất bản Công An nhân Dân.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý
GVHD: Th.s Dương Kim Thế Nguyên Trang 54 SVTH: Trần Văn Cường
Theo số liệu của cục Phát triển doanh nghệp vừa và nhỏ, Bộ kế hoạch đầu tư về
đăng ký kinh doanh của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên trong 4 năm từ
2002 đến 2005. Cụ thể xem bảng số liệu chi tiết dưới đây:
BẢNG SỐ LIỆU THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG CÔNG TY TNHH MỘT
THÀNH VIÊN TÍNH TỪ 2002-2005
(Số liệu thống kê được thực hiện trên phạm vi cả nước).
Đơn vị: (Triệu đồng)
Năm
Số lượng
Công ty TNHH một
thành viên đăng ký
kinh doanh
Vốn
(Triệu đồng)
Năm 2002 59 276557
Năm 2003 98 703805
Năm 2004 125 1939709
Năm 2005 292 6814396
Nguồn: Cục phát triển doanh nghiệp Vừa và Nhỏ, Bộ kế hoạch Đầu tư
Có thể nói rằng từ năm 2002 đến 2005 số lượng công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên trong phạm vi cả nước không ngừng tăng lên. Điều đó có được là nhờ
những chính sách của Đảng và Nhà Nước ta vạch ra trong quá trình đổi mới, xây dựng
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường và đây là một mốc son
trong quá trình đổi mới, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và quy luật phát triẻn
thời đại, đã có những tác động to lớn đối với nền kinh tế. Một điểm sáng đáng nghi
nhận nhất trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam hơn 30 năm qua là sự ra đời
của Luật doanh nghiệp 2005. Người dân đã được quyền tự do kinh doanh những ngành
nghề mà pháp luật không cấm.
- Thật vậy về mặt nội dung Luật doanh nghiệp 2005 đã được đổi mới và kế thừa
những thành tựu phát triển về nội dung, tinh thần của Luật doanh nghiệp 1999. Từ
những môi trường pháp lý thuận lợi như hiện nay công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên đã có những tiến bộ về mọi mặt trong quá trình kinh doanh, chẳng hạn như
kỹ năng quản trị được nâng cao nhờ chuyên môn hóa. Chủ sở hữu có vốn, có trình độ
như nhau, nên họ có thể bổ sung cho nhau về sự giao lưu về kỹ năng giao tiếp, chuyên
môn. Điều rất dễ thấy ở loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thường
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý
GVHD: Th.s Dương Kim Thế Nguyên Trang 55 SVTH: Trần Văn Cường
được các kỹ sư chuyên môn kế toán hay các chuyên gia hợp tác với nhau thành lập
quản lý và điều hành công ty có khả năng quản lý toàn diện. Đối với ký năng tăng
trưởng và phát triển, sự đa dạng trong cung cách quản trị và sự phong phú của nguồn
vốn nâng cao triển vọng đối với sự phát triển và mỡ rộng thị trường mới của công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Công ty trách hiệm một thành viên là một nơi
thuận lợi để giữ và tuyển mộ những cá nhân có vai trò chủ chốt bằng việc thu thập
nững người có năng lực và trung thành như là thành viên của Công ty.
- Công ty trách nhiệm một thành viên có ưu điểm nổi bậc đó là chế độ chịu
trách nhiệm hữu hạn, đây là một điểm đặc biệt cần quan tâm trong việc lựa chọn hình
thức kinh doanh của các nhà đầu tư. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên ra
đời đã và đang đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của các nhà đầu tư có số vốn ít,
với việc chịu trách nhiệm hữu hạn đã giúp họ an tâm hơn khi đầu vào những ngành
nghề hoặc kinh doanh trong những lĩnh vực có nhiều rủi ro, bởi vì nếu có bất trắc xảy
ra đối với công ty của họ thì họ chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn mà
họ đã góp vào Công ty.
- Công ty trách nhiệm một thành viên có cơ cấu tổ chức và điều hành đơn giản
và linh hoạt hơn đối với các mô hình công ty khác.
2.2.2.2. Khó Khăn (Hạn Chế)
- Công ty trách nhiệm một thành viên không được quyền phát hành cổ phiếu ra
công chúng để công khai huy động vốn nhằm mục đích mỡ rộng việc làm ăn kinh
doanh. Nếu muốn tăng vốn đầu tư thì Chủ sở hữu công ty phải đầu tư thêm vốn vào và
đây cũng là một điểm hết sức khó khăn cho công ty vì việc huy động vốn để mở rộng
kinh doanh là vấn đề rất cần thiết của các nhà đầu tư kinh doanh.
