MS: LVVH-VHNN012
SỐ TRANG: 71
NGÀNH: VĂN HỌC
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
NĂM: 2009
CẤU TRÚC LUẬN VĂN
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Cấu trúc luận văn
CHƯƠNG 1: TÔNG QUAN VÊ ĐAM VA WABI
1.1. Nhưng cách hiêu về đạm và wabi
1.1.1. Yêu tố đạm
1.1.2. Yêu tố wabi
1.2. Cơ sơ tư tương của cam thức đạm và wabi
1.2.1. Cơ sơ tư tương của đạm
1.2.2. Cơ sơ tư tương của wabi
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG DIÊN THÂM MI CUA YÊU TÔ ĐAM TRONG THƠ VƯƠNG DUY VA YÊU TÔ WABI TRONG THƠ BASHO
2.1. Gian dị là một trong nhưng tiêu chuẩn của cái đep
2.2. Đạm, wabi - ve đep tinh túy của hôn thơ Vương Duy và Bash
2.2.1. Tính gian dị và tính hàm súc
2.2.2. Chất liêu đơn sơ, mộc mạc của thi ca
2.2.3. Nghê thuật của nhưng mối liên hê
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG DIỆN TƯ TƯỞNG CỦA YẾU TỐ ĐẠM TRONG THƠ VƯƠNG DUY VÀ YẾU TỐ WABI TRONG THƠ BASHO
3.1. Đạm và wabi là nhưng yêu tố nghê thuật có kha năng chuyên tai tư tương
3.2. Đạm, wabi: Sự tinh hợp giưa thiền và thi trong thơ Vương Duy và thơ Basho
3.2.1. Con đường tim về tự nhiên
3.2.2. Ngộ tính trong thơ ca
KÊT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
71 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2730 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đạm trong tuyệt cú của vương duy và Wabi trong Haiku của Basho, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vương Duy bình dị
mà không đơn điệu, nhàn đạm, nhưng thực không phải nghèo nàn. Mối liên hệ giữa sự giản ,
phác của thi ảnh và thần thái được tạo dựng nên trong nó là mối liên hệ có tính biện chứng .
Thực ra, việc miêu tả quá tỉ mỉ, chi tiết sẽ là một trở ngại cho việc đạt đến thần thái của cảnh
sắc, dùng những màu sắc quá cầu kì , sặc sở thì rất khó đi vào bên trong cái vẻ đẹp của hình
ảnh. Trống trải, nhạt nhòa ở bên ngoài và đầy đặn , đậm đà ở bên trong đó là hai mặt thống
nhất của những hình ảnh xuất hiện trong thơ Vương Duy . Đó không phải là sự mâu thuẫn .
Về bản chất, cái này tạo tiền đề cho cái kia.
Hình ảnh được khắc họa trong thơ ca không phải để trở thành mục đích của chính nó .
Tinh thần củ a câu thơ là quan trọng hơn cả . Thay vì dùng nhiều lớp trang sức ngôn từ để
diễn tả và ca ngợi cái tinh thần này, việc đưa ra hình ảnh mang chở nó là giản dị, trực tiếp mà
hiệu quả hơn, với điều kiện, cái hình ảnh đưa ra cũng không quá lấp lánh đến mức át mất ánh
sáng vốn đã lúc ẩn, lúc hiện, khi mờ, khi tỏ của vẻ đẹp tinh thần ẩn sâu trong câu chữ.
2.2.3. Nghệ thuật của những mối liên hệ
Thơ Tứ Tuyệt thể hiện một tư duy khái quát cao độ . Nó không chia chẽ , phân tích sự
vật, hiện tượng để đưa vào thơ ca theo một trình tự tuyến tính . Tức nghệ thuật thơ Đường
không chiếm lĩnh hiện thực từng bước một , nó chiếm lĩnh cái tổng thể sau cùng ngay từ thời
điểm xuất phát. “Muốn xem thơ Đường hay hay dở chỉ cần xem câu cuối . Câu cuối thất bại
không bao giờ có một bài thơ Đường hay (…). Đó là vì thơ Đường là một toàn thể , cái toàn
thể phải có xong ngay từ đầu , mỗi câu có trọn vẹn tron g óc người làm thơ trước khi có bộ
phận (…) Khi đã có một tổng thể hoàn chỉnh thì những chỗ kém hay vụng cũng không thể
phá vỡ nó được, miễn là cái quan hệ không bị phá vỡ”. [17; tr.331].
Trong khi đó , thơ Haiku là thơ củ a khoảnh khắc “ Haiku còn được gọi là thơ của
khoảnh khắc”. [27; tr.65].
Một đằng vượt lên trên trục tuyến tính của thời gian để đến với tầm khái quát , quán
xuyến mọi thời điểm , một đằng chỉ tập trung lên một thời điểm d uy nhất của trục tuyến tính
ấy. Một đằng thể hiện sự tương sinh, tương thành của cái trước và cái sau, một đằng xóa mất
cái trước sau, chỉ giữa lại cái khoảnh khắc hiện tiền.
Trong bài Trúc Lý Quán của Vương Duy:
Độc tọa u hoàng lí,
Đàn cầm phục trường khiếu,
Thâm lâm nhân bất tri,
Minh nguyệt lai tương chiếu.
Ngồi một mình trong đám tre rậm,
Gảy đàn cầm, lại huýt sáo,
Rừng sâu không ai biết,
Chỉ có vầng trăng sáng soi.
(Giản Chi dịch xuôi)
Ánh trăng không đến sau tiếng đàn . Ánh trăng vẫn có đó , hiện hữu trong im lặng. Khi
tiếng đàn vút lên cao thì nó bắt gặp cái vô thanh của ánh trăng . Nương theo đó, tâm hồn con
người cũng mở rộng vào trời đất. Cái đẹp lặng lẽ của vũ trụ đang soi chiếu xuống không gian
u tịch của rừng sâu , soi chiếu vào cõi vắng lặng trong tâm người vô sự . Nó đã soi chiếu như
vậy không biết tự bao giờ . Trong không gian tâm – cảnh đó, cái tổng thể của mọi vận động
và biến hiện đó , khoảnh khắc trước và khoảnh khắc sau không còn lạc mất nhau , mà tương
chiếu cùng nhau, âm vang trong nhau. Và cái âm thanh lúc này không những không mất hút
vào cái tịch mịch của vô cùng mà nó còn trở thành chủ nhân của thời gian, trở thành cái làm
cho thời gian nhảy múa.
Tiếng nước xao trong thơ của Basho cũng là một thanh âm. Nhưng đó là một thanh âm
bất chợt. Trước nó và sau nó, thời gian không tồn tại. Chỉ duy nhất khoảnh khắc nó vang lên
là có thật:
Ao cũ
Con ếch nhảy vào
Vang tiếng nước xao
(Nhật Chiêu dịch)
Khoảnh khắc hiện tại trong bài thơ của Basho diễn ra hoàn toàn bất ngờ , không dự
tính, không suy đoán được. Chúng ta không được chuẩn bị để gặp gỡ với sự xao động của
thanh âm trong khoảnh khắc hiện tại đó. Mọi sự chuẩn bị là quá khứ, là cái đã chết. Nếu một
cái đã chết có thể len vào khoảnh khắc hiện có của sự s ống thì sự sống chỉ còn là một sự
sống bị quy định , bị trói buộc . Và hẳn nhiên là , nó mang tính cơ giới . Nó đánh mất vẻ tươi
nguyên và linh động của mình . Bài thơ vĩnh cửu hóa cái hiện tại . Không phải theo cách kéo
dài khoảnh khắc hiện tại ra đến vô tận. Không. Không có chuyện dài ngắn ở đây. Tiếng nước
trong bài thơ chỉ thức tỉnh trong tâm ta một điều gì đó khó có thể gọi thành tên . Với một tâm
thức tỉnh giác, mọi thứ không còn rong ruổi nữa. Trong tình trạng như vậy , cái giây phút và
cái nghìn năm, là một.
Con ếch vẫn là con ếch. Cái ao vẫn là cái ao. Nhưng con ếch, cái ao trong một cái nhìn
tỉnh thức, trong một tâm thức bình đẳng, nó lại là điều kì diệu của cuộc sống.
Chính vì sự khác nhau đó, nên thơ Tứ Tuyệt của Vương Duy có một sự liên quán giữa
các hình ảnh, các chi tiết, các yếu tố . Trong khi, đến với thơ Haiku của Basho , ta dễ có cảm
giác về nó như là những mảnh chắp nối rời rạc . Giữa các hình ảnh trong bài thơ là những
khoảng trống rất lớn để vượt qua. Nhưng thật ra nó vẫn là một chỉnh thể hoàn chỉnh. “Hài cú
thì hết sức ngắn và văn phạm của nó rời rạc . Quả là một hiểm họa khi bản dịch nguyên văn
từng chữ theo nghĩa đen lại bị ngộ nhận ra một mẩu văn xuôi không hoàn chỉnh . Hài cú
không phải như thế, nhưng là thơ, trọn vẹn như nó vẫn đứng vững.”[22; tr.10].
