MS: LVVH-VHVN038
SỐ TRANG: 157
NGÀNH: VĂN HỌC
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
NĂM: 2008
CẤU TRÚC LUẬN VĂN
LỜI CẢM ƠN
MỘT SỐ QUY ƯỚC CHUNG
PHẦN DẪN NHẬP
01.Lý do chọn đề tài
02.Lịch sử vấn đề
03.Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu
04.Phương pháp nghiên cứu
05.Đóng góp của luận văn
06.Cấu trúc của luận văn
Phần Nội dung
Chương 1. Khái quát về Nguyễn Ngọc Tư và sự nghiệp sáng tác
1.1. Giới thiệu nhà văn Nguyễn Ngọc Tư
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
Chương 2. Cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật
2.1. Cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
2.1.1. Cảm hứng về hiện thực đời sống Nam Bộ
2.1.2. Cảm hứng về con người Nam Bộ
2.2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
2.2.1. Những nhân vật làm ruộng, làm vườn
2.2.2. Những nhân vật sống kiếp thương hồ
2.2.3. Những nhân vật làm nghề “xướng ca”
2.2.4. Những nhân vật làm nghề chăn vịt chạy đồng
2.2.5. Nhân vật loài vật
Chương 3. Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và kiến tạo tình huống
3.1.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và chọn lọc chi tiết
3.1.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình
3.2.2. Nghệ thuật miêu tả và biểu hiện tâm lý nhân vật
3.3. Trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.4. Ngôn ngữ và giọng điệu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.4.1. Ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.4.2. Giọng điệu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Phần Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
157 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2815 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, HN.
25. Nguyễn Công Hoan (1997), Hỏi chuyện các nhà văn, NXB Tác phẩm mới, HN.
26. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB GD, HN.
27. Tô Hoài (1977), Sổ tay viết văn, NXB Tác phẩm mới, HN.
28. Tô Hoài (2001), O chuột, NXB Văn nghệ TPHCM.
29. Trang Thế Hy (1964), Nắng đẹp miền quê ngoại, Sài Gòn.
30. M.B.Kharapchenco (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của
văn học, NXB Tác phẩm mới, HN.
31. M.B.Kharapchenco (1985), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực con người, NXB
Khoa học xã hội, HN.
32. Nguyễn Thị Dư Khánh (1995), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp,
NXB GD, TPHCM.
33. Nguyễn Khải (2003), Nghề văn cũng lắm công phu, NXB Trẻ.
34. Phùng Ngọc Kiếm (1998), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945-1975,
NXB ĐHQG, HN.
125
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
35. Lê Đình Kỵ (1984), Cơ sở lí luận văn học, NXB Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, HN.
36. Lã Duy Lan (2001), Văn xuôi viết về nông thôn - tiến trình và đổi mới, NXB
KHXH.
37. Phong Lê (chủ biên) (1990), Văn học và hiện thực, NXB KHXH, HN.
38. Phương Lựu - Trần Đình Sử - Nguyễn Xuân Nam – Lê Ngọc Trà – Lã Khắc
Hòa –Thành Thế Thái Bình (2002), Lý luận văn học, NXB GD, HN.
39. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Dẫn luận nghiên cứu tác giả văn học, NXB ĐHSP,
HN.
40. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
NXB GD, HN.
41. Trần Đồng Minh (1994), Tiếng nói tri âm, NXB Trẻ.
42. Sơn Nam (1967), Nói về miền Nam, NXB Lá Bối, Sài Gòn.
43. Sơn Nam (1984), Đất Gia Định xưa, NXB TPHCM.
44. Sơn Nam (1992), Văn minh miệt vườn, NXB Văn hóa, TPHCM.
45. Sơn Nam (1993), Hương rừng Cà Mau, tập 1, NXB Trẻ, TPHCM.
46. Sơn Nam (1994), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, NXB Văn nghệ, TPHCM.
47. Sơn Nam (1999), Hương rừng Cà Mau, tập 2, NXB Trẻ, TPHCM.
48. Sơn Nam (2001), Hương rừng Cà Mau, tập 3, NXB Trẻ, TPHCM.
49. Dạ Ngân (1990), Con chó và vụ ly hôn, NXB Hội nhà văn.
50. Dạ Ngân (1995), Dạ Ngân truyện ngắn chọn lọc, NXB Văn học.
51. Dạ Ngân (2008), Nước nguồn xuôi mãi, NXB Phụ nữ.
52. Phùng Quý Nhâm (1991), Thẩm định văn học, NXB Văn nghệ, TPHCM.
53. Phùng Quý Nhâm – Lâm Vinh (1994), Tiếp cận văn học, ĐHSP TPHCM
54. Phùng Quý Nhâm (2000), “Cái nhìn của nhân vật”, Tạp chí văn học số 10.
55. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, NXB Văn nghệ, TPHCM.
126
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
56. Bùi Mạnh Nhị (1980), Hò Nam Bộ và cuộc sống người dân ở phương Nam tổ
quốc, Văn nghệ TPHCM (133) 08/08.
57. Nhiều tác giả (1984), Từ điển văn học, NXB KHXH, HN.
58. Nhiều tác giả (1995), Phê bình văn học, NXB Văn nghệ.
59. Nhiều tác giả (1996), Tuyển tập Kim Lân, NXB Văn học, HN.
60. Nguyễn Phúc (2004), Văn học sáng tạo và thẩm định, NXB KHXH, HN.
61. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, NXB Hội nhà văn, TPHCM.
62. Thạch Phương - Hồ Lê (1992), Văn hoá dân gian người Việt ở Nam Bộ, NXB
KHXH, HN.
63. M. Pospelov (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB GD, HN.
64. Phạm Quang (1985), Đồng bằng sông Cửu Long, NXB Cửu Long, NXB Mũi Cà
Mau.
65. Trần Quang (1965), Con người miền Nam, Tạp chí văn học số 4, HN.
66. Vũ Tiến Quỳnh (biên soạn) (1994), Phê bình lí luận văn học (Anh Đức, Nguyễn
Quang Sáng, Sơn Nam), NXB Văn nghệ, TPHCM.
67. Nguyễn Quang Sáng (1996), Truyện ngắn chọn lọc, NXB Hội nhà văn.
68. Trần Đình Sử (1996), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và đào
tạo - Vụ Giáo viên, HN.
69. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, NXB Hội nhà văn, HN.
70. Trần Đình Sử (chủ biên) (2003), Tự sự học, NXB ĐHSP, HN.
71. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, NXB Trẻ, TPHCM.
72. Vũ Thăng (2001), Một vài đặc điểm thi pháp truyện Nam Cao, NXB Quân đội
nhân dân, HN.
73. Bùi Việt Thắng (1994), “Vấn đề tình huống trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu”, Tạp chí văn học số 2.
74. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể
loại, NXB ĐHQG, HN.
127
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
75. Nguyễn Quang Thắng (2001), Tuyển tập Bình Nguyên Lộc, Tập 1, NXB Văn
học, TPHCM.
76. Đào Thản (1994), “Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn
xuôi”, Tạp chí văn học số 2.
77. Nguyễn Phương Thảo (1994), Văn hoá dân gian Nam Bộ - Những phác thảo,
NXB GD, HN.
78. Nguyễn Thành Thi (1999), Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam, NXBGD.
79. Nguyễn Huy Thiệp (2003), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, NXB Trẻ.
80. Nguyễn Ngọc Tư (2000), Ngọn đèn không tắt, NXB Trẻ.
81. Nguyễn Ngọc Tư (2003), Biển người mênh mông, NXB Kim Đồng.
82. Nguyễn Ngọc Tư (2003), Giao thừa, NXB Trẻ.
83. Nguyễn Ngọc Tư (2004), Nước chảy mây trôi, NXB Văn nghệ.
84. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Văn hóa.
85. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ.
86. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Trẻ-Thời báo Kinh tế
Sài Gòn.
87. Nguyễn Ngọc Tư (2007), Ngày mai của những ngày mai, NXB Phụ nữ.
88. Phùng Văn Tửu (1996), “Một phương diện của truyện ngắn”, Tạp chí văn học
số 2.
