Luận văn Đặc điểm truyện thơ trữ tình Mường

MS: LVVH-VHVN042 SỐ TRANG: 227 NGÀNH: VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM NĂM: 2008 CẤU TRÚC LUẬN VĂN LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TỘC NGƯỜI MƯỜNG VÀ TRUYỆN THƠ TRỮ TÌNH MƯỜNG 1.1. Vài nét về tộc người Mường 1.1.1. Quá trình hình thành dân tộc Mường 1.1.2. Nền kinh tế - xã hội - văn hóa Mường 1.2. Giới thiệu chung về truyện thơ trữ tình Mường 1.2.1. Về nền văn học dân gian Mường 1.2.2. Về truyện thơ trữ tình Mường 1.2.3. Các truyện thơ trữ tình Mường được khảo sát CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA TRUYỆN THƠ TRỮ TÌNH MƯỜNG 2.1. Truyện thơ trữ tình Mường phản ánh bức tranh hiện thực Mường 2.1.1. Ca ngợi xứ sở Mường giàu đẹp, trù phú 2.1.2. Sự bóc lột, áp bức của chế độ lang đạo Mường 2.1.3. Cuộc sống xa hoa của tầng lớp lang đạo Mường 2.1.4. Tư tưởng trọng nam khinh nữ 2.1.5. Quyền thế cha mẹ trong tình yêu con trẻ 2.1.6. Một số phong tục tập quán Mường 2.2. Truyện trữ tình Mường mang đậm giá trị nhân đạo, nhân văn 2.2.1. Ca ngợi những con người nhân ái 2.2.2. Những mối tình cao đẹp CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN TRỮ TÌNH MƯỜNG 3.1. Cốt truyện thơ trữ tình Mường 3.1.1. Sự hình thành cốt truyện 3.1.2. Mô hình cốt truyện 3.1.3. Một số Mô tip thường gặp trong cốt truyện 3.2. Nhận vật truyện thơ trữ tình Mường 3.2.1. Nhân vật nữ chính 3.2.2. Nhân vật nam chính 3.3. ngôn ngữ truyện thơ trữ tình Mường 3.3.1. Các biện pháp tu từ nổi bậc 3.3.2. Các nhóm dòng thơ chức năng 3.3.3. ý nghĩa các con số trong truyện thơ trữ tình Mường KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO

pdf227 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2078 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc điểm truyện thơ trữ tình Mường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
). 67. Chọn bảy ngọn ở bên dây dưới Chọn chín ngọn ở búi bên trên (2157 2158). 68. Ta chết biến với nhau cho tốt Ta cùng chết với nhau cho lành (2180 – 2181). 69. Anh uống trước nghe lâng lâng bải hoải Giống người say cơm say rượu (2104 – 2105), (2108 – 2110). 70. Anh Khói, anh Va Chết biến nên cành hoa trúc Hoa trúc dậy hay chào. Chị em nàng Thờm. Tiên Chết biến nên cành hoa đào Hoa đào hay dậy cười dậy nói (2211 – 2216). 3. NÀNG ỜM - CHÀNG BỒNG HƯƠNG 1. Việc nhà đã nhàn Việc quan đã rỗi Nhân ngồi nghỉ ngơi em kể Chuyện nhân tình khi xưa để các mẹ hay Bày chuyện đau buồn ngày trước để các mẹ biết (2 – 6). 2. Bố nhà em bố có Mẹ nhà em mẹ giàu (14 – 15). 3. Thấy em đi chơi cùng trẻ trong làng Gặp em đi chơi cùng bạn trong xóm (45 – 46). 4. Bàn chân em còn bằng lá phay pháy Bàn tay em còn bằng lá muồng muồng (36 – 37), (55 – 56). 5. Em đi chơi bản trên Anh cũng lên bản trên Em xuống bản dưới Anh cũng xuôi bản dưới (62 – 65). 6. Ăn cơm nghe nhớ em, anh kêu đến vía Uống nước nghe nhớ em, anh kêu đến tên (70 – 71). 7. Anh trộm phép mẹ đùm cơm vào lá Anh trộm phép mẹ đùm cá vào bao (73 – 74). 8. Về mùa mơ, anh hái mơ bỏ bao Về mùa đào, anh hái đào bỏ túi (78 – 79). 9. Anh chăm em như con nhà ngài chăm hoa trước vóng Anh quý em như con nhà ngài quý hoa trước sàn Qua bốn mùa hoa mơ Trải bốn mùa hoa mận (81 – 84). 10. Anh không phải giọt sương trên mặt lá Anh không phải con cá dưới khe Ngón Anh cùng em quyết chung một đường Em cùng anh sẽ đi một lối Ăn cơm chung một gian Uống nước chung một máng Xỉa răng chung một ống Chết hay sống cũng trọn một đời (103 – 110). 11. Nên mẹ nhà em chẳng gả Nên bố nhà em chẳng cho (113 – 114). 12. Em đi trâu, ngồi gốc cây nhỏ Em đi bò, ngồi gốc cây nhuối (126 – 127). 13. Mách với bố mọi đường Nói với mẹ mọi nỗi Để bố nhà em giận Để mẹ nhà em giỗi (134 – 137). 14. Như hoa vừa nở Như lửa mới nhen Hơi nhau đã quen Tiếng nhau đã biết. Như thề chẳng nên thề, nói không nên nói (148 – 152). 15. Lấy tay anh bấu em nên dấu Lấy răng anh cắn má em thành vết (158 – 159). 16. Bố nhà em hết mắng Mẹ nhà em hết chửi (174 – 175). 17. Anh ăn cơm vào dạ Anh ăn cá vào lòng (189 – 190). 18. Cho bố nhà em biết lối Cho mẹ nhà em biết đường (194 – 195). 19. Em ăn phải nắm cơm nhiều thóc Ăn phải miếng cá lắm xương (198 -199). 20. Anh chàng Bồng Hương May cho em đôi áo khóm xanh đóng khuy bạc May cho em đôi áo khóm trắng đóng khuy xanh Anh tìm cho em trái trống ống đào Anh tìm cho em dao cau bịt bạc Lấy tiền anh đi chác Lấy bạc anh đi mua (207 – 213). 21. Bố bỏ vào lò không lo mất vía Mẹ quẳng vào bếp không lo hại thân (226 – 227). 22. Em không nói ra các mẹ không hay Em không nói ra các mẹ không biết (236 – 237). 23. Anh sẵn lòng khen cơm Anh đi cho tới mạ Anh sẵn lòng khen cá Anh đi cho tới khe Anh sẵn lòng khen trai tài gái đẹp Anh phải đi cho đến bản đến mường (244 – 249). 24. Lúc này, bố nói lời khen Lúc này, bố cất lời khuyên (252 – 253). 25. Nó không nói cho em được hay Nó không bày cho em được biết (270 – 271). 26. Em van bố, bố không thương Em van mẹ, mẹ không buông (291 -292). 27. Vì anh đi trâu cùng em bên ngõ Vì anh đi bò cùng em bên nương (322 – 323). 28. Biết làm sao cho ta nên cửa Biết làm sao cho ta nên nhà, em Ờm à? (327 – 328). 29. Kiếp ta, kiếp khổ, Số ta, số khó, Trời gió, ta cũng phải qua. Sông sâu, ta cũng cứ lội. Dốc núi cao, ta cũng cứ lên (330 – 334). 30. Thương em, anh giữ trong ruột Yêu em, anh giữ trong lòng. Khăn kia ném vào rừng xanh Khăn trắng của anh đã loang lổ máu Khăn nhớ khăn thương các mẹ không thấu Khăn nghĩa khăn tình các mẹ chưa hay Tấm khăn dính máu này, Biến thành dây bông trắng trên núi Trời mưa nó nở hoa trắng Trời nắng nó nở hoa vàng (337 – 346). 31. Ăn xin trong làng được một nắm gạo Ăn xin trong bản được một cái niêu (352 – 353). 32. Em nghe nhọc trong mình Em nghe đau trong xương (359 – 360). 33. Em muốn cùng anh nên cửa Nhưng bố không cho nên cửa. Em muốn cùng anh nên nhà Nhưng mẹ chẳng cho nên nhà. Ta cùng về bên ma cho khỏi bận. Ta đi ăn lá ngón cho nó hại thân, Ta đi thắt cổ cho nó hại người (364 – 370). 34. Ăn lá ngón cho nó hại thân, Thắt cổ cho nó hại người (385 -386). 35. Cành nào đẹp ngả về phía sáng Cành nào già đưa về phía mặt trời. Này ngón ơi! Em giơ tay hái lấy, Tay phải hái chín lá đẹp Tay trái hái chín lá xinh (392 – 396). 