Những khoảng trống ấy nếu đượ c điền vào đầy đủ thì thơ Haiku trọn vẹn về mặt nội
dung nhưng lại mất mát rất lớn về mặt tinh thần . Đó là những khoảng trống chân không làm
nền cho ngôn từ , cho hình ảnh . Trong khoảng chân không ấy , hình ảnh và ngôn từ thấp
thoáng ẩn hiện. Nó vụt đến, vụt đi. Nó mất hút vào vô tận. Rồi nó lại tái sinh trong tâm thức.
Ví dụ trong một bài thơ của Basho:
Tiếng chuông qua rồi
Và hương hoa ngát
Chiều ơi
(Nhật Chiêu dịch)
Trong vài từ , bài thơ đã viết về ba đối tượng : Tiếng chuông là đối tượng của thính
giác, hương hoa là đối tượng của khứu giác , chiều là đối tượng của thức giác . Cả ba đều có
sức lan tỏa của chúng. Chúng không choáng chỗ của nhau trong không gian của bài thơ. Nhà
thơ cũng không đưa ra một hình thức nào để cột chặt cả ba đối tượng lại . Tuy nhiên, chúng
cũng không rời nhau. Bài thơ vẫn dường như lỏng lẽo rời rạc , mà thực ra lại không lỏng lẽo ,
rời rạc chút nà o. Một mối liên hệ vô hình đã được thiết lập . Nhà thơ không cần phải chỉ ra
mối liên hệ vô hình đó . Đọc ngược bài thơ từ dòng cuối đến dòng đầu ta sẽ thấy một sự vận
động của cảm giác , từ một cảm giác mơ hồ , tinh vi đến cảm giác rõ ràng hơn , cụ thể hơn .
Như vậy thơ đã đi ngược vào bên trong tâm hồn mình để cảm nhận thực tại với tất cả sắc thái
của nó, từ thô kệch đến vi tế, từ vang động đến tịch tĩnh, từ cảm giác đến thức giác, từ thành
phần đến toàn thể.
Thơ Tuyệt Cú của Vương Duy khác hơn đôi chút. Nó mang tính chỉnh thể và liên quán
cao. Tuy nhiên, đó là một chỉnh thể không có trung tâm.
Mượn hình ảnh của bốn dòng thơ để nói, ta thấy, bốn dòng thơ trong một bài Tuyệt Cú
là hình ảnh của một sự đối xứng không có trung tâm. Hai câu trên đối xứng với hai câu dưới.
Giữa bài thơ là một khoảng trống . Nói cách khác, sự đối xứng của bốn dòng thơ thừa nhận
một trung tâm vô hình . Trong sự đối xứng phi trung tâm đó , mọi khả năng , mọi xu thế vận
động của mạch thơ được triển khai . Có thể nói , mỗi một bài thơ là hình ảnh của một vũ trụ
đang hít thở mà tạo ra sinh khí. Chính vì thế mới có niêm, có vận, có đối. Đó là hình thức âm
thanh biểu thị sự kết hợp chặt chẽ , vận động nhịp nhàng theo hai trục ngang và dọc của bài
thơ.
Trong sự đối xứng phi trung tâm đó, trong khoảng trống chân không đó, không gian và
thời gian là một. Cái khởi thủy và cái chung cuộc là một. Cuộc hành trình bắt đầu bằng điểm
kết thúc.
Đây chính là điểm gặp gỡ của thơ Haiku của Basho và thơ Tứ Tuyệt của Vương Duy .
Và đây cũng chính là điểm mà dấu ấn của nguyên lí thẩm mĩ h đạm, wabi thể hiện rất rõ.
Như trên đã phân tích , tiêu chuẩn thẩm mĩ bình đạm , mộc mạc biểu hiện trong thơ
Vương Duy và Basho trước hết ở tính giản dị của ngôn từ và hình ảnh . Ở phương diện khác,
nếu thừa nhận thơ Haiku và Thơ Basho như là nghệ thuật của các mối liên hệ thì, tất nhiên ta
sẽ đặt thành vấn đề là cái gì làm cho những hình ảnh , ngôn từ trong thơ Vương Duy và thơ
Basho liên kết với nhau.
Theo chúng tôi, sợi dây liên kết giữa chúng là khoảng trống trong thơ . Sự im lặng của
ngôn từ. “Im lặng là nốt chính trong thứ âm nhạc đặc biệt của thơ Vương Duy . Giống như
bất cứ nốt nhạc nào khác , âm vang cũng như ý nghĩa của nó được xác định bởi những nốt
xung quanh” [17; tr.379]. Các chi tiết , hình ảnh liên hệ với nhau vì tất cả đều xuất hiện để
góp phần xác định giá trị của khoảng trống ấy.
Tính chất bình đạm và wabi thể hiện ở khoảng trống này. Nó không phải là trống rỗng.
Nó có khả năng tạo một tiềm thế vận động cho các hình ảnh, ngôn từ và cho cả tứ thơ.
Nếu một bức tranh hay một bài thơ dày đặt bởi các chi tiết biểu hiện , sự linh động của
toàn thể sẽ mất . Mỗi một hình ảnh , mỗi một ngôn từ trong bài thơ sẽ không tìm đâu ra
“không gian” để cho mình triển khai ý nghĩa vào trong vô tận thế giới nội tâm của người đọc.
Ta sẽ chỉ thấy bài thơ chi chít những chữ và bức tranh kín mít những đường nét, màu sắc. Nó
cứng lại trên giấy mực và chết.
Thơ Vương Duy không cứng nhắc như vậy. Nó dùng cái nhàn đạm để tạo nên cái sống
động:
Không sơn bất kiến nhân,
Đãn văn nhân ngữ hưởng,
Phản ảnh nhập thâm lâm,
Phục chiếu thanh đài thượng.
Núi vắng không thấy bóng người,
Chỉ nghe âm vang tiếng nói.
Ánh sáng hắt vào rừng sâu,
Lại chiếu lên đám rêu xanh.
(Lộc trại - Giản Chi dịch xuôi)
Cái hay của những câu thơ trên là ở chỗ “Bất niêm, bất xuất” (Không dính cũng không
rời). Khung cảnh vắng bóng người , không thấy người , nhưng lại không phải là không có
người. Ánh sáng xuất hiện , nhưng đó lại không phải là ánh sáng , mà là “phản ảnh” . Âm
thanh cũng vậy, âm thanh hiện diện trong thế giới của bài thơ không phải là tiếng động , mà
là tiếng vang. Ngay cả màu sắc , cũng không phải là màu sắc thật sự của rêu xanh . Cái có và
cái không cứa thấp thoáng trong từng câu chữ.
Âm thanh triển khai qua tiếng vang , tiếng vang gợi nên không gian trống trải và im
ắng. Màu xanh của rong rêu chứng tỏ sự hiện hữu của ánh nắng yếu ớt . Ánh nắng yếu ớt lại
triển khai qua cái bóng phản chiếu của chính nó.
Yếu tố này gợi ra yếu tố khác . Chi tiết này là sự triển khai của chi tiết kia . Bài thơ là
một chuỗi những dư ba. Nhịp thơ thong dong, không dồn dập, không gấp gáp. Hình ảnh mới
xuất hiện không chen lấn với hình ảnh trước đó , mà chúng tương chiếu với nhau . Bài thơ
ngắn gọn nhưng không chật chội , gợi ra một khung cảnh trống trải nhưng không quạnh hiu .
Tất cả đều thể hiện phong thái bình đạm đặc trưng của thơ Vương Duy.
Như vậy , chúng ta thấy , những chi tiết trong thơ Tuyệt Cú của Vương Duy và thơ
Haiku của Basho đều không tự mình làm nổi bật chính mình . Nó tương liên tương chiếu với
những chi tiết khác tạo nên một thế giới nghệ thuật mang tính chỉnh thể toàn vẹn , dù bản
thân sự hiện diện của các chi tiết là bât toàn . Không có một chi tiết nào bị đẩy đến sự thể
hiện cùng cực . Sự tồn tại của mỗi chi tiết đi liền với sự tồn tại của những khoảng trống ,
khoảng không ẩn bên trong nó . Bài thơ được ví như một cơ thể sống . Khoảng trống không
xuất hiện trong thơ được ví như là các khớp của thân và tứ chi . Tứ thơ vận động được là nhờ
những khoảng trống chân không ấy . Cũng nhờ những khoảng trống chân không ấy , nhờ sự
giản hóa và nhạt hóa các chi tiết mà chỉnh thể của bài thơ mới trở nên trọn vẹn , sống động.
Câu thơ do đó mà có thần.