89. Phi Vân (2003), Đồng quê, NXB Văn học, TPHCM.
Website:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
128
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
129
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
PHỤ LỤC
Tính từ chỉ tính chất của sự vật, hiện
tượng
Tính từ chỉ trạng thái của con người
long tong, quắt quằn quặt, cườm cườm,
chỏng chơ, bù xù, xi cà que, tỏn tỏn, te
te, đầm đầm, bảnh, chừng chừng, chạng
vạng, lùng nhùng, lóc cóc, mắc dịch,
lom lom, ráo lơ, lạt nhách, hẹp te, binh
binh, trổng không, cong vênh, nhóc, bời
bời, nèo nẹo, mềm xèo, cùi cụi, tròn
dình, chom hom, lổn nhổn, lùm lùm,
ngọt xớt, tươi rói, rần rần, lỉnh lảng, thù
lù, y thinh, y chang, bậy, sồn sồn, chằm
chằm, dột te, thông thống, mắc toi, sùi
sụt, tè tè, lọc cọc, mốc meo, chèm bẹp,
nhểu nhão, lòng thong, rờn rờn, mỏng
te, chách bụp, chủm, loằn ngoằn, láp
giáp, thúi ủm, khơi khơi, tùm lum, trớt
quớt, bời rời, lủm củm, ứ hự, tém tẻ,
lom đom, phập phều, trõm lơ, rúc rắc,
riu riu, lòng khòng, hơn hớn, lững đững,
gọn hơ, mê miết, tinh tang, ngộ, lửng
tửng, lòe xòe, oặt quẹo, lủ khủ, cụt
ngủn, kìn kìn, khao khao, sỏi, tèm
nhèm, thùm thùm, lẹt xẹt, điếc đát, ướt
nhẹp, lụp cụp, tạch tè, rẻ rề, ong ỏng,
rình rang, ngược ngạo, láng o, nghễu
nghện, rối nùi, non nhuốt, ú na ú nần,
cưng, lẫm đẫm, sập sận, teo héo, bộn,
lều phều, nhỏ nhẫm, lé xẹ, lục cục lòn
còn, tròm trèm, huỡn đãi, nhơ nhởn,
bùm xùm, nèo nẹo, quặt quẹo, xơ rơ,
khọm rọm, lủm đủm, hơ hỏng,…
lông bông, đủng đỉnh, xấp xãi, thắc
thỏm, thê thiết, thẹn thùa, buồn xo, lãng
xẹt, lựng khựng, lượng sượng, chẩng
hẩng, chong chong, chưng hửng, lãng,
ngờ ngợ, te tái, tưng tưng, mát dây, cun
cút, ngoi ngóp, trèo trẹo, đểnh đoảng,
vén khéo, cạn ráo, trù trừ, lăng xăng,
nín thinh, nhộn nhạo, quang quẻ, lợt lạt,
mắc cỡ, dớn dác, cắc cớ, leo lẻo, ngần
ngừ, phừng phừng, bằn bặt, hể hả, đủng
đa đủng đỉnh, vùng vằng, nguầy nguậy,
kẹt, rành, quạu quọ, dằn dỗi, sương
sương, tài khôn, lơ láo, xởi lởi, khật
khừng, tở phở, rầu, hụp hửi, vung vinh,
cù bơ cù bất, rúm ró, lử lả, luýnh quýnh,
nôn nả, trợn trạo, khờ ịt, xinh xẻo, lật
bật, lẩm đẩm, hào hển, cắc củm, xênh
xang, lanh, láu cá, chù ụ, hịch hụi, nằng
nặc, chèo queo, rỗi rãi, lùi lũi, rề rà, lúp
xúp, cà tưng, tha thểu, chao chát, lu bù,
trầy trật, tẩn mẩn, lụ khụ, hịch hạc, thao
láo, trùng trình, lít chít, cù lần, lu bu,
khật khờ, lặt lè, mủ mỉ, bì sì, chèo queo,
hào hển, lúc cúc, nhát hít, tha thểu, cụm
nụm, xìu co, lồm cồm, thò lỏ, xăng xái,
nhấm nhẳn, bệu bạo, bịu xịu, cắc cớ,
câu mâu, lơn tơn, chao ngáo, tở mở,
xửng vửng, khọm rọm, phều phào, tong
tả, chùng chình, bầy hầy, lôi thôi, bê
bối, lừ đừ, hỉ hả, lạch bạch, hì hụi, lon
ton,…
130
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
TÓM TẮT LUẬN VĂN
DẪN NHẬP
03. Lý do chọn đề tài
Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn trẻ Nam Bộ đang trên đường định hình
phong cách sáng tác. Những năm gần đây chị đã gặt hái được nhiều thành công ở thể
loại truyện ngắn, tiêu biểu là Giải I cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi 20 với tập
truyện ngắn “Ngọn đèn không tắt” vào năm 2000. Do đó, trước tiên vì lòng yêu mến
của bản thân đối với văn chương của Nguyễn Ngọc Tư, cũng như đối với văn học đồng
bằng sông Cửu Long hiền hoà và nhân hậu, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài luận
văn là “Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” như chút tấm lòng của người con
Nam Bộ tâm huyết với văn chương của quê hương.
Thời điểm chúng tôi tiến hành thực hiện luận văn này, Nguyễn Ngọc Tư đã có
trong tay hơn năm mươi truyện ngắn. Đây quả là một con số ấn tượng đối với một nhà
văn trẻ. Vì lẽ đó, chúng tôi thiết nghĩ việc kịp thời tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn của
tác giả trẻ này là một công việc có ý nghĩa thực tiễn cao để bổ sung kịp thời cho công
tác phê bình-nghiên cứu văn học hiện nay một phong cách sáng tác đặc biệt mang đậm
dấu ấn Nam Bộ. Nghiên cứu truyện ngắn của chị một cách khoa học và có hệ thống
không chỉ có ý nghĩa đối với công việc nghiên cứu-phê bình văn học đơn thuần mà nó
còn có ý nghĩa đối với công tác nghiên cứu về văn hóa nông thôn Nam Bộ và ngôn ngữ
Nam Bộ.
04. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn trẻ có khối lượng tác phẩm xuất bản khá lớn
chỉ trong một thời gian ngắn. Đồng thời chị đã được trao tặng nhiều giải thưởng văn
học có uy tín cũng như nhận được nhiều sự yêu mến và kì vọng lớn lao từ độc giả. Do
131
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
đó, có lẽ không quá võ đoán khi khẳng định Nguyễn Ngọc Tư đã đạt được những thành
công nhất định trên con đường định hình một phong cách Nam Bộ đặc sắc trong sáng
tác. Thế nhưng, hiện tại công việc nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn của chị lại có vẻ
khá chậm chạp so với những bước tiến trong nghề nghiệp của nhà văn này. Chính vì
vậy, chúng tôi lựa chọn tiếp cận phần “Lịch sử vấn đề” này dưới con mắt của lý thuyết
tiếp nhận, tức là thu thập và phân loại những ý kiến đánh giá của công chúng khi tiếp
cận truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư qua từng thời kì với những tập truyện khác
nhau.
Xuất hiện lần đầu tiên với tập truyện “Ngọn đèn không tắt”, Nguyễn Ngọc Tư
ngay lập tức chiếm được cảm tình của đông đảo độc giả bằng một văn phong nhẹ
nhàng, một tấm lòng trong trẻo, một sự tài hoa mộc mạc đầy nắng gió phương Nam.
Từ sự hứng khởi ban đầu đó, người đọc tiếp tục chào đón những tập truyện khác của
chị như: Nước chảy mây trôi, Giao thừa và Cánh đồng bất tận… với một sự thích thú
đặc biệt. Chính vì thế khi thu thập tài liệu về Nguyễn Ngọc Tư chúng tôi nhận thấy
không có nhiều ý kiến không đồng tình hay bác bỏ tài năng của chị. Những nhận định
trái chiều về Nguyễn Ngọc Tư bắt đầu xuất hiện khi truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”
ra đời, kéo theo đó là nhiều ý kiến đánh giá, nhận xét khác nhau về Nguyễn Ngọc Tư
được đăng tải rộng rãi trên các báo tạo thành một “hiện tượng văn học” đáng chú ý của
năm 2005.