- Công ty trách nhiêm hữu hạn một thành viên chỉ chịu trách nhiệm trong phần
vốn góp của mình và có thể nói đây là một điểm nổi bậc nhưng đồng thời cũng là một
điểm còn hạn chế, vì trong kinh doanh luôn luôn tồn tại những nguy cơ rủi ro trong khi
khả năng thanh toán là hữu hạn nên đã dẫn tới việc công ty thiếu nợ giải thể, phá sản
đã không đảm bảo thanh toán các khoản nợ và nó sẽ làm ảnh hưởng đến các quyền và
lợi ích chính đáng của những người có liên quan trong việc thu hồi nợ tức trong trường
hợp này nếu như công ty không đủ khả năng thanh toán thì chủ nợ sẽ bị thiệt thòi..
- Công ty trách nhiêm hữu hạn một thành viên đã mang lại những ưu điểm nhất
định trong quá trình nghiên cứu ở phần trên tuy nhiên đôi khi các doanh nghiệp họ lợi
dụng những ưu điểm đó để đăng ký thành lập công ty mà thực chất họ không cho đi vào
hoạt động, nhưng hàng hóa của họ lại có mặt trên khắp thị trường hoặc có những công
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý
GVHD: Th.s Dương Kim Thế Nguyên Trang 56 SVTH: Trần Văn Cường
ty đăng ký kinh doanh ngành này nhưng thực tế đi vào hoạt động họ lại kinh doanh
ngành khác, có những trường hợp việc cạnh tranh của các doanh nghiệp không lành
mạnh đã dẫn đến hệ quả là làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của nền kinh tế nước
ta. Ngày nay nền kinh tế Nước ta phát triển theo xu thế thị trường là một nền kinh tế
nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa vì vậy các loại hình kinh doanh rất phức
tạp trong điều kiện nền kinh tế đổi mới. Vì thế chúng ta cần quan tâm chặt chẽ đến việc
thành lập các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư kinh doanh một cách lành
mạnh có vậy mới tránh được sự lừa dối lẫn nhau giữa các nhà doanh nghiệp.
- Về ngành nghề đăng ký kinh doanh vấn đề khó khăn vướng mắc xuất hiện ở
một số điểm sau:
+ Yêu cầu người đăng ký kinh doanh phải ghi ngành nghề muốn kinh doanh
theo mã số của phân loại ngành, nghề kinh tế quốc dân có lẽ chưa phù hợp với quy
định của Luật doanh nghiệp theo nguyên tắc người dân và danh nhhiệp được quyền
kinh doanh tấc cả các ngành nghề mà Pháp Luật không cấm.
+ Việc áp dụng mã số ngành, nghề theo quy định trên thực tế cho thấy đều đó
rất khó khăn vì có sự không tương đồng giữa ngành nghề kinh doanh với ngành nghề
kinh tế quốc dân theo quy định của pháp luật. Điều này đang gây khó khăn, tốn kém
cho cả nhà đầu tư lẫn doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà Nước có thẩm quyền.
+ Đối với ngành nghề đăng ký không có trong danh mục ngành nghề kinh tế
quốc dân là tương đối phổ biến, điều đáng nói là một số ngành nghề đăng ký được cán
bộ đăng ký kinh doanh coi là nhạy cảm và phải chờ để phòng đăng ký kinh doanh xin
ý kiến bằng văn bản của các cơ quan có liên quan. Hệ quả là người đăng ký kinh
doanh chưa thể đăng ký thành lập doanh nghiệp đựợc, nếu chưa có ý kiến đồng ý của
các bộ có liên quan.
- Về vấn đề chứng chỉ hành nghề đối với Giám đốc: Cả 3 Điều khoản 4 Điều
16, Khoản 5 Điều 18 và Khoản 5 Điều 19 đều quy định với những lĩnh vực, ngành
nghề kinh doanh đòi hỏi phải có chứng chỉ hành nghề, Giám đốc phải có chứng chỉ đó.