Chương 3: PHƯƠNG DIỆN TƯ TƯỞNG CỦA YẾU TỐ ĐẠM
TRONG THƠ VƯƠNG DUY VÀ YẾU TỐ WABI
TRONG THƠ BASHO
3.1. Đạm và wabi là những yếu tố nghệ thuật có khả năng chuyển tải tư tưởng
Đạm và wabi hiện diện trong thơ ca Trung Hoa và Nhật Bản không phải chỉ ở phương
diện tính thẩm mĩ . Nó còn mang tính tư tưởng . Nhưng không phải đơn giản chỉ là tư tưởng
đạo đức, không phải chỉ là vấn đề con người tránh cái cầu kì , hoa mĩ để có thể dễ dàng nuôi
dưỡng tâm hồn và khí chất . Để có thể hiểu về đạm và wabi , ta cần phải liên hệ cách hiểu về
đạm và wabi với thái độ trân quý đối với đời sống tự nhiên của người phương Đông . Thái
độ này là điểm chung của cả Thần đạo, cả Thiền môn, Lão giáo và Dịch học.
Trước hết là sự gắn bó hữu cơ giữa tâm hồn với thiên nhiên. Ở Trung Hoa thiên nhiên
là nơi con người chia xẻ tâm tư , tình cảm, thái độ, tư tưởng trước cuộc đời . Thiên nhiên là
người bạn thân thiết nhất, trung thành nhất của con người. Cũng có khi thiên nhiên trở thành
đối tượng quan sát, tìm hiểu, mô tả. Đó là những lúc con người có nhu cầu nhìn vào bản thể
nội tại của mình . Nói cách khác, con người tìm đến thiên nhiên chủ yếu không phải để biểu
hiện mình trước trời đất , mà là con người tìm đến thiên nhiên chính là tìm lại chí nh mình,
tìm thấy mối cảm thông muôn thuở giữa thiên nhiên với bản thân mình . Cũng là thói quen
nhìn bằng cái nhìn hướng nội , nhưng người Trung Hoa không thích chìm vào suy tư siêu
hình như người Ấn Độ . Họ không quen vẽ ra nhữ ng thế giới mang tính huyễn hóa , đầy ảnh
tượng. Họ nhìn vào tâm hồn mình thông qua cách nhìn vào thiên nhiên. Chỉ khi đó, những sự
thật sâu thẳm nhất chỉ có thể biểu lộ qua những chi tiết tưởng chừng như quen thuộc nhất ,
giản dị nhất, những chi tiết tưởng chừng như ở ngay trước mắt, những chi tiết rất đời thường.
Thơ Sơn thủy và thơ Điền viên đã biểu hiện cao nhất tinh thần gắn bó với thiên nhiên
này của người Trung Hoa . Thơ Sơn thủy được cá c nhà thơ như Đào Uyên Minh , Tạ Linh
Vận khai lộ vào thời Ngụy Tấn - Nam Bắc Triều . “Ở Trung Quốc, bắt đầu từ Đào Tiềm , Tạ
Linh Vận… đời Tấn Tống, thơ sơn thủy mới trở thành một thể tài chính thức của thơ ca. Đến
Vương Duy, Vi Ứng Vật đời Đường , thơ sơn thủy đã đạt đến đỉnh cao , trở thành một thể tài
truyền thống của thơ ca”… (Chu Quang Tiềm - Dẫn theo [34; tr.8]. Thơ Điền viên chủ yếu
được phát triển bởi các những trí thức phong kiến đã sống đời qui ẩn , thể hiện tinh thần tự
tại, an bình trong cuộc sống ruộng nương. Trong số đó có những người như Đào Uyên Minh,
Vương Duy ..v.v.. Nếu thiên nhiên trong thơ Sơn thủy là một thiên nhiên nguyên sơ , chưa
qua bàn tay đẽo gọt củ a con người thì thiên nhiên trong thơ Điền viên là thiên nhiên “nhân
vi” như “ruộng vuông, nhà cỏ, chó sủa, gà gáy, khói mỏng, gò cao”. [34; tr.12]. Nó là hình
ảnh của một đời sống mộc mạc , chất phác, xa cái ồn ào của thế tục và gần với cái nguyên sơ
của thiên nhiên.
Đối với dân tộc Nhật Bản, thiên nhiên được xem như là cội nguồn của cái đẹp. “Có thể
nói rằng quan niệm cái đẹp ở người Nhật Bản vốn có từ thiên nhiên – thiên nhiên đúng với
cái nghĩa đen của từ đó. Và ở đây có thể nói không chỉ vì ảnh hưởng của xintô mà cả về dấu
vết sâu sắc của Phật giáo để lại trong nền nghệ thuật Nhật Bản .” [52; tr. 61]. Nhưng thiên
nhiên ở đây lại không thể chỉ là hình ả nh của sự yên ả , thanh bình. Mặc dù “Khí hậu Nhật
Bản ôn hòa , có bốn mùa rõ rệt . Mùa hạ nóng và tháng bảy có mưa , nhưng chỉ kéo dài
khoảng một tháng. Mùa đông dễ chịu và có nhiều ngày nắng ấm. Xuân và thu là hai mùa thú
vị nhất, luôn luôn có nắng ráo , trừ tháng chín thường có gió bão và mưa lũ .” [69; tr.139].
Nhưng bên cạnh sự ôn hòa đó , thiên nhiên vẫn thường xuyên biểu lộ sự khắc nghiệt và dữ
dội đối với con người. Đó là sự hoành hành của núi lửa và động đất , là mối đe dọa của sóng
gió, bão táp từ biển khơi.“Núi lửa và động đất như hai người bạn đồng hành , thường gây ra
nhiều tai họa” [69; tr.139]. Chính vì thế , vẻ đẹp yên bình của thiên nhiên đ ược phản ánh
trong thơ ca Nhật Bản thường mang tính khoảnh khắc . Cái cảm thức về sự bất tường của
Thiên nhiên tạo ra một dấu ấn rất sâu đậm trong đời sống tinh thần dân tộc Nhật Bản . Thiên
nhiên là vĩnh cửu, nhưng thơ ca Nhật Bản không tìm đến trạng thái vĩnh cửu của thiên nhiên.
Đối với nền thơ ca của xử sở này , vẻ đẹp vĩnh cửu chứa đựng trong vẻ đẹp mong manh của
khoảnh khắc hiện tại.
Thiên nhiên đằm thắm , trữ tình . Thiên nhiên dữ dội , khắc nghiệt . Kinh qua tất cả
những ấn tượng đó , tình yêu đối với thiên nhiên biểu hiện trong thơ ca Nhật Bản có bản sắc
riêng, sâu lắng và độc đáo. Nó không hùng vĩ, mênh mông hay nguy nga, tráng lệ. Có thể nó
nhỏ bé, bình thường. Nhưng nó tinh nhạy , vi tế và tự nhiên như hơi thở . Nó là một tình yêu
xuất phát từ một tinh thần sẵn sàng đối diện với tất cả : sống và chết ; sự an bình và nỗi đe
dọa. Tình yêu ấy tha thiết mà không ồn ào; sâu lắng mà không tối tăm, bình dị mà không tầm
thường. Tình yêu ấy tìm kiếm bản thân mình trong những sự vật đơn giản nhất , nhỏ bé nhất
của thiên nhiên . Có thể nói , người Nhật thể hiện tình yêu thiên nhiên bằng nhịp rung động
hết sức tinh vi của chính thiên nhiên.
Yếu tố thiên nhiên chan hòa trong thơ ca là biểu hiện rõ nhất cho đời sống tinh thần
đơn sơ, mộc mạc, chất phác và bình dị của người Trung Hoa và người Nhật Bản . Hơn nữa,
yếu tố thiên nhiê n đi vào thơ ca của hai dân tộc này một cách hoàn toàn tự nhiên . Thiên
nhiên trong thơ không đóng vai trò như một khách thể hoàn toàn tách biệt để con người
ngắm nghía hay chiêm ngưỡng . Chủ thể không tô đậm nhân cách , không khai thác bản ngã
trước thiên nhiên để tạo nên thế đối lập, tạo nên một sự săn đuổi bất tận để thỏa mãn ý chí và
mong muốn của cá nhân, cũng như khao khát chinh phục khách thể. “….Nhưng bản thân nhà
thơ thì không nhấn mạnh gì đến yếu tố cá nhân ấy. Trung tâm của nó không phải là một cá
nhân, mà là tình huống, còn cá nhân thì thể hiện mình bằng một sức mạnh biểu hiện của các
phạm trù phổ quát, bằng sức mạnh của cơn xung động tâm hồn (chí) là cái được sinh ra
trong tim nhà thơ, nhưng nguồn gốc của nó là cái đại dương tồn tại.”[43; tr.220]. Ở đây, cá
nhân không đóng vai trò trung tâm trong bức tranh vũ trụ . Vũ trụ không có tâm điểm . Vì nó
vĩnh hằng nhưng không cố định , bất biến và không khép mình trong một mô thức nhất định
nào. Nó dung thông với cá nhân và tự quán xuyến mình trong dòng chảy bất tận của sự biến
dịch qua từng khoảnh khắc. Điều này qui định cái nhìn của chủ thể. Cái nhìn ở đây xuất phát
từ tấm lòng , chứ không nhìn từ một điểm nhìn cố định . Nhìn bằng tấm lòng , nên mọi khác
biệt về hình thể, mọi giới hạn về phương diện vật lý đều có thể bị vượt qua. Con người thanh
tẩy những dục vọng của mình để tinh thần có thể thấu cảm vào cái bình đạm và mộc mạc của
núi sông, cây cỏ, để có thể “phủ hóa tâm vô yếm” và “quán hóa nhập liêu thiên”[34; tr.118].
