PHẦN MỞ ĐẦU
Nguyễn Tuân là một tên tuổi lớn của văn học Việt Nam hiện đại.Sự nghiệp sáng tác của ông trải ra trên hai chặng đường: Trước năm 1945 ông là một nhà văn lãng mạn tiêu biểu và sau năm 1945 ông đứng trong đội ngũ những nhà văn gắn bó với sự nghiệp cách mạng. Sáng tác của Nguyễn Tuân thuộc nhiểu thể loại: tùy bút, truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, phóng sự, tự truyện, bút kí phê bình Về truyện ngắn ông là cây bút xuất sắc. Vang bóng một thời của ông được đánh giá như một tác phẩm “gần đạt đến độ toàn thiện, toàn mỹ” (Vũ Ngọc Phan). Trong truyện ngắn Nguyễn Tuân tồn tại một thể tài – thể tài yêu ngôn như cách ông đã từng định danh cho nó. Đây là một thể tài đặc biệt, in đậm dấu vết sáng tạo của Nguyễn Tuân. Sau một thời gian dài, những truyện này ít được nhắc tới và từ những năm chín mươi thế kỉ XX mới được tập hợp đầy đủ, được nhìn nhận như một mảng tác phẩm có những nét riêng độc đáo trong toàn bộ sáng tác của ông.
2. Yếu tố kì ảo, chất huyền kì đang là một hướng đi, một hướng tìm tòi tạo nên những đột phá quan trọng của nghệ thuật tự sự đương đại. Chất kì ảo quái dị từng làm nên một dòng truyện đặc sắc nửa đầu thế kỉ XX trong đó có Yêu ngôn của Nguyễn Tuân đang được tiếp tục dòng chảy của nó vào văn học đương đại, tạo nên sự khởi sắc của văn xuôi hôm nay.
3. Chọn đề tài “ Đặc sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của Nguyễn Tuân” luận văn mong muốn làm rõ một thế giới nghệ thuật độc đáo trong văn Nguyễn Tuân, đồng thời góp phần nhìn nhận và đánh giá đầy đủ hơn về sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân, vốn được nhìn nhận chủ yếu ở thể tùy bút cùng với thành tựu đỉnh cao của tập truyện ngắn Vang bóng một thời. Đồng thời nghiên cứu Yêu ngôn cũng là để làm rõ những giá trị, những kinh nghiệm và truyền thống của loại “truyện kỳ ảo” mà cây bút bậc thầy Nguyễn Tuân đã từng khai phá và sáng tạo đang tiếp tục được vận dụng trong văn học đương đại, và cũng qua đó hiểu thêm và đánh giá đúng hướng đi này của văn học đương đại .
4. Đã có nhiều công trình, luận án, luận văn quan tâm đánh giá, nghiên cứu toàn diện hoặc nhiều khía cảnh nội dung, nghệ thuật tác phẩm Nguyễn Tuân: quan điểm nghệ thuật, phong cách nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng điệu, đặc trưng kí, tùy bút. Tuy vậy, mảng truyện Yêu ngôn của Nguyễn Tuân cho đến nay chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ như một chỉnh thể, một thể tài riêng với các khía cạnh nội dung và nghệ thuật có tính đặc thù. Do vậy, đề tài mà luận văn lựa chọn sẽ cố gắng tập trung vào hướng khảo sát còn mới mẻ này.
MỤC LỤC
Phần mở đầu
I. Mục đích, ý nghĩa của đề tài 1
II. Lịch sử vấn đề 2
III. Phạm vi nghiên cứu 3
IV. Phương pháp nghiên cứu 4
V. Đóng góp của luận văn 4
VI. Cấu trúc luận văn 4
Nội dung
Chương 1: Yêu ngôn - một thế giới nghệ thuật huyền kỳ 5
1.1. Một cõi riêng trong văn chương Nguyễn Tuân và văn chương 5
đương thời
1.2. Một thế giới nghệ thuật đặc thù 14
Chương 2: Đặc trưng thi pháp Yêu ngôn 19
2.1. Không gian - thời gian nghệ thuật của Yêu ngôn 19
2.1.1. Không gian nghệ thuật 19
2.1.2. Thời gian nghệ thuật 33
2.2. Thế giới nhân vật với số phận dị biệt và tính cách phi thường 37
2.3. Phương thức nghệ thuật tạo dựng thế giới Yêu ngôn 54
2.3.1. Nghệ thuật trần thuật 54
2.3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật 66
2.3.3. Giọng điệu 74
Chương 3: Sự dung hợp, thăng hoa của cái đẹp và những giá trị nhân bản 77
3.1. Cái đẹp và những giá trị văn hoá 78
3.2. Triết lý nhân sinh, chiều sâu nhân bản 85
Phần kết luận 96
Thư mục tham khảo 100
107 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2254 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của Nguyễn Tuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chúa hay giở mặt, nước nông mà lại hay có sóng ngầm ” (Đới Roi).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
77
Còn đây là niềm xót thương trước người nghệ sĩ đang đổi mạng sống
của mình để lấy tiếng đàn: “Bá Nhỡ ngồi trước mặt kia, sinh mệnh chỉ còn
dính vào cuộc đời bằng một vài khổ đàn nữa thôi. Tắt bản đàn là cuộc đời
người đang xuống cái đầu gẩy bằng sừng bò tót kia cũng hết luôn. Hơi tơ thiểu
não như lời gửi gấm giối giăng. Nó buồn rộng ra nhoè quá một tiếng lên
đường. Thôi thì đây cũng là những tiếng cuối cùng của đời”. (Chùa Đàn).
Có thể nói Yêu Ngôn với giọng địêu trữ tình là giọng chủ đạo đã mang
vẻ đẹp riêng trong phong cách của Nguyễn Tuân. Khác với các tùy bút, các
truyện khác thường có giọng khinh bạc, sâu cay hoặc trào phúng giễu nhại,
Yêu ngôn có giọng điệu chủ yếu là giọng trữ tình ấm cúng đôn hậu, bắt
nguồn từ sự xúc động của nhà văn về con người, cảnh vật, biểu hiện những
tình cảm đã được lắng sâu, chiêm nghiệm, thích hợp để tạo một không khí
Liêu trai huyền kỳ và sự luyến tiếc những vẻ đẹp xưa cũ.
Chƣơng 3
SỰ DUNG HỢP THĂNG HOA CỦA CÁI ĐẸP
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ NHÂN BẢN
Đọc tác phẩm Nguyễn Tuân, điều dễ nhận thấy là ông hết sức nâng
niu, trân trọng và khao khát cái đẹp. “Ông luôn muốn mỗi ngày sống, mỗi
trang đời của mình cũng là một trang nghệ thuật. Đó là thái độ thẩm mĩ đặc
biết riêng của ông đối với cuộc sống” [27, tr 534]. Giới nghiên cứu phê bình
đã dành những lời trân trọng nhất để đánh giá về điều này trong sáng tác của
Nguyễn Tuân: “ Một nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp” (Thạch Lam);
“Nguyễn Tuân người đi tìm cái đẹp, cái thật” (Nguyễn Đình Thi); “ Nguyễn
Tuân, nhà nghệ sĩ ngôn từ đã đưa cái đẹp thăng hoa” (Hoài Anh); “ Phong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
78
cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có yếu tố bao trùm và là yếu tố bất biến từ
trước đến sau cách mạng tháng Tám: đó là tư tưởng suốt đời săn tìm cái
đẹp của con người” [27, tr194]... Trân trọng, chắt chiu cái đẹp trong
cuộc sống cũng như trong nghệ thuật- Con người tôn thờ Nghệ Thuật
với hai chữ viết hoa đó đã có những phát hiện hết sức mới mẻ, vừa tinh
tế vừa hấp dẫn về cái đẹp nhiều khi khuất lấp và mơ hồ trong cuộc đời.
Đặc điểm này thể hiện phong phú và luôn sống động trong nhiều sáng
tác của Nguyễn Tuân trong Yêu ngôn.
3.1. Cái đẹp và những giá trị văn hóa:
3.1.1. Trân trọng tài hoa và cái đẹp:
Là người say mê cái đẹp, Nguyễn Tuân luôn bày tỏ lòng ngưỡng mộ
những cốt cách tài hoa nghệ sĩ, những con người có tư thế sang trọng bởi
sinh ra trong một đất nước có hàng nghìn năm văn hiến. Ngay từ thưở Vang
bóng một thời , Nguyễn Tuân đã đi vào những chủ đề thách đố đối với văn
chương mà ít nhà văn dám bước vào: nghề ăn chơi, nghề đao phủ, nghề trộm
cướp, nghề uống trà, nghề thả thơ, nghề đánh thơ, nghề sống... và Nguyễn
Tuân đã nâng tất cả những ngành nghề ấy lên hàng nghệ thuật. Gắn với
những nghề ấy là những con người dù họ trong sạch, thanh cao hay tăm tối,
mê lạc, tội lỗi, dù họ là ông Huấn Cao, cụ Kép làng Mọc, cụ Sáu hay là Bát
Lê, Lý Văn, Phó Kình..., thì những con người ấy đều có một điểm chung,
chung nhau chữ nghề, họ là những tay nghề, những nghệ sĩ trong nghề của
mình, trung thành với cái đẹp. Tiếp tục quan niệm ấy đến Yêu ngôn, những
con người tinh hoa độc đáo, tài hoa nghệ sĩ cùng các thú chơi, lối sống của
kẻ mang phong vận kỳ tài vẫn là những nhân vật lí tưởng của Nguyễn Tuân.