Tuy nhiên, đó là điều vô lý và đã được các cơ quan chức năng giải thích rằng, “Do sơ
xuất trong công việc soạn thảo văn bản đã có sự nhầm lẫn chuyển chữ “hoặc” thành
chữ “và””. Khoản 3 Điều 6 Dự thảo Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật doanh nghiệp đã đưa ra phương án bằng các quy định chung chung
“Đối với doanh nghiệp kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật Giám đốc hoặc
người đứng đầu doanh nghiệp phải có chứng chỉ hành nghề thì Giám đốc của doanh
nghiệp đó phải có chứng chỉ hành nghề” Dự thảo nghị định cũng không đưa ra danh
mục những ngành nghề nào mà pháp luật đòi hỏi “Giám đốc phải có chứng chỉ hành
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý
GVHD: Th.s Dương Kim Thế Nguyên Trang 57 SVTH: Trần Văn Cường
nghề”. Do đó quy định như trên lại là bật “đèn xanh” cho hàng loạt các quy định vô lý
sẽ ra đời32.
2.2.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế định công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên
Quyền tự do kinh doanh là một trong những quyền cơ bản về kinh tế của con
người. Một xã hội được cho là tiến bộ nếu nó thừa nhận quyền tấc cả mọi người có cơ
hội kiếm sống bằng công việc do họ tự lựa chọn, Nhà Nước có nghĩa vụ thi hành các
biện pháp để bảo vệ quyền này, trong đó bao gồm việc thực hiện các chính sách các biện
pháp kinh tế nhằm phát triển vững chắc nền kinh tế xã hội bảo đảm các quyền tự do cơ
bản về kinh tế của từng cá nhân công dân33. Xuất phát từ những cơ sở đó việc hoàn thiện
những quy định Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một vấn đề
có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hoàn thiện pháp luật về công ty ở Nước ta. Đó
chính là sự triệt để tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân, tiếp tục
tạo điều kiện thuận lợi và hổ trợ cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển.
Việc pháp luật bổ sung thêm loại hình công ty trách nhiệm một thành viên vào hệ
thống các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam là một bước phát triển mới trong quá trình
từng bước hoàn thiện Pháp luật về công ty. Để loại hình doanh nghiệp này ngày càng
phát triển, phát huy được những ưu điểm vốn có của nó trong việc thu hút ngày càng
nhiều các nhà đầu tư vào hoạt động kinh doanh, chế định này cần phải được hoàn thiện:
Thứ nhất: Về vấn đề Giấy phép kinh doanh, thời hạn giải quyết và cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh nên rút ngắn lại vì các doanh nghiệp luôn mong muốn
làm nhanh các thủ tục để nhanh chóng đi vào hoạt động, cùng với sự ra đời của Luật
doanh nghiệp 2005, Nhà Nước đã bải bỏ rất nhiều giấy phép kinh doanh. Tuy nhiên
nhìn tổng thể, vẫn còn một số lượng khá lớn doanh nghiệp (Kinh doanh trong những
lĩnh vực ngành nghề có điều kiện), sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh vẫn chưa được tiến hành hoạt động kinh doanh cho đến khi có giấy phép kinh
doanh (xem khoản 2 Điều 7 Luật doanh nghiệp 2005) vấn đề cần phải được hoàn thiện
hơn để thuận tiện cho việc đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp được nhanh chóng,
tạo điều kiện thông thoáng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước mở rộng cơ hội đầu
tư và làm ăn ở Nước ta. Thực tế chỉ ra rằng, trong khi việc cấp giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh, giấy phép kinh doanh được thực hiện bởi nhiều Cơ quan Nhà Nước có
32
Wedsite:
Theo Luật Gia Vũ Xuân Tiến- Giám đốc công ty tư vấn VFAMVN.