Điều này đã tạo cho thơ ca Trung Hoa tầm vóc đĩnh đạc và vững chải , tạo cho thơ ca Nhật
Bản một sắc thái tự nhiên, hồn hậu.
Nhận thức sự tồn tại của bản thân mình và sự sinh tồn của thiên nhiên , tạo vật bằng
trực giác bén nhạy và sự thấu cảm tinh vi , thơ ca Trung Hoa và Nhật Bản đã tái hiện thế giới
theo cách của mình. Thế giới trong thơ ca Trung Hoa và thơ ca Nhật Bản không phải là một
thế giới được cấu thành bởi những yếu tố rời rạc , manh múng; cũng không phải là một thế
giới đơn điệu, đồng nhất các yếu tố trong một hệ thống cố định.
Đó là một thế giới muôn vàn biến hiện . Nhưng trong cái muôn vàn biến hiện đó , ta
không thấy có chút gì màu mè, lòe loẹt hay chật chội, đông đúc.
Thơ ca Nhật Bản thể hiện sự trân quí đối với những sự vật mộc mạc , cũ kỹ , quen
thuộc, đời thường. Một mặt , đó là sự trân quí chính bản thân sự vật , cũng như sự trân quí
chính đời sống hằng ngày. Mặt khác, đó cũng là sự trân quí đối với giá trị sống mà sự vật ấy
mang tải. Với những sự vật mới mẻ , cầu kì, tính chất này đã mai một . Nó không làm sao kết
tinh được trong mình giá trị của thời gian , giá trị được hình thành từ những sự xây sát vô
thường của nắng mưa . Như vậy , cái đẹp sự vật không chỉ được cảm nhận trong phạm trù
không gian như tính cân đối , hài hòa, vị trí hợp lí của nó trong mối liên hệ với các sự vật
khác và với toàn thể. Cái đẹp của nó còn được cảm nhận trong chiều sâu thăm thẳm của thời
gian. Cả hai, vẻ đẹp thuộc về không gian và vẻ đẹp thuộc về phạm trù thời gian cùng hình
thành trong sự vật, không ngăn ngại nhau, chia tách nhau. Cũng không thể nói cái nào sinh ra
cái nào. Mỗi vẻ đẹp tồn tại trong môt thực tại riêng. Thế giới là một thế giới đa thực tại.
Thơ Trung Hoa cũng vậy . Thực tại vật lý và thực tại tâm lý trong một bài thơ tả cảnh
Trung Hoa có thể cùng tồn tại cùng một lúc trong từng chữ, từng dòng : “Nhất thiết tình ngữ
giai cảnh ngữ dã” [34; tr.144]. Một bài thơ thật sự có giá trị sẽ không vì cái mộng mà đánh
rơi cái thực , không vì trăng sao mà quên đi hoa cỏ ; không rong ruổi theo sự vật mà lạc mất
lòng người; cũng như không chìm trong suy tưởng mà bỏ mặc sự tồn tại thực tế . Nhưng nó
cũng cũng không hòa trộn một cách tùy tiện đến đỗi có thể lầm lẫn cái này với cái khác .
Trăng soi mình trong nước . Nước phản chiếu ánh trăng . Nhưng trăng vẫn là trăng và nước
vẫn là nước. Nước không làm ướt được trăng , và Trăng không làm nước tan thành mây khói
được. Vẻ đẹp lấp lánh trên sông cũng không phải do một mình trăng hay nước tạo thành . Nó
là sự tương kiến của trăng và nước.
Tình và cảnh cũng thế. Chúng hội ngộ với nhau mà sinh thành nên cái đẹp của thơ ca .
Vạn vật giao hòa nhưng không hỗn độn , soi chiếu trong nhau mà không đồng hóa lẫn nhau .
Sự tồn tại của chúng không diễn ra theo cách lần lượt th ay thế nhau theo cấu trúc tuyết tính .
Trong sự phẳng lặng - Bình - có sự đồng hiện giữa trước và sau . Trước sau ở đây, vừa hiểu
theo nghĩa vị trí , vừa hiểu theo nghĩa thời điểm . Cũng như vậy , trong cái mờ nhạt - Đạm -
không có gì được nhấn mạnh , được làm nổi bật một cách thái quá , và cũng không phải là tất
cả đều được nhắc đến , nhưng chính vì vậy mà không có sự bỏ quên hay thiếu sót bất cứ thứ
gì.
Để thực hiện được điều này , thực sự phải cần đến tài năng . Nhưng tài năng cũng
không được hiểu là sự điêu luyện . Cái đẹp, do đó, cũng không phải là sản phẩm của những
người thợ khéo tay lành nghề . Nghệ thuật ở đây phải đi đến một bước tiến xa hơn chí nh bản
thân nó rất nhiều . Nó phải trở thành một thứ nghệ thuật phi nghệ thuật . “Nghệ thuật trở
thành phi nghệ thuật (….); thầy trở thành trò; Đạo sư trở thành kẻ nhập môn; cái cuối cùng
trở thành cái nguyên thủy” [23; tr.58]. Quá trình sáng tạo nên cái đẹp là có thực. Nhưng quá
trình đó phải là một quá trình vô tư đến mức , người ta không biết mình sáng tạo ra cái đẹp
hay cái đẹp đã sinh ra tâm hồn mình . Nó phát sinh một cách tự nhiên như chiếc lá mọc từ
cành xanh.
Khi đó cái đẹp sẽ là một cái đẹp chân chính . Nó không nhận sự cầu kì , sặc sở làm
dáng dấp của mình. Nó mang chứa một khả năng bất tận thể hiện mình trong mọi dạng hình ,
kể cả những dạng hình đơn sơ nhất, mộc mạc nhất, bình dị nhất.
Đó phải chăng là tinh thần của thơ ca phương Đông ? Mang dấu ấn của tư tưởng
phương Đông?
3.2. Đạm, wabi: Sự tinh hợp giữa thiền và thi trong thơ Vương Duy và thơ Basho
3.2.1. Con đường tìm về tự nhiên
Tinh thần của đời sống giản dị , mộc mạc trong thơ Vương Duy và thơ Basho được
biểu hiện ngay trong cách sống của con người , cách nhìn của chủ thể đối với thế giới . Ở cấp
độ triết lí , tinh thần này tồn tại trong quan niệm về một thái độ sống : Thái độ thuận theo tự
nhiên, không làm gì trái với tự nhiên. Ở cấp độ tình cảm, đó là sự gắn bó, chan hòa giữa tâm
hồn với thiên nhiên , giữa cá nhân với vũ trụ . Triết lí và tình cảm gắn bó với nha u một cách
chặt chẽ, đôi khi song hành.
Ở những nhà thơ như Vương Duy , Đào Uyên Minh , đều xem lối sống bình đạm , giản
đơn, gần thiên nhiên, thuận theo tự nhiên là một lối sống lí tưởng:
Kết lư tại nhân thế,
Nhi vô xa mã huyên.
Vấn quân hà năng nhĩ,
Tâm thiên địa tự thiên.
Với đời, dựng túp liều tre
Mà không ngựa ngựa, xe xe ồn ào.
Hỏi rằng : Được thế vì sao?
Thưa: Lòng xa ở chỗ nào chẳng xa.”
(Đào Uyên Minh – Giản Chi dịch thơ)
Thê thê phương thảo xuân lục
Lạc lạc trường tùng hạ nhàn
Ngưu dương tự qui thôn hạng
Đồng trĩ bất thức y quan
Cỏ xuân thơm mầu xanh biếc,
Tiết hè lạnh bóng thông dài
Trâu, dê thuộc đường về xóm
Trẻ con dốt chuyện cân đai
(Vương Duy – Giản Chi
dịch thơ)
Nhưng lí tưởng về cuộc sống bình đạm, tự nhiên đó, như chúng ta thấy, không phải là
quan niệm về một lối sống cực đoan , chỉ sống với thiên nhiên, cách biệt hoàn toàn với nhân
gian. Với Đào Uyên Minh thì ông dựng ngôi nhà tranh, không phải ở rừng sâu, hay núi cao,
mà là ở giữa nhân gian. Với Vương Duy, ông dựng ngôi nhà tranh ở Chung Nam Sơn, một
ngôi nhà tranh “Chung nhật vô tâm, chung niên vô khách” với vẻ bên ngoài của nó là “Bế
quan, tự nhàn”; ấy vậy mà cánh cửa của nó lại rộng mở đối với những ai thật sự muốn tìm
đến nó. Người ta nói, ẩn sĩ ở chốn núi non, rừng thẳm, tìm đến thiên nhiên để xa lánh thế tục
là tiểu ẩn. Ẩn sĩ ngay ở chốn thị thành, áo vương gió bụi trần gian mà lòng thanh thản, u
nhàn là đại ẩn. Đào Uyên Minh, Vương Duy quả là những bậc đại ẩn. Họ yêu thiên nhiên
bằng cái tâm tự nhiên. Với họ, thiên nhiên là cuộc sống, và trong cuộc sống trần tục, tâm họ
vẫn rất gần với thiên nhiên.