Xem xét tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trên các báo, chúng
tôi nhận thấy có rất nhiều bài viết có giá trị khoa học và thể hiện được sự tâm huyết và
tài năng của người viết. Tiêu biểu nhất và sớm nhất có thể kể đến bài viết “Nguyễn
Ngọc Tư, đặc sản miền Nam” (Viet-studies) của GS.Trần Hữu Dũng. Nhìn chung tình
hình nghiên cứu Nguyễn Ngọc Tư ở nước ta hiện nay còn ít ỏi và chưa có hệ thống. Đa
phần các bài viết đều được đăng tải trên các báo, chưa có một công trình nghiên cứu
chính thức được in thành sách. Ngoài ra, đa phần các bài viết đều trên tinh thần giới
thiệu một tập truyện của chị vừa xuất bản, hay phê bình một truyện ngắn cụ thể nào đó.
132
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
Điều này cũng dễ hiểu vì đề tài của luận văn này là tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn của
một tác giả trẻ, do đó dĩ nhiên chưa thể có những công trình nghiên cứu dày dặn và
thấu đáo để người viết tham khảo. Các nguồn tư liệu chủ yếu được thu thập trên các
trang web văn học như: Viet-studies, E-văn, Vietnamnet, Văn nghệ Sông Cửu
Long…, trên các tờ báo giấy uy tín như: Văn nghệ, Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Người lao
động, Tiền Phong, Công an nhân dân…và chúng tôi còn tham khảo trên các diễn đàn
văn học, blog cá nhân của tác giả và những nhà văn, nhà nghiên cứu khác để có thêm
tư liệu. Không thể nói tư liệu về Nguyễn Ngọc Tư ít ỏi, nhưng trước sự đa dạng của các
ý kiến cũng như các nguồn tư liệu, chúng tôi buộc phải tỉnh táo và khách quan để “gạn
đục khơi trong”, để tìm ra những tư liệu, những bài viết có giá trị nhằm phục vụ tốt cho
luận văn này.
03. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu
Trong nội dung của luận văn, chúng tôi sẽ dành ra một chương để tìm hiểu đôi
nét khái quát về tác giả Nguyễn Ngọc Tư và sự nghiệp sáng tác của chị. Sau đó, sẽ đi
vào tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trên các bình diện sau:
- Cảm hứng nghệ thuật
- Thế giới nhân vật
- Nghệ thuật dựng truyện
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Nghệ thuật trần thuật
- Ngôn ngữ và giọng điệu
Từ những nghiên cứu có tính chất cơ sở đó, chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra những
đóng góp của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trên các mặt nội dung tư tưởng (như cảm
hứng về thân phận con người và hiện thực của nông thôn Nam Bộ, thế giới nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư…) và hình thức nghệ thuật (như sự đặc sắc trong
nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ…)
133
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
Về phạm vi nghiên cứu, chúng tôi khảo sát tất cả những truyện đã được xuất bản
của Nguyễn Ngọc Tư, gồm 6 tập truyện:
-Ngọn đèn không tắt, NXB Trẻ, 2000
-Biển người mênh mông, NXB Kim Đồng, 2003
-Giao thừa, NXB Trẻ, 2003
-Nước chảy mây trôi (tập truyện và ký), NXB Văn Nghệ, 2004
-Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Văn hóa, 2005
-Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ, 2005
Thêm vào đó là những truyện chỉ mới được đăng trên trang web “Viet-studies” của
Trần Hữu Dũng (chưa xuất bản) như: Trò chơi quên nhớ, Sông dài con cá lội đâu, Vết
chim trời, Núi lở, X-năm một ngàn chín trăm năm xưa, Núi ở lại.
04. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này người viết đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như sau:
-Phương pháp thống kê
-Phương pháp so sánh
-Phương pháp phân tích và tổng hợp
Bên cạnh đó người viết cũng cố gắng hết sức vận dụng những kiến thức Thi
pháp học của thể loại văn xuôi tự sự (đặc biệt là Tự sự học) vào công việc nghiên cứu
nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ngõ hầu có thể đóng góp một
chút không khí mới mẻ cho tình hình nghiên cứu văn học nói chung và nghiên cứu
truyện ngắn nói riêng hiện nay.
05. Đóng góp của luận văn
Luận văn này tập trung tìm hiểu “Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”,
nhằm mục đích bước đầu chỉ ra những đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư đối với nền văn
học Việt Nam hiện đại, đồng thời tìm hiểu sơ bộ để làm rõ hơn những nét đặc trưng
134
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
của phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Đặc biệt luận văn này sẽ giúp người đọc
thấy rõ hơn chất Nam Bộ đậm đặc trong ngôn ngữ văn chương Nguyễn Ngọc Tư.
Thực hiện luận văn này chúng tôi mong đóng góp một chút công sức cho công
tác nghiên cứu-phê bình Văn học Việt Nam hiện đại về cây bút trẻ Nguyễn Ngọc Tư.
Hơn nữa, từ trước đến nay việc khảo sát và nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
chưa nhiều và chưa có hệ thống. Tính đến thời điểm luận văn này được tiến hành thì
chưa có một công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào về đề tài này ra đời. Do đó, chúng
tôi đã dụng công nghiên cứu để có thể bổ sung thêm một số nhận định xác đáng và có
giá trị bên cạnh những ý kiến đã có trước đây về vấn đề này.
06. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm ba phần chính: Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, phần Nội
dung được chia làm ba chương dựa trên nội dung nghiên cứu:
-Chương 1. Khái quát về Nguyễn Ngọc Tư và sự nghiệp sáng tác.
-Chương 2. Cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư.
-Chương 3. Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
135
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ NGUYỄN NGỌC TƯ VÀ
SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
1.1. Giới thiệu nhà văn Nguyễn Ngọc Tư
1.1.2. Tiểu sử tác giả
Tác giả Nguyễn Ngọc Tư tên thật là Nguyễn Ngọc Tư, sinh năm 1976, quê quán
ở xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Hiện chị sống và làm việc tại TP Cà
Mau. Nguyễn Ngọc Tư cũng là Hội viên Hội Nhà Văn trẻ tuổi nhất hiện nay. Chị từng
đạt giải nhất cuộc thi "Văn học tuổi 20 lần thứ 2" của Nhà xuất bản Trẻ, Hội nhà văn
TP HCM, báo Tuổi Trẻ tổ chức năm 2000 với tập truyện "Ngọn đèn không tắt" và
Giải thưởng Văn học của Hội nhà văn Việt Nam năm 2001 cũng với tập truyện này.
Nguyễn Ngọc Tư là một trong những nhà văn trẻ viết khỏe và viết đều khi chỉ
trong vòng ba năm đã cho ra đời bốn tập truyện ngắn (không kể tạp văn). Điều đó
chứng tỏ chị là một nhà văn miệt mài lao động, miệt mài sống và tích lũy vốn sống để
nuôi dưỡng cảm hứng và năng lực sáng tác, chứ không chỉ nhờ vào năng khiếu thiên
bẩm. Qua chặng đường bảy năm cầm bút, tung hoành trên cả hai thể loại truyện ngắn
và tạp văn, Nguyễn Ngọc Tư đã phần nào khẳng định được vị trí của mình trong đội
ngũ những người sáng tác trẻ của cả nước, đã xác lập được một phong cách sáng tác
riêng biệt mang dấu ấn “Nguyễn Ngọc Tư”-một văn phong rặt chất Nam Bộ hiền hòa,
hào sảng vang bóng một thời nhưng vẫn hồn hậu nồng nàn đến tận ngày nay.
1.1.3. Quan niệm sáng tác
Nguyễn Ngọc Tư có một quan điểm khá hồn nhiên và nhẹ nhàng về nghề
nghiệp. Tuy vẫn nhận ra sự chuyên biệt của nghề viết so với những nghề nghiệp khác,
nhưng không vì thế mà chị sùng bái văn chương như cái gì cao cả hơn cuộc sống.