36. Chín lá ngón thanh thanh Bảy lá ngón thăng thẳng (398 – 399). 37. Đôi trai gái muốn chơi nên cửa Bố nhà chị không cho nên cửa. Đôi trai gái muốn chơi nên nhà Mẹ nhà chị không cho nên nhà. (400 – 403) 38. Giữa đêm, bố chị còn chửi nhiều nhiều, Sáng ra, mẹ chị còn mắng lắm lắm (406 – 407). 39. Chết đen như mực Chết đỏ như vang Chết vàng như nghệ (414 – 416). 40. Thấy cơm không buồn nhá Thấy cá không buồn ăn. Em đem thân về bên ma thôi, anh ạ. Ý đã chung sao chia đôi ngả, Dạ đã thương sao chia đôi nơi? (437 - 441). 41. Tay phải anh còn đưa lên trán Tay trái anh còn đưa qua sườn em (449 – 450). 42. Chú nói điều chi nghe đến là lạ, Chú nói điều chi mà nghe thương thương (486 – 487). 43. Hôm qua tôi bắn được con lòi Đem lên núi Làn Ai đan troi chém ống Thấy nggực con Ờm có tổ kiến pống, Rống chàng Bồng Hương có ổ trứng lằng.(461 – 464), (491 – 494) 44. Bộp bộp! Sống lại, Ờm ơi! Bộp bộp! Sống lại, Ờm à! Sống lại, bố cho đi làm cửa Sống lại, mẹ cho đi làm dâu. (505 – 509) 45. Bố có cho con đi làm nhà Không cho khi còn sống nên người. Mẹ có cho con đi làm dâu Không cho khi còn con gái. (516 – 519) 46. Nhưng thân em đã úa như môn Chàng Bồng Hương đã mềm như khoai (511 – 512), (527 – 528). 47. Vì muốn chơi cùng chàng Bồng Hương nên cửa, Nhưng bố chẳng cho chơi nên cửa Con muốn chơi cho nên cửa, Nhưng mẹ không cho chơi nhà. Con phải ăn ngón cho nó hại thân Con phải thắt cổ cho nó hại người (543 – 548). 48. Đàng trước, xin bố đắp cho con một chà lá nánh Đàng sau, xin mẹ đắp cho con một cành lá vo Bố có giết chín trâu, Mẹ có giết mười bò (557 -560). 49. Con chết chớ biến nên chim Cho con nhà lang bắn Con chết chớ biến nên rắn Cho người ta đập đầu. Con chớ biến nên con sâu (563 – 567), (574 – 578). 50. Nước mắt bố tuôn như suối Nước mắt mẹ chảy như mưa (597 – 598). 51. Em chưa có con gái coi cửa Em chưa có con lứa coi nhà (601 – 602). 52. Khi các em gái đã có người mến Khi các em gái đã có người thương, Em trai đã ưng nên gả Em gái đã ưng nên cho. (614 -617) 53. Đừng chém những hàng roi dài, Chớ chặt những hàng roi thon (623 – 624). 54. Em kể lại kiếp khốn cho các mẹ biết Em kể lại kiếp khổ cho các mẹ hay (628 – 629). 55. Buổi sớm, đi đánh lưới sông cái Buổi sớm, đi đánh chài sông con (641 – 642). 56. Giữa đêm, anh đan chài vóng cái Về sáng, anh đan lưới vóng ngoài (646 – 647). 57. Giờ nhà em lắm cá Giờ nhà em nhiều cơm (649 – 650). 58. Các mẹ ở lại sống lâu trăm năm Các mẹ ở lại thêm trăm ngàn tuổi (654 – 655). 59. Nói cái kiếp khốn cho các mẹ đỡ thương Nói cái kiếp khổ cho các mẹ đỡ tủi Nhưng em không về con gà nó đợi Nếu em không về con lợn nó mong (671 – 674). 4. NÀNG NGA - HAI MỐI 1. Đầu hôm cho đánh trống cái hồi ba Sáng ra cho đánh trống đồng hồi bảy (24 – 25). 2. Cơm trong mồm chưa kịp nhá Cá trong miệng chưa kịp nhai, Trầu trong khăn chưa kịp lấy (31 – 33). 3. Bốn chục làng dưới, Chín chục làng trên (34 – 35). 4. Rửa bàn tay trắng ngần, Rửa bàn chân trắng ngà (58 – 59). 5. Vòng cổ chạm hình hoa thông bông trúc, Vòng đúc chạm hình phượng múa rồng leo (62 – 63). 6. Trời râm họp chợ bông gạo, Trời nắng ráo họp chợ cây hoa Trời dâm da kén xim tìm rớ Tìm rớ nào ai đáng rớ Tìm xim nào ai đáng xim (66 – 70). 7. Chưa gặp được người khôn nết khéo lo, Chưa gặp được nơi vừa lòng đẹp ý (81 – 82). 8. Bố nhà ta chẳng thiếu chi bạc Mẹ nhà ta chẳng thiếu chi vàng (102 – 103). 9. Lạy bố ngồi trên sập bạc, Lạy mẹ ngồi trên chiếu vàng (113 – 114). 10. Nghe lời thưa, bố đã đẹp ý, Nghe lời siếc, bố đã đẹp lòng (148 – 149). 11. Tuổi bố đã ngày một thêm, Vóc mẹ lại ngày một xuống Lên bậc thang lo bước đã cuống, Xuống bậc thang lo bước đã run (151 – 154). 12. Cho buồng cau bố mẹ lỡ già, Giàn trầu ra nhà ta lỡ hái (158 – 159). 13. Thuyền qua bến, cho anh em tôi sang cùng, Thuyền qua sông, cho anh em tôi sang với (178 – 179). 14. Người buôn đứng lại một đầy, Người bản đứng lại một bên (196 – 197). 15. Đứng đã nên đứng, Ngồi đã nên ngồi (208 – 209). 16. Cơm em ăn, một ngày kén chín thứ gộ Xống áo em mặc, một ngày chín thợ hàng may, Vòng đeo tay, một ngày chín thợ hàng bạc Chiếc khăn em thắt chắc hết chín trâu mười bò (276 – 279). 17. Có chín chục trâu, cặp trăm dây dợ, Đủ chín chục ngựa, cặp trăm dây cương (284 – 285). 18. Chín chục con lợn vậm ngà, Chín chục con gà cong cựa cùng đuôi (291 – 292). 19. Bố nhà anh khó nhiều, Mẹ nhà anh khó lắm (305 – 306). 20. Ban sớm, chín chục trâu đen đi cày dọc, Ban chiều, chín chục trâu trắng bạc đi ra cày ngang, Một trăm bò vàng bừa trang đất mạ. Cơm nhà anh ăn, một ngày hết chín thúng gạo, Áo anh mặc, một ngày chín mớ lụa vàng (311 -315). 21. Lời anh nói ra, thử dạ con cá Lời anh siếc ra, thử dạ con người (325 - 326). 22. Trời nắng, vào trú bóng đa. Trời mưa sa, phải ngồi hang đá (354 – 355). 23. Chín tấm lụa đỏ trải dọc làm chăn, Chín tấm lụa vàng trải ngang làm chiếu (357 – 358). 24. Rắp lòng ăn, xin anh đi cho tới cửa, Rắp lòng dạm, xin anh đi cho tới nhà (375 – 376). 25. Sợ bố trên nhà lại bảo anh là đứa dưới chợ buôn nứa, Sợ mẹ trong cửa bảo anh là đứa dưới chợ buôn luồng (389 – 390). 26. Anh chưa hay rồi em rồi em xin gửi, Anh chưa tỏ rồi em rồi em xin rằng (396 – 397). 27. Bố trong nhà, Chẳng bảo anh là kẻ buôn trâu bán bò dưới chợ; Bố trong cửa, Chẳng bảo anh là kẻ buôn nứa bán luồng (404 – 407). 28. Bố nhà cháu ngồi trên sập đỏ, Mẹ nhà cháu ngồi trên chiếu vàng (467 – 468). 29. Liền cặp áo mới, đóng nậu khuy vàng, Liền cặp áo hàng, đóng nậu khuy bạc (510 – 511). 30. Chín nén bạc hẹn có sông Ngang Chín nén vàng hẹn có bến Đuộng (513 – 514). 31. Trong lòng sẵn đã có liệu, Trong ý cũng đã toan. Đợi đến nhà đến cửa, Rồi đầu hôm, tâu bố ở nơi vóng giữa, Sáng tỏ, xin mẹ ở chốn gian trong (520 – 524). 32. Ngày nắng đi coi nước phai nước dầm, Ngày mưa đi lo nước mương nước cọn, Quyết làm cho nên, Đất nhiều cơm, lớn kho to đụn, Đất lắm cá, giàu binh đẹp mường (538 - 542). 33. Con chẳng đẹp lòng nhưng bố cứ gả Con chẳng đẹp dạ nhưng bố lại ưng (558 – 559). 34. Trời râm, nàng viết vội tờ giấy trắng, Trời nắng viết tờ giấy vàng (576 – 577). 35. Thật lòng thương em, Anh mau đưa mơ đến cửa. Thật dạ thương em, Anh mau đưa mối đến nhà.(585 – 588). 