Basho cũng thế. “Phong độ của ông cùng cử động với phong độ của thiên nhiên”.[56;
tr.372]. Và tâm tưởng của ông không chỉ tràn ngập tình cảm với thiên nhiên khi ông sống
gần gũi thiên nhiên mà sự thật là ngay cả khi ở giữa kinh thành gió bụi , ông vẫn nhớ về kinh
thành xưa, nơi mà ngày trước, dấu ấn của thiên nhiên còn in đậm:
Ở kinh đô
Mà nhớ kinh đô
Tiếng Cuốc
(Nhật Chiêu dịch)
Kinh đô hiện tại là kinh đô của sự ồn ào thế tục , kinh đô của nhân gian. Kinh đô trong
nỗi nhớ là kinh đô của cảm nhận , của tâm hồn . Mà tâm hồn là cả một thế giới . Nó có thể
chứa đựng gió mưa:
Lang thang đồng nội
Để cho mưa gió
Thấm vào hồn tôi
(Nhật Chiêu dịch)
Cũng có thể chứa đựng cả đất trời, mây núi:
Hồn gói mang về
Đỉnh núi Phú Sĩ
Kỉ vật tuyệt vời
(Lê Từ Hiển dịch)
Một khi tâm hồn đã gắn kết , hòa đồng vào vũ trụ , con người sống đời sống của thiên
nhiên, thở hơi thở của tự nhiên. Được như vậy thì bất cứ lúc nào con người lặng im nhìn vào
bên trong mình, cũng có thể cảm nhận được nhịp điệu , sự rung động của đất trời . Đó là một
đời sống trọn vẹn. Và cũng vì thế giới bên trong với thế giới bên ngoài là một nên thơ Basho
ít khi nói đến cảm xúc , ít khi thể hiện cảm xúc cá nhân trước cảnh vật. Chỉ vài nét phác thảo
đơn sơ, mộc mạc cũng đủ để cảnh trở thành tâm cảnh . Không cần phải thêm thắt , kể lể dài
dòng:
Trên cành khô
Cánh quạ đậu
Chiều thu
(Nhật Chiêu dịch)
Đây là điểm giống nhau quan trọn g giữa Vương Duy và Basho . Nếu Basho ít khi
chứng tỏ mình trước thiên nhiên thì Vương Duy, “Cái độc đáo của Vương Duy là ông không
để xúc cảm cá nhân ảnh hưởng vào thiên nhiên”. [51; tr.53].
Nhưng xúc cảm cá nhân không ảnh hưởng v ào thiên nhiên không có nghĩa là giữa
thiên nhiên và tâm hồn không có sự tương tác . Không phải tâm hồn lạnh lẽo trước thiên
nhiên. Mà là cảm xúc lắng sâu vào trong bản thể của mình và thực tại trình hiện cái chân
diện mục của đời sống.
Nó chỉ mất đi trạng thái vọng động ban đầu . Cái muôn màu muôn vẻ một khi đã đọng
lại được ở cái bản thể của nó , nó vẫn không mất đi khả năng biến hiện dưới muôn hình vạn
trạng của mình.
Chúng ta hãy đọc hai bài thơ sau đây, một của Vương Duy, một của Basho:
Loan Gia lại
Táp táp thu vũ trung,
Thiển thiển thạch lưu tả,
Khiêu ba tự tương tiễn,
Bạch lộ kinh phục há.
Vũng Loan Gia
Mưa thu tiếng sầm sập,
Kẽ đá dòng tuôn nông,
Sóng chảy chờm tung tóe,
Cò trắng sợ, sà trông.
(Giản Chi dịch thơ)
Một tia chớp
Đi sâu vào tối đen
Làm con Diệc kêu lên
(Phùng Hoài Ngọc dịch)
Thiên nhiên vận động dữ dội . Nhưng tâm hồn bình l ặng. Chỉ có một tâm hồn thực sự
bình lặng mới nghe ra âm thanh tiếp theo sau của tia chớp – không phải là tiếng sấm – mà là
tiếng một loài chim nhỏ . Chỉ có một tâm hồn thực sự bình lặng mới kịp nhìn thấy , trong bao
nhiêu mưa bão , trong bao nhiêu đợt sóng tung tóe trên khe – không phải chỉ là bóng trắng
của con cò , mà còn là nỗi sợ hãi của con cò . Cả hai bài thơ đều tái hiện một cách chân xác
cảnh tượng biến chuyển mạnh mẽ nhất của thiên nh iên, đồng thời, đó cũng là những bài thơ
ghi lại những rung động tinh vi nhất của đời sống tự nhiên
Dữ dội nhưng không có gì ồn ào , vì không có những tiếng nói của những cảm xúc cá
nhân chen vào.
Vương Duy chịu sự ảnh hưởng sâu đậm của Phật Giáo đại thừa , đặc biệt là thiền tông.
Basho là một nhà thơ đồng thời cũng là một nhà sư . Do vậy yếu tố thiên nhiên trong thơ của
họ ít nhiều mang màu sắc thoát tục. Sự xuất hiện của yếu tố thiên nhiên đôi khi là biểu tượng
cho sự thoát khỏi những trói buộc của thường tình và tìm đến sự thanh thoát , một tâm thái
điềm đạm :
Đãn khứ mạc phục vấn
Bạch vân vô tận thì
Đi thôi! Đừng hỏi nữa
Mây trắng còn đó hoài
(Tống Biệt – Giản Chi dịch thơ)
Hồ thượng nhất hồi thủ
Sơn thanh quyển bạch vân
Trên hồ, ngoảnh đầu lại
Thấy mây trắng cuốn núi xanh
(Y Hồ - Giản Chi dịch thơ)
Làn hoa cúc đưa
Nara trầm mặc
Những đài Phật xưa
(Nhật Chiêu dịch)
Hoa Đào như áng mây xa
Chuông đền Ueno vang vọng
Hay đền Arakusa
(Lưu Đức Trung dịch)
Tuy nhiên, cũng màu sắc siêu thoát ấy , nhưng thiên nhiên trong thơ Haiku của Basho
đẹp, mong manh, và hư ảo , như một làn hương , như một đám mây ho a. Thiên nhiên trong
thơ Vương Duy dường như là một thế giới của sự tĩnh tại vĩnh hằng như ngàn năm mây
trắng.
Thiên nhiên trong thơ Vương Duy thể hiện một cảnh quan mờ nhạt cao xa , Thiên
nhiên trong thơ Basho được khắc họa với những dáng vẻ nhỏ bé và gần gũi.
Nói tóm lại , thiên nhiên trong Thơ Vương Duy và Basho là một yếu tố hết sức quan
trọng. Nó là bằng hữu, là cái đẹp, là vô biên, là lí tưởng, và cũng chính là tâm hồn của thi
nhân. Dù xa xôi hay gần gũi, nó không tách biệt với thế giới con người. Nó chỉ là một thanh
âm im lặng, mà nếu trong thế giới phồn hoa của nhân gian người ta muốn lắng nghe được thì
phải lắng nghe bằng tâm hồn giản dị, lắng đọng, không ồn ào, không xa hoa.
3.2.2. Ngộ tính trong thơ ca
Đến với thơ Vương Duy và thơ Basho, ta không chỉ đến với vẻ đẹp tình cảm, mà ở đó,
còn lấp lánh một vẻ đẹp trí tuệ. Thơ ở đây, không chỉ biểu hiện tâm sự mà cón thể hiện triết
lý.
Cái độc đáo của Haiku là đưa ra một sự tình vắn tắt vừa vặn với khuôn khổ bên ngoài
của nó, nhưng nó có thể đặt trong đó cả một thời gian vô tận. Trực giác của nhà thơ phải hết
sức nhạy bén mới nắm bắt được khoảnh khắc thoáng qua như ánh chớp ấy:
“Một tia chớp
Đi sâu vào tối đen
Làm con diệc kêu lên”
(Phùng Hoài Ngọc dịch)
Chân lí cuối cùng hóa ra vô cùng giản dị. Giản dị đến mức dùng suy nghĩ, ngôn từ để
miêu tả về nó là đã làm phức tạp hóa nó, che lấp nó. Chỉ có sống với nó, chứ không thể chỉ
nghĩ về nó.
“Dầu đã cạn
Tôi xếp sách đi ngủ
Ôi chiếc gối sáng trăng”
( Lê Từ Hiển dịch)
Ánh sáng của đèn dầu là thứ ánh sáng để đọc sách. Nó thật nhỏ nhoi so với ánh trăng
vô tận của bầu trời đêm. Nhưng nó có thể khiến người ta quên đi ánh trăng. Tri thức vụn vặt
cũng giống như vậy. Nó chỉ là tiểu tri. Nhưng nó có thể che khuất đại ngộ. Hãy dẹp nó sang
một bên. Bất ngờ ta sẽ thấy, vẫn còn có một thứ ánh sáng khác đang tồn tại. Sự tồn tại của nó
không là một sự tồn tại lặng lẽ nhưng bền vững, âm thầm nhưng rộng lớn.