Chính vì thế mà truyện ngắn của Tư thấm đẫm sự hồn nhiên, chất phác. Nhưng nếu chỉ
có hồn nhiên thì Nguyễn Ngọc Tư đã không đứng vững cho đến bây giờ. Ở chị sự hồn
136
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
nhiên vô tư không có dây mơ rễ má với sự lạnh lùng, vô tâm. Văn chương Nguyễn
Ngọc Tư đau đáu ân tình và đầy trách nhiệm, trách nhiệm của công dân với xã hội,
trách nhiệm của đứa con với quê hương, trách nhiệm với gia đình, với những người xa
lạ mà thân quen với mình, nhưng chỉ có điều chúng được cất lên bởi một giọng hồn
nhiên, tưng tửng, nhẹ nhõm như không có gì, nhưng thật ra đằng sau nó là cả một sự
nghèn nghẹn và chua xót không thể thốt nên lời.
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
1.2.1. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Ngọc Tư từ khi xuất hiện cho đến nay vẫn được xếp vào đội ngũ những
nhà văn trẻ, những người mang trên vai trọng trách làm rạng danh cho nền văn học
nước nhà, những người đủ tài và lực để mang đến những luồng gió mới cho văn
chương trên cả phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Bằng những truyện
ngắn dung dị về đề tài nông thôn, thân phận và đời sống tình cảm của người nông dân
Nam Bộ thời hiện đại, chị đã đóng góp cho khuynh hướng văn học hiện thực một cái
nhìn hồn hậu, với lối viết chân tình, thẳng thắn nhưng lại cũng rất hồn nhiên và nhẹ
nhàng. Đóng góp lớn nhất của chị cho tới nay ở địa hạt truyện ngắn chính là một văn
phong Nam Bộ giản dị, thuần phác với sự điêu luyện trong việc sử dụng chất liệu ngôn
ngữ Nam Bộ như một ngôn ngữ văn học giàu giá trị biểu đạt và ẩn chứa tiềm lực sáng
tạo đến vô tận.
1.2.2. Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư
Cuối tháng 12 năm 2005, Nhà xuất bản Trẻ phối hợp với Thời báo Kinh tế
Sài Gòn đã trình làng cuốn tạp văn đầu tiên của Nguyễn Ngọc Tư mang tên “Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư”. Quyển sách khá dày dặn với ba mươi lăm tạp văn thấm đẫm tình
cảm của chị với quê hương Cà Mau, với bạn bè, với ba má và chất chứa đầp ắp những
kỷ niệm tuổi thơ, những gì mộc mạc, nhỏ bé, nhưng hết sức thân thương và gắn bó
với mình. Đến tạp văn “Ngày mai của những ngày mai”, chúng ta nhận thấy Nguyễn
Ngọc Tư đã trưởng thành hơn rất nhiều, giọng văn của chị đã bắt đầu mang nhiều chất
137
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
triết lý và suy ngẫm. Nếu so sánh với mảng truyện ngắn của tác giả này, chúng ta sẽ
thấy có một sự tương đồng về mặt bút pháp. Đó vẫn là giọng văn nhẹ nhàng, trầm tĩnh
đôi lúc như bông đùa, giễu cợt, thế nhưng khi viết về những vấn đề “nghiêm túc” thì
lại hết sức chân thành hay nói cách khác, Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn luôn biết
tiết chế và làm chủ ngòi bút của mình.
CHƯƠNG 2. CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT VÀ THẾ GIỚI NHÂN VẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
2.1. Cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
2.1.1. Cảm hứng về hiện thực đời sống Nam Bộ
Có thể nói Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn của những tình tự nông thôn, những
sáng tác của chị là bức tranh những vấn đề bức xúc của nông thôn Nam Bộ bởi chị là
một trong số ít ỏi những nhà văn hiện nay có khả năng bao quát và phát hiện những
góc khuất của đời sống nông thôn, những điều tưởng như đơn giản nhưng quan trọng
trong cuộc sống con người Nam Bộ. Nguyễn Ngọc Tư như nói hộ cho những người
nông dân bằng chính “giọng” của họ về hiện thực đời sống nghèo nàn, thiếu thốn của
mình, những thương tổn tình cảm của mình mà hoàn cảnh đã góp phần gây ra.
2.1.1.1. Hiện thực thiếu thốn của nông thôn Nam Bộ ở các lĩnh vực y tế, giao
thông, giáo dục
2.1.1.2. Môi trường sống của nông thôn Nam Bộ đang bị tàn phá nghiêm trọng
2.1.1.3. Thái độ vô trách nhiệm và sự tha hoá của một số cán bộ lãnh đạo
2.1.1.4. Lịch sử và vết thương chiến tranh vẫn còn in dấu trong tâm tư con
người Nam Bộ
2.1.2. Cảm hứng về con người Nam Bộ
Nguyễn Ngọc Tư viết nhiều và viết hay về quê hương và con người Nam Bộ ở
thời hiện đại (trong so sánh với Sơn Nam là thời cha ông đi khẩn hoang và thời kháng
chiến) như ca ngợi những truyền thống lịch sử tốt đẹp, những vẻ đẹp hiển hiện và tiềm
138
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
ẩn của con người Nam Bộ trong đời sống thường nhật, trong cách cư xử với nhau. Chữ
“tình” và chữ “lòng” là nét đặc sắc trong tính cách của con người Nam Bộ (so với các
vùng miền khác) và nói đến tình cảm của con người Nam Bộ mà bỏ mất chữ “thương”,
chữ “nghĩa” cũng là một sai sót rất lớn.
2.1.2.1. Những con người có đời sống vật chất nghèo nàn
2.1.2.2. Những con người khao khát tình thương
2.1.2.3. Con người với những tình cảm đẹp
2.1.2.4. Con người tha hoá
2.1.2.5. Con người với những mối tình ngang trái, lặng thầm
Điểm qua một loạt các truyện ngắn được gợi hứng từ những vấn đề bức xúc của
hiện thực Nam Bộ và thân phận của con người Nam Bộ, chúng ta thấy cái nhìn của cây
bút trẻ Nguyễn Ngọc Tư vừa rộng về diện lại vừa sâu về chất. Rộng và sâu bởi vì chị
không chỉ phản ánh đơn thuần những vấn đề tồn tại ở nông thôn Nam Bộ mà chị còn
chú ý vào tâm tư và tình cảm của những người nông dân Nam Bộ. Đó mới chính là
điều chị quan tâm và muốn gởi gắm tới độc giả, Nguyễn Ngọc Tư không muốn gởi tới
chúng ta những bức tranh phong cảnh đồng quê yên ả hay bão tố với tư cách những bài
phóng sự sinh động, dễ thương nhưng vô hồn, vô cảm. Và một điều nữa chúng tôi
muốn xác quyết là Nguyễn Ngọc Tư không hề ngây thơ trong việc nhìn nhận và đánh
giá hiện thực xã hội xung quanh mình, có thể chị chưa nhìn xa nhưng chị không hề ảo
tưởng với những gì mình viết. Ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư luôn tỉnh táo và đầy trách
nhiệm nhưng không phải với thái độ lên gân, cứng nhắc mà hết sức nhẹ nhàng, tinh tế,
nên dễ khơi dậy ở người đọc một sự cảm thông, chia sẻ.
2.2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
2.2.1. Những nhân vật làm ruộng, làm vườn
Cái nhìn của Nguyễn Ngọc Tư về người nông dân Nam Bộ mới lạ và phong phú
hơn rất nhiều so với những tác phẩm của các nhà văn tiền bối như Hồ Biểu Chánh, Phi
Vân, Sơn Nam…Đó là hình ảnh người nông dân trong những mối quan hệ rộng lớn
139
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
hơn cánh đồng của họ, nếp nhà của họ. Số phận của họ gắn chặt và chịu ảnh hưởng
trực tiếp bởi những vấn đề thời sự của xã hội. Và những người nông dân ấy trong mối
quan hệ với nhau cũng được Nguyễn Ngọc Tư ghi nhận dưới góc nhìn tinh tế hơn,
riêng tư hơn, mang ý nghĩa cá nhân nhiều hơn là đại diện cho giai cấp của mình. Nhẹ
nhàng nhưng quyết liệt, vô tư nhưng không vô tâm, ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư từ
những ngày đầu tiên đã chọn cho mình một nơi chốn để dụng võ đó chính là đồng đất
quê hương của chị với những người nông dân một nắng hai sương quen thuộc và yêu
dấu.