Người chủ đồn điền trong Lửa nến trong tranh là một con người đặc
biệt. Có một sản nghiệp đáng giá nhưng niềm đam mê của ông không phải là
việc làm giàu. Ông có một cái “cốt tài tử”, đó là thú ham sưu tầm tranh cổ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
79
Vào nhà ông “ người ta tưởng đấy là một nhà bảo tàng chứa tranh Tầu”.
Tiền của mỗi vụ cà phê thu về rất nhiều nhưng ông đều cho đi mua tranh
hết, đến nỗi “ người ta ngờ việc mở đồn điền chỉ là một cái cớ và mục đích
muốn đạt được thì phải là một bảo tàng Viện cổ họa Trung Quốc kia”. Đã từ
rất lâu rồi, ông ao ước được sở hữu một bức tranh quý, “nó vẽ một ông
tướng già đang ngồi xem sách đêm trong quân trướng. Trên án sách có một
ngọn nến cháy trên đế son. Góc phải bên án, có vẽ một thanh bảo kiếm tuốt
trần ghếch lên cái hộp tướng ấn...”. Và lần này, để thỏa nguyện, ông cho
người đi lùng bằng được bức tranh dù phải bỏ ra một khoản tiền rất lớn. Khi
bức cổ họa được đưa về, niềm hạnh phúc tràn trề của ông lại bị thay bằng
nỗi thất vọng bởi bức tranh không còn nguyên bản, nó đã bị đánh tháo mất
ruột, nghĩa là cái chỗ quý giá nhất đã không còn. Ông không tiếc tiền mà “
chỉ hận tiếc mình đã chẳng có duyên với vật báu”. Và để cho bức tranh cổ
họa được một lần cháy sáng, ông đã chấp nhận sự hi sinh, đem tranh Hàn
Kỳ ra “ châm lửa nến thí nghiệm” để cho công chúng một phen được thưởng
thức cái lạ kỳ của bức cổ họa đó. Người chủ đồn điền quả thực là con người
có lối tiêu khiển trang nhã, một lối sống văn hóa tuyệt vời thanh cao. Qua
hình tượng này, Nguyễn Tuân dạy người ta nghệ thuật sống để tận hưởng
cái ý vị tinh túy, sâu sắc của cuộc sống.
Những nhân vật chính diện trong Yêu ngôn của Nguyễn Tuân đều là
những con người hiện thân cho sự phong nhã, thanh cao, “ những con người
tài hoa, nhiều tình cảm, kinh lịch nhiều, sống kỹ lưỡng, sống rộng rãi không
bao giờ chịu gò bó vào một khuôn khổ nào nhất định” [27, tr 54]. Người ta
có thể nghĩ đến một chủ đề về văn hoá nhân cách, rải khắp những trang văn
Nguyễn Tuân và ngay cả trên những trang kỳ dị Yêu ngôn. Ấm Đới (Đới
Roi) có một cuộc đời đậm chất tiểu thuyết. Thuở trai trẻ phong lưu, Ấm Đới
nặng lòng với chữ tình. Cậu say cô Tám như điếu đổ. Để làm đẹp lòng tình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
80
nương, Ấm Đới đã lấy bộ chén ngọc liệu của nhà thờ họ chuyên dùng vào
việc giỗ kỵ, “đem bán đắt bán rẻ đi sắm giường Hồng Kông” để cô Tám ngủ
cho đỡ đau lưng, còn bao nhiêu thì “uống sâm- banh dần với tình”. Con
người ấy cũng thật tài hoa trong làng chơi: đánh trống, chơi đàn...Cái gì
cũng hay. Rồi cuộc sống đến lúc xế chiều, tiền hết, sức khỏe hết, cái tài hoa
còn giữ lại được thì cũng chỉ là thừa, “tài tình như thế cũng hóa ra hão
huyền”, Ấm Đới lâm vào cảnh cùng đường, “giờ sống bằng nghề chuốt roi
chầu và vót gọng ô nan hoa xe đạp làm tiêm bán cho các tiệm”. Tên gọi Đới
– Roi từ đấy mà ra. Cái tên ấy cũng thực xứng với cái tài chuốt thứ roi chầu
quý. Ấm Đới có đôi roi chầu mà “ đánh đến một nghìn bài Thét Nhạc rồi mà
đời một cái roi vẫn cứ lành vẹn”. Đôi roi được tạo nên “ một cây bằng gỗ
Khổng, một cây bằng gỗ Nguyệt Quế. Roi gỗ Khổng khắc cả một bài Hữu
Sở Tư chữ lệ và riêng mấy câu “ mỹ nhân hề mỹ nhân – Bất chi vi mộ Vũ hề
vi chiêu vân – Tương tư nhất dạ...” thì viết theo lối hành thư. Roi gỗ Nguyệt
Quế khắc một câu Thiên Thai Thanh đào bạch thạch dĩ thanh trần”. Đó là
những nét khắc tinh xảo, là cái tình với đàn, với trống với kỹ viện của Ấm
Đới. Khi sa cơ, gặp người khách biết cái giá trị của đôi roi chầu, Ấm Đới
cũng chỉ bán đi một cây, còn một cây giữ làm kỷ niệm cho cái đời đàn hát
của mình. Ấm Đới có thể chuốt loại roi chầu gỗ găng tầm thường kém giá trị
để kiếm sống, nhưng lại không chịu sống bằng lòng thương hại của người tri
kỷ. “ Đới – Roi hiểu Vy thương mình lắm. Nhưng gắn cái thân mình vào đời
Vy chàng thấy là buộc một quả chì vào đời người ta để rồi mà chịu ơn đời
đời. Mà từ sau phút này, từ chối Vy nữa, chàng thấy sống là một sự hết cả
vui”. Người nghệ sĩ cùng đường ấy đã chọn cái chết để chấm dứt cuộc sống
vô vị, để nguyên vẹn một nhân cách. Cái cốt cách sang trọng ấy cũng có thể
thấy ở Bá Nhỡ (Chùa Đàn), ở Bố Ô (Rượu bệnh). Qua hàng loạt nhân vật
trong Yêu ngôn, có thể thấy Nguyễn Tuân quan niệm về con người khác hẳn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
81
các cây bút đương thời. Ông chia thế giới nhân vật của mình theo tiêu chí
thẩm mỹ. Tất cả những nhân vật chính diện được ông mô tả như những tâm
hồn nghệ sĩ tài hoa. Còn những nhân vật phản diện hiện lên như những kẻ
phàm phu tục tử, thô lỗ, ngu độn, dốt nát, chỉ biết phụng sự đồng tiền.
Những nhân vật có tâm hồn tài hoa nghệ sĩ được ông thể hiện rất phong phú,
sinh động, đa dạng. Họ rất đẹp, nhưng luôn khiến người đọc bị ám ảnh bởi
cảm giác mong manh, dễ đổ vỡ, dễ tan biến. Đó phải chăng là sự bạc mệnh
muôn đời của tài hoa . Những vẻ đẹp ấy như được bao bọc bởi một màn
sương mờ ảo có thể tan biến bất cứ lúc nào, và khi đó nó chỉ còn để lại chút
vang bóng một thời.
3.1.2. Tái hiện những khung cảnh sống, những nét đặc thù văn hóa.
Nguyễn Tuân sinh ra tại phố Hàng Bạc, giữa nơi ba mươi sáu phố
phường nghìn năm của Hà Nội. Quê ông ở ngoại thành, làng Mọc, một vùng
đất quê nổi tiếng của nhiều danh nho đời cũ. Thân sinh của ông là một nhà
nho tài hoa đậu khoa thi Hán học cuối cùng. Từ nhỏ ông đã được sống trong
nền văn hóa dân tộc, với những cảnh sắc, phong tục, nền nếp, với cách ăn ở
vui chơi từ một thời xưa đang tàn dần. Có thể nói Nguyễn Tuân là một tài tử
nhà nòi, đã sống thật chín cái cái nếp sống của một thời vang bóng kia và cái
hồn dân tộc, cái chất văn hóa truyền thống của dân tộc đã ngấm vào máu thịt
nhà văn. Điều đó đã tạo nên một Nguyễn Tuân luôn biết trân trọng cái đẹp,
cái quý của văn hóa. Khi viết về những cái xưa cũ, những cái thuộc về quê
hương đất nước hay những cái có thể tưởng tượng nhớ đến quê hương đất
nước, ông viết tinh vi và sâu sắc” (Vũ Ngọc Phan). Những giá trị tích cực
nhất của sáng tác Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám là tinh thần dân
tộc biểu hiện qua việc khai thác và gìn giữ cái đẹp truyền thống.
