Luận văn Đảng bộ huyện chợ mới, tỉnh An Giang lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn từ năm 1996 đến nay

Để biến chủ trương thành hiện thực, Đảng bộ huyện Chợ Mới coi trọng việc dựa vào dân, phát huy sức mạnh của nhân dân. Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện dân chủ cơ sở, thực hiện cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Trong quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển Chợ Mới, Đảng bộ huyện luôn nắm vững chủ trương, chính sách của Trung ương và của tỉnh, biết vận dụng phù hợp vào tình hình thực tiễn của địa phương: biết khắc phục những khó khăn về điều kiện về tự nhiên và xã hội của huyện; đồng thời, biết tận dụng, phát huy những mặt thuận lợi để đề ra những chủ trương, chính sách, bước đi, biện pháp và cách làm phù hợp. Tiêu biểu là chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành hệ thống bao đê kiểm soát lũ, nâng cấp hạ tầng giao thông nông thôn, đưa nông nghiệp, nông thôn Chợ Mới lên tầm cao mới. Hiện nay, đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà trọng tâm là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; Chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, trong bối cảnh đó, Việt Nam nói chung, Chợ Mới nói riêng vừa đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi lớn, đồng thời, cũng phải đối mặt với những nguy cơ thách thức lớn. Để có thể tiếp tục phát huy những thành tựu đạt được trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, trong thời gian tới, đòi hỏi Đảng bộ Chợ Mới phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo, phải không ngừng năng động, sáng tạo, củng cố tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh để đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, phải đề ra được những chủ trương, những bước đi và giải pháp phù hợp để nền nông nghiệp Chợ Mới ngày càng phát triển theo chiều sâu, sản phẩm nông nghiệp đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế; để nông thôn Chợ Mới ngày càng được khởi sắc, rút ngắn khoảng cách giữa thành thị với nông thôn.

pdf55 trang | Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 1268 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đảng bộ huyện chợ mới, tỉnh An Giang lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn từ năm 1996 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a chấp hành tốt chỉ đạo của cấp trên hoặc làm sai. Thông tin báo cáo tình hình chưa kịp thời, thậm chí không báo cáo. Những yếu kém trên là do công tác tổ chức thực hiện từng nơi, từng lúc, từng lĩnh vực chưa kịp thời, thiếu sơ tổng kết rút kinh nghiệm. Mặt khác, cũng do yếu tố khách quan tác động như có sức ép dân số, hậu quả lũ lụt, kinh phí trên đầu tư có hạn Một số cấp ủy cơ sở thiếu tập trung trong các nhiệm vụ trọng tâm, một số ngành nắm bắt tình hình chưa chặt, chưa sát cơ sở. Như vậy, cũng giống như tỉnh và cả nước, trong thời kỳ 10 năm đầu đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế Chợ Mới phát triển chậm, đời sống Trang 30 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Sang thời kỳ 1986 – 1996, thực hiện đường lối đổi mới của Trung ương và chính sách tam nông của tỉnh, Chợ Mới đã vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, nền kinh tế tăng trưởng đáng kể, đời sống nhân dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn từng bước được khởi sắc. 2.2.2 Đảng bộ huyện Chợ Mới lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn từ năm 1996 đến nay. 2.2.2.1 Thời kỳ 1996 – 2000. Xuất phát từ thực trạng nền kinh tế Chợ Mới, huyện ủy Chợ Mới xác định nhiệm vụ chung thời kỳ 1996 – 2000 là: tập trung khoanh vùng bờ bao ngăn lũ nhằm khai thác tiềm năng đất nông nghiệp, tăng vòng quay đất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển kinh tế vườn, từng bước công nghiệp hóa nông nghiệp. Đồng thời, làm tăng nhanh tốc độ phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Trên cơ sở đó, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và tập trung cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Giảm tỉ lệ tăng dân số đi đôi với tăng cường giải quyết việc làm và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; nâng cao dân trí, xây dựng nông thôn mới, xây dựng gia đình kỷ cương, đầm ấm hạnh phúc, thực hiện nếp sống văn minh; Ổn định an ninh chính trị, hạn chế thấp nhất các vi phạm trật tự an toàn xã hội và các tệ nạn xã hội, nâng cao ý thức quốc phòng toàn dân, phát động quần chúng tự quản tham gia tích cực bảo vệ xóm làng, bảo vệ tính mạng và tài sản của mình. Trên cơ sở nhiệm vụ chung, huyện ủy Chợ Mới đề ra các nhiệm vụ cụ thể trong nông nghiệp là tiếp tục đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, thâm canh tăng vụ, (phổ biến là 3 vụ/năm); tăng vòng quay của đất 2,8 lần/năm. Phát động nông dân trồng lúa và các loại cây có giá trị chế biến tại chỗ hoặc hợp đồng cung cấp nguyên liệu thô cho xuất khẩu, cải tạo vườn tạp, khuyến khích hộ gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm, heo, gà, vịt công nghiệp, nhất là đẩy mạnh chăn nuôi cá ao, hầm dưới các mô hình VA, VAC, RVAChoặc cá bè. Khuyến khích và tạo điều kiện về vốn cho tư nhân mở một số trại chăn nuôi lớn theo qui trình công nghiệp. Nâng tỷ trọng chăn nuôi chiếm 30% trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Trên cơ sở đó, tạo ra hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp từ 25 triệu đến 30 triệu đồng/ha. Để thực hiện những nhiệm vụ đó, Đảng bộ Chợ Mới đề ra những giải pháp cụ thể trong phát triển nông nghiệp: Trang 31 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn Phấn đấu đến năm 1997 hoàn thành cơ bản các tuyến bờ bao ngăn lũ, tạo điều kiện cho nông dân tăng diện tích gieo trồng, tăng vụ và chuyển dịch cơ cấu cây trồng có hiệu quả. Hằng năm làm tốt công tác thủy lợi nội đồng và nạo vét kênh mương bồi lắng. Chú ý phát triển trạm bơm điện vừa và nhỏ phục vụ tưới tiêu ở các vùng trong huyện. Nhà nước địa phương tham gia củng cố và nâng chất các tổ đường nước, quản lý việc sử dụng đất đai đúng mục đích, ngăn chặn và xử lý kịp thời các vi phạm về đường nước chung, đường cộ xe và các qui định khác về bảo vệ môi sinh, môi trường đồng ruộng. Tăng cường các hình thức và nội dung tuyên truyền khuyến nông như: hội thảo, tham quan, bản tin Chú ý công tác khuyến nông đồng bộ các loại cây, con; đầu tư vốn vay và có chính sách kích thích hộ gia đình nuôi cá ao, hầm cá chân ruộng. Tăng vốn đầu tư sản xuất nông nghiệp, chú ý kinh tế vườn và chăn nuôi. Đề nghị trên cho phép đo đạc và cấp giấy quyền sử dụng đất vườn và đất thổ cư. Tiếp tục vận động nhân dân đi canh tác ngoài huyện, ngoài