2.2.2. Những nhân vật sống kiếp thương hồ
Bằng một sự quan sát tinh tế và tấm lòng nhân hậu, Nguyễn Ngọc Tư đã vẽ nên
cho người đọc những bức chân dung tâm hồn sâu sắc và giàu cảm xúc của các nhân vật
sống kiếp thương hồ. Đa phần họ đều nghèo khó, thiệt thòi về những điều kiện sống so
với những con người trên bờ nhưng họ vẫn sống và yêu tha thiết dòng sông của mình
như Ông Chín, Giang (Nhớ sông)… hay một đời gắn bó với sông như người đàn bà vợ
của cha nhân vật “tôi” (Dòng nhớ). Bởi vì họ biết thương, biết nhớ nên những dòng
sông trôi chảy miên man như vô tình ấy cũng không phụ lòng mà lúc nào cũng chảy
tràn, ăm ắp tình thương để vỗ về và cưu mang những phận người trót mang kiếp sống
lưu lạc hải hồ.
2.2.3. Những nhân vật làm nghề “xướng ca”
Không biết có phải là vì “cùng một lứa bên trời lận đận” hay không mà Nguyễn
Ngọc Tư, một người trẻ viết văn, lại có thể có một cái nhìn vừa sâu sắc vừa nhân hậu
đối với những người nghệ sĩ miệt vườn đến vậy? Đằng sau vẻ rực rỡ và hào nhoáng,
các nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư đã cho chúng ta thấy những khoảng tối trong tâm
hồn họ mà ánh đèn sân khấu không soi rọi tới được, chỉ có thể bằng cái tâm thì mới cởi
bỏ được từng lớp xiêm áo diêm dúa để thông cảm với những nhục nhằn, những hy
sinh, những lầm lạc, nỗi niềm thầm kín của những con người suốt đời đem lời ca tiếng
140
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
hát, nước mắt nụ cười của mình để mua vui cho thiên hạ, gạt bỏ đời đau để sống hết
mình trên thánh đường sân khấu mà không phải ai cũng được bồi đền xứng đáng.
2.2.4. Những nhân vật làm nghề chăn vịt chạy đồng
Những nhân vật làm nghề chăn vịt chạy đồng xuất hiện trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư phần lớn như những nhân vật loại hình với những nét tính cách
chung như lang thang, phiêu bạt giống ông già chăn vịt trong truyện ngắn “Cái nhìn
khắc khoải” hay nhân vật Sáng trong “Một dòng xuôi mải miết”. Những người chăn
vịt đồng thời cũng là những con người rất cô đơn, không ai bầu bạn, vì sống một mình
thì ai cũng buồn hết huống chi là một mình giữa đồng không mông quạnh. Còn một
điểm chung nữa giữa họ là nghèo, nghèo thì mới phải chọn cái nghề cực khổ, rày đây
mai đó, không ổn định, nhiều rủi ro này (đàn vịt có thể chết vì dịch bất cứ lúc nào)
nhưng hết thảy họ đều có tấm lòng rộng như đồng khơi, sẵn sàng cưu mang giúp đỡ
người khác khi hoạn nạn, khó khăn.
Riêng truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” lại xây dựng một gia đình chăn vịt
chạy đồng đặc biệt. Qua đó cuộc sống của những người chăn vịt chạy đồng được
Nguyễn Ngọc Tư phơi bày một cách trần trụi và đậm đặc, ngòi bút của chị đã vẽ ra
những bức tranh tăm tối chưa từng thấy của nông thôn Nam Bộ, khắc họa những con
người hình như chỉ sống bằng bản năng nguyên thủy của mình với đồng loại ngay giữa
thời hiện đại.
2.2.5. Nhân vật loài vật
Nhân vật loài vật là một khám phá kì thú của chúng tôi khi thưởng thức truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư, bọn chúng có khi là “phát ngôn viên” tình cảm cho nhân vật
chính, có khi lại là phương tiện để chị xây dựng nên cốt truyện của mình. Các nhân vật
ấy có thể là vịt hay cóc, những con vật hết sức gần gũi với cuộc sống của con người.
Có thể nói với ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư, những nhân vật loài vật ấy đã góp
phần đắc lực vào việc miêu tả nội tâm của nhân vật “con người”, đảm nhiệm xuất sắc
vai trò của “người dẫn chuyện” tài tình, làm nên giọng điệu hài hước cho tác phẩm và
141
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
hơn thế nữa chúng góp phần làm phong phú thêm cho thế giới nhân vật “con người”
của chúng ta.
Là một người trẻ mới khởi nghiệp viết văn, sự nghiệp văn chương chưa thật sự
dày dặn, phong cách nghệ thuật chưa thật sự định hình cũng như phong độ chưa thật sự
ổn định, thế nhưng Nguyễn Ngọc Tư đã kịp ghi lại dấu ấn của mình trên văn đàn bằng
việc xây dựng trong các truyện ngắn của mình một thế giới nhân vật phong phú, đa
dạng mà kiểu nhân vật nào cũng đầy đặn và có những nét đặc sắc riêng. Thế giới nhân
vật ấy là khúc xạ của những con người bằng xương bằng thịt sống xung quanh chị,
những con người dù sinh sống nơi đồng ruộng hay chốn thị thành, dù làm bất cứ nghề
nghiệp nào cũng tỏa sáng một tính cách rộng rãi, nhân hậu, nghĩa khí rất đặc trưng của
con người Nam Bộ.
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN NGUYỄN
NGỌC TƯ
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và kiến tạo tình huống
3.1.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và chọn lọc chi tiết
3.1.1.1. Cốt truyện đơn giản
Về phương diện kết cấu và quy mô về nội dung, cốt truyện của Nguyễn Ngọc
Tư thường là cốt truyện đơn tuyến, hệ thống sự kiện được kể đơn giản về số lượng và
rất gọn gàng, ít nhân vật và tính cách nhân vật thường được mô tả một cách rất tập
trung và cô đọng, nhiều khi chỉ là một lát cắt của cuộc sống được phản chiếu hay chỉ
một đoạn đời nào đó của nhân vật chính được quan tâm mà thôi. Qua khảo sát nhìn
chung có thể kết luận, đa số truyện ngắn của chị có cốt truyện khá mờ nhạt, nhiều
truyện có thể nói là không có cốt truyện (nó có thể chỉ là một nét tâm trạng, một tình
huống, một hoàn cảnh của nhân vật) và một số truyện ngắn của chị chịu sự thâm nhập
mạnh mẽ của một thể loại trữ tình là thơ mà chúng tôi tạm gọi đó là những truyện ngắn
trữ tình hoá.
142
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
3.1.1.2. Chi tiết hấp dẫn
Nguyễn Ngọc Tư cũng là một nhà văn rất tinh tế trong việc lựa chọn và sáng tạo
chi tiết, do đó tuy những truyện của chị thường chỉ xoay quanh cuộc sống sinh hoạt
trong gia đình, làng xóm nhưng vẫn không tạo cho người đọc cảm giác đơn điệu, nhàm
chán. Nét đặc trưng của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư là trong những câu chuyện đời
thường luôn có những “chi tiết phát sáng” làm nên giá trị cho tác phẩm và chúng ta có
thể xem những chi tiết như thế là những chi tiết có tính nghệ thuật hàm chứa rất lớn
cảm xúc và tư tưởng của tác giả.