Cái phong vị thắm đượm trên nhiều trang viết của Nguyễn Tuân là
tấm lòng gắn bó máu thịt ân tình với văn hóa dân tộc – từ cảnh vật, không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
82
khí của quê hương đất nước cho đến nếp sống, điệu cảm quen thuộc với mỗi
người Việt Nam.
Nguyễn Tuân là một nhà văn “đặc Việt Nam” (chữ dùng của Vũ Ngọc
Phan) và chính ông cũng tự “ cảm thấy lòng tôi vẫn là một tấm lòng An
Nam hoàn toàn giữa một ngày 29 tết” [55, tr 286].
Tinh thần dân tộc ở Nguyễn Tuân là nội lực chủ yếu giúp ông hồ hởi
“ lột xác”, là mãnh lực níu ông lại trên triền dốc xê dịch ăn chơi để giữ mình
khỏi thành sa đọa. Thẳm sâu trong ông thắm đượm tình cảm với từng chút
hương xưa của đất nước. Trong văn chương Việt Nam, Nguyễn Tuân là
người đầu tiên làm sống lại thời cũ với những vẻ đẹp riêng, cũng là người
luôn quan tâm đến những giá trị văn hóa cả vật chất lẫn tinh thần thuần túy
dân tộc như vậy. Những trang đượm phong vị Việt Nam ấy, như giáo sư
Hoàng Như Mai nhận định, đã “ bảo tồn, lưu truyền những tinh hoa của dân
tộc... là phong độ, là lối sống của con người Việt Nam từ nghìn xưa mà
nghìn sau có trách nhiệm phải thừa kế, tài bồi”.Ở những trang tuyệt bút của
Yêu ngôn nhà văn luôn nung nấu thiết tha một nỗi niềm dân tộc. Dẫu Gốc
Dó thần đã kết tinh thành nàng tiên ngọc (Xác ngọc lam) thì nàng tiên ngọc
ấy vẫn cần ăn chất vỏ dó, cần được sưởi ấm bằng chất đó quê hương: “ Hồn
đá này phải ăn chất vỏ dó”, thiếu dó thì dẫu có là thần tiên thì cũng sẽ chết
khô. Tinh túy của cái đẹp là gì nếu không phải là đã kết tinh từ cội nguồn
văn hóa dân tộc. Văn hóa là một dòng chảy liên tục từ quá khứ đến hiện tại.
Với Nguyễn Tuân, quá khứ là nơi hội tụ những tinh túy của tâm hồn Việt,
văn hóa Việt. Trong “ Vang bóng một thời” người đọc được đón nhận bao
nhiêu kiến thức văn hóa tinh tế: pha một ấm trà như thế nào để có được một
chén trà ngon, để trong chén trà ấy có sự kết đọng của trời, của đất, của
sương đêm, của hương hoa...và đặc biệt là cả tấm lòng, cả tâm hồn của
người pha trà, để uống trà không chỉ là chuyện ăn uống mà trở thành cả một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
83
nghệ thuật, nếu chưa phải là trà đạo thì chí ít cũng phải là nghệ thuật của ẩm
thực; một nét chữ được viết ra sao để nó không chỉ là nghệ thuật thư pháp
mà nét chữ ấy còn là nét người, là cái chí, cái hoài bão tung hoành của đời
người; cách ra chữ để đố một câu thơ, làm sao để chữ ấy có thần nhất, tài
hoa nhất...Tất cả những kiến thức ấy là hồn dân tộc, là chất Việt Nam, văn
hóa Việt Nam, đến Yêu ngôn không hề vơi cạn đi mà ngược lại vẫn hết sức
đậm đà và có thêm những diện mạo phong phú hơn. Ý thức dân tộc, lòng
yêu nước ở Yêu ngôn thể hiện bằng tình yêu cái đẹp quá khứ hiện diện trong
không gian, thời gian, cảnh vật, con người, đời sống quá khứ, từ Xác ngọc
lam, Trên đỉnh non Tản, Khoa thi cuối cùng, Rượu bệnh. Trong Rượu bệnh
nhà văn đã tái hiện một khung cảnh Hà Nội xa xưa mà rất đỗi quen thuộc
với những cửa Ô, cảnh buôn bán tấp nập trên bến dưới thuyển, cảnh những
cô gái gánh hàng rong đi bán khắp phố phường, những người hành khất nay
cửa ô này mai cửa ô khác sống nhờ vào lòng thương của người đời mà cốt
cách vẫn rất hào hoa, để rồi khi vắng bóng họ thì phố phường chợt trở nên
hoang vu lạnh lẽo, thiếu sinh khí... Ở Khoa thi cuối cùng nhà văn giúp ta
biết cách chọn một tờ giấy, một cây bút, một thỏi mực thật đúng cách cho sĩ
tử và trường thi: bút lông phải là thứ bút “ Tảo Thiên Quân lông trắng”; mực
viết phải là “ thỏi Hoàng Tam Xương vàng” giấy phải là “ giấy lịch Bưởi”...
Nhà văn không chỉ tỏ ra am hiểu sâu sắc về giấy bút mực nơi trường ốc mà
còn như đặt cả tâm hồn mình vào những tên gọi xa xưa đầy chất văn hóa ấy!
Và không chỉ có vậy Khoa thi cuối cùng còn tài tình biết bao khi dựng
không khí một mùa thi với sự náo nức, tất bật của sĩ tử. Năm nay nhà nước
lại mở khoa thi, có những ông đồ già râu tóc đã ngả màu vì sự đùa nhả của
công danh đánh lừa suốt mấy phen, chuyến này cũng cố chen ra hồ vớt lấy
một chút phấn hương cuối chầu của triều đình. Trường Hà Nam hợp thi
khoa Mậu Ngọ còn nhộn nhịp gấp mấy khoa Ất Mão trước và đây là cảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
84
trường thi vô cùng quen thuộc người đọc từng gặp trong thơ Tú Xương, thơ
Nguyễn Khuyến, trong “ Lều chõng” của Ngô Tất Tố. Đây là cảnh tượng
trong Khoa thi cuối cùng: khi tiếng loa đồng xoáy sâu vào màn mưa lạnh,
thân hình các nho sinh “chỉ là một thân cột cứng đờ mà sự thi cử đã mắc vào
đấy biết bao nhiêu thứ múi, dây lòng thòng, dây lều, dây chõng, dây buộc bộ
gọng, ống quyển...”
Làm nên một đất nước Việt Nam cổ kính, không thể không nhắc tới
những làng nghề thủ công truyền thống. Trong Yêu ngôn thấy hiện lên khá
dồi dào “bách nghệ trong nước” lừng danh thiên hạ không chỉ bởi cái đẹp
mà còn bởi sự tài hoa của bàn tay con người, bởi sự “lành nghề” của một
dân tộc có hàng nghìn năm văn hiến. Có thể nói làm nên linh hồn những
trang viết tài hoa nhất của Nguyễn Tuân là một tình cảm dân tộc thiết tha
gắn liền với những giá trị văn hóa cổ truyền của đất nước mà tổ tiên ông bà
đã gửi gắm lại. Nguyễn Tuân xứng đáng được gọi là nhà văn của một dân
tộc có văn hóa, có thẩm mĩ.
Không chỉ ở Vang bóng một thời mà trong Yêu ngôn dù là truyện ma
thì vẫn là truyện ma của một thời đã lùi vào quá vãng, cái thời còn có những
anh khóa văn hay chữ tốt nhưng trời không cho đỗ đạt nên bị hồn ma báo
oán; cái thời mà các lò giấy làng Hồ Khẩu chuyên chế loại giấy ngự chỉ tiến
vua và đóng quyển thi cho các sĩ tử, cái thời mà sách vở thánh hiền còn in
bản gỗ, bìa đánh cây, gáy sơn son và người có chữ nghiêm trang ngồi đọc
bên chiếc lư trầm tỏa làn khói nhạt; cái thời mà sơn thần Tản Viên thường
xuống cõi trần gọi thợ lên sửa đền trên đỉnh Ba Vì sau mỗi lần đụng độ dữ
dội của hai kẻ tình địch. Mượn câu chuyện người thợ được thần núi Tản
triệu lên dựng đền, Nguyễn Tuân cho độc giả thấy các sức mạnh bốn nghìn
năm của dân tộc, khí thiêng sông núi vẫn còn đó, vẫn lẫm liệt uy nghi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85
Đó chính là văn hóa Việt, tâm hồn Việt mà Nguyễn Tuân biết kế thừa
khai thác, phát huy để làm nên cho Yêu ngôn một thế giới nghệ thuật riêng,
rộng dài hơn rất nhiều chủ đề huyễn tưởng ma mị vốn là một kiểu tư duy
nghệ thuật đặc thù của Yêu ngôn.