36. Ban sớm, tôi còn phải đi hút bông đào, Ban trưa, lo mau đi hút bông mơ bông mận (608 – 609). 37. Hỡi chim cu trống, chị một lòng cậy, Hỡi chim cu mái, chị một lòng nhờ (619 – 620). 38. Chim ơi, chị một lòng đợi, Chim hỡi, chị một lòng chờ (640 – 641). 39. Hạt ngô đen đen đeo vào quanh cổ, Ngô trắng ngô đỏ đeo vào quanh mình (661 – 662). 40. Bay tắt ngang đã lắm đồng nà, Bay tắt qua đã lắm đồi bái (666 – 667). 41. Bay đường dài, đôi dò đã mỏi, Bay đường ngái, đôi cánh đã nhừ (471 – 472). 42. Đầu hôm cho đánh ba hồi cồng bảy, Ngủ dậy cho đánh ba hồi chiêng năm (703 – 704). 43. Tháng giêng, tôi chẳng trộm vịt nhà ai, Tháng hai, tôi không bắt gà nhà người (727 – 728). 44. Đàn vịt ăn bên kia bờ nà, Đàn vịt ăn bên kia bờ hón (742 – 743). 45. Chết sấp như cây đa cạnh bãi, Chết dại như cây bương cạnh sông (785 – 786). 46. Cơm không buồn nhá, Cá không buồn nhai (817 – 818). 47. Con chẳng thiếu việc vua, Con chẳng thua việc quan (828 – 829). 48. Rồi ban sớm bố cho con, Cưỡi ngựa đực đen đi xuống. Ban chiều, mẹ cho con, Cưỡi ngựa đực trắng đi lên (857 – 860). 49. Đầu hôm, chàng vào lạy bố ở chốn ngăn ngoài, Sáng ngày, lạy mẹ ở chốn gian trong Lạy bố ngồi trên sập bạc, Lạy mẹ ngồi trên chiếu vàng. Xin bố mẹ cho con, Bốn mươi nén bạc, con đi ăn đàng, Bốn mươi nén vàng, con đi ăn sá, Thà con đi liều thân cho quạ, Liều xác cho cá mương mương, Liều xương cho mối cùng kiến (871 – 880). 50. Bố chẳng cho con đi xa mà hại, Mẹ chẳng để con đi ngái mà thương (888 – 889). 51. Thuở, dưới sân đốt hết một đống củi khô, Trên nhà ăn hết một bồ muối nướng. Bố kiêng củ đã lắm, Để con khỏi ngứa vì đòi ăn theo. Mẹ kiêng cá đã nhiều, Để con khỏi đòi ăn theo lại hóc. Đầu hôm, con nằm với bố ở chốn gian ngoài, Gà gáy, con đòi bú mẹ ở chốn gian trong (894 – 901). 52. Nơi gần chẳng thiếu chi người tốt gái, Nơi ngái chẳng thiếu chi người đáng bà (915 – 916). 53. Hỏi nàng Mường Vống cho ông vừa lòng, Hỏi nàng Mường Sáng cho ông vừa ý, ông hỡi. (924 – 925). 54. Nàng Mường Sáng má trái trôi, Nàng Út Chi môi trái trám (932 – 933). 55. Có sống, tôi sống cùng nàng Nga trọn kiếp, Có chết, tôi chết cùng nàng Nga trọn đời (962 – 963). 56. Con trai khuyên, chàng tuốt dao Con gái khuyên, chàng tuốt kiếm (977 – 978). 57. Tội đáng chết, em tha, Tội đáng con lợn, em bắt con gà Tội đáng con gà, em ăn miếng, Em chịu khốn làm cho binh có, Chịu khó làm cho mường giàu (1006 – 1010). 58. Lời anh dặn em chưa kịp dạ Lời anh tạ, em chưa kịp vâng (1016 – 1017). 59. Trời mưa sa, xin bố đừng nhớ lặng, Trời nắng, xin mẹ đừng nhớ thương (1026 – 1027). 60. Bố nhà em đang chực, Mẹ nhà em đang chờ (1109 – 1110). 61. Rắp lòng ăn, mời anh vào bóng mát, Rắp lòng uống, xin mời anh vào chỗ râm (1150 – 1151). 62. Mượn chiếc áo vá mặc vào lôi thôi, Mượn chiếc áo rách mặc vào lếch thếch (1252 – 1253). 63. Gươm vàng có chặt ra làm bốn, Gươm đen có chém ra làm ba (1281 – 1282). 64. Chín nén bạc ai trao ở ngọn sông Ngang, Chín nén vàng ai nhận ở nơi bến Đuộng (1297 – 1298). 65. Quần lành sao anh chẳng mặc, Áo lành sao anh chẳng mang (1312 – 1313). 66. Anh đành bỏ cha ngồi trên sập bạc, Bỏ mẹ ngồi trên chiếu vàng, Bỏ hết chú bác họ hàng, bỏ binh gia lính tráng? Mất công bố gói chín đùm cơm cho đi ăn sá, Mẹ gói chín đùm cá cho đi ăn đường (1328 – 1332). 67. Được cơm bỏ muối, Được đọi bỏ mâm (1335 – 1336). 68. Đánh trâu, trâu chạy vào bái, Đánh con, con chạy vào lòng. Dù chín nghìn lần trăng mọc, Dù chục nghìn lần trăng tròn (1350 – 1353). 69. Đầu hôm, ngó sao đầu áng, Sáng ra, ngó sao đầu mường. Thư gửi giấy trắng Tin nhắn đi từ mùa năm ngoái, Tin nhắn lại từ mùa năm xưa (1366 – 1370). 70. Hai Mối bàn trước, bàn đã hết đàng, Nàng Nga tính sau, tính đã hết lẽ (1401 – 1402). 71. Em mua cơm anh cũng không nhá, Em mua cá anh cũng không ăn (1411 – 1412). 72. Anh đừng ăn lá ngón làm chi hại vóc, Đừng thắt cổ làm chi hại mình (1416 – 1417). 73. Rồi trời mưa, có nhớ đến anh chăng, em nhìn lên gốc mây trắng; Trời nắng, có nhớ đến anh chăng, nhìn dặng mây vàng; Đêm trăng tròn trăng trong, nhớ đến anh chăng, Em nhìn lên nhành mây sương mây gió (1424 – 1427) 74. Em chẳng cho anh đi biến một mình, Em chẳng để anh đi riêng một kiếp (1429 – 1430). 75. Buổi sớm, em làm như trâu lộn ách Buổi chiều, em ở như chạch lộn bờ (1446 – 1447). 76. Gặp người nơi đất cậu Mường Vống, Gặp người nơi đất mộng Mường Khương (1478 – 1479). Thua cờ đi lạc, Thua bạc đi rài (1478 – 1481). 77. Rằng: “Việc nước bỏ sao được một ngày, Việc binh mường bỏ sao được một tháng (1493 – 1494). 78. Sao đau hại đường ni, hỡi đất! Sao đau xót đường ni, hỡi trời! (1571 – 1572). 79. Bố tốt mới sinh được con Nga tốt, Mẹ lành mới sinh được con Nga lành (1610 – 1611). 80. Bố cho làm ma để hồn chàng khỏi oán Mẹ cho làm chay để vía chàng khỏi sầu (1614 – 1615). 81. Áo đẹp nàng từng thay, Quần đẹp nàng từng mặc (1626 – 1627). 82. Bên sống ta đà chịu thiệt, Bên chết ta đà phải bù (1631 – 1632). 83. Chọn trăm con bò, sừng bằng lá nánh Chọn trăm con trâu, sừng bằng lá va vo (1654 – 1655). 84. Nơi buồng ta ăn, sợ có người bỏ thuốc, Nơi buồng ta ngủ, sợ có kẻ đặt bùa. Về mai sau, Duyên chẳng còn ưa, Tình chẳng còn đẹp (1674 – 1678). 85. Giục quân nhanh bước, Giục quân nhanh chân (1684 – 1685). 86. Vịn thang rồng, em lên bậc một, Vịn thang ngọc, em lên bậc hai (1752 – 1753). 87. Dối nhà chồng là một lần xim rớ, Dối nhà bố từ một độ tình riêng (1775 – 1776). 88. Đánh bằng vọt sợ nàng khó chạy, Đánh cạnh chổi sợ nàng xót xa (1789 – 1790). 