tỉnh. Đi đôi với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tiếp tục phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, nhằm thay đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế nông thôn, đặc biệt là phát triển ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sơ chế biến hàng nông sản thực phẩm và các làng nghề truyền thống của địa phương như cơ khí, xay xát, mộc, vẽ tranh, đan lát, đóng xuồng ghe Khuyến khích các công ty tư nhân trong và ngoài huyện, ngoài tỉnh, thậm chí nước ngoài đầu tư các quy trình sản xuất tiên tiến có tính chất hiện đại, sản xuất mặt hàng mũi nhọn, thu hút nhiều lao động, tạo ra sản phẩm có khả năng cạnh tranh thị trường và tham gia xuất khẩu, làm tăng sức sản xuất, sức mua, phát triển thị trường nông thôn gắn với thị trường trong nước và quốc tế. Ổn định và phát triển cụm sản xuất cơ khí thị trấn Chợ Mới, thị tứ Mỹ Luông để sửa chữa và sản xuất thiết bị máy móc cho nông nghiệp và các ngành khác. Phát triển cụm chế biến lương thực ở Hòa Bình, Hòa An. Khuyến khích phát triển cụm công nghiệp chế biến theo trục Hội An, Long Điền A, phục vụ chuyển dịch cây trồng sau khi hoàn thành đê bao chống lũ ở vùng này. Xây dựng và phát triển làng nghề thủ công truyền thống theo hướng sản xuất liên hộ gia công tại nhà để giải quyết việc làm cho nhiều lao động. Từng bước cơ khí hóa gắn với điện khí hóa trong sản xuất ở những vùng lưới điện đầy đủ. Tăng cường vốn đầu tư cho ngành nghề, trong đó vốn tự có của dân là 70%, ngân hàng cho Trang 32 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn vay 30%, đồng thời đầu tư xây dựng hệ thống lưới điện 3 pha ở những nơi sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tập trung. Mặt khác, tranh thủ tăng nguồn vốn vay quỹ quốc gia giải quyết việc làm cho các ngành nghề truyền thống. Về dịch vụ, tạo điều kiện đẩy mạnh các loại dịch vụ nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, phổ biến công nghệ mới, thông tin kinh tế, dịch vụ cung ứng vốn, vật tư, dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ giao thông vận tải, xây dựng cơ bản, thông tin bưu điện, các loại dịch vụ phục vụ sức khỏe và đời sống văn hóa, tinh thần, Trên cơ sở đó, đến năm 2000, tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trong GDP từ 40% trở lên. Phấn đấu tăng nhiều cơ sở và giải quyết nhiều lao động có việc làm, đặc biệt chú ý quan tâm thu hút số công nhân công nghiệp hiện đại. Song song với đề ra giải pháp phát triển nông nghiệp huyện cũng đề ra các giải pháp về xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn: Phấn đấu đến năm 1997 hoàn thành cơ bản các tuyến bờ bao ngăn lũ trong toàn huyện, tạo điều kiện cho nhân dân ổn định cuộc sống và phát triển sản xuất. Hoàn chỉnh hệ thống giao thông nông thôn, trong đó lộ liên xã đều cán đá cấp phối, nâng cấp rãi nhựa tuyến đường Mỹ Luông – Bà Vệ kéo dài Long Kiến, An Thạnh Trung, Hòa Bình, Hòa An, nhằm tạo điều kiện phát triển các xã dọc theo sông Ông Chưởng để hỗ trợ phát triển 5 xã cù lao trên trung tâm huyện lỵ. Mở rộng tỉnh lộ 942, 944 (tức tỉnh lộ 23 và hương lộ 4 cũ). Lộ liên ấp đều rãi cát núi, nâng cấp cầu lộ liên xã đảm bảo xe có trọng tải 6 tấn qua lại được, 90% hộ có điện sử dụng. Phòng học ngói hóa, khang trang, không còn phòng học gỗ, lá, không có lớp học 3 ca/ngày. Quy hoạch và xây dựng trung tâm y tế huyện, nâng cấp các bệnh viện khu vực và các trạm y tế xã với trang thiết bị khám bệnh đủ sức phục vụ điều trị bệnh cho nhân dân. Quy hoạch xây dựng thị trấn, thị tứ, chợ trung tâm xã và xây dựng mới một số cơ quan hành chính xuống cấp ở các xã - thị trấn và một số ngành ở huyện. Phấn đấu hoàn thành sớm việc xây dựng nhà tình nghĩa cho số chính sách nghèo còn lại. Củng cố nâng chất mạng lưới điện thoại ở các xã - thị trấn và phát triển rộng ở các ấp theo yêu cầu của nhân dân. Xây dựng cụm văn hóa hoặc câu lạc bộ văn hóa ở các xã - thị trấn, 100% hộ sử dụng nước sạch. Đa số hộ dân, cơ quan, trường học và nơi công cộng đông dân cư đều có nhà vệ sinh. Hạn chế đến mức thấp nhất thả vịt đàn trên sông rạch. Hoàn thành kế hoạch di dời nhà cất trên Trang 33 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn sông rạch, vi phạm hành lang lộ giới. Hướng dẫn nhân dân xây dựng nhà cửa khang trang, phòng tránh lũ và tiết kiệm đất sản xuất. Tiếp tục phát huy vai trò của các thành phần kinh tế trong huyện và thu hút các đơn vị kinh tế các nơi, kể cả các công ty nước ngoài đầu tư khai thác tiềm lực kinh tế ở địa phương. Phát triển kinh tế hộ, chú ý khuyến khích tạo điều kiện phát triển những hộ có mô hình kinh tế đa dạng. Củng cố, nâng chất hoạt động các đơn vị doanh nghiệp Nhà nước. Các ngành các cấp cần quan tâm mở rộng nâng chất các hình thức hợp tác sản xuất lên nhiều khâu và bằng nhiều mô hình phong phú. Đến năm 2000, 90% hộ nông nghiệp, hộ ngành nghề tự nguyện vào tổ, hội liên kết sản xuất. Đây chính là nhân tố hợp tác kinh tế mới trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa tạo điều kiện để các hộ gia đình chính sách, gia đình thương binh, liệt sĩ khó khăn có nhà ở và có được cuộc sống ổn định. Trong lĩnh vực giáo dục, huy động 100% trẻ 6 tuổi đến trường và phấn đấu duy trì sĩ số đó đến cuối cấp tiểu học. Hoàn thành xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học cho nhân dân. Nâng chất và mở rộng trường lớp mẫu giáo, nhà trẻ dân lập ở các xã, thị trấn. Nâng cao chất lượng giáo dục. Phấn đấu trường nào cũng có nhiều giáo viên giỏi cấp huyện, cấp tỉnh. Giảm tỷ lệ lưu ban bỏ học giữa chừng đến mức thấp nhất. Thi tốt nghiệp tiểu học đạt 90% trở lên; tốt nghiệp trung học cơ sở 80% trở lên và tốt nghiệp trung học phổ thông 70% trở lên. Thị trấn và các xã có điều kiện thì tiến hành phổ cập giáo dục cấp II. Mở thêm trường cấp III ở 3 cụm Mỹ Hiệp, Nhơn Mỹ và Long Giang. Phát động toàn dân tích cực chăm lo sự nghiệp giáo dục địa phương. Trong lĩnh vực y tế, phấn đấu đến 2000, giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,4%. Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 200 của Chính phủ và Chỉ thị 01 của Ủy ban nhân dân Tỉnh về việc nước sạch và vệ sinh môi trường thành phong trào rộng rãi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nâng cấp các bệnh viện, trạm xá về cơ sở vật chất và trang thiết bị cần thiết, đủ sức khám và điều trị bệnh cho nhân dân. Tiêm chủng mở rộng cho trẻ em đều khắp, đồng thời tăng cường các biện pháp thích hợp để giảm trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 15%. Phòng các dịch bệnh kịp thời, không để lây lan và hạn chế tử vong đến mức thấp nhất. Trang 34 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn Xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh ở từng xóm ấp, trong đó chú ý xây dựng nếp sống văn hóa mới ở nông thôn, văn hóa gia đình và các làng xã. Tiếp tục phát triển phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao theo hướng xã hội hóa. Thành lập câu lạc bộ văn hóa ở các xã, thị trấn, trước mắt tổ chức các xã có điều kiện, phát triển mạng lưới truyền thanh tới tận địa bàn dân cư. Quản lý duy tu, nâng cấp các di tích lịch sử, trùng tu, sửa chữa các đình thần làm nơi sinh hoạt văn hóa của xã, thị trấn. Nhờ có những chủ trương và giải pháp cụ thể, sát hợp nên trong thời kỳ 1996 – 2000, nông nghiệp, nông thôn Chợ Mới đã thu đạt được những thành tựu quan trọng. Tổng sản phẩm GDP toàn huyện tăng bình quân 10,1% (chỉ tiêu đề ra 10 – 12%), bình quân thu nhập đầu người đạt 4,55 triệu đồng/năm, tăng 0,5 triệu so với chỉ tiêu đề ra. Ngành nông nghiệp tăng 8,75%. Tổng sản lượng lương thực đạt 379.912 tấn, tăng 107.192 tấn, bình quân lương thực đầu người 1066kg/người/năm, tăng 270kg. Vòng quay của đất từ 2,1 lên 2,82 vòng/năm. Hiệu quả sử dụng đất là 32,2 triệu đồng/ha, xây dựng 27 hợp tác xã nông nghiệp. Điện nông thôn được phủ kín đến các ấp trong huyện, có 80% hộ sử dụng điện và dùng nước sạch, bình quân 100 người dân có 2 máy điện thoại. Hoạt động dịch vụ, du lịch hàng năm tăng 8,4%, giải quyết trên 24.000 lao động. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản 320,2 tỷ đồng. Trong đó vốn Trung ương 80,7 tỷ, vốn tỉnh 98,7 tỷ, vốn huyện 36,5 tỷ, vốn xã 20,5 tỷ. Đặc biệt, huyện huy động nhân dân đóng góp 86,8 tỷ xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng, trong đó nổi bật là hoàn thành công trình đê bao ngăn lũ và nâng cấp hệ thống giao thông nông thôn với tổng kinh phí 121,7 tỷ để làm đòn bẩy thúc đẩy kinh tế huyện phát triển. Hàng năm, giải quyết việc làm từ 7000 – 7500 lao động.Trong 5 năm, bằng nhiều nguồn vốn đầu tư xóa đói, giảm nghèo, đã giảm hộ nghèo từ 9% năm 1996 xuống còn 5% năm 2000. Thực hiện tốt các chính sách đối với gia đình có công với nước. Trong 5 năm, huyện xây dựng mới 371 căn nhà tình nghĩa và sửa chữa 621 căn với kinh phí 7,2 tỷ đồng, huyện đã giải quyết dứt điểm nhà ở cho các gia đình chính sách vào cuối năm 1999. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo từng bước nâng cao về chất lượng, học sinh các cấp thi đỗ hàng năm đều vượt so với chỉ tiêu: tỷ lệ lưu ban, bỏ học, huy động Trang 35 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn trẻ đến độ tuổi ra lớp hàng năm đều đạt chỉ tiêu. Công tác phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ 3 năm liền đều được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Trường, lớp được đầu tư phát triển hàng năm. Năm 1998, tỉnh đầu tư thành lập mới 2 trường THPT Mỹ Hiệp và Long Kiến, năm 1999, thành lập trường THCS Long Điền B. Mạng lưới y tế từ huyện đến xã được củng cố, 100% trạm y tế xã, thị trấn được xây dựng mới, có bác sĩ khám và điều trị. Công tác kế hoạch hóa gia đình có tiến bộ lớn, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên từ 1,59% năm 1996 xuống còn 1,35% năm 2000. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng từ 36,3% năm 1996 giảm còn 29% năm 2000. Tiêm chủng mở rộng cho trẻ em hằng năm đều đạt chỉ tiêu, vệ sinh môi trường được cải thiện, nhà ở trên kênh rạch được giải quyết cơ bản. Sau khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và thực hiện Thông tư 04/TTTW của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao ngày càng mang tính quần chúng rộng rãi, phát triển đến địa bàn dân cư xóm ấp. Năm 2000, huyện đã công nhận 77/138 ấp văn hóa, 54.326/71.919 hộ văn hóa và 42/52 cơ quan văn minh. An ninh chính trị ở nông thôn được giữ vững, trật tự xã hội đảm bảo, an ninh nội bộ tốt. Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục trong nội bộ và nhân dân hiểu rõ âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, các phần tử phản động, cực đoan lợi dụng, đội lốt tôn giáo hoạt động chống phá cách mạng. Lực lượng công an, quân sự thường xuyên được củng cố, nâng cao chất lượng. Đồng thời phát triển dân quân tự vệ đạt 2% dân số gắn liền với cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, làm nòng cốt trong phong trào “bảo vệ an ninh Tổ quốc” ở địa phương. 2.2.2.2 Thời kỳ từ năm 2001 đến nay. Thời kỳ này, Đảng bộ huyện Chợ Mới đề ra nhiệm vụ chung là tích cực khắc phục hậu quả lũ lụt trên tất cả các lĩnh vực để nhằm ổn định đời sống nhân dân. Tăng cường hiệu quả lãnh đạo đồng bộ nền kinh tế với cơ cấu hợp lý trên cơ sở chủ động đối phó có hiệu quả với lũ. Tiếp tục khai thác tiềm năng nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển kinh tế vườn nhằm tăng chất lượng giá trị sản phẩm. Đồng thời làm tăng nhanh tốc độ phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Trang 36 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn Trên cơ sở đó, tăng thu nhập ngân sách và tập trung đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng để nông thôn tiến gần đến thành thị. Ổn định an ninh chính trị, hạn chế thấp nhất các vi phạm trật tự an toàn xã hội và các tệ nạn xã hội. Đấu tranh chống các loại tội phạm, nâng cao ý thức củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Huyện đã đề ra các chỉ tiêu cụ thể của nền kinh tế thời kỳ 2001 – 2005: GDP tăng bình quân 9,5 – 10,5% năm. Trong đó cơ cấu kinh tế nông nghiệp chiếm 34%, công nghiệp và xây dựng 21%; dịch vụ 45%, thu nhập bình quân đầu người năm 2005 là 8,6 triệu đồng. Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1,15%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 19%, giảm hộ nghèo còn 2% vào năm 2005 (không còn hộ nghèo trong diện chính sách). Hàng năm giải quyết việc làm cho 7500 – 8000 lao động. Hộ dùng nước sạch và hộ sử dụng điện đạt 95%, bình quân 100 dân có 4 máy điện thoại, lộ liên xã được trải nhựa hoặc bê tông, 100% chợ xã, thị trấn, thị tứ được nâng cấp, xây mới. Có 80% hộ văn hóa, 80% ấp văn hóa, 50% xã văn hóa, 100% cơ quan văn minh. Hằng năm xét công nhận trên 90% chi bộ Đảng cơ sở trong sạch, vững mạnh; kiểm tra 80% tổ chức cơ sở Đảng và 100% đảng viên chấp hành. Phát triển đảng viên đến năm 2005 đạt 0,9% dân số. Trong lĩnh vực nông nghiệp, huyện tiếp tục khẳng định Chợ Mới là vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa nông sản cao cấp; Do đó, phải tiếp tục đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thực hiện chương trình khuyến nông, phát động nông dân tập trung trồng lúa chất lượng cao tham gia xuất khẩu, khuyến khích những vùng có điều kiện thích hợp trồng những cây công nghiệp ngắn ngày, cây màu có giá trị chế biến tại chỗ hoặc xuất khẩu, hợp