3.2. Triết lý nhân sinh, chiều sâu nhân bản:
Văn học nhận thức và phản ánh cuộc sống con người, thể hiện tư
tưởng tình cảm, ước mơ và khát vọng của nhà văn. Tác phẩm văn học là nơi
nhà văn kí thác, nơi khẳng định quan điểm nhân sinh, lý tưởng thẩm mĩ.
Những tác phẩm văn học có chiều sâu luôn dành cho người đọc những điều
mới mẻ để phát hiện, chiêm nghiệm, suy ngẫm bởi đó là “thông điệp thẩm
mỹ” mà tác giả gửi đến cho bạn đọc. Với Yêu ngôn, các vấn đề văn hóa, lịch
sử, số phận con người mà Nguyễn Tuân đặt ra đã đạt tới tầm triết lý nhân
sinh, tới chiều sâu nhân bản. Cả tám truyện của Yêu ngôn đều thể hiện sâu
sắc điều đó và điều này góp phần không nhỏ vào việc tạo nên tính chất đặc
biệt “một mình một cõi” của tác phẩm.
Trên đỉnh non Tản đưa người ta vào một chốn Thiên Thai – cõi tiên
kỳ ảo- mà con người được chiêm ngưỡng, được tận hưởng trong một dịp
hiếm hoi. Đó là thế giới của ngọt ngào huyền diệu, của sự bất tử vĩnh hằng
mà muôn đời con người vẫn mơ ước. Những người thợ mộc Chàng Thôn
với đôi tay tài hoa của họ đã từng chạm tới cái đẹp vĩnh hằng ấy như trong
một giấc mơ để rồi khi tỉnh lại thì giấc mơ ngọt ngào biến mất. Họ trở về
cuộc đời thực với bao nuối tiếc và đối diện với những bất trắc của số phận.
Giấc mơ chốn bồng lai tiên cảnh là một ảo ảnh luôn chập chờn trước mắt họ,
tưởng như gần đấy mà lại khó nắm bắt, nó giống như những hòn cuội có
nhân trên thế giới bí mật của non Tản, khi “ đem thả vào bát nước mưa...lấy
thìa múc uống thấy say ngát vô cùng”, nhưng khi đã “hạ sơn” đã “ăn cơm hạ
giới” thì người ta chỉ “còn phảng phất mà thôi”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
86
Giấc mơ bao giờ cũng đẹp, còn đời thực thì lại quá đỗi bình thường,
thậm chí ẩn chứa đầy bất trắc. Mỗi người thợ mộc khi đã hạ sơn đều đem
theo trong mình một lời đe doạ của Thần Non cao- một con dao bằng lá trúc
có phép thuật kết liễu cuộc đời kẻ nảo dám tiết lộ bí mật của ngàn xanh. Và
thế là giấc mơ mãi mãi chỉ là giấc mơ, đẹp đấy nhưng không bao giờ con
người nắm giữ được.
Với Khoa thi cuối cùng (hay là Báo oán) người đọc có thể thấy câu
chuyện đậm màu sắc triết lý của dân gian về sự quả bảo “đời cha ăn mặn,
đời con khát nước”. Một người thiếp tài hoa bị chết oan uổng, kẻ “thất đức”
đã khiến lòng nàng chất chứa đầy oán giận, muốn “ cho nó bị tội cả nhà”.
Nỗi hận ấy nàng trút vào cả hai người con trai của chồng: Đầu Xứ Anh và
Đầu Xứ Em. Hai nho sinh tài hoa, tuấn tú, giỏi giang chữ nghĩa, vậy mà cả
anh và em hễ bước chân vào chốn trường thi là bị những cơn đau tối tăm
mặt mũi, trời đất thì đảo điên và oan hồn của người đàn bà hiện lên quấy
phá. Họ đều trở thành những kẻ hỏng thi trong kì thi cuối cùng - Điều ấy
đồng nghĩa với sự chấm dứt của một danh gia vọng tộc bởi con đường duy
nhất để một nam tử lập thân chỉ có thể là con đường khoa bảng. Một khi sự
thi cử thất bại thì con đường hiển đạt cũng đóng lại trước họ. Thế là chỉ vì
việc làm sai quấy của người cha mà hậu quả “ kẻ khát nước”, “kẻ gặt bão”
lại chính là thế hệ sau của họ. Có lẽ chính vì ý nghĩa sâu sắc của truyện mà
Khoa thi cuối cùng còn có tên gọi là Báo oán, cái ân oán dai dẳng của hồn
oan đòi được báo thù. “Ân đền, oán trả”, là triết lý sống muôn đời của nhân
dân với mơ ước về một lẽ công bằng ở đời nhưng qua trí tưởng tượng của
Nguyễn Tuân, triết lý ấy trở nên đượm màu sắc ma mị, huyền hồ, khiến
người đọc “ không thể hiểu nổi” đâu là thực, đâu là hư cấu mà nhà văn sáng
tạo nên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
87
Gần gũi với triết lý sống ấy, truyện Loạn âm đặt ra vấn đề lối sống ân
nghĩa, có trước có sau. Cũng là một hồn ma hiện về dương gian nhưng quan
ôn họ Lương không đi tìm kẻ đã khiến mình bị thác oan để báo thù. Khi “
hành hạt” về dương thế tuyển lính bắt phu, quan ôn Lương muốn tìm cơ hội
để đền đáp ân tình lòng thương của thày học cũ, đã tiết lộ danh sách “ nạn
nhân sẽ bị bắt làm phu đinh ở cõi âm”, ngỏ ý muốn giúp Kinh Trịnh – con
trai của thày học, cũng là bạn đồng môn cứu vớt thân thích của ông. Khi
kinh Trịnh chối từ, quan Ôn Lương đã phật ý, coi đó như hành vi gián tiếp
đoạn giao, định rũ áo bỏ đi. Trước tình thế ấy, Kinh Trịnh đành nhượng bộ,
chỉ xin cho kẻ tiểu bộc hầu hạ mình, bởi “ cố nhân gia ơn cho mà không
nhận thì thật là lỗi với đạo bằng hữu”. Như vậy trong Loạn âm, Nguyễn
Tuân còn đặt ra vấn đề “ quan hệ con người trong gia ân và thụ ân” [30, tr
114 - 144]. Người được nhận ơn thì không muốn “ chuyện ẩn nặc có thể gây
lụy” cho quan Ôn Lương lúc thừa hành công vụ, sự từ chối xuất phát từ cái
tâm của kẻ sĩ, không để tư tình can dự và hủy hoại đạo trời (mà cũng là đạo
người, dẫu cho tư tình ấy ở mức cá nhân – thân thích hay ở cấp độ cộng
đồng). Con người gia ân thì chỉ một tâm nguyện: khi có cơ hội thì thi ân là
điều nên làm, bởi “ cái thế tôi có thể làm được thì mới nói”. Tấm lòng của
quan ôn Lương thật thiết tha, sâu nặng, làm cảm động Kinh Trịnh con người
liêm chính chưa bao giờ “ làm điều gì khuất tất trong lòng”. Người đọc Loạn
âm có thể nhận ra một sự hư cấu rất thú vị: Nguyễn Tuân hình dung và lí
giải việc nhân gian chịu cảnh tang tóc thê thảm (vốn do thảm sát ôn dịch –
bệnh dịch tả) là bởi dưới âm phủ thiếu phu đắp đường, “ giao thông ở dưới
âm bây giờ bận rộn lắm. Các oan hồn thác xuống nhiều quá, không tiêu tan
hết... nên ngày đêm họ nhan nhản trên đường” Để mở thêm đường Diêm
Vương tuyển lính và bắt phu của dương thế. Sự tưởng tượng thật chất phác
hồn nhiên như dân gian nhưng lại giàu chất hiện thực: những đại dịch gieo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
88
rắc cái chết tàn khốc cho con người vốn không ít trong lịch sử. Có thể nói
những chi tiết như thế in đậm dấu ấn tài hoa trong bút pháp của Nguyễn
Tuân.
Tác phẩm văn chương vốn đa nghĩa. Tính đa nghĩa phức tạp của Yêu
ngôn được bộc lộ đậm nét trong Xác ngọc lam, trong Chùa Đàn và ngay cả
trong Đới Roi hoặc Lửa nến trong tranh cũng vậy. ở Đới Roi nhân vật Ấm
Đới đã tiêu cả sự nghiệp vào giọng hát tiếng đàn để rồi trở thành kẻ sa cơ lỡ
vận, kiếm sống bằng nghề chuốt roi chầu. Phải chăng qua cuộc đời của con
người này, Nguyễn Tuân muốn nói tới sự tha hóa của một kiếp rong chơi tài
tử? Và cái chết dữ dội của Ấm Đới chính là tiếng nói cuối cùng của lòng tự
trọng để trở thành một trang nam nhi coi trọng tình người. Ấm Đới thà chọn
cho mình một kết cục bi kịch là cái chết chứ không muốn trở thành gánh
nặng của người khác, không muốn sống trong sự thương hại của người đời-
dẫu người đó có là hồng nhan tri kỷ. Cái chết của Ấm Đới đã hoàn trả cho
chàng một nhân cách chính trực, khẳng khái, để ở cõi âm chàng là một hồn
ma tài hoa tài tử vẫn nặng lòng với nhịp trống tiếng đàn.