89. Cho xim gặp rớ, Cho vợ gặp chồng (1845 – 1846). Phụ lục 4: MỘT SỐ ĐOẠN THƠ ĐẶC SẮC TRONG TRUYỆN THƠ TRỮ TÌNH MƯỜNG. Truyện thơ trữ tình Mường rất hấp dẫn về cốt truyện, lời thơ trữ tình đằm thắm nhưng ít được nhiều người tiếp cận. Vì lẽ đó, chúng tôi xin giới thiệu một số đoạn trích tiêu biểu trong truyện thơ trữ tình Mường để người đọc được thưởng thức. 1. ÚT LÓT - HỒ LIÊU Út Lót - Hồ Liêu là một trong những truyện thơ dân gian Mường được nhắc đến nhiều nhất. Nhận xét của Phan Đăng Nhật về truyện thơ này như sau: “Có thể nói từ khi ở trong nôi, mỗi người Mường được nghe, nghe hát về Út Lót - Hồ Liêu. Đến tuổi bắt đầu nhận xét ít nhiều về cảnh vật xung quanh, họ lại được bà mẹ kể cho nghe về sự tích đàn bướm lạc tháng Ba, năm năm lại tái sinh và bay qua bay lại dập dờn đông vô kể ở các nẻo rừng, về con cày cun rũ rượi, buồn bã đáng thương như người nuối tiếc điều gì đến trọn kiếp”[97, tr. 406]. Đoạn trích sau được trích từ câu 1100 - 1323 (hết). Đoạn trích kể về việc Út Lót không đến thăm Hồ Liêu, bèn nhờ chim chèo pheo mang cơm, bánh đến cho chàng. Dọc đường, thèm ăn, chim ăn hết mà còn đổ lỗi cho Út Lót đã trách chàng, khiến Hồ Liêu đau đớn đến chết. Sau đó, nàng nhận lời mối mai của đạo Cun, nhà ở hướng mồ chôn Hồ Liêu. Trong ngày cưới, nàng đến thăm mộ và gọi Hồ Liêu. Chàng mở cửa mộ đón nàng vào. Hai họ đưa dâu biến nên đàn bướm trắng, đạo Cun biến thành con cun cầy. Bấy giờ, Nàng Út Lót vội đùm cơm lá dong, Đùm bánh trong cái dón; Sắp áo cùng nón, Đã đi đến nửa đồng, Bỗng gặp cơn dông gió trái; Đi đến giữa bái Gặp hoẵng kêu: “Trở lại đừng đi”. Đi đến rừng cây si, Nghe tiếng từ quy kêu nên xao xác. Em bước chân đi đến đất bạn tình sao nghe đã khác Như con chim ác lạ cành, Như con chim xanh lạ tổ; Lạ như chân con chim mái đỏ, Như mỏ con chim hoa đào Bay lên núi cao mà không núi đỗ. Nàng mời gọi con chim chèo pheo tìm mũ Dặn rằng: -“Ơi chim chèo pheo! Chị ra đi, nước vang đậm chẳng để chị đành, Nước chàm xanh chẳng cho chị bỏ; Về ông mày ăn: sớm đỡ, chiều lành, Gắng cơm canh rồi có ngày lại gặp” Giận cho con chèo pheo Chẳng thương đạo Hồ Liêu cho trót, Chẳng nhớ lời Út Lót cho xong, Thấy thèm lòng đã mở cơm nếm lạ, Thấy đói dạ đã mở gói nếm quen, Đã cơn thèm còn chi của bậu, Thỏa lòng xấu còn chi của người! Còn sót chút xôi gấc đỏ tươi, Lại dính vào dưới đuôi cho đẹp, Bay trở lại nói rằng: -“Nàng Út Lót bận may áo hẹp, Bận kéo áo chùng, Ai chẳng muốn làm cửa nhà chung, Gỡ chẳng xong thì chết!” Thương cho đạo Hồ Liêu, Nghe chèo pheo tưởng thật, Đau lăn cơn ngất, Đau vật cơn mê, Giận thương trái lời thề cùng bạn, Kêu rằng: -“Mặt trời dâng lên sáng sáng, Mặt trăng dâng lên đầy đầy, Đêm đầy, ngày đủ, tháng thiếu; Thiếu tháng còn tháng, Thiếu năm còn năm, Người thiếu cơm cần người còn cơm móc; Ta thiếu bạn ngọc Như cây vía lìa gốc héo cành, Thiếu bạn tình, ta như cây lim héo côi; Ta sống sao nổi, hỡi trời!” Kêu dứt lời Hồn đã về nơi kiếp khác… Nàng Út Lót từ đó trở về, Mẹ thường khuyên chẳng chuyển, Cha khiến chẳng nỡ rời: -“Thương mơi, con ơi! Lặn mặt trời, mặt trời lại mọc, Cạn giếng ngọc, rồi lại đổi mưa. Hết tháng tang đợi, hết tuổi tang chờ, Con ở lửng lơ một thân sao được!” Khi ấy, Nhiều nhà lang lớn chức, Lắm bậc lang lớn quyền; Ở dưới con người nhắn lên, Ở trên con người hẹn xuống; Mấy trăm nén nghìn vàng cũng chuộng, Mấy trăm trâu nghìn ruộng cũng tham, Nô nức đến xin hỏi nàng Út Lót, Ông mối Mường Khầm bước lên cửa trước, Bà mơ Mường Trác bước lên cửa sau; Một vườn mận, năm ba kẻ xin rào, Một vườn đào, năm ba người xin giữ, Bà cô bà bác cũng khuyên, cũng nhủ, cũng nhủ, cũng dành: -“Cháu muốn hái lá, năm ba kẻ vin cành, Cháu muốn ăn canh, năm ba người xin đi đánh cá; Chẳng thiếu nơi tốt danh lành giá, Chẳng thiếu nơi tốt mạ lành cơm. Cháu còn đợi nơi nào hơn cho được?” Nàng Út Lót trước tìm lẽ chê rằng: -“Gả về dưới, em chẳng quen ra bến gánh nước, Lấy về ngược, em chẳng quen vác nước ống bương” Bây giờ, nói rằng: -“Em chẳng tham nơi tốt rẫy giàu nương, Chỉ lấy về nơi nào thuận đường, Qua gốc khuên vàng đi ra kẻ chợ” Ở về mạn gốc khuên vàng, Sắm lễ sang cậy người lại hỏi, Đạo Tu Liêng chê rằng nhiều tuổi, Chưa chịu nhận lời mối lời mơ, Nhưng chẳng ngờ Út Lót lại vui lòng đẹp ý, Nói rằng: -“Đò chèo qua sông, chẳng hoài công cắm lại, Đò trở lại chẳng nỡ chống đò lui, Bố cho nhà người được đem cơi trầu mâm cau đón đợi!” Mẹ cũng chẳng nhận lời mơ lời mối, Nàng lại bàn rằng: -“Chỉ chẳng bền, bảo đợi giặt nước xiết giữa dòng, Đợi giặt nước trong giữa hón; Một lần quai sẩy hai lần nón, Chẳng kén chọn chi lâu, mang điều, mẹ ạ!” Bấy giờ, Tháng Chín đã qua, Tháng ba đã tới: Nhà đạo Cun sắm sanh lễ cưới; Tiếng đồn đi: chiếu cạp trải nghìn đôi còn mới, Tiếng đồn tới: vàng trăm nén đúc ra còn nguyên Xôi gánh đầy trăm chiêng, Rượu khiêng đầy trăm đòn trai khỏe, Nhà đạo Tu Liêng Cũng mượn đủ bốn mươi mụ mái già, Ba mươi mụ mái non, Một nghìn trăm con gái vừa mới lớn. Có sanh bốn mái nhà, Có sanh ba rửa gót, Sắm quần áo tốt cho người bạn dâu, Sắm rộng tiền khao cho người vác chiếu, Sắm sửa chẳng thiếu những chi cùng chi, Đám cưới bước đi, Mười mường xem tới chật đường, Người khen đẹp, Kẻ khen sang; Thẳng gốc khuên vàng, đàng ra Kẻ Chợ, Nàng Út Lót dừng lại nói rằng: -“Xin chú bác đứng lại một đàng, Xin họ hàng đứng lại một mé, Để cho tôi được ghé thăm Hồ Liêu một chút!” Nàng bước đến bên mồ giậm gót, Kêu rằng: -“Đạp đạp, đất rã! Đạp đá, đá rời! Đạo Hồ Liêu anh ơi, Chống nắp săng đồng cho em vào với!” Đạo Hồ Liêu, trong săng đồng đang ngồi đan lưới, Nghe tiếng gọi, chống cửa mộ cao, Đón bạn tình vào, Bây giờ mới gần nhau mãi mãi, Nàng Út Lót bảo họ trai, họ gái: -“Ai lại thì lại, Ai đi thì đi, Đừng lơ lửng làm chi mà nên đàn bướm lạc!” Thương cho đạo Cun Hết vàng hết bạc Chẳng được vợ hiền; Thương tiếc lo phiền, Biến nên con cầy cun tháng Ba gầy xác Họ hàng chú bác, Biến nên đàn bướm lạc tháng Ba Bay lại bay qua Gốc khuên vàng đàng ra Kẻ Chợ. 2. VƯỜN HOA NÚI CỐI. Đây là một tác phẩm rất nổi tiếng ở các vùng Hòa Bình và Sơn la… Tác phẩm được nhân dân yêu mến và còn được dùng để ca hát trong sinh hoạt dân gian, đặc biệt là hát mỡi của người Mường. Đoạn trích sau được trích từ câu 1804 - 1153. Đoạn trích kể lại việc anh Va, Khói trở lại thăm nàng Thờm, Tiên thì mới hay cha mẹ hai nàng đã nhận đạo Trần, đạo Trà làm rể trong nhà. Bốn người rủ nhau uống rượu hòa với lá ngón để được gần nhau mãi mãi. Mặt ma trời hửng sáng rạng ra, Hai chàng trông xa nhìn lại, Thấy chùm trái chu đồng, Nhìn chùm bông hoa quế, Cây chu đồng đã bén trái. Nhìn vào cổng cái nhà nàng Thờm, Tiên, Thấy nàng còn đẹp duyên như khi mới nở Hai nàng từ trong nhà, trong cửa đi ra, Hai chàng anh Khói, anh Va, Cùng đưa chân bước tới. Cô gái nàng Thờm, nàng Tiên lại chào: -“Hai anh vào chơi anh à, Anh từ đâu mà sớm lắm? Mong anh từ rằm tháng ba, Cho qua rằm tháng chín. Sao anh nhân đức lòng kín, Chín