33
Vũ Quốc Tuấn, Doanh nghiệp và doanh nhân trong nền kinh tế thị trường, nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia
năm 2001.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý
GVHD: Th.s Dương Kim Thế Nguyên Trang 58 SVTH: Trần Văn Cường
thẩm quyền theo những thủ tục pháp lý khác nhau gây nên sự phiền hà cho doanh
nghiệp, làm cho doanh nghiệp mất nhiều thời gian. Quy định này dẫn đến một thực tế
là các doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh, nhưng sau đó không tiến hành hoạt động
kinh doanh được vì không có giấy phép. Theo cách hiểu hiện nay, giấy phép kinh
doanh được hiểu là chứng thư pháp lý do Nhà Nước cấp cho các chủ thể thành lập
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên áp dụng cho cả cá nhân lẫn tổ chức khi
hội đủ các điều kiện do Nhà Nước đặt ra. Khi có giấy phép kinh doanh, các chủ thể
mới được phép tiến hành các hoạt động theo nội dung ghi trong giấy phép. Giấy phép
kinh doanh và một số dạng của nó như: Giấy chứng chỉ hành nghề, giấy chứng nhận
đủ điều kiện kinh doanh, giấy phép hoạt động, giấy phép hành nghề là một trong
những công cụ mà Nhà Nước nào cũng cần phải sử dụng để quản lý nền kinh tế. Có
thể nói giấy phép kinh doanh là đỉnh cao của sự can thiệp của Nhà Nước vào hoạt
động sản xuất kinh doanh là biểu hiện của sự hạn chế kinh doanh. Vì vậy cần phải cải
cách thủ tục đăng ký kinh doanh, Nhà Nước cần tạo điều kiện tốt hơn để cho nhà đầu
tư vững tâm tìm cơ hội đầu tư kinh doanh và đây là một yêu cầu rất cấp thiết trong
điều kiện kinh tế - xã hội của Nước ta hiện nay, cải cách hàng rào pháp lý là một trong
những điều kiện cần trong thời kỳ hội nhập sâu vào nền kinh tế của thế giới của Nước
ta hiện nay.
Thứ hai: Trong nền kinh tế thị trường với nhiều cơ hội kinh doanh nhưng cũng
gặp không ít khó khăn và rủi ro.Việc quy định loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên với những ưu điểm của nó và đã đang đáp ứng được nhu cầu thiết thực,
đáp ứng dược nguyện vọng của giới kinh doanh. Tuy nhiên muốn loại hình Công ty
này hoạt động có hiệu quả hơn thì Chính phủ và các bộ, ngành có liên quan cần ban
hành những Nghị định và Thông tư hướng dẫn chi tiết hơn về quyền sở hữu tài sản của
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cũng như quyền và nghĩa vụ của Chủ sở
hữu công ty phù hợp với mục đích và yêu cầu đặt ra. Ban hành, phổ biến và hướng dẫn
thực hiện các văn bản Pháp luật về doanh nghiệp trong việc thực hiện về trình tự thủ
tục, ngành nghề kinh doanh. Đảm bảo thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế hoạch
định hướng phát triển kinh tế -xã hội.
Ngoài việc đổi mới cơ chế quản lý, đơn giản hóa thủ tục hành chính pháp luật,
cần tạo ra môi trường kinh doanh thật sự bình đẳng, mỡ rộng hơn nữa các loại hình
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho các nhà đầu tư phát huy được khả năng trình độ sự năng động sáng tạo của các nhà
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý
GVHD: Th.s Dương Kim Thế Nguyên Trang 59 SVTH: Trần Văn Cường
doanh nghiệp. Có như vậy nền kinh tế của Nước ta mới ổn định, phát triển nhanh,
mạnh và vững chắc.
Bên cạnh việc tạo lập môi trường kinh doanh an toàn, Nhà Nước phải tăng
cường giáo dục, phổ biến và giải thích pháp luật trong nhân dân nói chung và cả các
nhà kinh doanh nói riêng đã góp phần cho loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên ra đời và kinh doanh thuận lợi theo quy định của pháp luật.
Thứ ba: Phải xây dựng hệ thống pháp luật nước ta ngày càng hoàn thiện hơn,
thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật nhằm trách những quy định chưa đầy đủ của
luật pháp đã tạo cơ hội cho một số doanh nghiệp đó hoạt động phi pháp, thi lợi bất
chính trong kinh doanh ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh và lợi ích của Nhà
Nước. Bên cạnh đó càng làm tăng thêm lòng tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước
yên tâm bỏ vốn để đầu tư làm ăn. Doanh nghiệp đăng ký kinh doanh sau đó đi vào
hoạt động thì Nhà Nước các cơ quan chức năng cần thường xuyên giám sát theo dõi
hoạt động kinh doanh của họ nhằm tránh xuất hiện những doanh nghiệp “ma” khi đăng
ký kinh doanh và sau đó biến mất trên thị trường nhằm mục đích trốn thuế, trong khi
đó hàng hóa của họ lại tràn ngập trên thị trường làm ảnh hưởng đến môi trường kinh
doanh gây nên thất thu cho Nhà Nước.