Cùng với Vang bóng một thời, Chùa Đàn được đánh giá là tác phẩm
văn xuôi độc đáo, có cấu trúc nghệ thuật toàn bích. Người đọc có thể tìm
thấy trong Chùa Đàn những thông điệp sâu sắc, đó là sự tương đố và tương
giao giữ cuộc sống tự nhiên và văn minh cơ khí; bi kịch và phục sinh; bế tắc
và lối thoát, cá nhân ích kỷ và cộng đồng...
Bi kịch của Lãnh Út khởi đầu từ “ tai nạn đoàn hỏa xa lật úp xuống
vực gần hầm Sen ga Liên Chiểu” khiến người vợ trẻ của Lãnh Út tử nạn. Sự
kiện thảm khốc ấy đã khiến Lãnh Út trở nên “ một kẻ thù ghê gớm của thời
đại cơ khí” . Phản ứng của Lãnh Út với văn minh cơ giới là sự phản ứng
quyết liệt: Đầu tiên, Lãnh Út quay lưng với tiến bộ: “Thời đại khoa học phát
sinh ra được máy móc nào là Cậu ngoảnh mặt đi đến đấy. Thậm chí Cậu dằn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
dỗi cả với những vật dụng cần thiết hàng ngày do đời cơ khí chế tạo ra”.
Một tuần sau tang lễ vợ, Lãnh cho dựng chòi canh quanh ấp, ai vào ấp “ đều
bị dân hàng ấp giữ lại khám xét rất kĩ xem có giắt theo vật dụng gì có tính
cách máy móc không”. Khi nghe tin người Pháp sẽ mở rộng đường sắt men
theo chân ấp Mê Thảo, Lãnh Út mất ngủ đến nửa tháng và định sẽ bán rẻ ấp
rồi lùi vào rừng. Thái độ phản ứng của Lãnh Út có phần tiêu cực, bởi đâu
phải tất cả những gì là thành tựu của văn minh cơ khí đều xấu mà ngược lại
nó thúc đẩy sự phát triển của xã hội, thời đại. Tuy nhiên, về một phương
diện nào đó, thái độ của Lãnh Út cũng có thể được người đọc cảm thông
chia sẻ. Câu chuyện muốn nhắc nhở rằng, văn minh cơ giới, ở mặt trái của
nó cũng gây nên những đau khổ cho con người (vợ Lãnh Út chết bởi tai nạn
xe hỏa là một ví dụ). Vấn đề đặt ra là làm thế nào để dung hòa cân bằng
giữa cuộc sống tự nhiên với văn minh cơ giới.
Nhưng điều Nguyễn Tuân muốn gửi gắm qua bi kịch của Lãnh Út
không chỉ có thế. Nỗi đau mất vợ không chỉ khiến Lãnh Út quay lưng lại với
những tiến bộ của thời đại văn minh cơ khí. Nội tâm trầm uất đã dẫn Lãnh
Út tới những hành động bạo ngược, trở thành kẻ “ tai ngược”, “gàn dở”,
thành một “ bạo chúa” trong con mắt dân ấp Thảo. Dân phu nhọc nhằn ca
thán: “chơi lạ chỉ có Chúa Trịnh ngày trước mới như thế”. Những người dân
ấp vốn trước đây trọng sự hào phóng trong đối đãi của chủ, thì giờ đây họ là
nạn nhân hứng chịu mọi sở thích quái gở, thất thường của chủ ấp. Lãnh chúa
ấy đã cơ hồ mất cả nhân tính, trở nên bạo ngược. Đoạn văn tả đoàn người
theo lệnh của Lãnh Út còng lưng đánh cây gạo cổ thụ từ suối Vầu qua sông
Tấm về ấp vào ngày giỗ của vợ chủ đã thể hiện đầy đủ sự ngông cuồng
trong con người này: những trai tráng lực lưỡng là thế mà phải oằn người,
xiêu vẹo “như xống ngọn cỏ bị gió lùa mau”, mồ hôi nhễ nhại và mình đầy
thương tích, để đưa được thứ cây chẳng có giá trị gì về trồng trước nhà, chỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
để thỏa mãn một kiểu giỗ vợ quái lạ của Lãnh Út. Như vậy vấn đề nhà văn
đặt ra ở đây còn là vấn đề con người cá nhân ích kỷ và cộng đồng. Lãnh Út
thực sự trở thành kẻ mê lầm, mông muội, thành kẻ thù của cộng đồng cần
được thức tỉnh và cứu rỗi. Chính Bá Nhỡ đã gánh lấy cái trách nhiệm ấy để
Chùa Đàn hiển lộ một chủ đề khác: bi kịch và phục sinh, bế tắc và lối thoát.
Khi người chủ trại như hóa dại sau cái chết của vợ, Bá Nhỡ muốn chủ
“ tục huyền với đời sống” bằng cách thỏa mãn tất cả với ước muốn dù là vô
lý nhất của chủ: bồi rượu, bình cổ văn, ngâm thơ Đường, diễn tuồng, hát
chèo, đóng đủ loại vai, “sắm hết vai nam lại sắm qua vai nữ, một mình
không làm vui nổi cho cậu Lãnh thì Bá Nhỡ nhờ đến đoàn thể chuyên
nghiệp, dựng nhà rạp rồi tìm phường ca công...Lúc chủ ấp thôi tất cả những
trò ấy, cả thể xác và tâm hồn “ đã đến cái bực lì”, thì hậu quả thật thê thảm.
“Thân hình cậu Lãnh khô sắt chẳng khác gì thân hình kẻ vận hỏa tâm ra để
tự diệt mình...còn cả khối óc thì hình như đã trót cầm cho Rượu và cho
Tương Tư, cầm lâu ngày quá đến không chuộc được về rồi”. Để thức tỉnh
Lãnh Út lúc này, cần phải có một chấn động mạnh mẽ, và Bá Nhỡ quyết
định liều mình, cầm cây đàn định mệnh vào cuộc chơi mà biết chắc phải trả
giá bằng sinh mạng của mình. Lựa chọn sự phục sinh cho Lãnh Út tức là
phải chọn cái chết cho mình. Bá Nhỡ đã trải qua sự trăn trở dữ dội đến bạc
trắng cả mái đầu và cuối cùng trở thành người nghệ sĩ mà tài hoa chỉ sáng
lên một lần rồi tắt lịm, chỉ là sự hy sinh cuối cùng vì sự sống của một người
khác. Chính cái chết đẹp – chết vì nghĩa tình ấy của Bá Nhỡ đã hồi sinh
Lãnh Út, kéo Lãnh Út ra khỏi cái chết từ từ, quyết định “ sinh ly” với đàn
hát, cắt đứt nguồn “ nước độc” đoạn tuyệt với quá khứ, trở thành “ người
tình nhân của cách mạng”.