đồng cung cấp nguyên liệu cho nhà máy chế biến rau quả. Tiếp tục cải tạo xong 615 ha diện tích vườn tạp còn lại, phát triển 485 ha vườn mới. Phát triển mô hình VAC, hình thành những vùng chăn nuôi tập trung với nhiều loại hình thích hợp, kết hợp chăn nuôi truyền thống với chăn nuôi công nghiệp, tập trung phát triển đàn bò, con tôm. Phấn đấu đến năm 2005, tỷ trọng chăn nuôi chiếm 15,4% (năm 2000 là 10,6%). Để thực hiện những nhiệm vụ trên, hàng năm huyện cần có kế hoạch nạo vét kênh mương bồi lắng, làm tốt công tác thủy lợi nội đồng, tiếp tục thực hiện hoàn thành các tiểu vùng đê bao, chống xói mòn, sạt lở. Coi trọng phát triển trạm bơm điện phục vụ tưới tiêu. Cần có chương trình để đưa khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nhằm tăng chất lượng sản phẩm, hạ giá thành trong sản xuất, đẩy mạnh chuyển đổi giống, cây con phù hợp với sức mua, đảm bảo năng Trang 37 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn suất lúa đạt từ 17,5 tấn/ha/năm, đầu tư vốn vay từng bước hướng tới nền nông nghiệp sạch phát triển vững chắc. Tăng cường lãnh đạo các hợp tác xã nông nghiệp hoạt động đúng Luật. Bên cạnh các dịch vụ thủy lợi, cày xới, thu hoạch, hợp tác xã cần mở rộng hoạt động dịch vụ như cung cấp giống, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm, cung ứng vật tư, phân bón, thuốc trừ sâu. Nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo được thị trường trong và ngoài nước chấp nhận. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, trước tiên cần củng cố ban chủ nhiệm đủ trình độ và năng lực quản lý. Tiếp tục củng cố nâng chất các hợp tác xã hiện có, nơi nào có điều kiện thì phát triển mới các hợp tác xã nông nghiệp. Trước mắt, từng tiểu vùng đê bao phải thành lập ban quản trị lãnh đạo sản xuất, để đến năm 2005 toàn huyện có 80% diện tích đất trong vùng đê bao vào hợp tác xã nông nghiệp. Trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng huyện chủ trương tiếp tục phát huy các ngành nghề truyền thống địa phương như cơ khí, xay xát, mộc, cầu lông, vẽ tranh, đan lát, gạch ngói Khuyến khích hình thành những ngành nghề mới, vừa tạo thêm việc làm, thu hút lao động, góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Thực hiện quy hoạch các khu, điểm tập trung cho phù hợp ngành nghề, theo cụm xã, trục lộ giao thông, thuận tiện cho việc vận chuyển mua bán sản phẩm trong nhân dân. Khuyến khích các công ty nhà nước, hoặc tư nhân đầu tư công nghệ hiện đại, sản xuất mặt hàng cạnh tranh trường trong nước và tham gia xuất khẩu, làm tăng sức sản xuất, sức mua, phát triển thị trường nông thôn gắn với thị trường trong nước và nước ngoài. Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, chú ý xây dựng các công trình cao hơn đỉnh lũ 2000. Coi trọng đầu tư xây cơ sở vật chất và trang thiết bị cho lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, thúc đẩy các lĩnh vực này phát triển đáp ứng nhu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Bằng nhiều nguồn vốn Trung ương, tỉnh, huyện, xã và vận động nhân dân đóng góp, trong thời kỳ 2001 – 2005 huyện tập trung thực hiện các công việc sau: Đầu tư trang thiết bị cho bệnh viện huyện, nâng cấp các bệnh viện khu vực và trạm y tế xã, thị trấn để đảm bảo yêu cầu khám và trị bệnh cho nhân dân. Xây dựng thêm trường lớp mới đảm bảo khang trang đáp ứng nhu cầu dạy và học. Xây dựng hoàn chỉnh sân vận động huyện, nhà thi đấu đa năng, nhà truyền thống huyện. Xây dựng trung tâm huyện, kiến thiết trung tâm xã, xây dựng trụ sở các xã, thị trấn, văn phòng, ban nhân dân ấp đảm bảo tiêu chuẩn cơ quan văn minh. Trang 38 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn Các chợ trung tâm xã, thị trấn, thị tứ phải đạt tiêu chuẩn văn minh. Bằng phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm, đến năm 2003, các tuyến lộ liên xã phải được nâng cấp, tráng nhựa hoặc trải bê tông, sau khi hoàn thành cầu vượt sông Ông Chưởng, đề nghị tỉnh đầu tư xây dựng thêm cầu vượt sông huyện Lấp Vò (Đồng Tháp) qua xã Hòa An (Chợ Mới) và hai cầu vượt sông Ông Chưởng mới: một là đoạn xã Long Điền B qua xã Long Giang, hai là đoạn ngã ba Tam Hiệp xã Long Kiến qua xã Long Giang. Cải tạo và phát triển mạng lưới điện trung và hạ thế đảm bảo yêu cầu cung cấp điện cho nhân dân. Đẩy mạnh thực hiện chương trình “nước sạch ở nông thôn”, hoàn thành hệ thống thông tin lạc. Phát triển dịch vụ, thương mại trong huyện, trên cơ sở kinh tế và giao thông phát triển, thương mại dịch vụ phải được mở rộng đến địa bàn nông thôn, hướng dẫn sản xuất kinh doanh có hiệu quả, khai tốt thị trường nội địa, tiêu thụ ngày càng nhiều nông sản hàng hóa trong nhân dân đi đôi với việc cung ứng vật tư phục vụ sản xuất và tiêu dùng của nông dân. Phát triển đa dạng các loại dịch vụ phục vụ nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp. Phổ biến công nghệ mới, thông tin kinh tế, dịch vụ cung ứng vốn, vật tư, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, giao thông vận tải, xây dựng cơ bản, bưu chính viễn thông, các loại dịch vụ phục vụ sức khỏe và đời sống tinh thần của nhân dân. Khai thác và nâng cấp một số điểm du lịch hiện có như khu du lịch văn hóa chùa Bà Lê xã Hội An, Cột Dây Thép xã Long Điền A, chùa Thành Hoa xã Tấn Mỹ, đền thờ Nguyễn Trung Trực xã Long Giang, Trong lĩnh vực giáo dục đẩy mạnh phong trào xã hội hóa giáo dục, tăng cường trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhà trường đối với sự nghiệp Giáo dục – Đào tạo. Mở rộng quy mô, đa dạng hóa loại hình trường lớp, từng bước xóa dần các điểm lẻ, xây dựng cơ sở vật chất trường học đảm bảo yêu cầu phát triển giáo dục. Hằng năm, kiểm tra phổ cập giáo dục tiểu học, chống mù chữ và tiến tới đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở đạt chuẩn quốc gia vào cuối năm 2005. Huy động đạt 100% trẻ trong độ tuổi đến trường, giữ vững sĩ số học sinh các cấp học. Thành lập 2 trường trung học phổ thông xã Mỹ Hội Đông và Hòa Bình. Phấn đấu tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học hàng năm đạt trên 95%, trung học cơ sở trên 90% và trung học phổ thông trên 80%, giảm tỷ lệ lưu ban bỏ học dưới 4%, tăng cường giáo dục đạo đức học sinh. Trang 39 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn Trong lĩnh vực y tế, nâng cao y đức của người thầy thuốc, chăm sóc tốt sức khỏe nhân dân. Thực hiện các chương trình y tế quốc gia tiêm chủng mở rộng đạt chỉ tiêu hàng năm. Thực hiện tốt chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, chủ động ngăn ngừa dịch bệnh kịp thời, không để lây lan. Bằng nhiều biện pháp tích cực, có hiệu quả ngăn chặn lây nhiễm HIV/AIDS, Nhà nước có chính sách hỗ trợ dân nghèo khám