đạo lòng thành, Lòng thương nhiều thế hỡi anh! Tiếc công em ăn đợi ở chờ Từ những buổi năm qua” Anh Khói, anh Va lại rằng: -“Thương nhiều thương lắm em hỡi, Thương ơi thương lắm em à, Chúng mình đôi ta quyết làm cửa Lời hứa đôi ta quyết làm nhà, Anh đã bỏ bà cho về Mường Tráng, Đã bỏ vợ cho về Hang Lòn. Vợ anh chẳng còn, Con anh chẳng có, Thân anh khốn khó sầu thương. Bố anh đương tuổi về già, Mẹ anh cũng đã yếu, Anh còn phải lo liệu trong nhà. Từ rằm tháng ba, Qua hết rằm tháng bốn, Lộn đến ngày tháng năm, Hàng trăm công nghìn việc. Tiếc sức anh sức không, Tiếc công anh công uổng, Tiếc đường anh đi lối anh lại. Lòng con trai lòng dại, Bụng con gái bụng ngoan, Tham dòng vua quan em đi chọn lấy Sao em lại ăn tệ ở bạc cho anh, Càh hoa thông đã sắp bén trái, Anh xin quay chân trở lại”. Cô gái nàng Thờm, nàng Tiên, Nước mắt chảy hai bên gò má, Bước chân đi ngăn đường đòn sá; Không nói với anh Va một lời, Không cười với anh Khói một tiếng, Bước chân lại cạnh giếng ngồi: -“Em mời anh Va lại đây em nói, Mời anh Khói lại ngồi e thưa. Công em chờ từ năm xưa năm ngoái, Chờ cho tới năm nay, Đợi anh lòng chay dạ suông, Mặt trời xế xuống ngày nào cũng mong, Ngóng trông từ rằm tháng ba, Qua hết rằm tháng bốn, Đến hết cả tháng năm, Công thêu khăn không gửi cho ai đến. Chờ anh tận ngày tết, Đợi hết cả năm mùi; Lòng em những ngậm ngùi, Như cây rau mùi héo ngọn, Chờ anh đã trọn một năm, Đến ngày rằm, mười lăm tháng sáu, Bố mẹ em bắt chấu vào nhà, Anh em đạo Trần, đạo Trà, Về nhà làm đứa rể thằng chồng, Làm công để nuôi bố mẹ. Em chẳng lấy đạo Trần, đạo Trà, Bố mẹ trong nhà Đem ra làm khuôn làm phép, Kẹp em bằng cùm cây tre, Đánh cho cặp kè hai bông hông, Nửa chết nửa sống ngang bằng, Em lấy đạo Trần, đạo Trà, Như con gà diều hâu đánh. Diều hâu đánh còn hay rơi, Thân em như giáo thiên lôi xuống đánh. Tránh sao nó cũng về nhà, Đến nay em không qua lời tiếng nói, Bố, mẹ chửi mắng, gièm pha!” Anh Khói, anh Va rằng: -“Đẹp lòng bố mẹ kén được người danh giá, Đẹp dạ chọn được người có công, Em có đứa rể thằng chồng, Cành hoa thông sắp bén trái, Anh xin quay chân trở lại, Trái chân quay trở về liền!” Cô nàng Thờm, nàng Tiên, Nước mắt rơi đầy hai bên gò má; -“Hai anh quá chân ở lại, Em dại còn anh khôn; Đã có tiếng đồn, Anh khôn lại vừa khéo; Em đang chết héo trong lòng, Chết vàng chết úa trong dạ. Anh đi chia cửa xẻ nhà, Cho em với đạo Trần, đạo Trà, Cho ai ra đàng phía ấy; Hay anh chỉ đàng hướng lối, Cho em tới gốc ngón vàng Tìm đàng em tới gốc ngón đắng, Để em vắng tiếng vắng miệng một khi, Không hòa thêm chi kiếp con gái Xin em ở lại hôm nay, Để em chia tay đi về đất đống, Quay lưng đi về mường bên ma!” Anh Khói, anh Va lại rằng: -“Không bực chi đâu em hỡi, Em không phải quay lưng về nhà đồng. Không phải quay lưng về mường ma. Em không muốn lấy đạo Trần, đạo Trà, Em về trong cửa trong nhà, Xuống sân em chửi con gà, Trèo nhà em chửi con chó, Em nhăn nhó với con mèo Làm điều rơi cuốp rơi viếng Tiếng ăn lời nói, Em xui giục bố mẹ trong nhà Cái gì của đạo Trần, đạo Trà Của gì còn trong nhà vào mà lấy, Không khiến ai nuôi bố mẹ cho ta. Để đạo Trần, đạo Trà, Nghe bực lại xót xa, Ba đêm ba ngày nó quay trở lại” Cô gái nàng Thờm, nàng Tiên, Nghe thật lời tiếng ấy, Dậy nhủ nhắn, dặn dò, Với hai chàng anh Khói, anh Va. Hai nàng đưa nhau trở lại, Trái chân trở về nhà; Xuống sân nói chửi con gà, Về nhà mắng mèo, đập chó, Gọi đạo Trần, đạo Trà là mày là tao, Rằng: -“Của chi trong nhà vào mà lấy, Chẳng khiến ai nuôi bố, mẹ cho ta” Đạo Trần, đạo Trà Nghe khốn khổ xót xa, Dậy nói với bố, mẹ lang già: -“Công ăn việc làm con không lười biếng. Tiếng ăn lời nói của cô nàng Thờm, Tiên. Nghe phiền cho con lắm lắm, Nghe hại thân con cũng nhiều, Để buồng dâu, buồng rể buồng suông Con nằm buồng không chiếu lạnh, Chẳng tiếng chẳng miệng nói, cười. Con ở nhà ngoài, Đang ăn mải ở, Em từ ngoài cửa ngoài đồng, Đi về trong sân, trong nhà, Sắm sửa áo lượt quần là, Từ trong nhà bước chân ra; Xuống sân chửi con gà, Về nhà mắng con chó; Chửi con cả họ cả tên, Chửi con là thằng quen thân mất nết. Chửi hết lời chẳng thiếu thứ chi, Đi về con lo áy náy, Bố, mẹ xây cửa dựng nhà, Người già hai bên đều rõ, Em chê con lú thì đưa con lại, Chê con dại thì đưa con ra Con ở trong cửa trong nhà, Sao cho qua thời hết thế!” Bố, mẹ lại dồn rằng: -“Con không lo chi những điều tiếng ấy, Con ăn vậy ở vậy trong nhà, Khuya sớm vào ra, con cứ ở, Bố mẹ sẽ than thở đừng lo; Có nghe lời nào con cứ lặng, Không buông lời nặng tiếng làm chi” Bố, mẹ lang già, Đi sắm bữa cơm ăn rượu uống. Ăn cơm ngồi vóng. Thôi cơm lên ngồi vóng cái, Gọi hai con gái ngồi lại vóng đông Rằng: -“Thương nồng thương ơi con hỡi, Thương lắm thương ơi con à, Mẹ con tuổi đã già Cha con năm nay đã cao, Trông vào con, lòng phiền lòng mỏi, Năm xưa con còn thơ dại, Năm nay nên nàng nên gái, con khôn. Thiên hạ đồn xa, con đã có tiếng, Con iỉng bố, iỉng mẹ, biết lời, Nên con giỏi con khôn hơn người; Con nghe lời chú, bác, họ hàng, Nên gái đẹp, bà nàng; Nghe lời đàng, Nên cơm hàng cháo chợ. Chớ nghe tiếng thim tiếng rớ, Đừng nghe đầu chợ cuối hàng, Như nàng Nga với chàng Hai Mối, Nghe tiếng bạn nên người bất nhân Hai anh đạo Trần, đạo Trà, Vào nhà làm rể làm chồng, Của nó đã nồng, công đã có; Con chớ mắng chó,đập mèo, Nghe theo lời mẹ mới yêu” Cô gái nàng Thờm, nàng Tiên, Nước mắt rơi đầy hai bên gò má. Lấy vạt lá áo lụa vàng, Lau ngang nước mắt chảy, Vắt tay vòng vòng thành nếp. Xếp tay vào ngực vào lòng: -“Thương nhiều thương ơi bố hỡi, Thương lắm thương ơi mẹ à, Con còn chàng anh Va, anh Khói; Tiếng nói hứa hẹn cùng nhau, Từ đầu rằm tháng ba, Qua năm mùi đến nay, Con những lòng chay dạ suông, Con quyết đường tình đường nghĩa nơi xa. Cửa nhà bố mẹ nó chẳng giàu, Cũng không lo câu đói khó; Họ mạc thì sang, Có người ngồi ngang trên chiếu. Chẳng thiếu thốn chi lụa, phà, Mà phải dệt phà nóc vải; Dựng lụa nóc lụa mới phải, Dựng vải nóc vải mới bền; Nóc phà dệt lên khung vải lót. Điều lành tiếng tốt bố mẹ dặn dò, Không đời nào cho quên, Thiếu chi nơi làm mền chăn kép, Nơi giàu sao bố không ép, Người khôn người đẹp mẹ chẳng cho, Gò con lấy người chết xác, Bắt con lấy thằng đạo Trần, đạo