Nhiều trang viết của Nguyễn Tuân tạo cho người đọc niềm thích thú
trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
tình yêu vẻ đẹp cuộc sống, vẻ đẹp của những nghề truyền thống cũng là một
chủ đề nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Tuân. Đó là những nhà nho cũ đã
lui về với vườn tược, hàng ngày “ phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý”, lấy cái trí
cái tình ra mà đối đãi với giống hoa cỏ không bao giờ biết lên tiếng kia
(Vang bóng một thời). Con người nồng hậu ân cần nâng niu hoa bởi hoa là
báu vật là tinh túy của trời đất: tưới rượu cho hoa, đánh đàn thập lục trước
những giò lan nở... Đến khi chủ gặp gia biến thì lan cũng tạ chủ, cả cỏ cây
Túy lan trang cũng đều một loạt ủ rũ để tang cho người (Vườn xuân lan tạ
chủ). Con người và thiên nhiên có mối giao hòa của tình tri kỷ. Đến Xác
ngọc lam thì vấn đề mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, tình yêu vẻ
đẹp cuộc sống với tư cách một triết lý nhân bản nhất lại được Nguyễn Tuân
bao phủ trong lớp khói sương huyền ảo thơ mộng của mối tình lãng mạn
giữa một đôi trai tài gái sắc, mối tình của nàng Dó – linh hồn của ngàn
thiêng cao cả - với cậu Năm, người con trai của dòng họ Chu chuyên làm
nghề giấy ở làng Hồ Khẩu bên Hồ Tây. Say mê thanh sắc và tiếng hát huyền
hồ của cô Dó, cậu Năm đã quyết đi tìm lên đến chỗ cỏ cây muôn năm xanh
tươi, đòi gặp bằng được người con gái của rừng xanh. Cảm động trước tấm
chân tình của người con trai vùng xuôi, cô Dó đã từ biệt rừng xanh, theo cậu
Năm xuống núi, về với nước Hồ Tây và đá phiến làng Hồ Khẩu “lấy cái
xanh của nước thay tạm cho cái xanh của lá, lấy cái lành vững của đá thay
cho cái mềm lạnh của cây” . Người sơn nữ thần vu quy, nương Dó mất tiếng
hát, gốc Dó Thần đổ vật. Cái đẹp đã ra đi, đất này trơ lại những héo sầu,
nhưng mà từ nay ven Hồ Tây và trên dòng sống Tô Lịch lại có tiếng cô Dó
bây giờ xuống hát dưới đồng bằng. Hát riêng cho cậu Năm nhà họ Chu
nghe thôi. “Ái tình và cần lao” khiến vợ chồng cậu Năm vui vẻ. nói khôn
nên lời. Ở ven Hồ Tây, cảnh đêm đông không còn lặng lạnh nữa. Đêm đêm
cậu Năm làm giấy và cô Dó cũng lách mình ra khỏi đá nghè giấy giúp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
chồng.Từ đấy lò chế giấy nhà cậu Năm trở nên nổi tiếng, giấy thơm và đẹp
lên. Biết đó là cái công ơn của người vợ hiền đã nhiều đêm cần cù vì mình,
cậu Năm “đê mê vì chân hạnh phúc và thú cần lao”. Niềm hạnh phúc lứa đôi
bền vững trong cuộc đời lao động đã tạo nên những điều kỳ diệu, khiến giấy
nhà họ Chu lên ngôi với phẩm chất sang trọng, quý phái bởi ở đó hội tụ tất
cả những gì là tinh hoa nhất của thiên nhiên, của con người. Đến khi nàng
Dó sa vào tay kẻ vụ lợi, “đê hạ”, sự tham lam ô trọc đã giết chết nàng. Thần
Dó chết thì linh hồn của nghệ thuật làm giấy cũng ra đi theo nàng. Dù Nàng
Dó có là thần tiên thì sự sống của nàng vẫn không thể thiếu được chất dó
của quê hương. Nghề làm giấy của dòng họ Chu sa sút dần và rồi trở thành
câu chuyện cổ tích. Tình yêu cuộc sống, yêu vẻ đẹp của những nghề truyền
thống và sự am hiểu sâu sắc cái hồn của dân tộc của dân tộc đã khiến
Nguyễn Tuấn viết nên những trang văn thấm đẫm chất thơ. Từ câu chuyện
này, Nguyễn Tuân đã gửi đến người đọc một thộng điệp thiết tha: hãy nâng
niu trân trọng thiên nhiên, hãy đối xử với thiên nhiên một cách có văn hóa;
một khi con người phũ phàng, tàn bạo với thiên nhiên (như hành động vô
tình của Chiêu Hiện hay hành động cố tình của Huyện Khỏe) thì thiên nhiên
sẽ dời bỏ con người, từ chối nâng đỡ con người và kết cục sẽ là hậu quả bi
thảm mà con người phải gánh chịu. Triết lý nhân sinh này đâu chỉ có ý nghĩa
một thời đó còn là vấn đề của muôn đời.
Nghệ sĩ là người say mê cái đẹp. Chính sự nhạy cảm với cái đẹp và
cách nhìn sự vật nghiêng về góc thẩm mỹ ấy đã góp phần tạo nên một
Nguyễn Tuân “ khao khát cái đẹp trong trời đất và muốn được thấy một tí
đẹp ấy ngay trong lòng mình, trong một ngày hằng sống và tin tưởng”. Khát
vọng mà nhà văn muốn vươn tới và thể hiện trong tác phẩm của mình là cái
đẹp và chỉ cái đẹp mà thôi. Suốt cuộc đời cầm bút của mình, Nguyễn Tuân
khao khát vươn tới cái đẹp, tôn thờ cái đẹp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
Thương tiếc cho cái đẹp vốn mong manh là một chủ đề truyền thống
của văn chương Đông Tây kim cổ. Trong Yêu ngôn, đây là vấn đề xuyên
thấm qua nhiều tác phẩm, từ Xác ngọc lam, Chùa Đàn, Lửa nến trong tranh,
Trên đình non Tản... Như vậy, chiều sâu nhân văn trong Yêu ngôn, đó còn
là sự tôn vinh cái đẹp, đồng thời cũng là những cảm nhận tinh vi của tác giả
về sự mong manh của cái đẹp trên đời.
Ông Tây già Lê Bích Xa – bậc thầy chơi đồ cổ ở truyện Lửa nến
trong tranh khao khát có đựoc bức tranh cổ vẽ tướng Hân Kỳ bên ngọn bạch
lạp. Thưở còn đương chức, muốn giữ sự trong sạch của lương tâm, ông đã
từ chối tặng vật chính là bức tranh này. Giờ đây ông đã có được báu vật, báu
vật đã ở trong tay ông một cách đàng hoàng, chính đáng, cái đẹp đã thuộc về
ông, ông là chủ nhân của cái đẹp toàn bích đang trong tay ông, trong tầm
mắt ông. Nhưng sự đời thật oái oăm, cái đẹp tưởng như đã nắm bắt trong tay
lại bất ngờ tuột đi mất. Bức tranh đã bị tháo mất ruột bởi một kẻ sành chơi
tranh nào đó và dẫu có muốn cũng chẳng biết nó lạc vào đâu mà săn tìm.
Cuộc đời là như thế, cái đẹp mong manh, khó nắm bắt, nó chập chờn tưởng
như gần đấy mà hóa ra lại hư ảo, xa xôi. Và sự săn đuổi cái đẹp là một trò ú
tim không có hồi kết. Khúc Vĩ thanh lơ lửng ấy như khích lệ, như giục giã
con người tham gia vào một hành trình đầy gian nan, mà cũng vô cùng háo
hức thích thú. Cũng ở Lửa nến trong tranh, nhà văn cũng rất tinh tế đề nghị
với người đọc về một thái độ văn hóa đối với nghệ thuật. Người chủ đồn
điền tài tử, sau khi đã hi sinh một cách không xứng đáng bức tranh quý cho
một công chúng tầm thường, chỉ biết quý những cái thiết thực quá, đến nỗi
gần như dửng dưng với nghệ thuật, đã khẳng định: “Họ phải chịu lấy sự
hình phạt nặng nề nhất là suốt đời chỉ là những người thô tục”. Đó chính là
tiếng nói tôn vinh giá trị của nghệ thuật và ý nghĩa của thưởng thức nghệ
thuật trong cuộc sống con người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
Nếu Lửa nến trong tranh là sự săn đuổi cái đẹp không có hồi kết thì
Chùa Đàn lại đi liền với một triết lí: Cái đẹp có khi hiện lên rõ và sáng nhất
ngay trong bi kịch để rồi sau sự huỷ diệt, nó lại tái sinh trong một hình hài
khác. Khi Bá Nhỡ ôm cây đàn bước vào cuộc chơi tuyệt mệnh cũng là lúc vẻ
đẹp tâm hồn của người nghệ sĩ tỏa sáng rực rỡ. Có nét gì đó thật gần gũi
giữa Bá Nhỡ và Huấn Cao (trong truyên Chữ người tử tù) trong giây phút
cuối cùng của cuộc đời. Họ cùng sáng tạo ra cái đẹp vào khoảnh khắc mà
cái chết đang đến trong từng giây phút. Bá Nhỡ đánh đàn, mỗi âm thanh
vang lên đều như được rứt ra từ xương thịt của Bá Nhỡ. Người nghệ sĩ ấy đã
đi đến tận cùng của khát vọng dâng hiến cho cái đẹp. Hành trình thác sinh
trong nghệ thuật quả là một hành trình bí mật, đầy huyền hoặc, đam mê.
Cái đẹp chào đời, người nghệ sĩ đã thoát xác để đạt tới cực điểm nghệ thuật,
thì cũng là lúc họ ký vào bản án tử hình của chính mình. Ở phương diện
này, Chùa Đàn có thể được xem như một tượng đài tôn vinh nghệ thuật, tôn
vinh cái đẹp. Một ngôi chùa mọc lên một năm sang ngày Bá Nhỡ mất. Chùa
dựng lên để tưởng nhớ người quản ấp nọ. Chùa chưa kịp có tượng Phật thì
ở sau bát hương đã đặt “một tảng gỗ đẽo có ngọn vút lên”, trông xa như một
gốc trầm, lại gần nhìn kỹ thì là cả một cây đàn đáy với những nét chính của
nhạc khí tạc vào gỗ mộc. Chính vì thế mà dân ấp gọi đấy là Chùa Đàn. Chùa
không chỉ để tưởng nhớ một con người đã hết lòng vì nhân sinh mà còn là
tượng đài tôn vinh cái đẹp. Cái đẹp có thể bị huỷ diệt nhưng cái đẹp luôn bất
tử, bởi chính sự hy sinh này của Bá Nhỡ đã phục sinh cho một kiếp mê lầm.