Có thể nói, nếu ta đến thơ Vương Duy và Basho để tìm một triết lí, một kết luận có sẵn
về cuộc đời, về nhân sinh, ta sẽ thất vọng. Bởi cuộc sống vô cùng, an tâm về một chân lý có
sẵn cũng chính là đã chết trong quá khứ Thơ Vương Duy và Basho là những vần thơ không
phải viết ra để thắp lên ánh sáng của một ngọn đèn dầu.. Đó không phải là những vần thơ
chết, nó không cung cấp cho ta một điều gì phải tin, nó chỉ gợi trong ta một cái tâm không
ngừng tra vấn, và ngay tại đó, cuộc đời thật đơn giản, mọi chân lí thật giản dị và sáng tỏ, nó
như hơi thở, như cơm ăn, nước uống hằng ngày.
Con đường dẫn đến cái đẹp ấy là một con đường phi đạo lộ. Nhà thơ không cố ý tìm
kiếm nó. Nó cũng không cố ý hiện bày. Nó chỉ hiện hữu trong sự tình cờ, bất chợt. Nghĩa là
khi ý thức về một sự tìm kiếm, một sự sở hữu đã lắng xuống, nhường chỗ cho sự đồng nhất
giữa hai thế giới bên trong và bên ngoài, khi đó, thi nhân và cái đ ẹp là một.
Basho viết:
Mùi hoa mơ ơi
Con đường núi mọc
Bỗng nhiên mặt trời
( Nhật Chiêu dịch)
Ta thấy cái đẹp của tứ thơ là một cái đẹp dường như đã hiện hữu từ vô thủy, nhưng
đồng thời lại là cái đẹp không báo trước. Đó là một cái đẹp không có quá khứ, không có hiện
tại, nó phi thời gian. Nó nằm ngoài mọi “cái biết”. Và chỉ có một điều đáng nói : Sự hiện hữu
của nó là có thật. Cái thật ấy thật đến mức nó không còn làm người ta bận tâm so đo về
nguồn gốc, sự vận hành và mọi thứ can hệ của nó nữa :
Ồ hương thơm ngát
Tỏa tự cây hoa nào
Không biết
(Lê Thiện Dũng dịch)
Từ cái vô ý, nhà thơ thường biểu đạt những sự lí không ngờ.
Không ít lần, thơ Vương Duy cũng đã đề cập đến những không ngờ như thế:
Văn Mai quán
Văn mai tài vi lương
Hương mao kết vi vũ
Bất tri đông lý vân
Khứ tác nhân gian vũ.
Quán Văn Mai
Mai đào chặt làm xà
Cỏ thơm bện làm mái
Nào biết mây từ đó
Đi làm mưa thế nhân.
( Giản Chi dịch xuôi )
Có lẽ Vương Duy đã tự ý thức về đời sống ẩn dật của mình trong một dịp tình cờ, khi
nhà thơ trông thấy mái nhà và mây trời lẫn trong nhau. Đơn giản đến như thế và bất ngờ đến
như thế!
Ý nghĩa của cuộc sống được tìm thấy trong những lúc vô ý. Vô ý, hay là cái nhạt của
ý, đã tạo nên một chiều sâu vô tận trong những nhận thức kiểu như vậy. Nó sâu sắc đến mức
trí năng muốn đến được cảnh giới của nó, thì phải tĩnh tâm. Do đó, trong Haiku của Basho,
wabi gắn bó mật thiết với sabi. Mộc mạc gắn liền với cô tịch. Còn trong thơ Vương Duy,
nhàn tĩnh, có thể nói, là yếu tố không thể tách rời với yếu tố bình đạm . Tĩnh – hiểu theo
nghĩa là một sự vận động trong trạng thái thống nhất, nhịp nhàng, hài hòa, cân đối; tuần tự và
không hỗn độn , không rối loạn ; như đêm xuống , trăng lên, sương rơi, hoa nở, mây trôi ,
nước chảy. Khi đó, tâm và vật tương ứng , cái hiện tại bắt gặp cái vĩnh cửu . Khi đó, cái miên
viễn hiện hình.
Điểu Minh Giản
Nhân nhà quế hoa lạc
Dạ tĩnh xuân sơn không
Nguyệt xuất kinh sơn điểu
Thời minh xuân giản trung
Khe chim kêu
Người nhàn hoa quế rụng
Đêm tĩnh núi xuân không
Trăng lên chim núi hải
Giật mình kêu giữa khe xuân
( Giản Chi dịch thơ )
Ta thấy bài thơ biểu hiện trước hết cái nhàn nhã của một tâm hồn ẩn dật, đã xa lánh
những thăng trầm của thế tục. Đó cũng chính là sự tự tại của một con người đã liễu ngộ.
Người có nhàn, đêm có tĩnh thì ánh trăng mới có sức vận động mạnh mẽ đến như vậy.
Núi xuân có vắng, khe xuân có lặng, thì tiếng chim kêu mới lảnh lót và người ta mới có thể
nghe ra cái giật mình trong tiếng kêu ấy. Động và tĩnh đan xen vào nhau. Không phải nhà thơ
chủ tĩnh, mà là sự vận động ở đây không còn là sự náo động, nó là sự vận động tự nhiên nhi
nhiên, vượt ra khỏi mọi ràng buộc của thế sự, tạo cho thơ một không khí siêu thoát, nhẹ
nhàng, bình đạm.
Khi tự nhận thức về bản thân mình thì mỗi nhà thơ đều có một cách nói hết sức đơn
giản, bình dị.
Vương Duy khi nói về những cảm xúc cá nhân thì ngòi bút của ông bao giờ cũng
bình đạm, nhàn viễn: “Ngọn bút tả tình của Vương (Duy) nhàn đạm, bình dị” [6; tr.30].
Sắc thái tình cảm trong thơ Vương Duy phần nhiều là vừa kín đáo , vừa chân thành .
Kín đáo không hẳn là vì ông giấu kín tình cảm , mà bản chất tình cảm trong thơ Vương Duy
nó không thái quá. Tự thân nó đ ã điềm đạm , tinh tế, không phải là sự kìm nén cảm xúc . Vì
thế, thơ Vương Duy, tình ca ̉ m kín đáo, vẫn hồn hậu, chân thành, không có chút che đậy . Sở
dĩ bên ngoài ông luôn cẩn nghiêm: “Phong cách Vương luôn luôn “Cẩn nghiêm”, luôn theo
đúng thi giáo: “Ôn, nhu, đôn, hậu””[6; tr.31]; Là vì bên trong, ông có một sức tự chủ mạnh
mẽ: “Vương Duy thì tuyệt nhiên “Phẫn nhi bất lệ, ai nhi bất thương, lạc nhi bất dâm, nộ nhi
bất oán””.[6; tr.31].
Khi khóc bạn, ông chỉ lặng lẽ viết:
Cố nhân bất khả kiến
Hán thủy nhật đông lưu
Cố nhân thôi hết gặp
Dòng Hán chảy về Đông
(Khốc Mạnh Hạo Nhiên – Giản Chi dịch thơ)
Niềm vui của ông cũng không ầm ĩ , náo động, mà chỉ là một niềm an lạc , tự tại , và
thanh thoát:
Độc tọa u hoàng lí,
Đàn cầm phục trường khiếu,
Tre rậm, một mình ngồi,
Gảy đàn, lại huýt gió
(Trúc Lí Quán – Giản Chi
dịch thơ)
Còn Basho, khi đối diện với cái chết – đối diện với yếu tố dữ dội nhất của sự sống –
ông viết:
Giữa đường ngã bệnh
Mộng còn ngao du
Đồng không mông quạnh
(Lê Thiện Dũng dịch)
Không than van, khóc lóc, không sợ hãi, hoảng loạn, bài thơ như một lời “tường thuật”
về giấc mơ và sự chết của chính người làm thơ . Cuộc đời là cơn mơ . Cái chết có là sự tiếp
tục của giấc mộng trăm năm trong cõi vô thường ? Ta không biết. Chỉ có điều, ta không ngờ,
khoảnh khắc mong manh giữa sống và chết lại chính là khoảnh khắc hiện hữu của hồn thơ
Basho.Tinh thần của thơ ca một khi đã hiện hữu ở khoảnh khắc đó , thì khoảnh khắc đã trở
thành vô biên, và giới hạn của sống và chết không còn nữa . Vượt qua sinh tử đâu nhất thiết
phải cần đến phép lạ, đâu phải là điều gì huyền bí ?