Trà, Người già người non ai cũng ghét; Hay nói phét có tài, Dài mồm, cong môi nói chõ, Đan giỏ không hay Đâm xay không biết, Trộm vặt có tài, Hoài thân con lắm lắm, Ngẫm đi nghĩ lại mà thương. Chồng chẳng chồng thì chớ. Chẳng chồng chẳng vợ thì thôi, Chẳng kiếp đời nào, Làm công toi thằng cơm thừa muối ế”… Nàng Thờm, Tiên lại gò bên dưới, Thấy những dây ngón vàng, Nó leo ngang thành rặng; Gò bên trên thấy dây ngón đắng, Văng vẳng tiếng Thường, tiếng Rang, Nàng đến gần khẽ gọi, Đi đến cội gọi rằng: -“Thương nhiều thương ơi ngón hỡi, Ta còn chờ đợi ngón dây, Ngón còn đi chơi mường sống, Ngón còn đi nhởi mường bưa; Buổi mưa ngón đi chơi trên rặng, Trời nắng ngón đi chơi dưới gốc; Ta kêu, ngón ở đâu thì lại. Gọi chàng ngón đắng chàng leo sang, Gọi anh ngón vàng anh leo lại; Lại để ra hoa nở trái, Lại mà ra hoa mọc cành, Lấy cho anh Khói, anh Va, Đều về làm cửa làm nhà bên ma, Cho đôi chúng ta vắng vẻ”. Cành ngón đắng khẽ khẽ ngả sang, Cành ngón vàng nghiêng nghiêng ngả lại…. 3. NÀNG ỜM - BỒNG HƯƠNG. Truyện thơ Nàng Ờm - chàng Bồng Hương, một thiên tình ca bi thảm, một sáng tác đặc sắc của đồng bào Mường. Nhận xét của GS. Hoàng Như Mai thì truyện thơ này là: “Một công trình nghệ thuật tuyệt mỹ, để nói lên một lời cầu xin cho con người được giải phóng, để không ai phải chết vì mối tình tuyệt vọng…”[79, tr.267] Đoạn trích trích những đoạn kể về tình cảm thắm thiết của đôi trai gái. Cha mẹ Ờm ngăn cản, không cho họ yêu nhau. Cha mẹ giữ Ờm trong nhà đánh đập, cô thoát ra được. Chàng Bồng Hương ở ngoài đem nàng lên núi trốn, họ cùng nhau ăn lá ngón để được mãi mãi ở bên nhau. -“Ăn cơm nghe nhớ em, anh kêu đến vía, Uống nước nghe nhớ em, anh kêu đến tên; Anh đã mến đã thương, đã yêu cùng nhớ, Anh trộm phép mẹ đùm cơm vào lá Anh trộm phép mẹ đùm lá vào bao, Anh vượt mấy dốc cao, Anh lội bao suối thẳm, Ăn cùng anh cho đỡ thương đỡ nhớ!” Về mùa mơ, anh hái mơ bỏ bao, Về mùa đào, anh hái đào bỏ túi Anh nhường phần em, Anh chăm em như con nhà ngài chăm hoa trước vóng, Anh quý em như con nhà ngài quý hoa trước sàn Qua bốn mùa hoa mơ, Trải bốn mùa hoa mận, Còn phòng cho đến đôi mươi, Mái tóc đã xanh, Em đã nên người, May áo khách dài, Nói lời con gái. Đã rộng đường bên trai bên gái: Em đi chơi trai cùng anh trên nương hôm sớm. Cây cau nhà anh đã lớn, Lá trầu nhà em đã xanh. Lòng muốn cùng anh nên nhà nên cửa Nhưng miệng chưa dám mở. Mà lời chẳng tiện thưa Sợ ròi lời nói gió đưa, Như cây đu đến muag rụng lá. Không nên cơm nên cá Chẳng thành rẫy thành nương, Nhưng anh Bồng Hương, Đã nói lời thương: -“Anh không phải giọt sương trên mặt lá, Anh không phải con cá dưới khe Ngón. Anh cùng em quyết chung một đường Em cùng anh sẽ đi một lối Ăn cơm chung một gian Uống nước chung một máng Xỉa răng chung một ống Chết hay sống cũng trọn một đời. Nhưng nước suối khi đầy khi vơi, Lòng mẹ cha có như lòng ta muốn. Nên mẹ nhà em chẳng gả, Nên bố nhà em chẳng cho Nên đành lòng đi đêm về tối Bắt đom đóm làm đèn, Lấy áo em thay làm nón; Em vượt suối sâu, qua lùm lá ngón Đi chơi cùng chàng Bồng Hương. Nhưng bố mẹ chẳng thương, Chửi em hết điều, Mắng em hết lời. Em đã thương anh rồi, Khi xa nhau nghe nhớ, Lúc vắng nhau nghe thương, Em đi trâu, ngồi gốc cây nhỏ, Em đi bò, ngồi gốc cây nhuối. Em cùng chàng Bồng Hương Hái chung một con vườn Dâu non lắm lộc, Nắm to là tay em hái Nắm nhỏ của chàng Bồng Hương… Các cố các mẹ ơi! Tình thương nghĩa nhớ Như hoa vừa nở, Như lửa mới nhen, Hơi nhau đã quen, Tiếng nhau đã biết; Như thề chẳng nên thề, nói không nên nói, Xa nhau thì đợi, vắng nhau thì thương; Đi đêm anh chẳng sợ sương Qua chín con mương, Lội mười con suối; Tình anh ngày càng đắm đuối, Lấy tay anh bấu em nên dấu, Lấy răng anh cắn má em thành vết;… Mỗi năm có mười hai tháng, Mỗi tháng ba mươi ngày đêm, Đêm nào anh cũng đến nhà em, Ăn chực nằm chờ, Những hôm cơm chưa ăn vào dạ Cá chưa ăn vào lòng, Em ngồi ăn cơm nhà trong Nuốt không trôi qua cổ. Không ăn thì em sợ, Ăn vào miệng nghe chẳng ngon, Nên miếng ăn miếng bỏ, Lật dìn, đưa xuống cho chàng Bồng Hương: -“Anh ăn cơm vào dạ, Anh ăn cá vào lòng, Cơm này cơm nhớ cơm mong, Ăn đi mà yên lòng chờ đợi!”… Chàng Bồng Hương từ lâu đứng đợi, Anh bế em vào nách, Anh ôm em ngang lưng, Đem em vào rừng âm u vắng vẻ. Anh bước, bước đi nhà nhẹ, Bàn tay anh khẽ nâng niu. Máu em rải ra đường dọc một chiều… Anh thương em nhiều, Anh thương em lắm, Lấy khăn tay thấm máu đào: -“Anh biết vì sao mà em phải khổ, Vì anh đi trâu cùng em bên ngõ, Vì anh đi bò cùng em trên nương, Cho bố mẹ chẳng thương Nên em phải chịu đường roi vọt roi thon, Em phải chịu điều giận tiếng hờn của cha của mẹ; Biết làm sao cho ta nên cửa, Biết làm sao cho ta nên nhà, em Ờm à? -“Anh ơi! Kiếp ta kiếp khổ, Số ta số khó, Trời gió, ta cũng phải qua, Sông sâu ta cũng cứ lội, Dốc núi cao ta cũng cứ lên. Anh ơi! Chớ lau máu em, Càng lau lại càng đau buốt. Thương em, anh giữ trong ruột, Yêu em, anh giữ trong lòng, Khăn kia ném vào rừng xanh”. Khăn trắng của anh đã loang lổ máu, Khăn nhớ khăn thương các mẹ không thấu, Khăn nghĩa khăn tình các mẹ không hay, Tấm khăn dính máu này Biến thành dây bông trắng trên núi. Trời mưa nó nở hoa trắng, Trời nắng nó nở hoa vàng… Các cố, các mẹ ơi! Em giẫm chân xuống đất kêu trời kêu ma; Tiếng em vọng xa vào trong hang đá. Ngón ơi! Em kêu tên lá, Ngón ơi! Trên núi Làn Ai, Cành nào đẹp ngả về phía sáng, Cành nào già đưa về phía mặt trời! Này ngón ơi! Em giơ tay hái lấy, Tay phải hái chín lá đẹp. Tay trái hái bảy lá xinh, Giữa buổi ban chiều, nắng đẹp trời xanh. Chín lá ngón thanh thanh. Bảy lá ngón thăng thẳng: -“Đôi trai gái muốn chơi nên cửa, Bố nhà chị không cho nên cửa. Đôi trai gái muốn chơi nên nhà, Mẹ nhà chị không cho nên nhà. Không cho ta được vào ra Để mở đường đi lối lại, ngón à! Giữa đêm, bố chị còn chửi nhiều nhiều Sáng ra, mẹ chị còn mắng lắm lắm; Còn phòng roi thẳng roi thon Không rời đằng sau áo. Chị chẳng biết làm sao Nên đôi yêu, đôi mến, đôi vợ, đôi chồng, Quyết đi ăn ngón cho xong một đời. Vợ chồng nhà chị Chết đen như mực, Chết đỏ như vang, Chết vàng như nghệ, Giữ trọn lời thề cùng về bên ma, ngón ạ!... 4. NÀNG NGA - HAI MỐI Cao Sơn Hải rất ưu ái truyện thơ này, nên