3.1.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống
Tình huống truyện hiểu nôm na là một duyên cớ, một nguyên nhân nào đó mà
dựa vào đấy tác giả có thể triển khai câu chuyện của mình. Vì thế, khi lựa chọn được
một tình huống đặc sắc thì xem như tác giả đã có được một bộ khung lý tưởng để từ đó
triển khai toàn bộ tác phẩm của mình. Xem xét truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng
tôi nhận thấy bên cạnh tài năng khám phá những điều mới lạ từ những sự kiện đời
thường, khả năng mô tả tâm lý nhân vật một cách điêu luyện thì Nguyễn Ngọc Tư cũng
khá xuất sắc trong việc tạo ra những tình huống trớ trêu, những nút thắt bất ngờ.
Những tình huống trong truyện của chị thường không phải là những xung đột xã hội dữ
dội về mặt tính cách giữa các nhân vật, mà đó thường là những tình huống mang tính
chất gần gũi, đời thường nhưng khá trớ trêu và cay nghiệt.
3.1.2.1. Tình huống tâm lý
Chúng tôi tạm chia những tình huống-tâm lý trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư thành những kiểu như:
- Tình huống chối bỏ
- Tình huống đi tìm
- Tình huống trò đùa (hay trò chơi)
143
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
- Tình huống “yêu thầm”
Nhiều bài viết về truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đều cho rằng về mặt nội
dung, truyện ngắn của chị đa phần là những vấn đề hết sức gần gũi với cuộc sống đời
thường, đặc biệt là những mối tình nông thôn hiền lành, lặng thầm, trắc trở. Cô gái trẻ
miệt Cà Mau ấy rất có tài thâm nhập vào những góc khuất của những mối tình quê để
đau thật sâu với những nỗi buồn của họ. Những “trường hợp” lỡ làng trong truyện ngắn
của chị là những tình huống rất đỗi bình thường, dễ bị che lấp giữa bộn bề cuộc mưu
sinh, nếu như không có một tấm lòng và sự đồng cảm sâu sắc thì người ta rất khó nhận
ra. Những tình huống “yêu thầm” của chị đặc sắc không bởi những chi tiết gây sốc, giật
gân mà đặc sắc ở những dòng tâm trạng, độc thoại nội tâm. “Một mối tình” là một
truyện ngắn có kiểu tình huống tâm lý như thế. Dòng hồi tưởng của nhân vật “tôi” trở
về nhà sau một mùa lưu diễn bắt đầu khi nhớ về thời thơ ấu lúc mới biết yêu Trọng.
Miên man theo những cảm xúc ấy là nỗi khát khao cháy bỏng trong lòng chỉ chực chảy
tràn ra thành lời mà sao vẫn nghẹn ngào của nhân vật “tôi. Chỉ có vậy, có thể không
đáng gọi là một tình huống truyện, nhưng đối với một tác giả giỏi nghề thì chỉ cần một
khoảnh khắc, một nét tâm trạng cũng là một duyên cớ để tác giả xây dựng nên tác
phẩm.
Nhìn chung, đa phần truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư được xây dựng từ
những tình huống tâm lý, hay nói cách khác là lấy tâm trạng của các nhân vật làm tâm
điểm cho việc xây dựng tác phẩm của mình. Những tình huống tâm lý đặc sắc trong
một số truyện ngắn chứng tỏ Nguyễn Ngọc Tư rất tài tình trong việc phơi bày những
tình cảm che giấu của nhân vật, khám phá tính cách thật của họ, để cùng họ phiêu lưu
vào thế giới nội tâm sâu thẳm của mình. Và kiểu tình huống tâm lý này hấp dẫn người
đọc cũng bởi sự chậm rãi và nhẹ nhàng, không bộc phát, không nhiều xung đột gay gắt
của nó.
3.1.2.2. Tình huống tượng trưng
144
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
“Núi lở” là một câu chuyện kể về dự án làm phim nhưng phim phải kể về núi và
núi nhất định phải lở chỉ trong một buổi chiều, lở đến cụt ngọn. Nhưng tại sao lại phải
như vậy? Núi phải lở để phơi bày tất cả sự lở lói trong lòng người, sự lạnh lùng, nhẫn
tâm của con người trong giây phút quyết định giữa sống và chết, núi phải lở để thiên
nhiên lên tiếng bằng tất cả sự cuồng nộ của mình, núi phải lở để chúng ta biết được đâu
đó trên đời vẫn tồn tại những con người “đang rú lên mừng thoát nạn mà đã chết rồi”.
Trước hết, chúng ta cần nhìn nhận, “núi lở” trong truyện ngắn này là một tình huống kỳ
dị và có lẽ là không có thật, nó mang ý nghĩa ẩn dụ và tượng trưng nhiều hơn thực tế.
Chính tình huống mang nhiều màu sắc hoang đường này đã tạo nên một bầu không khí
đặc biệt cho truyện ngắn này, một chút kỳ bí, liêu trai, một chút ghê sợ và thấp thỏm.
Nó là một tình huống mở, gợi nhiều trăn trở cho người đọc khi khám phá các tầng ý
nghĩa của tác phẩm. Tình huống “núi lở” ở đây có thể xem như là một khối thuốc nổ
được giấu kín giữa câu chuyện, để rồi bất ngờ bộc phát buộc các nhân vật phải hành
động để phơi bày bản chất của mình.
Nhìn chung, kiểu tình huống tượng trưng không phải là “cánh tay thuận” của
Nguyễn Ngọc Tư trong việc kiến tạo truyện ngắn, ít nhiều những truyện ngắn có kiểu
tình huống này còn chưa giấu kín được ý đồ của tác giả đến cùng. Tuy nhiên, nét hấp
dẫn của nó chính là lớp sương mờ huyền ảo từ những hình ảnh biểu tượng lan tỏa ra
toàn bộ tác phẩm, với những nhân vật kì lạ với những hành động khó hiểu và bất ngờ
làm cho câu chuyện trở nên không thể đoán trước được. Đó cũng chính là ưu điểm của
kiểu tình huống tượng trưng.
3.1.2.3. Tình huống thắt nút
Tình huống thắt nút trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư có thể hiểu như là
những tình huống khá căng thẳng do hàng loạt những sự kiện được tác giả tổ chức theo
kiểu tăng tiến mức độ nóng bỏng và ngày càng siết chặt vòng vây để giải quyết những
mâu thuẫn dồn dập và đan xiết đã được tác giả khéo léo dàn dựng. Tuy nhiên, những
tình huống thắt nút mà chúng tôi tìm hiểu (trừ “Cánh đồng bất tận”) đa phần không
145
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
phải là những xung đột xã hội gay gắt, đòi hỏi phải được giải quyết theo kiểu “một mất
một còn”, mà đó chỉ là những tình huống ứng xử tâm lý đời thường, được nhìn nhận
dưới góc độ cá nhân và sự “thắt nút” cũng được tác giả khai thác dưới khía cạnh đấu
tranh nội tâm của từng nhân vật hơn là sự mâu thuẫn giữa các tuyến nhân vật.