Bình dị, nhàn đạm khi nói về tình cảm , cảm xúc cá nhân không phải là làm nghèo cá
tính. Mà đó là vì chủ thể không còn thấy có sự đối đãi giữa tâm và vật , không còn thấy phân
biệt ta và cái bên ngoài ta. Cái bên ngoài và cái bên trong là một nên không cần thiết phải vẽ
nên bức chân dung của chủ thể tách biệt với bên ngoài , không cần thiết phải dựng lên hàng
rào ngăn cách , đối lập giữa tôi và thế giới . Ngộ tính trong thơ ca là như thế. Nó là một sự
nhận thức cùng một lúc cái tôi và thế giới trong một một thể thống nhất hoàn hảo. Những câu
thơ tuyệt hay của Vương Duy và Basho phần nhiều là những câu thơ nói lên sự sống chan
hòa giữa chủ thể và khách thể:
Sơn lộ nguyên vô vũ
Không thúy thấp nhân y
Không mưa đường núi vắng
Trời tím áo sương rơi
(Sơn Trung – Vũ Thế Ngọc
dịch thơ)
Sầu tâm thị xuân thảo
Úy hướng ngọc giai sinh
Lòng buồn, trông nhánh cỏ xuân
Sợ nó mọc lan lên thềm ngọc
(Tạp Thi – Giản Chi dịch xuôi)
Hoa Đào hoa Đào
Trong tâm tưởng gieo rắc
Biết bao điều
(Lê Thiện Dũng dịch)
Con người im lặng nhìn ngắm thế giới, không tách mình ra khỏi thế giới. Chính vì thế,
con người không những không mất hút trong vũ trụ mà còn được c uộc sống tiếp nối sinh
mệnh của mình , đối thoại với tâm hồn của mình . Khi cuộc đối thoại giữa tâm hồn và đời
sống diễn ra thì đó là cuộc đối thoại thầm lặng , và vì là một cuộc đối thoại thầm lặng nên nó
vượt qua được g iới hạn của ngôn từ . Hoa Đào và tâm tưởng . Sầu tâm và xuân thảo . Màu
xanh của không gian thấm ướt áo người . Có rất nhiều điều được gợi ra nhưng không được
nói đến. Nhưng chỉ như vậy thôi, tứ thơ cũng đã thật sự trọn vẹn rồi.
Nói tóm lại, thơ Vương Duy và thơ Basho thể hiệm một thái độ dò tìm hướng đến
nhận thức triệt để về tự thân và thế giới bằng con đường của sự ngộ. Ngộ tính vốn là tinh tủy
của Thiền và giới đã trở thành là điểm sáng của thơ ca. Vương Duy và Basho đều là những
nhà sư thi sĩ.Thơ của họ gặp nhau ở tính chất này.
Tuy vậy, họ không cất công giảng giải diệu lí Thiền.
Trong thơ, họ chỉ trình bày một cuộc sống giản đơn chưa từng thấy. Cái giản đơn có
đủ khả năng làm chúng ta ngạc nhiên và xúc động.
KẾT LUẬN
1. Kết luận khoa học của đề tài
Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi rút ra kết luận, bình đạm của như wabi, là những
yếu tố hết sức quan trọng, thể hiện được đặc trưng thơ Vương Duy và Basho. Nó là chiếc
chìa khóa, giúp giải mã những sự khó hiểu, khó tiếp cận trong thơ Vương Duy và Basho.
Tuy Bình đạm và wabi là những quan niệm về tính mộc mạc của cái đẹp nhưng nó
không phải đơn giản như chúng ta vẫn thường hiểu. Nó không đơn thuần chỉ là sự thiếu trang
sức, không quan tâm đến việc làm đẹp mà đó là con đường dẫn đến cái đẹp vượt qua được
chuyện làm đẹp. Một con đường độc đáo mà thơ Vương Duy và thơ Basho đã biểu hiện.
Sở dĩ bình đạm và wabi trong thơ Vương Duy và thơ Basho lại có sức hấp dẫn, lại là
biểu hiện của cái đẹp, theo chúng tôi, trước hết, vì nó mang tính quan niệm. Nó ít nhiều gắn
với lí tưởng về tâm hồn, nhân cách của nhà thơ. Thứ hai, nó là sự giản dị giàu sức gợi, chứ
không phải là một sự giản dị nghèo nàn. Thứ ba, nó gắn liền với thị hiếu thẩm mĩ của người
phương đông: Thiên nhiên. Con đường ngắn nhất để thơ ca đến với tự nhiên là tránh việc
trang sức cầu kì.
2. Hướng nghiên cứu tiếp của đề tài
Đối với đề tài này, chúng tôi đề xuất hai hướng nghiên cứu tiếp theo:
Thứ nhất, nghiên cứu Bình Đạm trong thơ Đường và Wabi trong thơ Haiku, không
phải chỉ riêng những nhà thơ như Vương Duy hay Basho mà trong phạm vi rộng lớn hơn,
bao quát hơn. Dĩ nhiên, không phải tất cả các nhà thơ đều chịu sự ảnh hưởng của yếu tố bình
đạm và wabi, cũng có những nhà thơ xem trọng việc trang sức, việc làm đẹp cho hình thức
tác phẩm và họ cũng sáng tác nên những tác phẩm rất có giá trị. Nhưng theo chúng tôi, đặc
trưng này phản ảnh được tinh thần thơ ca Trung Hoa và Nhật Bản trong một thời kì nhất định
của lịch sử. Vì thế, dù gián tiếp hay trực tiếp, dù ảnh hưởng theo góc độ này hay góc độ khác
nó vẫn mang đậm dấu ấn của tinh thần thơ ca phương Đông.
Thứ hai, chúng ta có thể nghiên cứu Basho và Vương Duy. Vì trên thực tế, những
công trình nghiên cứu về thơ Vương Duy ở Việt Nam không nhiều như các nhà thơ cùng thời
khác như Lý Bạch và Đỗ Phủ. Và những công trình so sánh, đối chiếu giữa thơ Vương Duy
và Basho lại càng hiếm. Hi vọng hướng nghiên cứu này sẽ đóng góp cho công cuộc nghiên
cứu các tác gia văn học nước ngoài được hoàn bị hơn.
Dù đã cố gắng hết sức mình, nhưng công trình nghiên cứu của chúng tôi chắc khó
tránh khỏi những sai sót nhất định. Hi vọng chúng tôi tiếp thu được những ý kiến quý báu để
công tác nghiên cứu khoa học ngày càng tốt hơn, phục vụ nhiều hơn cho sự nghiệp khoa học
và giáo dục.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. Matsuo Basho, Vĩnh Sính dịch (1999) , Lối lên miền Ôkư, NXB Thế Giới, Hà Nội.
2. Fritjof Capra, Nguyễn Tường Bách dịch (2001), Đạo của vật lý, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí
Minh.
3. Nguyễn Duy Cần (2000), Trang Tử tinh hoa, NXB Thanh Niên, Bến Tre.
4. Cao Hữu Công – Mai Tổ Lân, Trần Đình Sử - Lê Tẩm dịch (2000), Nghệ thuật ngôn
ngữ thơ Đường, NXB Văn học, Hà Nội.
5. Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê (1966), Đại cương triết học Trung Quốc, Cảo Thơm, Sài
Gòn.
6. Giản Chi (1993), Vương Duy thi tuyển, NXB Văn Hóa Thông Tin, TP Hồ Chí Minh.
7. Nhật Chiêu (1994), Basho và thơ Haiku, NXB Văn học – Khoa Ngữ Văn và Báo Chí ĐH
Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.
8. Nhật Chiêu (1995), Nhật Bản trong chiếc gương soi, NXB Giáo dục, TP Hồ Chí Minh.
9. Nhật Chiêu (2001), Thơ ca Nhật Bản, NXB Giáo dục, TP Hồ Chí Minh.
10. Nhật Chiêu (2007), Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868 , NXB Giáo Dục, TP Hồ
Chí Minh.
11. Nhật Chiêu (2008), “Thế giới Thơ Haiku”, Tài liệu tham khảo thơ Haiku, CLB thơ Haiku
TP Hồ Chí Minh.
12. Nhật Chiêu (2009), “Hỏi Đáp”, Nội san Hương Cau 1 – CLB thơ Haiku tiếng Việt, Tp
Hồ Chí Minh.
13. Nguyễn Văn Dân (2003), Lí luận văn học so sánh, NXB ĐH Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
14. Will Durant, Nguyễn Hiến Lê dịch (2006), Lịch sử văn minh Trung Hoa, NXB Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
15. Dương Ngọc Dũng (1999), Dẫn Nhập tư tưởng lý luận văn học Trung Quốc, NXB Văn
học, Hà Nội.
16. Dương Ngọc Dũng (2008), Nhật Bản học, NXB Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh.
17. Nguyễn Sĩ Đại (1996), Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt Đường, NXB Văn
Học, Hà Nội.
18. Lâm Ngữ Đường, Nguyễn Hiến Lê dịch (1994), Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa,
NXB Văn hóa, Tp Hồ Chí Minh.
19. Lâm Ngữ Đường, Trần Văn Từ dịch theo nguyên bản tiếng anh (2001), Trung hoa đất
nước con người, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
20. Lâm Ngữ Đường, Trịnh Lữ dịch (2005), Hội họa Trung Hoa qua lời các vĩ nhân và danh
họa, NXB Mỹ Thuật, Hà Nội.