lời nhận xét của ông tràn đầy tình cảm đối với tác phẩm: “Bản tình ca Nàng Nga - đạo Hai Mối là một viên ngọc lấp lánh nhất trong kho tàng văn học dân gian Mường và nó xứng đáng là một bông hoa đẹp trong vườn hoa văn học dân gian trăm sắc ngàn hương của các dân tộc Việt Nam” [19, tr.50] Đoạn trích được trích từ câu (211 - 432) và (1290 - 1465). Đoạn trích kể từ khi nàng Nga đem cành hoa ra chợ gặp Hai Mối. Hai người ý hợp tâm đầu. Nàng Nga mời chàng đến nhà để cha mẹ nàng biết mặt. Và đoạn kể về cảnh Hai Mối lặn lội tìm đến đất Thượng Lào gặp cho được nàng Nga. Hai người hẹn gặp lại nhau chốn nương rẫy quê nhà. Chàng Hai Mối hỏi thăm bà mế đi cặp nàng Nga Rằng: “Thương thiệt thương thà, bà hỡi. Bông này, bà bán mấy quà? Hoa này bà bán mấy nén? Bông hoa dục búp hoa ly dén Bà bán mấy nghìn trăm quan? Để cháu là khách xa đà Được đem tiền đi ra xin chác Đem bạc đi ra xin mua, Cháu muốn xin mua Cả gốc lẫn cành Cặp liễu cây hoa chẳng rời chủ bán; Có được hay chăng, hỡi bà?” Bà mế già lắng lời, lại đợi Rồi mới cất tiếng giục nhủ nàng Nga, - Thương thiết, thương thà, Nga hỡi, Có miệng ở nhà Sao không có miệng đi ra đến ngõ! Dẻo tay bơi dưới nước Sao chẳng hay lìa cỏ giác trên nương, Ở nhà thấy mày khôn lạ khôn lùng, Ra đến đồng còn khôn một ít, Ra đến chợ Sâm chợ Sét Sao đổi nét ngơ ngơ ngẩn ngẩn thế này, hỡi Nga!” Khi ấy, Nàng Nga mới lựa được ý Mới nghĩ được lời, thưa lại: -“Thương mơi, anh chàng à, Xin mời anh vào quán ngồi hàng Ăn trầu ăn nang ở nhởi. Ăn miếng cau cùng em chẳng phải mất nén bạc, Uống bát nước, chẳng mất quan tiền chi đâu mà ngại Lo gì xa ngái Cành bông tốt hoa lành Anh ước mua nên, rồi em cũng bán”. Được lời ấy, Anh em Hai Mối đã bước vào hàng Ăn trầu ăn nang Mở đàng câu chuyện, Hai Mối nói rằng: -“Thương mơi, em nàng hỡi Thương mơi, em nàng à, Em bán thật cho anh mua thà Bông này em bán mấy qua. Hoa này em bán mấy nén, Bông ly dục búp hoa ly dén Em bán mấy nghìn trăm quan? Cho anh xin mua Cả gốc lẫn cành Cả cành cây hoa không rời chủ bán. Chúa bán, anh mang về nhà Chăm sóc lấy bố mẹ già Còn cành hoa Anh đem lên chùa dâng hương lạy bụt”. Nàng đáp lại rằng: -“Bông này em bán chín quà, Hao này em bán chín nén, Bông ly dục, búp ly dén, một nghìn trăm quan Anh có tiền, lấy tiền đi ra mà chác, Đủ bạc, lấy bạc ra mua, Anh mua được bông hoa tốt hoa lành, Mua cành cây hoa, Nhưng anh chẳng mua được đâu cả người chúa bán! Bởi vì, Cơm em ăn, một ngày kén chín thứ gộ, Xống áo em mặc một ngày chín thợ hàng may Vòng đeo tay, một ngày chín thợ hàng bạc Chiếc khăn em thắt chắc hết chín trâu mười bò, Ai giàu của giàu tiền đếm không xuể, kể không xong Mới mong mua được!” Rồi nàng lại nói: -“Biết nơi nào, Có chín chục trâu, cặp trăm dây dợ, Đủ chín chục ngựa, cặp trăm dây cương Giàu bạc giàu vàng, Giàu khôn ngoan Để em mang về trông nhà coi cửa! Bởi họ hàng nhà em Còn đòi phải đủ những lệ cùng quà; Chín chục con lợn vậm ngà, Chín mươi con gà cong cựa cùng đuôi Mới cho chác được người Con gái nhà em khó nết!” Hai chàng đáp rằng: -“Chị em nàng nói thật thế chăng? Hay là người khôn thử dạ Người lạ thử tiếng thử lời?” Rồi Hai Mối lại nói: -“Thương mơi, em nàng hỡi, Em nói đi rỉ rả Cho anh đáp lại rí rời Chẳng vừa tình, vừa đôi, rồi anh xin trả lại. Rằng: Bố nhà anh khó nhiều. Mẹ nhà anh khó lắm. Bố mẹ nhà anh Chỉ có một đất Tre Trắng Một rặng Tre Trò Mường Văn Nho, Phủ Lý, Ban sớm, chín chục trâu đen đi cày dọc, Ban chiều, chín chục trâu trắng bạc đi ra cày ngang, Trăm con bò vàng bừa trang đất mạ Cơm nhà anh ăn, một ngày hết chín thúng gạo, Áo anh mặc, một ngày chín mớ lụa vàng, Bố nhà anh ngồi trên chiếu vàng, Ở bên trên bảo ban lời xuống” Nàng Nga nghe vậy, Đáp rằng: -“Thương mơi, anh chàng hỡi, Thương mơi anh chàng à Chẳng thiếu chi nơi, đất no cơm giàu cá. Để anh lặn lội đến đây, đất khó mường xa. Mà kén chọn mua bông bán hoa, vất vả. Lời anh nói ra, thử bụng con cá, Lời anh siếc ra, thử dạ con người, Lo rằng, Anh chỉ cốt thử tiếng thử lời, Xem ý tứ lấy vui mà thôi, anh hỡi. Anh rắp mua bông Rồi em cũng bán bông, Có lòng mua hoa, em cũng bán hoa. Chỉ sợ điều, những bông cùng hoa ở đất này xấu lắm. Xấu bông lại xấu cả chà, Xấu hoa, xấu cả người cầm gốc. Xấu mắm xấu cả (bình) độc, Xấu mộc xấu cả gáo cầm Đáng chi cho anh phải siếc phải ham Cái con người ngơ ngơ ngác ngác Đáng chi cho anh phải chác Cái con người đã đen ngẳm đen ngăm lại còn khó nết, hỡi anh?” Hai Mối nói rằng: -“Thương mơi em ơi, Em bảo xấu, anh chẳng chê xấu. Một chút em xấu hơn trăm kẻ bậu có duyên. Con nhà người dù cậy đẹp như tiên, Nhưng vô ý vô tình vô duyên cũng chẳng đáng cho người ao ước Anh chẳng tham, chỉ vì làn da em trắng ngọc Anh cũng chẳng chê vóc con nhà người đen ngăm. Chỉ ước cùng em nên nghĩa trăm năm Để anh quyết đi thăm cho đến cửa nhà Dù phải khó nghèo Trời nắng vào trú bóng đa, Trời mưa sa,vào trú hang đá. Hay đáng cun sang mường cả Chín tấm lụa đỏ trải dọc làm chăn, Chín tấm lụa vàng trải ngang làm chiếu, Anh cũng chẳng thay dạ đổi lòng, Chỉ sợ lòng em như mó nước đầu mường Có đoái một chút đến anh chăng, em hỡi!” Nàng Nga khi ấy, Lòng suy đã kỹ, Nghe ý đã tin, liền đáp: -“Thương mơi, anh à, Đôi chúng ta gặp được nhau đây Như buồng cau hoa duyên may gặp khách, Như xống áo rách gặp thợ hàng may, Gặp anh hôm nay, Như trời mưa bay, em gặp thợ làm nón, Muốn nói cùng anh, Sợ lời em còn chưa biết chọn, Muốn phô chuyện sợ chưa biết lối biết đàng, Anh đã đến đây, chơi chợ thăm hàng, Rắp lòng ăn, xin anh đi cho tới cửa, Rắp lòng dạm, xin anh đi cho tới nhà, Trước thăm đức cố, bố mẹ già Sau nữa một chuyện lợi cả hai ba, Cho hai ta tiện lời trao tiếng hẹn cùng nhau, anh hỡi”. Hai Mối nói: -“Em ơi, Anh cũng muốn đi cho tới cửa cùng nhà Trước thăm đức cố, bố mẹ già Sau thưa chuyện đôi ta Chuyện lân la Làm đường đi sá lại Nhưng anh còn ngại Bới chưa có lời mối tiếng mơ, Sợ bố trên nhà lại bảo anh là đứa dưới chợ buôn nứa. Sợ mẹ trong cửa bảo anh là đứa dưới chợ buôn luồng. Và anh quen đất quen đàng Mà chưa thuộc đàng mường, Chưa biết tên lúng tên làng nhà em để hỏi” Nàng đáp rằng: -“Thương mơi, anh hỡi, Anh chưa hay rồi em xin gửi, Anh chưa tỏ rồi em xin rằng Đây là chợ Cẩm Thủy – Quan Hoàng Sông Ngang bến