“Cánh đồng bất tận” có thể được hiểu như là hành trình trả thù miệt mài và
trốn tránh cuộc đời của một người chồng bị phản bội, người cha quên mất mình có
những đứa con, kéo theo đó là hành trình bị đày ải của Nương và Điền, hai sinh linh
nhỏ bé và “duy nhất” trong cuộc truy đuổi mệt nhoài, để học cách sinh tồn giữa vòng
vây trần gian mù mịt và đầy bất trắc. Đắm mình vào trò chơi báo thù tàn nhẫn với biết
bao người đàn bà, người cha bắt đầu có dấu hiệu mệt mỏi thì chị, cô gái điếm bị người
ta đổ keo dán sắt vào cửa mình, xuất hiện như một sự thách thức, một hiểm họa, báo
hiệu một điều gì đó thật dữ dội và xáo trộn sắp xảy ra bên cạnh những cơn cuồng nộ dữ
dội của thiên nhiên ngày càng vây riết và truy đuổi họ. Người đàn bà nguy hiểm và
ham hố đó tìm đủ mọi cách chinh phục trái tim chai đá của người cha, còn đứa con trai
thì theo đuổi chị trong tuyệt vọng, vòng quay tình ái đó cứ thế xoay tròn đều đặn và
bức bối, chợt tan vỡ vào giây phút định mệnh khi chị quyết định đánh đổi thân xác để
cứu bầy vịt mà người đàn ông “độc ác mười” đó vẫn dửng dưng. Chị thua cuộc và ra
đi, Điền chạy theo chị. Vậy là chỉ còn lại hai cha con trên những cánh đồng và Nương
lờ mờ nhận ra món quà mà Điền để lại, người cha đã bắt đầu quan tâm đến Nương
nhưng muộn rồi. Không còn kịp để lấy lại những ánh mắt hận thù, không còn kịp để
ngăn chặn sự ra đời của những thằng mất dạy, hằn học nhìn đời và lúc nào cũng chực
chờ “đánh chết mẹ những thằng chăn vịt”, không còn kịp để lấp đầy những hố sâu
ngăn cách cha con từ bao nhiêu năm qua, không còn kịp cho một dự định dừng lại của
người cha…Tất cả đã muộn màng bởi Nương cảm nhận giờ báo thù đã đến, giờ khắc
mà quy luật nhân quả sẽ lộ diện với bộ mặt khắc nghiệt và nhẫn tâm. Không phải đợi
đến thời khắc Nương phải trả giá, người đọc đã lờ mờ nhận thấy một sự bất an lan tỏa
trong từng chi tiết nhỏ xoay quanh các nhân vật như là những đám mây đen đã tích đủ
146
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
điều kiện cần thiết tạo thành một cơn bão. Tuy kết thúc truyện có phần gắng gượng
nhưng vẫn không làm giảm giá trị một tình huống thắt nút và siết chặt vòng vây đặc
sắc của Nguyễn Ngọc Tư.
Điều sâu sắc nhất mà chúng tôi đúc kết được khi xem xét tình huống truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư là dẫu cho xây dựng tình huống tâm lý, tình huống tượng trưng,
tình huống thắt nút hay bất kì kiểu tình huống nào thì tài năng của chị vẫn là ở chỗ đã
chọn được cho mình những tình huống nhẹ nhàng nhưng có sức gợi lớn, có khả năng
đánh động sâu sắc vào tâm hồn của người đọc, là cái sườn chắc chắn để tác giả triển
khai toàn bộ tác phẩm.
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình
3.2.1.1. Những cái tên dân dã, hiền lành
3.2.1.2. Ngoại hình lam lũ, xấu xí
Nguyễn Ngọc Tư ít chú trọng miêu tả ngoại hình nhân vật với mục đích khắc
họa tính cách mà thiên về giới thiệu hoàn cảnh hoặc nghề nghiệp của nhân vật để
hướng người đọc tới chủ đề tác phẩm. Đối với truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thì ngoại
hình của nhân vật thường thống nhất với tính cách nhân vật, nó thường là đường dẫn để
người đọc tiếp cận thế giới nội tâm của nhân vật.
3.2.2. Nghệ thuật miêu tả và biểu hiện tâm lý nhân vật
3.2.2.1. Khắc họa tâm lý qua những biểu hiện bên ngoài
3.2.2.2. Biện pháp miêu tả trực tiếp tâm lý nhân vật
3.2.2.3. Độc thoại nội tâm của nhân vật
Nguyễn Ngọc Tư rất chú trọng việc xây dựng tâm trạng của nhân vật, đôi khi
chỉ bằng một chi tiết nhỏ như ánh nhìn, nụ cười, những cử chỉ vu vơ thôi là chị đã
khiến người đọc thấy được sự dồn nén và che giấu tâm trạng thật sự của nhân vật.
Nhiều khi tâm lý nhân vật còn được miêu tả bằng những lời nói (trái với lòng mình)
147
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
hay một thái độ đối nghịch hoàn toàn với nội tâm (sẽ bị lật tẩy bởi một nhân vật khác
hay một bởi hành động nào đó tiếp theo).
3.3. Trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Tự sự học vốn là một nhánh của Thi pháp học hiện đại, hiểu theo nghĩa rộng nó
chuyên nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề có liên quan. Tự sự học
phân biệt rõ giữa “kể cái gì” và “kể như thế nào”, tức là có sự phân biệt giữa khái niệm
“câu chuyện” và “cốt truyện”, từ đó làm nổi bật vai trò chủ thể trong trần thuật (tức là
vai trò của người kể chuyện).
Tham khảo bài viết: Về khái niệm “Truyện kể ở ngôi thứ ba” và “người kể
chuyện ở ngôi thứ ba” [70, tr.134-145] của TS.Lí luận ngôn ngữ học Nguyễn Thị Thu
Thủy chúng tôi đã nhận thức rõ sự khác biệt giữa hai khái niệm “người tiêu điểm hóa”
và “người kể chuyện”. Theo đó “Người tiêu điểm hóa là người thể hiện quan điểm,
đánh giá của nhân vật về thế giới nhân vật, sự kiện trong tác phẩm-người mà qua
những hành động, cảm nhận, suy nghĩ-làm điểm tựa cho người kể chuyện thực hiện
hành vi kể”; còn “Người kể chuyện là người thực hiện hành vi kể, ghi lại những gì mà
nhân vật thấy, nhận vật nghĩ…”. Bài viết cũng làm rõ khái niệm “người kể chuyện
hiển ngôn” và “người kể chuyện hàm ẩn”. Vận dụng những hiểu biết đó vào việc tìm
hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi sẽ khảo sát
những kiểu người kể chuyện (NKC) như sau:
3.3.1. Người kể chuyện hiển ngôn
3.3.1.1 Người kể chuyện xưng “tôi” kể theo điểm nhìn của chính mình
3.3.1.2 Người kể chuyện xưng “tôi” đóng vai trò dẫn truyện
3.3.2. Người kể chuyện hàm ẩn
3.3.2.1 Người kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm nhìn của chính mình
3.3.2.2 Người kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm nhìn của nhân vật
Vận dụng những hiểu biết về “Tự sự học”, với tư liệu khảo sát (có chọn lọc)
gồm 40 truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy có 10 truyện có người kể
148
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
chuyện hiển ngôn và 30 truyện có người kể chuyện hàm ẩn. Trong đó ở những truyện
có NKC hiển ngôn thì kiểu NKC xưng “tôi” kể theo điểm nhìn của chính mình chiếm
ưu thế hơn (8 truyện) còn kiểu NKC xưng “tôi” đóng vai trò dẫn chuyện chỉ xuất hiện
trong 2 truyện. Như số liệu đã nêu, chúng ta thấy Nguyễn Ngọc Tư có xu hướng thiên
về xây dựng kiểu NKC hàm ẩn trong những truyện ngắn của mình. Thống kê 30 truyện
ngắn còn lại, chúng tôi nhận thấy có 20 truyện ngắn có kiểu NKC hàm ẩn kể theo điểm
nhìn của chính mình và 10 truyện ngắn có kiểu NKC hàm ẩn kể theo điểm nhìn của
nhân vật. Những con số này càng củng cố cho nhận xét Nguyễn Ngọc Tư thiên về lối
trần thuật truyền thống trong truyện ngắn.
3.4. Ngôn ngữ và giọng điệu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.4.1. Ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.4.1.1. Từ ngữ chỉ địa hình, sản vật Nam Bộ
3.4.1.2. Từ ngữ chỉ trạng thái, hành động theo kiểu Nam Bộ
3.4.1.3. Diễn đạt kiểu Nam Bộ trong lối kể chuyện
3.4.1.4. Đặc điểm câu văn trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Căn cứ vào số lượng tác phẩm đã xuất bản cũng như những đóng góp đã được
công nhận của chị, có thể rút ra nhận xét sở trường của Nguyễn Ngọc Tư là sáng tác
bằng ngôn ngữ Nam Bộ, tiếp nối truyền thống có từ Hồ Biểu Chánh, đến Sơn Nam,
Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Dạ Ngân…Đó là truyền thống viết văn như nói,
không cầu kì, trau chuốt làm mất đi sự góc cạnh và sức sống tươi rói của chữ nghĩa.