Thứ tư: Nhà Nước cần đưa ra nhiều chính sách ưu đãi hơn đối với các doanh
nghiệp, một khi có các chính sách ưu đãi của Nhà Nước được dưa ra thì các nhà đầu tư
sẽ mạnh dạng đầu tư vào loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên nhiều
hơn. Nhà Nước cần tăng cường các biện pháp cưỡng chế đối với công ty mang tính chất
kinh doanh không hợp pháp, lừa dối khách hàng, cạnh tranh không lành mạnh làm ảnh
hưởng đến thị trường, nói xấu mặt hàng của người khác lợi dụng khách hàng để trục lợi.
Bên cạnh đó Nhà Nước cần phải có chính sách thuế ưu đãi hơn, vì khi có chính
sách đó các nhà đầu tư sẽ mạnh dạng đầu tư vào loại hình Công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên ngày càng nhiều hơn.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý
GVHD: Th.s Dương Kim Thế Nguyên Trang 60 SVTH: Trần Văn Cường
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu về cơ cấu và tổ chức của công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên đã giúp cho chúng ta thấy được những ưu điểm và nhược điểm của
công ty trách nhiệm một thành viên. Hiện nay đối với nền kinh tế của nước ta rất phù
hợp với loại hình kinh tế này, bởi vì theo bản chất pháp lý của nó thì loại hình công ty
trách nhiệm một thành viên rất thích hợp với loại hình doanh nghiệp quy mô vừa và
nhỏ nên được các nhà kinh doanh quan tâm chọn để kinh doanh phù hợp với chế độ tài
chính và mục đích kinh doanh của họ.
Chúng ta thấy rằng việc thừa nhận mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên ở nước ta thật sự là cần thiết góp phần làm phong phú thêm môi trường
kinh doanh tại Việt Nam. Đồng thời thực hiện tốt chủ trương đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà Nước về mỡ rộng quyền tự do kinh doanh của người
dân. Không những thế nó còn đáp ứng được nhu cầu của xã hội bởi vì mô hình kinh
doanh của công ty trách nhiệm một thành viên thực sự cần thiết cho sự phát triển kinh
tế của Đất Nước trong giai đoạn hiện nay và ngay cả trong tương lai. Bên cạnh đó
chúng ta cần mạnh dạng thừa nhận cơ cấu tổ chức và quản lý của công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên ở nước ta chưa thật hoàn chỉnh, mặc dù các chế định về đăng
ký kinh doanh và cơ cấu tổ chức quản lý của công ty trách nhiệm một thành viên được
hướng dẫn cụ thể, song vẫn còn nhều hạn chế về loại hình công ty này đang để lại và
sắp tới cần nên được bổ sung và sửa chữa, và những hạn chế đó đã dấn đến hệ quả là
chưa đáp ứng kịp thời về nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của nước ta hiện nay. Để bắt
kịp sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng thì chúng ta
cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống Pháp luật về mặt Nhà Nước đặt biệt cần hoàn thiện
hơn nữa về loại hình cơ cấu tổ chức và quản lý của công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên nói riêng và tấc cả các loại hình doanh nghiệp nói chung. Một khi hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh thì nó sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế của nước ta phát triển
nhanh, mạnh và bền vững nhất là điều kiện nước ta đã là thành viên của tổ chức
thương mại thế giới WTO.
Trong thời gian gần đây loại hình Công ty trách nhiệm một thành viên đã và
đang chiếm một vị thế khá quan trọng trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Riêng ở Việt Nam việc quy định các loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên không những một tổ chức làm chủ sở hữu (theo Luật doanh nghiệp 1999) mà còn
do một cá nhân làm chủ sở hữu (theo Luật doanh nghiệp 2005) và đây chính là một
trong những điểm mới của Luật doanh nghiệp nước ta hiện hành và với việc sửa đổi
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý
GVHD: Th.s Dương Kim Thế Nguyên Trang 61 SVTH: Trần Văn Cường
này đã làm cho môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng đa dạng và phong phú
thêm, thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước vào Việt Nam đầu tư kinh doanh.