Đuộng Đến quê em thẳng xuống Là đất Đủ Ó Mường Dà Xin mời anh bước tới thăm nhà, Đường chẳng quản xa, đường đã đi gần một nửa. Bố trong nhà Chẳng bảo anh là kẻ buôn trâu bán bò dưới chợ. Mẹ trong cửa Chẳng bảo anh là kẻ buôn nứa bán luồng. Đừng nói chi điều thắt mở khốn thương, Mà hại cho út, cho em, anh ạ!” Hai Mối trong lòng còn chút chưa yên, Lại nói: -“Anh đến hôm nay, Còn phải đến suông, hai bàn tay trắng, Gắng đợi anh về đến cửa cùng nhà Sắm cặp bánh dày, Sắm giằng bánh dày, Ngày hai ba, rồi anh sẽ đến”. Nàng Nga đỡ tiếng lại thưa: -“Thương mơi, anh ơi, Anh đã có lòng thăm cửa thăm nhà Chẳng ngại chi điều ấy, Có phải chuyện nhờ cậy ông mối bà mơ. Bảo phải sắm sanh bánh trái. Vả lại em út trong nhà đã vậy, Em gái trong nhà đã khôn, Tuổi thẳng bữa no cơm, Chẳng còn tuổi đòi quà thơm bánh thảo”. Nghe nàng nói, lời sao khéo miệng, Tiếng sao đẹp lòng, Hai Mối cùng với Trí Hoa Đã theo chị em nàng Nga Thong dong đến thăm nhà thăm cửa… Nàng Nga nghe có người ở đất quê nhà Vội truyền quân hầu: -“Để đó cho bà, bay không được hỗn”. Khi ấy Hai Mối mới khẽ nhắc rằng: -“Thương mơi, bà nàng hỡi, Thương mơi, em nàng à! Em đã quên thật quên thà Chín nén bạc ai trao ở ngọn sông Ngang, Chín nén vàng ai nhận ở nơi bến Đuộng. Bây giờ thân anh Vóc lơi mình luống Chẳng còn nhận ra dáng hình chi nữa, hỡi Nga?” Nàng Nga sửng sửng sốt sốt: -“Trời hỡi là trời! Ma hỡi là vía! Chết giẫm cho con Nga Người chưa già sao đã tối mắt! Ai hay lở núi cạn sông, Lở đồng cạn hói. Ai biết người thương của em lặn lội đến đây, hỡi trời!” Rồi nàng lại kêu: -“Thương quá anh ơi, Quần lành sao anh chẳng mặc, Áo lành sao anh chẳng mang Để em tưởng lầm là kẻ chặt giang chém nứa!” Và nàng hỏi đến việc cửa việc nhà, Hỏi thăm đôi bên đức cố bố mẹ già. Chàng Trí Hoa cùng nàng Út Thái Có ăn lành ở lợi chăng anh? Hai Mối đương giận đáp rằng: -“Chúng nó không lành, sao ở trong cửa. Chẳng phát dở, bảo phải lìa nhà!” Nàng Nga liền năn nỉ thiết tha: -“Thương mơi, anh ơi, Anh ăn trầu nhả bã Vuốt dạ làm lành Mà thương cho em Xin anh đừng giữ giận”. Hai Mối lại nói: -“Vì ai, Anh đành bỏ cha ngồi sập bạc, Bỏ mẹ ngồi trên chiếu vàng Bỏ hết chú bác họ hàng, bỏ binh gia lính tráng? Mất công bố gói chín đùm cơm cho đi ăn sá. Mẹ gói chín đùm cá cho đi ăn đường Đâu phải đến đây để nghe lời dỗ! Bởi ai, Được cơm bỏ muối. Được đọi bỏ mâm. Chưa mấy tháng mấy năm đã quên lời giao tiếng hẹn “Một hai, nên cửa nên nhà” Để giờ đây, Cà đơm bông mà không bén trái. Mất công anh Mở trại khang trang San ruộng vỡ nà Buồng cau tình cau hoa lỡ làng héo trái. Có phải tại em chăng, hỡi Nga?” Nàng Nga trong lòng cay đắng xót xa Than than thở thở: -“Thương quá, anh ơi. Thảm quá, anh à, Đánh trâu, trâu chạy vào bái, Đánh con, con chạy vào lòng. Dù chín nghìn lần trăng mọc. Chục nghìn lần trăng tròn Em vẫn chẳng khuây lời giao tiếng hẹn Cùng anh nên cửa nên nhà Như bông liền hoa Như cây liền cội. Ai ngờ, Bố nhà em đã vội Tham cái tiếng cun sang lang cả đường xa, Em nói ra lời tra roi đập. Mẹ em tham vàng tham bạc, Họ hàng chú bác tham uống tham ăn. Em chỉ còn trông còn đợi anh ssang Nhưng, chỉ một thân một chiếc. Đầu hôm, ngó sao đầu áng. Sáng ra, ngó sao đầu mường. Thư gửi giấy trắng. Tin nhắn đi từ mùa năm ngoái, Tin nhắn lại từ mùa năm xưa Ăn chực ngồi chờ Đã đau lưng mỏi gối Hết ngày lại tối Sao chẳng thấy anh sang Mà chặt cây sậy giữa đàng, Chặt cây xang giữa lối, Cho em khỏi nên rồ nên dại, Cho em được trở lại cùng anh, hỡi anh?” Bấy giờ, chàng Hai Mối nghe dạ đã đành Nghe tình đã hối Mới hỏi nàng Nga: -“Thương mơi, em hỡi, Quả em còn thương tới anh chăng?” Rồi hai người trò chuyện Những tính cùng toan Làm sao trọn đời lại chung ăn chung ở Chung cửa chung nhà. Hai Mối bàn rằng: -“Bấy giờ em trở về nhà Ao Ước, Anh lập chước theo sau. Nói với quân lính trai hầu Rằng anh là người quê cậu Mường Vống, Người đất mộng Mường Khương. Để vào ra thông ngõ tỏ đường, Anh liệu cầm gươm chém nó”. Nàng rằng: -“Nhà nó chín lần cổng Mười hai lượt rầo. Đồn trong điếm ngoài, Anh khai đao sao được?” Hai Mối bàn trước, bàn đã hết đàng. Nàng Nga tính sau, tính đã hết lẽ Rối như canh hẹ Chưa bề nào yên, Nàng Nga mới khuyên: -“Anh ơi, ta hãy tạm dẹp lòng phiền Để em đi mua cơm mua cá Ta ăn chợ ngồi hàng, Rồi ta tính toán sau, anh hỡi’ Hai Mối lại bảo: -“Em mua cơm anh cũng không nhá, Em mua cá anh cũng không ăn, Hãy mua cho anh cái tấm lụa vàng Để ngày mai trở về, anh thắt cổ!” Nàng can rằng: -“Thương mơi, anh ơi Anh đừng ăn lá ngón làm chi hại vóc Đừng thắt cổ làm chi hại mình” Nhưng Hai Mối khăng khăng: -“Thà anh đi biến một mình Để em ăn lành ở lại Làm bà làm mái. Một kiếp giàu sang. Rồi trời mưa, có nhớ đến anh chăng, em nhìn lên gốc mây trắng Trời nắng, có nhớ đến anh chăng, nhìn dặng mây vàng. Đêm trăng tròn trăng trong, nhớ đến anh chăng, Em nhìn lên nhành mây sương mây gió”. Nàng Nga nức nở: -“Em chẳng cho anh đi biến một mình Em chẳng để anh đi riêng một kiếp. Ta sống trên đời Yêu thật yêu thiết Lại lắm kẻ dèm pha. Cùng về bên ma Làm cửa làm nhà Chẳng còn lo chi ai rình mà hại, Bây giờ anh quay chân về lại, Trái chân lại nhà Đợi em nơi rừng dâu gốc quê cha. Lối dâu cội dâu già hãy còn tốt lộc, Rừng dâu gốc tốt cành, Anh để dấu chung quanh Cho em về sau để tìm, dễ nhận” Chàng Hai Mối lại dặn: -“Bây giờ em trở về nhà Ao Ước Buổi sớm, em làm như trâu lộn ách, Buổi chiều, em ở như chạch lộn bờ; Ăn ở hững hờ Cho con người ta chẳng thiết Ta hẹn với nhau Lời ăn đã hết, Tiếng chết đã giao. Anh quay về trước Em bước về sau Đò mong bến làm sao, bến mong đò làm vậy” Nàng Nga lúc ấy Liền mua hai tấm lụa đỏ lụa đào Trao cho chàng Hai Mối Nàng lại xin gửi Chín nén bạc, anh ăn đàng, Chín nén vàng, anh ăn sá -“Ở đây quê lạ Thiên hạ đất người Trở về đường xa xôi, Nơi quê cha ta lại gặp nhau, anh hỡi! BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM TP. HOÀ CHÍ MINH Nguyeãn Thò Thuøy Trang PHUÏ LUÏC ÑAËC ÑIEÅM TRUYEÄN THÔ TRÖÕ TÌNH MÖÔØNG Chuyeân ngaønh: Vaên hoïc Vieät Nam Maõ soá: 60 22 34 LUAÄN VAÊN THAÏC SÓ VAÊN HOÏC NGÖÔØI HÖÔÙNG DAÃN KHOA HOÏC: TS. NGUYEÃN THÒ NGOÏC ÑIEÄP Thaønh phoá Hoà Chí Minh - 2008

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHVHVN042.pdf