Lãnh Út thề độc không bao giờ còn nghe đàn hát và cầm lấy một chén rượu
nào trong cuộc đời này. Anh ta bỏ ấp, xuất dương, tìm con đường cách
mạng. Con người đã từng sống trong cái vỏ cá nhân, từng suýt chết vì rượu
vì đàn hát nay đã hướng vào cái Đẹp, cái Say khác để thành người “tình
nhân” của cách mạng. Đó là cái đẹp của đấu tranh, của phụng sự, để hát –
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
“trước hát cho dăm bảy kẻ nghe trong một khung cảnh ích kỷ, ốm yếu, giờ
hát cho cả một quê hương đang vi vu gió mới và lồng lộng một trời cao rộng
chói lòa”. Triết lý sống ấy cũng thể hiện một thái độ quyết liệt của nhà văn
trong việc “diệt hết những con người cũ” trong bản thân mình và kêu gọi
một thái độ sống mới, thể hiện sự hào hứng tin tưởng đón chào cách mạng.
Đó là tấm lòng của Nguyễn Tuân với cuộc đời.
Nói về thân phận mong manh của cái đẹp, Yêu ngôn cũng nói nhiều
đến cái chết của những kiếp tài hoa tài tử (tài tử nào rồi cũng chuốc lấy cái
chết, cái chết của họ dường như tiền định). Xét đến cùng, nói đến cái chết,
cách chết cũng là để dựng lại một kiếp sống, một thân phận và một cách
sống ở đời. Một thứ triết lý nhân sinh thầm lặng cất tiếng qua những cái chết
của nhân vật Yêu ngôn. Nguyễn Tuân xem đó là cách để chiêm nghiệm các
giá trị đích thực, ý nghĩa của cuộc sống. Giữa sống, chết, tình yêu và nghệ
thuật tồn tại một mối liên hệ kín đáo khiến tác phẩm mang màu sắc huyền
ảo, hấp dẫn.
Là một nghệ sĩ tài năng, với kiến thức uyên bác và tâm hồn nhạy cảm,
Nguyễn Tuân đã làm nên một thế giới nghệ thuật riêng trong Yêu ngôn mà ở
đó thiên nhiên, con người, tâm hồn dân tộc, văn hóa, lịch sử, số phận con
người... đặt ra trong tác phẩm của ông đã đạt tới tầm triết lý nhân sinh, tới
chiều sâu nhân bản. Đó chính là cái gốc bền vững làm nên sức sống cho
sáng tác của Nguyên Tuân giúp tác phẩm của ông sống đời sống của cái
đẹp một cách mãnh liệt và tinh tế.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
96
PHẦN KẾT LUẬN
1. Nói đến Nguyễn Tuân, người ta nghĩ ngay đến thể tuỳ bút mà ông
làm chủ và ngự trị như một thể văn đặc sắc của đời văn ông. Nhưng Nguyễn
Tuân còn là một cây bút truyện ngắn đặc sắc. Tập truyện ngắn Vang bóng
một thời với tư cách là tác phẩm đầu tay của ông đã được Vũ Ngọc Phan -
tác giả Nhà văn hiện đại đánh giá là “một tác phẩm gần đạt tới độ toàn thiện,
toàn mỹ”. Trong văn nghịêp Nguyễn Tuân còn có một mảng truyện đặc biệt,
chúng kết hợp và hình thành nên một thể tài riêng - thể tài Yêu ngôn với những
truyện đặc sắc như: Khoa thi cuối cùng, Rượu bệnh, Đới Roi, Xác ngọc lam,
Loạn âm, Lửa nến trong tranh, Trên đỉnh non Tản và đặc biệt là truyện vừa
Chùa Đàn - một tác phẩm xứng đáng được xếp vào hàng kiệt tác của văn xuôi
nước nhà.
Chọn đề tài “Đặc sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của Nguyễn
Tuân”, luận văn mong muốn làm rõ một thế giới nghệ thuật độc đáo trong
văn Nguyễn Tuân, đồng thời góp phần nhìn nhận và đánh giá đầy đủ hơn về
sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân, vốn được nhìn nhận chủ yếu ở thể tùy
bút cùng với thành tựu đỉnh cao của tập truyện ngắn Vang bóng một thời.
Đồng thời nghiên cứu Yêu ngôn cũng là để làm rõ những giá trị, những kinh
nghiệm và truyền thống của loại “truyện kỳ ảo” đang tiếp tục được vận dụng
trong văn học đương đại, qua đó hiểu thêm và đánh giá đúng hướng đi này
của văn học đương đại.
2. Với Yêu ngôn, Nguyễn Tuân đã thực sự tạo ra một cõi riêng trong
loại truyện ma quái, kỳ ảo đương thời và một cõi riêng ngay trong văn
chương của ông. Những trang tuỳ bút Nguyễn Tuân dù dài, rộng không
gian, phức tạp lòng người thì vẫn là những gì quen thuộc, vẫn là những hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
thực gần gũi. Là một nhà văn thèm khát những cảm giác mới lạ, mãnh liệt,
ông đã tìm cách phóng thoáng khỏi cái ranh giới hiện thực quen thuộc để tạo
nên một thế giới khác - thế giới Yêu ngôn. Đó là thế giới của những cảnh
tượng kỳ thú mê hoạch, của sự nhoà lẫn hai cõi âm - dương, của sự chung
sống chuyện trò vui buồn giữa ma và người.
Đây cũng chính là phương thức tư duy nghệ thuật đặc thù của Yêu
ngôn. Với phương thức ấy, không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật
trong Yêu ngôn cũng mang những nét độc đáo. Đó có thể là một không gian
quen thuộc của một làng nghề, một trường thi, một cửa ô Thăng Long xưa…
Cũng chính ở đây người ta thấy được những khung cảnh thân quen của làng
quê Việt Nam, tâm hồn Việt Nam. Đồng thời các chất liệu hiện thực ấy
được lọc qua lăng kính huyền kỳ để trở thành quái dị hơn, ám ảnh hơn. Thời
gian nghệ thuật cũng được xây dựng bằng những thủ pháp nghệ thuật để trở
thành hư ảo, vĩnh hằng và cũng là thời gian chất chứa đầy tâm trạng.
Yêu ngôn mở ra cả một thế giới nhân vật dị thường với những tính cách
phi thường. Đó là những con người tài hoa nhưng lận đận, những con người
thân phận nghèo hèn mà cốt cách nghĩa khí thuỷ chung. Thế giới nhân vật
ma của Yêu ngôn cũng đặc biệt có sức ám ảnh, nó đóng vai trò như chiếc
cầu nối giữa hai thế giới âm dương và chính nó cũng là cái bóng phản quang
của cuộc đời và số phận con người. Cũng nằm trong xu hướng đẩy mọi sự
vật, hiện tượng đến chỗ khác thường, dị biệt của chủ nghĩa lãng mạn và của
tư duy nghệ thuật Nguyễn Tuân, trong Yêu ngôn người ta còn gặp những
cảnh, những vật dị kỳ. Những kỳ nhân, kỳ vật ấy là sản phẩm của trí tưởng
tượng phong phú, tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt của Yêu ngôn.
Nhiều truyện của Yêu ngôn là sự nối dài, mô phỏng truyện dân gian và
truyền kỳ của văn học truyền thống, nhưng lại rất hiện đại trong cách kể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
98
chuyện. Câu chuyện luôn được “lạ hoá”, và mỗi truyện như chứa đầy những
biểu trưng hàm nghĩa trong một bút pháp phóng đại, đặc tả đầy phóng túng.
Như mọi tác phẩm Nguyễn Tuân, ngôn ngữ nghệ thuật Yêu ngôn giàu
giá trị tạo hình, tạo cảnh, đầy từ ngữ Hán Việt cổ kính… Nhưng rõ hơn ở đâu
hết, chất liệu và chất kỳ ảo càng tăng thêm ma lực cho ngôn ngữ nghệ thuật Yêu
ngôn, càng giàu độ nhoè và tính hàm nghĩa cùng tính nhạc tràn đầy.
Toàn bộ thể tài Yêu ngôn, xét đến cùng, được kết tinh lại trong giá trị
cơ bản của nó: đó là sự dung hợp, thăng hoa của cái đẹp và những giá trị
nhân bản. Nhà văn đã có dịp thể hiện sự tôn vinh cái đẹp muôn vẻ của cuộc
sống: những con người tài hoa, những nhân cách cao đẹp và đằng sau cái
chết, hồn ma nhân vật đầy chất bi thương vẫn ánh lên sự bất tử của cái đẹp.
Nhà văn tái hiện những khung cảnh sống, những nét đặc thù văn hoa của
dân tộc và những trang Yêu ngôn là sự trân trọng xới lên những lớp trầm tích
văn hoá của quá khứ.