Chúng có khả năng thu hút vốn dễ dàng và tiềm năng rất lớn. Vì vậy tạo điều kiện
thuận lợi cho cá nhân kinh doanh mạnh dạn đầu tư vào những ngành nghề và lĩnh vực
có khả năng rủi ro cao và thu hồi vốn chậm. Ngoài ra loại hình Công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên còn tạo điều kiện cho những đối tượng có vốn vừa và nhỏ và
những người có lượng vốn lớn nhưng không trực tiếp kinh doanh cũng có thể sử dụng
hiệu quả bằng việc vốn góp của mình vào công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Chính vì vậy có thể nói rằng loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên đã góp phần mạnh mẽ cho sự phát triển nền kinh tế của Đất Nước, góp phần tạo
điều kiện công ăn việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết công ăn việc làm
cho người dân, nhằm nâng cao đời sống về vật chất và tinh thần cho tầng lớp nhân
dân, là động lực mạnh mẽ góp phần đưa Đất Nước phát triển toàn diện về tấc cả cá
lĩnh vực như kinh tế, chính tri, văn hóa, giáo dục.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý
GVHD: Th.s Dương Kim Thế Nguyên Trang 62 SVTH: Trần Văn Cường
TÀI LIỆU THAM KHẢO
.......................
1. Luật doanh nghiệp 2005.(29/11/2005). Và các văn bản hướng dẫn thi
hành.Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia.
2. Luật doanh nghiệp 1999. (12/06/1999). Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia Hà
Nội.
3. Bộ luật dân sự 2005. Nhà Xuất Bản Chính trị Quốc gia Hà Nội.
4. Luật hiến Pháp 1992
5. Giáo trình Luật Thương mại cơ bản –Tủ sách trường Đại học Cần thơ 2007.
Th.s Dương Kim Thế Nguyên.
6. Những nội dung cơ bản của Luật doanh nghiệp 2005. Nhà Xuất Bản Tư Pháp
Năm 2006.
7. Nghị Định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29-08 năm 2006 của chính phủ về đăng
ký kinh doanh hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp 2005. Nhà Xuất Bản Chính Trị
Quốc Gia.
8. Nghị Định 102/2007/NĐ-CP (14/6/2007) Nghi định của Chính phủ Quy định
thời hạn không được kinh doanh trong lĩnh vực có trách nhiệm quản lý đối với những
người là cán bộ, công chức, viên chức sau khi thôi giữ chức vụ.
9. Nghi định 139/2007/NĐ-CP ngày 05/09/2007 hướng dẫn thi hành chi tiết
một số điều của Luật doanh nghiệp 2005.
10. Thông Tư số 03/2006/TT-BKH ngày 19/10/2006 của bộ Kế hoạch và Đầu
tư hướng dẫn một số nội dung về hồ sơ, thủ tục đăng ký kinh doanh theo quy định tại
nghị định 88/2006/NDD-CP ngày 29/08/2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.
11. Quyết Định số 83/2000/QĐ-BTC ngày 29/5/2000 thì lệ phí một làn cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
12. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương đánh giá Tổng kết luật Công
ty và luật doanh nghiệp tư nhân Hà Nội 2000.
13. Tìm hiểu Luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành Nhà Xuất
Bản Thống kê 2001 và Luật Doanh nghiệp 2005.
14. Bình Luận luật doanh nghiệp Luật Gia Vũ xuân tiến Giám đốc Công ty tư
vấn VFAMVN.
15. Bình luận Luật doanh nghiệp, Vũ Quốc Tuấn, Doanh nghiệp và doanh nhân
trong nền kinh tế thị trường, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia 2001.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên những vấn đề tổ chức và quản lý
GVHD: Th.s Dương Kim Thế Nguyên Trang 63 SVTH: Trần Văn Cường
16. Số liệu thống kê số lượng công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ
2002 đến 2005 của Cục phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Bộ kế hoạch Đầu tư.
17. Phan Anh Thông, So sánh luật doanh nghiệp 1999 và Luật doanh nghiệp
2005, Nhà xuất bản Tư pháp 2006.
18. Luật doanh nghiệp và 134 câu hỏi đáp. Nhà xuất bản Lao động Hà nội, năm
2006. Th.S Hoàng Anh Thuyên
19. Pháp luật dành cho doanh nghiệp. Nhà xuất bản tư pháp Hà Nội.
20. 205 câu hỏi về Luật doanh nghiệp nhà xuất bản Giao thông vận tải.Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương.
21. Tìm hiểu pháp luật về Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và
chuyển đổi công ty, doanh nghiệp thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Nhà Xuất Bản Tư Pháp. Th.s Hoàng Anh Thuyên.
22. Wedsite:
23. Wedsite: http:// www.Vietnamnet.com.vn/bandocviet/2006/11/629357/.
24. Wedsite: Trang thông tin
hỏi đáp và tư vấn pháp luật.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Camp212NG TY TNHH M7896T THamp192NH VIamp202N NH7918NG V7844N 2727872 T7892 CH.PDF