21. Nguyễn Thị Bích Hải (2006), Thi pháp thơ Đường, NXB Thuận Hóa, Huế.
22. Harold G. Henderson, Lê Thiện Dũng dịch (2000), Hài cú nhập môn, NXB Trẻ.
23. Eugen Herrigel, Nguyễn Tường Bách dịch (2001), Thiền trong nghệ thuật bắn cung,
NXB Tre, TP Hồ Chí Minh.
24. Hồ Sĩ Hiệp (1997), Hình thức thơ ca cổ điển Trung Quốc, ĐH Quốc gia Tp Hồ Chí Minh
– Trường ĐH Sư Phạm, Lưu hành nội bộ, Tp Hồ Chí Minh.
25. Lưu Hiệp, Phan Ngọc dịch và giới thiệu (2007), Văn tâm điêu long, NXB Lao Động –
Trung tâm văn hóa ngôn ngữ đông tây, Hà Nội.
26. Hoàng Ngọc Hiến (2007), Văn hóa và văn minh – Văn hóa chân lý & văn hóa dịch lý ,
NXB Đà Nẵng, Tp Đà Nẵng.
27. Lê Từ Hiển – Lưu Đức Trung Biên soạn và tuyển chọn (2007), Hai kư – Hoa thời gian,
NXB Giáo Dục, TP Hồ Chí Minh.
28. Hồ Hoàng Hoa chủ biên (2001) Văn hóa Nhật – Những chặng đường phát triển, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
29. Lý Kim Hoa (2006), Để hiểu văn hóa Nhật Bản, NXB Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
30. W. Holmes – Ch. Horioka, Hạnh Quỳnh dịch (2006), Nghệ thuật Thiền qua hội họa,
NXB Tổng Hợp Tp Hồ Chí Minh.
31. Đoàn Hương (2004), Văn luận, NXB Văn Học, Hà Nội.
32. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương đông- Gợi những điểm nhìn tham chiếu, NXB
Văn Học, Hà Nội.
33. Lâm Thanh Huyền (2007) Triết học và Thiền học phương Đông – Thiền sư Đạo Nguyên,
NXB Lao Động, Hà Nội.
34. Trần Trung Hỷ (2007) Thơ Sơn Thủy cổ trung đại Trung Quốc , NXB Giáo Dục , Tp Đà
Nẵng.
35. Francois Jullien, Trương Thị An Na dịch và giới thiệu (2004), Bàn về cái nhạt (Dựa vào
tư tưởng và mĩ học Trung Hoa), NXB Đà Nẵng, TP Đà Nẵng.
36. Francois Jullien, Hoàng Ngọc Hiến cùng Phan Ngọc, Minh Chi dịch và giới thiệu
(2004), Đường vòng và lối vào, NXB Đà Nẵng, TP Đà Nẵng.
37. Francois Jullien, Trương Quang Đệ dịch (2004), Đại tượng vô hình, NXB Đà Nẵng, TP
Đà Nẵng.
38. Okakura Kakuzo, Bảo Sơn dịch (2008), Trà Đạo, NXB Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh.
39. Kenneth Kraft chủ biên, Thanh Chân dịch (2006), Công án và thi kệ trong làng Thiền ,
NXB Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh.
40. Kenneth Kraft chủ biên, Thanh Chân dịch (2006), Con đường của hành giả, NXB Tổng
Hợp TP Hồ Chí Minh.
41. N. I Konrad, Trịnh Bá Đỉnh dịch (1999), Văn học Nhật Bản từ cổ đến cận đại, NXB Đà
Nẵng.
42. N. I. Konrad, Trịnh Bá Đỉnh tuyển chọn giới thiệu, nhiều người dịch (2007), Phương
Đông học, NXB Văn học, Hà Nội.
43. I. X. Lixêvích (2000), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc, NXB Giáo Dục, Hà Nội.
44. Hoàng Long (2009), “Vấn đề sáng tác Haiku Việt ngữ”, Nội san Hương Cau 1 - CLB thơ
Haiku tiếng Việt, TP Hồ Chí Minh.
45. Hoàng Công Luận – Lưu Yên (2003), Hội họa cổ Trung Hoa Nhật Bản, NXB Mỹ Thuật,
Hà Nội.
46. Phương Lựu (1989), Tinh hoa lí luận văn học cổ điển Trung Quốc , NXB Giáo Dục, Hà
Nội.
47. Phương Lựu (2002), Từ văn học so sánh đến Thi học so sánh, NXB Văn học – Trung tâm
văn hóa ngôn ngữ đông tây, Hà Nội.
48. R. H. P Mason & J.G. Caiger, Nguyễn Văn Sỹ dị ch (2003) Lịch sử Nhật Bản, NXB Lao
Động, Hà Nội.
49. Lục Tổ Huệ Năng, Đoàn Trung Còn dịch (2002), Pháp Bản Đàn Kinh, NXB Tôn Giáo,
Tp Hồ Chí Minh.
50. Hữu Ngọc (2006), Dạo chơi vường văn Nhật Bản, NXB Văn Nghệ, TP Hồ Chí Minh.
51. Vũ Thế Ngọc (2006) Vương Duy chân diện mục, NXB Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh.
52. V.V. Ôtrinnicốp, Phong Vũ dịch (1996), “Những quan niệm thẩm mĩ độc đáo về nghệ
thuật của người Nhật”, Tạp chí văn học, số 5/1996.
53. Nguyễn Khắc Phi (1997), Thơ văn cổ Trung Hoa - Mảnh đất quen mà lạ, NXB Đà Nẵng,
Đà Nẵng.
54. Khải K. Phạm – Trương Cam Khải – Hoài Anh – Nguyễn Thành Tống (2005), Tổng
quan nghệ thuật đông phương – Hội họa Trung Hoa, NXB Mỹ Thuật, Hà Nội.
55. Murakami Shigeyoshi, Trần Văn Trình dịch (2005) Tôn giáo Nhật Bản , NXB Tôn giáo,
Hà Nội.
56. D.T.Suzuki, Trúc Thiên dịch (2005), Thiền Luận, Quyển hạ, NXB Tổng hợp TPHCM.
57. Trần Thị Minh Tâm (2007), Thiền Nhật Bản và đời sống người Nhật, NXB Văn hóa Sài
Gòn, Tp Hồ Chí Minh.
58. Quách Tấn (1998) Thi pháp thơ Đường - Thư gửi các bạn trẻ ham làm thơ Đường Luật,
NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
59. Thích Thanh Từ (1998), Thiền tông Việt Nam cuối thế kỉ XX, Thiền Viện Thường Chiếu,
TP Hồ Chí Minh.
60. Lão Tử, Nguyễn Duy Cần dịch (1991), Đạo Đức Kinh, NXB Văn học.
61. Lão Tử, Nguyễn Hiến Lê dịch (2006), Đạo Đức Kinh, NXB Văn Hóa, Hà Nội.
62. Khâu Chấn Thanh, Mai Xuân Hải dịch (1994) Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung
Quốc, NXB Giáo Dục, Hà Nội.
63. Phạm Hồng Thái (2008), Tư tưởng Thần đạo và xã hội Nhật Bản cận – hiện đại, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
64. Lương Duy Thứ (2002), Bài giảng Văn Học Trung Quốc, NXB Đại học Quốc gia TP Hồ
Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.
65. Trang Tử, Nguyễn Hiến Lê dịch (1994), Nam Hoa kinh, NXB Văn hóa - thông tin, TP
Hồ Chí Minh.
66. Trang Tử, Nhượng Tống dịch (2001), Nam Hoa kinh, NXB Văn học - Trung tâm văn hóa
ngôn ngữ đông tây, Hà Nội.
67. Trung tâm nghiên cứu quốc học (2006), Đường Thi trích dịch, NXB Văn học, Hà Nội.
68. Trung Tâm KHXH & NV Quốc gia – Viện thông tin KHXH (1998), Chuyên đề văn học
Nhật Bản, Hà Nội.
69. Lưu Đức Trung (2007), “Văn học Nhật Bản”, Tài liệu tham khảo dành cho học viên Cao
Học, Trường ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
70. Ishi da kazu – Yoshi, Nguyễn Văn Tần dịch (1963), Nhật Bản tư tưởng sử, tập 1, Tủ sách
Kim Văn, Sài Gòn.
Tư liệu tiếng Anh
71. W.M Theodor de Bary (editor), (1964), Sources of Japanese Tradition, Vol. I, Columbia
University Press, NewYorrk and London.
72. C. Eliot (1968), Japanese Buddhism, Hozokan, Kyoto, Japan.
73. Liu J.(1975), Chinese Theories on Literrature. Chicago – London.
74. Scott Littleton C. (2002), Shinto, Oxford Universsity Press
75. Noriyoshi Tamaru and David Reid (1996), Religion in Japanese Culture, Kodansha
International, Tokyo – NewYork. London.
76. Itoh Teiji (1993). Wabi Sabi Suki – The essence of Japanese beauty. Tokyo, Cosmo.
.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHVHNN012.pdf