Mỗi câu chuyện Yêu ngôn không nhằm đến mục đích tạo cảm giác ghê
sợ, hoang mang cho người đọc. Nhà văn ký thác trong đó những triết lý
nhân sinh, những gợi mở nghĩ suy về số phận con người, về lòng trắc ẩn và
tình người. Đó chính là cái gốc vững bền của Yêu ngôn, cho dù cành lá của
nó toả rộng và sáng lên một thứ ánh sáng kỳ dị của huyền ảo, huyền kỳ.
3. Trong văn học đương đại, loại truyện kỳ ảo, truyện ma hoặc thấm
đẫm chất kỳ ảo đang phát triển. Nó làm nên sự mới lạ và sự hấp dẫn cho
những tiểu thuyết được dư luận chú ý như Thiên sứ (Phạm Thị Hoài); Giàn
thiêu (Võ Thị Hảo); Người sông mê (Châu Diên); Cõi người rung chuông
tận thế (Hồ Anh Thái). Có nhà phê bình coi chất kỳ ảo, dòng truyện huyền
kỳ ma quái đang tạo nên mũi đột phá cho sự cách tân tiểu thuyết. Tiếp sức
cho dòng truyện này là dòng truyện kỳ ảo của thời kỳ 1930 - 1945 - một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
99
dòng truyện mà Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã coi là một mô
hình khi phân loại tiểu thuyết, trong đó có Yêu ngôn. Và có thể nói, Yêu
ngôn vẫn đang hoà vào dòng chung của văn học kỳ ảo hôm nay, với thế giới
nghệ thuật độc đáo, với bút pháp phóng túng tài hoa. Về phương diện này,
Yêu ngôn có ý nghĩa như một pho kinh nghiệm nghệ thuật quý báu cho văn
chương đương đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
100
THƢ MỤC THAM KHẢO
1 Đoàn Trọng Huy (2007), Hình tượng không gian đa dạng trong văn
xuôi nghệ thuật Nguiyễn Tuân - TC NCVH (số 6) tr 129 - 138.
2 Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức và thẩm
định, Nxb khoa học xã hội, Hà nội.
3 Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (2006), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam,
tập 1, Nxb Giáo dục.
4 Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (2006), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam,
tập 2, Nxb Giáo dục.
5 Văn Cao (1993), Thưởng Xuân, nhớ Nguyễn Tuân, Văn nghệ (24).
6 Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn, Nxb khoa học xã
hội, Hà Nội..
7 Nguyễn Huệ Chi (1999), Truyện truyền kỳ Việt Nam, quyền 3, Nxb
Giáo dục.
8 Hà Văn Đức (1991), Nguyễn Tuân và cái đẹp - Tạp chí khoa học số 5 -
Đại học Khoa học và xã hội nhân văn, Hà Nội.
9 Hà Văn Đức (2000), Nguyễn Tuân một bậc thầy về ngôn ngữ, Văn nghệ, (9).
10 Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
11 Đoàn Trọng Huy (2007), Hình tượng không gian đa dạng trong văn
xuôi nghệ thuật Nguyễn Tuân - TCNCVH (6).
12 Nguyễn Hoành Khung (1998), Lời giới thiệu văn xuôi lãng mạn Việt
Nam 1930 - 1945, tập 1, Nxb khoa học xã hội.
13 Trần Đăng Khoa (1998), Chân dung và đối thoại, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
14 Thuỵ Khuê, Thi pháp Nguyễn Tuân
15 Nguyễn Lai (1996), Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học, Nxb
Giáo dục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
16 Đặng Lưu(2007), Phép lạ hoá trong lời văn Nguyễn Tuân, TC Ngôn
ngữ và đời sống, số (7).
17 Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
18 M.B Kharapchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp
luận nghiên cứu văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
19 Hoàng Như Mai (1999), Chân dung và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
20 Nguyễn Đăng Mạnh (1991), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21 Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb
văn học, Hà Nội.
22 Nguyễn Đăng Mạnh (1990), Chân dung văn học, Nxb Thuận Hoá, Huế.
23 Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Giáo trình lịch sử Văn học Việt Nam 1930
- 1945, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
24 Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Những bài giảng về tác giả văn
học trong tiến trình văn học hiện đại Việt Nam, tập 1, Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
25 Nguyễn Đăng Mạnh (1981), Lời giới thiệu tuyển tập Nguyễn Tuân, tập
1, Nxb Văn học, Hà Nội.
26 Nguyễn Thị Thanh Minh (1998), Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn
Tuân trong sáng tạo nghệ thuật, Nxb văn học, Hà Nội.
27 Tôn Thảo Miên (1998), Nguyễn Tuân về tác gia và tác phẩm, Nxb
Giáo dục.
28 Nguyễn Đăng Na (2001), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại -
những bước đi lịch sử, Tạp chí VH số (7).
29 Nguyễn Đăng Na (1999), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập
1, Nxb Giáo dục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
30 Nguyễn Nam (2006), Từ “Chùa Đàn” đến “Mê Thảo” liên văn bản
trong văn chương và điện ảnh, TC NCVH, (12).
31 Nguyễn Thị Ninh (1999), Nguyễn Tuân với nghệ thuật đặt tên và tạo
từ - TC ngôn ngữ và đời sống, số (7).
32 Nguyễn Thị Ninh (2004), Ngôn từ nghệ thuật Nguyễn Tuân, Luận án
tiến sĩ khoa học Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội.
33 Nhiều tác giả (2000): Văn học Việt Nam 1900 - 1945, Nxb giáo dục.
34 Nhiều tác giả (2001), Hợp tuyển công trình nghiên cứu, Nxb giáo dục.
35 Nhiều tác giả (1996), 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng
tám, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
36 Nhiều tác giả (1990), Văn học Việt Nam 1945 - 1975, tập 1, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
37 Nhiều tác giả (1990), Văn học Việt Nam 1945 - 1975, tập 2, Nxb Giáo
dục Hà Nội.
38 Nhiều tác giả (1999), Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
39 Nhiều tác giả (2004), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
40 Nhà văn và tác phẩm trong trường phổ thông (1999), Nguyễn Tuân -
Nxb giáo dục.
41 Phương Ngân (2000), Nguyễn Tuân cây bút tài hoa và độc đáo, Nxb
văn hoá thông tin, Hà Nội.
42 Vương Trí Nhàn (1985): Nhà văn Nguyễn Tuân - Nhân dân (2)
43 Vương Trí Nhàn (2002), Cây bút đời người - Nxb trẻ.
44 Vương Trí Nhàn ( 2005), Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hoá
trong Văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho tới 1975, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà nội.
45 Vương Trí Nhàn (2005), Nguyễn Tuân và một tư duy nghệ thuật kiểu
“Liêu Trai”, Văn nghệ, (4).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
46 Phạm Thuỳ Nhân (2001): Từ “Chùa Đàn” đến “Thời vang bóng”,
Thanh niên, (2).
47 Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, tập 1, Nxb khoa học xã hội,
Hà Nội.
48 Nguyễn Khắc Phi (1999), Bàn thêm về hai chữ “Liêu trai” (Trong thơ
văn cổ Trung Hoa mảnh đất quen mà lạ), Nxb Giáo dục.
49 Lan Phương (2001), Nguyễn Tuân, lãng tử, hào hoa, phong nhã, Tiền
phong, số (5).
50 Vũ Dương Quỹ (1996), Nguyễn Tuân - Nxb Giáo dục.
51 Ngọc Trai (1990), Nguyễn Tuân như thế đấy, tác phẩm mới, (6).
52 Nguyễn Đình Thi (1987), Người đi tìm cái đẹp, cái thật, Văn nghệ, số (32).
53 Bùi Thanh Truyền (2005), Yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại Việt
Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
54 Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới (1997), Nxb Đà Nẵng và Trường
viết văn Nguyễn Du.
55 Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.
56 Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.
57 Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập, tập 3, Nxb Văn học, Hà Nội.
58 Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập, tập 4, Nxb Văn học, Hà Nội.
59 Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập, tập 5, Nxb Văn học, Hà Nội.
60 Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân tuyển tập, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.
61 Nguyễn Tuân (2002), Nguyễn Tuân tuyển tập, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.
62 Nguyễn Tuân (2002), Nguyễn Tuân tuyển tập, tập 3, Nxb Văn học, Hà Nội.
63 Nguyễn Tuân (1998):
Yêu ngôn, Nxb Hà Nội nhà văn.
64 Nguyễn Tuân (2000), Vang bóng một thời, Nxb Đồng Nai.
65 Nguyễn Tuân (1996). Thiếu quê hương, Nxb Hải Phòng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
66 Trần Đình Sử (2001), Nguyễn Tuân toàn tập và di sản văn học của nhà
văn, Văn nghệ, số (3).
67 Trần Đăng Suyền (2003), Nhà văn, hiện thực đời sống và cá tính sáng
tạo, Nxb văn học, Hà nội.
68 Hoàng Xuân: (Tuyển soạn) (1997), Nguyễn Tuân - người đi tìm cái
đẹp, Nxb Văn học, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doc.pdf