Đặc biệt ở Nguyễn Ngọc Tư, ngôn ngữ kể chuyện cũng như ngôn ngữ nhân vật đều
mang đầy đủ những đặc trưng của ngôn ngữ Nam Bộ trên các phương diện như: ngữ
âm, từ vựng, ngữ pháp và cả phong cách diễn đạt.
3.4.2. Giọng điệu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Ngôn ngữ là một trong những yếu tố góp phần tạo nên giọng điệu của tác phẩm
văn xuôi, bên cạnh những yếu tố khác như cú pháp, nhịp điệu, cách diễn đạt…Đi tìm
giọng điệu trong văn xuôi, chúng ta có thể đứng trên hai bình diện. Ở bình diện vi mô
149
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
(tức là ngôn ngữ của người kể chuyện), chúng ta thấy hiện lên trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư một lối kể chuyện hấp dẫn, tự nhiên, hóm hỉnh với lối dẫn chuyện
hồn nhiên, tựa như không còn khoảng cách giữa người kể chuyện và nhân vật, người
kể chuyện và độc giả.
Xét trên bình diện vĩ mô (tức là giọng điệu chung của cả tác phẩm), chúng ta
thấy truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư có một giọng điệu nhẹ nhàng, đằm thắm và sâu
lắng. Giọng văn ấy không chỉ thể hiện ở lối kể chuyện chậm rãi, thong dong mà còn thể
hiện ở cả ngôn ngữ của nhân vật, ở những đoạn miêu tả nội tâm của nhân vật. Văn
Nguyễn Ngọc Tư giàu cảm xúc vì những nhân vật của chị thiên về cảm nhận hơn hành
động, nhân vật thích chìm đắm trong cảm xúc, trong thế giới tinh thần của mình hơn là
hành động hướng ra bên ngoài.
Khảo sát bốn mươi truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi tạm phân loại
truyện ngắn của chị theo những kiểu “giọng” như sau:
3.4.2.1. Giọng thủ thỉ, tâm tình
3.4.2.2. Giọng hài hước, tưng tửng
3.4.2.3. Giọng buồn bã, hiu hiu, đượm đượm
3.4.2.4. Giọng triết lý bình dân
Xem xét một cách tổng quát, chúng tôi nhận thấy truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
có sự đa dạng trong giọng điệu như đã trình bày ở trên, nhưng nổi bật nhất vẫn là giọng
kể chuyện, tâm tình buồn buồn, thủ thỉ, nhẹ nhàng, mơ màng quá khứ, hoài niệm dĩ
vãng của lịch sử, của quê hương, của những số phận cá nhân nhỏ nhoi nhưng không hề
bị khuất lấp và lãng quên. Văn Nguyễn Ngọc Tư dễ khiến người đọc đồng cảm chính
vì những vấn đề chị đề cập không to tát và xa lạ, nó gần gũi nhưng lại được tâm tình
bằng một giọng điệu có thể khơi gợi sự cảm thông, khiến người ta dễ dàng cởi mở lòng
mình.
150
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
KẾT LUẬN
1. Mục đích chính của luận văn là tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư, tuy nhiên nhằm làm rõ thêm cho vấn đề đang nghiên cứu, chúng tôi cũng tìm hiểu
một cách khái lược về cuộc sống, quan niệm văn chương và những truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư đã được xuất bản cho tới thời điểm luận văn này được tiến hành. Có
thể nói, đây là một nhà văn trẻ có cuộc sống bình dị, quan niệm văn chương đơn giản
nhưng nghiêm túc. Sáng tác đều tay và thành công trên cả hai thể loại là truyện ngắn và
tạp văn, Nguyễn Ngọc Tư đang từng bước khẳng định vị trí của mình trên văn đàn
bằng những tác phẩm giàu giá trị hiện thực và xã hội, mang màu sắc và hơi hướng đặc
trưng của đất và người Nam Bộ. Đóng góp lớn nhất của chị cho tới thời điểm này, theo
chúng tôi, đó là văn phong Nam Bộ với sự độc đáo trong việc sử dụng ngôn ngữ Nam
Bộ như là một chất liệu đặc biệt để sáng tác văn chương.
2. Sau khi tìm hiểu một cách hệ thống cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy cây bút này có nhiệt huyết
dẫn dắt người đọc đi qua từng cánh đồng, từng phận người với tư cách một người trong
cuộc, một thân phận thiết tha chia sẻ và đồng cảm với những thân phận khác bất hạnh
hơn mình. Dẫu còn đó trên trang văn rất nhiều nỗi đau, rất nhiều nỗi bức xúc vì thiếu
thốn, vì nghèo nàn, thậm chí vì quê mùa mà không chạm đến được hạnh phúc nhưng
đâu đó chúng ta vẫn thấy được những nụ cười hạnh phúc, những ánh nhìn yêu thương,
những tình cảm ấm áp của những con người nhân hậu chốn đồng bằng dành cho nhau,
dìu dắt nhau qua những cơn bão tố cuộc đời với một tinh thần ham sống, lạc quan, dẫu
biết cuộc đời còn đó nhiều giông tố và đe dọa nhưng vẫn muốn sống và hễ sống là phải
sống cho “ngon lành”. Đó cũng chính là tâm hồn và khí phách từ bao đời của con
người và quê hương Nam Bộ.
151
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
3. Từ việc phân tích những thủ pháp nghệ thuật Nguyễn Ngọc Tư đã sử dụng
trong truyện ngắn của mình, chúng tôi nhận thấy Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn có biệt
tài trong việc miêu tả tâm lý nhân vật, và chị đã thành công trong việc xác lập cho
truyện ngắn của mình một văn phong Nam Bộ điển hình, một phong cách sáng tác độc
đáo mang “văn hiệu” Nguyễn Ngọc Tư không thể lẫn lộn. Đóng góp lớn nhất hiện nay
của chị trong lĩnh vực văn chương là một giọng văn hiền lành, nhân hậu, đầy tinh thần
trách nhiệm của một công dân với xã hội, của một con người biết sống nhiệt huyết và
tận tụy với người cũng như với mình. Tinh tế nhưng không quá sắc sảo, hồn nhiên
nhưng không vô tâm, Nguyễn Ngọc Tư bằng những truyện ngắn nhỏ bé của mình đã
góp phần đánh động lương tâm xã hội, thanh lọc tâm hồn của chúng ta bằng những
chuỗi khóc cười, buồn bã bi ai cùng với những số phận, những cuộc đời thấp thoáng
đằng sau trang viết.
4. Dĩ nhiên tác giả Nguyễn Ngọc Tư vẫn còn đó những nhược điểm trong nghệ
thuật viết truyện, cũng như người đọc bắt đầu cảm giác có sự sáo mòn trong hệ thống
đề tài của chị trên cả hai thể loại truyện ngắn và tạp văn, thế nhưng chúng tôi tin rằng
bằng sự vững vàng và sáng suốt, chị sẽ biết cách thay đổi để làm mới văn chương của
mình. Nam Bộ là một mảnh đất màu mỡ, là một tiểu vùng văn hoá đa dạng để Nguyễn
Ngọc Tư có thể duy trì hoạt động khai thác cho đến tận cùng con đường văn chương.
Vấn đề quan trọng là Nguyễn Ngọc Tư có làm chủ được kho tàng ngôn ngữ Nam Bộ
giàu có ấy hay không, có biết cách vận dụng nó một cách sáng tạo hay không để hình
thành cho mình một phong cách đặc sắc, một bản lĩnh sáng tạo mới. Bằng những thành
công đã đạt được, chúng ta tin rằng Nguyễn Ngọc Tư sẽ còn tiến xa hơn trên con
đường văn chương của mình.
152
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Thành Ngọc Bảo
Học viên: NGUYỄN THÀNH NGỌC BẢO
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Tên đề tài luận văn: ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ HỒNG HÀ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHVHVN038.pdf