điều trị bệnh. Khuyến khích hoạt động đông y và kết hợp đông - tây y trong khám chữa bệnh, tiếp tục thực hiện Chỉ thị 200/TTg của Thủ tướng Chính phủ về “nước sạch và vệ sinh môi trường”. Trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, tiếp tục thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư để đời sống văn hóa của nhân dân không ngừng được nâng lên trên nền tảng của văn hóa dân tộc, phù hợp với cuộc sống mới. Tiếp tục xây dựng các thiết chế văn hóa mới ở nông thôn, hướng dẫn, phát huy nét đẹp của các lễ hội truyền thống, quản lý, duy tu, nâng cấp các di tích văn hóa, di tích lịch sử truyền thống cách mạng, bảo tồn bảo tàng, đồng thời chống lại văn hóa phẩm đồi trụy, độc hại làm băng hoại văn hóa truyền thống dân tộc. Phát huy các loại hình văn học nghệ thuật, thể dục thể thao theo hướng xã hội hóa, nâng chất các câu lạc bộ xã, thị trấn. Củng cố mạng lưới truyền thanh đến tận địa bàn dân cư, từng bước mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động này. Với những nhiệm vụ và giải pháp đề ra cho thời kỳ 2001 đến nay, Đảng bộ và nhân dân Chợ Mới thu được nhiều kết quả đáng kể: GDP tăng bình quân hàng năm 11%, thu nhập bình quân đầu người từ 5,06 triệu đồng năm 2000 lên 12,3 triệu đồng năm 2007. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, nông nghiệp giảm từ 39,9% năm 2000 còn 27,4% năm 2006; công nghiệp, xây dựng từ 19,8% lên 24,1%; thương mại, dịch vụ từ 40,3% lên 48,5%. Sản xuất nông nghiệp đạt nhiều kết quả nổi bật và tăng trưởng hàng năm, chủ yếu là do làm tốt công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi và đẩy mạnh các chương trình khuyến nông, hệ số sử dụng đất từ 2,92 vòng/năm lên 3,22 vòng/năm, giá trị sản xuất từ 41,4 triệu đồng lên 65 triệu đồng/ha/năm. Lĩnh vực thương mại, dịch vụ tăng bình quân 15,8%/năm. Các loại hình dịch vụ được đa dạng hóa như cung ứng vật tư, vận tải, tín dụng, y tế, bưu chính viễn Trang 40 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn thông Các chợ nông thôn được sắp xếp, mở rộng, hình thành những nơi trung chuyển hàng hóa, bảo đảm được nhu cầu kinh doanh và mua sắm của nhân dân. Kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội được tập trung đầu tư, bao gồm các công trình phục vụ sản xuất nông nghiệp, giao thông, các công trình cụm, tuyến dân cư, cải tạo kênh mương nội đồng, kiên cố hóa trường lớp, Từ năm 2002 đến nay, huyện Chợ Mới được tỉnh đầu tư xây dựng 12 công trình cụm, tuyến dân cư vượt lũ. Đến cuối năm 2005 đã khởi công xây dựng và hoàn thành 12 cụm tuyến dân cư (9 cụm và 3 tuyến) với tổng diện tích san lấp mặt bằng là 41,5 ha, đã xét duyệt được 1.690 hộ được bố trí vào ở; trong đó có 1.215 hộ mua với giá cơ bản, 475 hộ mua với giá linh hoạt. Tổng vốn đầu tư 39 tỷ 838 triệu đồng, nguồn vốn do ngân sách Trung ương hỗ trợ. Ngành điện lực đã tập trung đầu tư đưa lưới điện về nông thôn, nhờ đó tỷ lệ hộ nông dân sử dụng điện tăng nhanh, góp phần quan trọng thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của dân cư vùng nông thôn. Năm 2006, số hộ sử dụng điện đạt 92%, hộ sử dụng nước sạch đạt 95,8%. Ngành bưu điện đã tập trung đầu tư đưa bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin về đến nông thôn. Năm 2007, toàn huyện có 13/18 xã có bưu cục III, có 100% số xã, thị trấn có điện thoại với 23 điểm tổng đài, mật độ điện thoại bình quân năm 2006 đạt 4,2 máy/100 dân. Công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở được các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các cấp đặc biệt quan tâm tập trung chỉ đạo. Do đó đã có chuyển biến tích cực trong các phong trào văn nghệ quần chúng, các lễ hội truyền thống, dân gian, văn hóa – lịch sử truyền thống. Toàn huyện hiện có 19 đội văn nghệ, 138 câu lạc bộ đờn ca tài tử, 42 tụ điểm hát với nhau. Thiết chế văn hóa ở cơ sở không ngừng được đầu tư xây dựng, củng cố và nâng chất; toàn huyện hiện có 4 xã có nhà văn hóa, 100% số xã có phòng đọc sách, có 13/18 xã có bưu điện văn hóa xã phục vụ các nhu cầu về thông tin liên lạc cho người dân, 100% số xã có đài truyền thanh được trang bị tương đối đầy đủ và truyền thanh đến khắp các địa bàn dân cư. Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư” được đa số nhân dân hưởng ứng giúp nâng cao nhận thức của người dân, đẩy lùi các tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan, lãng phí tiền của và thời gian trong các lễ hội, cưới xin, ma chay. Năm 2007, có 68.090 hộ gia đình văn hóa, đạt 87% tổng số hộ; 125 Trang 41 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn ấp văn hóa, đạt 90,5% tổng số ấp; 3 xã văn hóa, đạt 16,6% tổng số xã; 60 cơ quan, đơn vị văn hóa; 52 trường học văn hóa. Phong trào thể dục thể thao ở cơ sở ngày càng phát triển rộng khắp, được nhiều người tham gia tập luyện thường xuyên (khoảng 77.380 người), đạt 20,9% dân số, 121 câu lạc bộ thể thao được hình thành, phong trào xã hội hóa thể dục thể thao ngày càng phát triển, huyện đã tổ chức giải bóng đá nông dân lần đầu tiên (trong cả nước) vào năm 1993, có 73 đội và vẫn duy trì tổ chức hàng năm. Toàn huyện có 49 sân bóng đá mi ni, 22 sân bóng đá, 138 sân bóng chuyền, 40 sân cầu lông đã góp phần vào việc tăng cường sức khỏe cho người dân và phục vụ vui chơi giải trí cho người dân nông thôn. Về giáo dục, cơ sở vật chất trường lớp xây dựng ngày càng tốt hơn, chất lượng giảng dạy và học tập được nâng lên. Công tác phổ cập giáo dục, chống mù chữ 8 năm liền đạt chuẩn quốc gia, tỷ lệ người biết chữ đạt 96,5%. Cuối năm 2005, huyện được công nhận đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Đội ngũ giáo viên thường xuyên được bồi dưỡng về nhận thức chính trị, chuẩn hóa chuyên môn, đảm bảo yêu cầu giảng dạy. Công tác xã hội hóa giáo dục có bước phát triển. Năm 2007, toàn huyện có 2 trường mầm non, 17 trường mẫu giáo, 57 trường tiểu học, 19 trường trung học cơ sở, 9 trường THPT, 2 trung tâm giáo dục thường xuyên, 1 trung tâm dạy nghề và 18 trung tâm học tập cộng đồng. Về y tế, trung tâm y tế huyện được xây dựng mới đưa vào hoạt động với 100 giường bệnh, cơ bản đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân. Mạng lưới y tế cơ sở gồm 2 phòng khám khu vực và 16 trạm y tế xã từng bước nâng cấp nhằm đạt chuẩn quốc gia. Nguồn nhân lực ngành y tế được bổ sung hàng năm, năm 2006, có 336 cán bộ, tỷ lệ bác sĩ 1,35% và tỷ lệ giường bệnh 8,93% trên 10.000 dân, tỷ lệ bác sĩ về công tác xã đạt 83,3%. Các chương trình mục tiêu quốc gia, y tế dự phòng được thực hiện khá tốt, tiêm chủng mở rộng đạt tỷ lệ cao, đã thanh toán được bệnh bại liệt, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1%, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm còn 6%, tỷ lệ suy dinh dưỡng còn 23,3%. Thực hiện chính sách xã hội, huyện đã tăng cường đầu tư, đồng thời vận động các cá nhân và tổ chức xã hội tham gia cứu trợ người nghèo, cất nhà tình thương, xóa nhà siêu vẹo. Đến nay, các đối tượng chính sách và hộ nghèo cơ bản đều có nhà ở ổn định, số lao động có việc làm mới ngày càng tăng, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 3,88% xuống còn 1,47% năm 2004 (năm 2006 giảm xuống 6,7%, theo tiêu chí mới), thấp hơn tỷ lệ hộ nghèo chung của tỉnh (năm 2006: 10,8%). Trang 42 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn Tóm lại, ngay trong 10 năm đầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn (1996 – 2006), Chợ Mới đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Thành tựu trên có được trước tiên là nhờ Đảng bộ huyện Chợ Mới đã sớm xác định mục tiêu hàng đầu của huyện trong phát triển kinh tế - xã hội ổn định và nâng cao đời sống nhân dân là tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đầu tư xây dựng công trình đê bao điều tiết lũ, nâng cấp lộ nông thôn. Đây là chủ trương đúng đắn và phù hợp với tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Song, đây là công trình lớn không dễ thực hiện và không phải một sớm một chiều có thể làm được. Để đạt được hiệu quả đòi hỏi phải có quyết tâm cao trong toàn Đảng và nhân dân, đòi hỏi phải sáng tạo và tích cực, phải kết hợp các hình thức tuyên truyền, vận động để tạo ra sự đồng tình ủng hộ và tham gia thực hiện của toàn dân. Nhờ vậy, từ năm 1996 đến nay, nhân dân trong huyện đã đóng góp trên 86 tỷ đồng, thực hiện hoàn thành công trình đê bao điều tiết lũ và nâng cấp giao thông nông thôn. Đây là công trình có ý nghĩa lịch sử mà Đảng bộ huyện Chợ Mới đã lãnh đạo thực hiện thành công, tạo ra bước ngoặt trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Trong quá trình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị địa phương, Đảng bộ huyện Chợ Mới đã xây dựng tốt khối đoàn kết, nhất trí trong toàn Đảng bộ, biết kế thừa và phát huy truyền thống cách mạng, xây dựng mối quan hệ gắn bó nối tiếp các thế hệ, giữa cán bộ đương chức với các đồng chí lão thành cách mạng, các đồng chí nghỉ hưu. Sự phối hợp đồng bộ trong hệ thống chính trị; sự đồng tình ủng hộ của quần chúng nhân dân đã tạo nên động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở Chợ Mới. Trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ, Đảng bộ luôn quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”. Thường xuyên xuống cơ sở, nắm bắt thực tiễn và giải quyết vấn đề từ cuộc sống đặt ra. Đẩy mạnh thực hiện dân chủ ở cơ sở theo cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, luôn lấy việc chăm lo tốt lợi ích vật chất và tinh thần cho nhân dân làm mục tiêu. Thực hiện tốt chính sách xã hội, kịp thời rút kinh nghiệm, biểu dương khen thưởng các phong trào cách mạng địa phương, các điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt nhằm ra động lực thúc đẩy các phong trào quần chúng, khơi dậy khí thế lao động, sản xuất và chiến đấu bảo vệ tốt an ninh chính trị địa phương. Bên cạnh những mặt làm được, từ năm 1996 đến nay, trong quá trình lãnh đạo Đảng bộ huyện Chợ Mới còn bộc lộ những khuyết điểm, yếu kém: Trang 43 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn Trong quản lý điều hành Nhà nước có lúc, có nơi hiệu quả chưa cao, vẫn còn tình trạng cấp dưới chấp hành chưa nghiêm chỉ đạo của cấp trên. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, việc thực hiện dân chủ ở cơ sở một số nơi còn thực hiệc chưa tốt. Một số cấp ủy viên chưa thể hiện vai trò tiên phong gương mẫu, một bộ phận cán bộ đảng viên chưa thực sự gần dân, sát dân nên chưa nắm được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Do một số cấp ủy thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình chưa nghiêm, phân công trách nhiệm chưa rõ ràng, vai trò cá nhân phụ trách chưa được đề cao. Trình độ, năng lực, tính chấp hành nghị quyết của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn hạn chế, nể nang, ngại đụng chạm. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức và điều hành còn hụt hẫng, nhất là trong đổi mới tư duy về kinh tế. 2.3 Một số kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển hơn nữa nông nghiệp và nông thôn Chợ Mới trong thời gian tới. Từ năm 1996 đến nay Đảng bộ huyện Chợ Mới đã tập trung sức lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn và đã thu được nhiều thành quả đáng kể: chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp được đẩy mạnh, sản phẩm nông nghiệp hết sức đa dạng, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới, cơ sở hạ tầng nông thôn phát triển, đời sống của nhân dân được nâng cao rõ rệt. Qua thực trạng nông nghiệp, nông thôn Chợ Mới, tác giả có một vài kiến nghị sau. Trong thời gian tới để có thể tiếp tục phát triển thành quả trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, Đảng bộ huyện Chợ Mới phải có tầm nhìn chiến lược cho mô hình nông nghiệp, nông thôn. Đó là phát triển sản xuất phù hợp với quy luật tự nhiên, cần xác định đê bao nhằm hạn chế sự thiệt hại do lũ gây ra, nhằm phát triển giao thông nông thôn, nhưng nếu khép kín mãi sẽ làm giảm tiềm năng của đất, vì vậy cần phải có chiến lược xả lũ phù hợp để đảm bảo cho đất được nghỉ ngơi và bồi bổ thêm nguồn phù sa do lũ đem đến, bên cạnh đó, cần tận dụng nguồn lợi từ mùa nước nổi để tăng thêm thu nhập cho nông dân, đồng thời tạo nên bản sắc văn hóa mùa nước nổi mang đậm dấu ấn vùng sông nước nhằm thu hút khách du lịch. Tiếp tục phát huy thế mạnh của huyện về sản xuất lương thực và rau màu, chú trọng các loại giống có chất lượng để huyện Chợ Mới trở thành vùng cung Trang 44 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn cấp giống và sản lượng lương thực và rau màu cho các huyện trong tỉnh và các tỉnh lân cận. Hình thành và phát triển các vùng chuyên canh màu, các loại cây ăn quả ; ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn, tạo và nhân giống, kết hợp với nhập khẩu giống và công nghệ để sản xuất giống cây trồng có năng suất chất lượng cao. Đối với chăn nuôi: cần khuyến khích phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp, chủ yếu theo hình thức trang trại với quy mô phù hợp và an toàn dịch bệnh. Nâng cấp và đầu tư xây dựng các cơ sở giết mổ, chế biến sản phẩm chăn nuôi có trang bị hiện đại và đạt yêu cầu về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tiếp tục thực hiện nâng cấp giao thông nông thôn, nhựa hóa và bê tông hóa mặt đường nhằm phục vụ cho sản xuất và lưu thông hàng hóa thuận tiện, đặc biệt là phục vụ đi lại, học hành của nhân dân theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Hình thành các khu công nghiệp ở nông thôn, khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở ngành nghề ở nông thôn sử dụng máy móc, công cụ cải tiến, thực hiện cơ giới hóa các khâu sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường; hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển nhiều loại hình dịch vụ ở nông thôn, trước hết là dịch vụ kỹ thuật, tín dụng, thương mại, đời sống để tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho nông dân. Tiếp tục thực hiện chương trình đưa điện, nước về nông thôn nhằm cung cấp có hiệu quả, chất lượng cao điện, nước cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nông thôn. Phấn đấu đến năm 2010 hầu hết các hộ dân trong huyện đều sử dụng điện và nước sạch. Phát triển các dịch vụ bưu chính viễn thông và các nhà văn hóa đến tất cả các xã. Có chính sách đầu tư phát triển hệ thống thông tin nông nghiệp hiện đại, từng bước ứng dụng công nghệ thông tin trong nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, xã văn hóa, phục hồi và phát triển văn hóa truyền thống Chợ Mới anh hùng, phát huy tình làng, nghĩa xóm, sự giúp đỡ và hỗ trợ nhau phát triển trong cộng đồng dân cư nông thôn. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các thiết chế văn hóa, bảo vệ và tôn tạo các di tích lịch sử, di sản văn hóa, danh lam thắng cảnh, đáp ứng yêu cầu hưởng thụ và phát huy tiềm năng sáng tạo của nhân dân. Trang 45 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn Phát triển công tác thông tin đại chúng và các hoạt động văn hóa, khuyến khích, động viên những nhân tố mới, kịp thời phê phán các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, xây dựng lối sống lành mạnh, bảo vệ thuần phong mỹ tục ở nông thôn. Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục, y tế phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở nông thôn. Tăng đầu tư cho giáo dục – đào tạo để người nghèo được học tập, phát triển toàn diện cá nhân. Có chính sách tuyển chọn người giỏi để đào tạo cán bộ, công nhân phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Một số giải pháp để phát triển hơn nữa nông nghiệp, nông thôn Chợ Mới trong thời gian tới. Thứ nhất, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách về phát triển Giáo dục – Đào tạo, y tế, văn hóa và sinh đẻ có kế hoạch trên địa bàn nông thôn, nâng cao dân trí, nâng cao trình độ khoa học kỷ thuật, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sức khỏe dân cư, phát triển nguồn nhân lực được đào tạo để phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Thứ hai, huy động vốn đầu tư cho phát triển. Đây cũng là một yếu tố đảm bảo cho sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Muốn vậy trước hết cần ra sức khai thác sử dụng một cách tối ưu mọi nguồn lực nội tại trong huyện là nhân tố quyết định. Nguồn vốn quý báu đó chính là lực lượng lao động dồi dào, đất đai màu mỡ, kể cả lợi thế và cơ hội mà chưa được khai thác tốt, hiệu quả chưa cao. Đặc biệt trong dân hiện còn một khối lượng vốn khá lớn chưa đưa vào đầu tư phát triển. Vì vậy quá trình chăm lo bồi dưỡng sức dân phải đi đôi với động viên sức dân một cách hợp lý để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội vì lợi ích của nhân dân. Do hiệu quả sản xuất và tích lũy nội tại còn thấp, chưa đủ đáp ứng nhu cầu vốn để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nên cần phải huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Đó là nguồn vốn từ mở rộng hợp tác với các địa phương khác trong tỉnh, các tỉnh lân cận, vốn tài trợ của tỉnh, Chính phủ, đầu tư từ các bộ ngành Trung ương, vốn hỗ trợ phát triển chính thức của Chính phủ các nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế; các nguồn vốn nước ngoài hợp tác đầu tư, trực tiếp đầu tư Trang 46 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn Thứ ba, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, có chính sách đẩy mạnh để khuyến khích phát triển nhanh các doanh nghiệp và hoạt động dịch vụ ở nông thôn; tiếp tục đầu tư phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn, tập trung giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc nhằm thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Coi đây là khâu đột phá quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; trước hết cần tập trung vào công nghệ sinh học, chương trình giống, cây trồng, vật nuôi, công nghệ bảo quản và công nghệ chế biến nông sản, thủy sản. Ứng dụng công nghệ quy hoạch vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp an toàn (đặc biệt là rau màu, cây ăn quả), hướng đến một nền “nông nghiệp sạch”, chất lượng cao nhằm đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng. Đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học đủ năng lực nghiên cứu và tiếp thu khoa học công nghệ tiến tiến, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thứ tư, phát triển sản xuất phải phù hợp với quy luật của tự nhiên nhằm đảm bảo cho nền nông nghiệp phát triển bền vững, có kế hoạch xả lũ phù hợp vừa đảm bảo cung cấp đầy đủ nguồn dinh dưỡng và khả năng chịu đựng của đất vừa đảm bảo tăng năng suất, sản lượng lương thực của huyện. Đồng thời tận dụng mùa nước nổi để đánh bắt nuôi trồng thủy sản, tăng thu nhập cho nông dân. Xây dựng thêm các khu dân cư có hệ thống cơ sở hạ tầng như ở đô thị, từng bước đô thị hóa nông thôn. Di dời các hộ dân vùng sạt lở và nhà trên sông rạch vào các khu dân cư, bảo vệ môi trường sinh thái ở nông thôn. Thứ năm, tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, trực tiếp là huyện ủy. Kiện toàn bộ máy Nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính, giữ nghiêm pháp luật, đấu tranh đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng; bảo đảm cho bộ máy chính quyền trong sạch vững mạnh, đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ để quản lý kinh tế - xã hội nói chung và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn nói riêng ngày càng hiệu quả cao. Trang 47 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn KẾT LUẬN Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Chợ Mới, trong suốt 30 năm qua, đặc biệt là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, nền kinh tế nông nghiệp và nông thôn Chợ Mới đã phát triển vượt bậc và thu được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền nông nghiệp An Giang nói riêng và của cả nước nói chung. Trong mỗi thời kỳ, Đảng bộ huyện Chợ Mới đã đề ra những chủ trương, giải pháp phù hợp để thúc đẩy sản xuất phát triển. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực, giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Cơ cấu nội ngành nông nghiệp có sự chuyển biến theo hướng đa canh, đa dạng hóa sản phẩm, chuyển dịch cơ cấu cây trồng phát triển, giảm diện tích trồng lúa, tăng diện tích trồng màu. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là nông dân từng bước được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo hàng năm giảm do huyện tập trung thực hiện các chính sách và có những giải pháp đồng bộ, trong đó thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm: Số hộ khá giàu ngày càng tăng, hộ nghèo giảm, các thiết chế văn hóa được đầu tư xây dựng, trình độ dân trí ngày được nâng cao, hệ thống chính trị cơ sở được củng cố, dân chủ được phát huy, an ninh chính trị, trật tự xã hội được ổn định. Từ năm 1996 đến năm 2006, bộ mặt nông thôn Chợ Mới đã có sự thay đổi tích cực, hệ thống cầu đường, các tuyến giao thông liên xã được đầu tư xây dựng khá hoàn chỉnh; hệ thống bưu điện, điện, nước ngày càng được mở rộng, kinh tế nông thôn tăng ở mức cao, các loại ngành nghề công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phát triển đa dạng, nhiều cụm tuyến dân cư, chợ nông thôn được hình thành. Thành tựu trên là kết quả của sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân Chợ Mới dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện. Xuất phát từ đặc thù của Chợ Mới, ngay từ đầu Đảng bộ huyện Chợ Mới đã khẳng định: mục tiêu hàng đầu của huyện là lấy nông nghiệp làm nền tảng để phát triển kinh tế - xã hội, ổn định an ninh chính trị, Trang 48 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn nâng cao đời sống nông dân. Từ đó, huyện tập trung xây dựng công trình đê bao kiểm soát lũ và nâng cấp giao thông nông thôn nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và xây dựng hạ tầng nông thôn. Đây là chủ trương vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Chợ Mới, vừa phù hợp với tâm tư nguyện vọng của nhân dân, được đông đảo nhân dân tham gia hưởng ứng. Để biến chủ trương thành hiện thực, Đảng bộ huyện Chợ Mới coi trọng việc dựa vào dân, phát huy sức mạnh của nhân dân. Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện dân chủ cơ sở, thực hiện cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Trong quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển Chợ Mới, Đảng bộ huyện luôn nắm vững chủ trương, chính sách của Trung ương và của tỉnh, biết vận dụng phù hợp vào tình hình thực tiễn của địa phương: biết khắc phục những khó khăn về điều kiện về tự nhiên và xã hội của huyện; đồng thời, biết tận dụng, phát huy những mặt thuận lợi để đề ra những chủ trương, chính sách, bước đi, biện pháp và cách làm phù hợp. Tiêu biểu là chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành hệ thống bao đê kiểm soát lũ, nâng cấp hạ tầng giao thông nông thôn, đưa nông nghiệp, nông thôn Chợ Mới lên tầm cao mới. Hiện nay, đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà trọng tâm là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; Chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, trong bối cảnh đó, Việt Nam nói chung, Chợ Mới nói riêng vừa đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi lớn, đồng thời, cũng phải đối mặt với những nguy cơ thách thức lớn. Để có thể tiếp tục phát huy những thành tựu đạt được trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, trong thời gian tới, đòi hỏi Đảng bộ Chợ Mới phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo, phải không ngừng năng động, sáng tạo, củng cố tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh để đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, phải đề ra được những chủ trương, những bước đi và giải pháp phù hợp để nền nông nghiệp Chợ Mới ngày càng phát triển theo chiều sâu, sản phẩm nông nghiệp đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế; để nông thôn Chợ Mới ngày càng được khởi sắc, rút ngắn khoảng cách giữa thành thị với nông thôn. Trang 49 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn Trang 50 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO -------- [1]. Angiang.gov.vn - nông nghiệp An Giang. [2].Báo Sài Gòn Giải Phóng - số ra ngày 1 – 5 – 2008. [3]. Bộ Chính Trị - Nghị quyết về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 1998. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam - Tài liệu hướng dẫn học tập Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng, tập I, Nxb sách giáo khoa Mác - Lênin, HN, 1982. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam - Báo cáo chính trị ĐHĐCSVN lần VI, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 1986. [6]. Đảng Cộng sản Việt Nam - Các Nghị quyết của Trung ương Đảng 2001 – 2004, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2004. [7]. Đảng Cộng sản Việt Nam - Tham luận tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Sự Thật, HN, 1977. [8]. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, HN, 1991. [9]. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Sự Thật, HN, 1996. [10]. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2001. [11]. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2006. [12]. Đảng bộ An Giang - Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ An Giang lần thứ VI, nhiệm kỳ 1996 – 2000. [13]. Đảng bộ An Giang - Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ An Giang lần thứ VII, nhiệm kỳ 2001 – 2005. [14]. Đảng bộ An Giang - Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ An Giang lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2005-2010. [15]. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh - Giáo trình Lịch Sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2001. [16]. Huyện ủy Chợ Mới - Chuyên đề Tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ thực tiễn đổi mới của huyện Chợ Mới, 2003. [17]. Huyện ủy Chợ Mới - Văn kiện đại hội Đảng bộ huyện Chợ Mới khóa VII 1996 – 2000. [18]. Huyện ủy Chợ Mới - Văn kiện đại hội Đảng bộ huyện Chợ Mới khóa VIII nhiệm kỳ 2001– 2005. [19]. Huyện ủy Chợ Mới - Văn kiện đại hội Đảng bộ huyện Chợ Mới khóa IX nhiệm kỳ 2006 – 2010. [20]. Phòng Thống Kê Chợ Mới - Niên giám thống kê Chợ Mới 2005. [21]. Phòng Thống Kê Chợ Mới - Niên giám thống kê Chợ Mới 2006. [22]. Tổng kết khoa học - Phát triển tổng hợp kinh tế xã hội nông thôn qua 7 năm xây dựng và phát triển tỉnh An Giang, 1994. [23]. Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang - Địa chí An Giang, 2003. [24]. Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang - Kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội An Giang 1996 – 2010. [25]. WWW.cpv.org.vn – Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXT1239.pdf