Từ những kết quả nghiên cứu và thảo luận về tình trạng vệ sinh thú y ở một số cơ sở chăn nuôi gà và ứng dụng của chế phẩm EM trong việc cải tạo môi trường được trình bày ở trên chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1. Điều kiện vệ sinh môi trường ở hầu hết các cơ sơ chăn nuôi gia cầm chúng tôi khảo sát hiện nay đều chưa đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép, ẩm độ, độ bụi, vi sinh vật trong không khí chuồng nuôi đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
2. Nồng độ các chất khí độc hại tạo mùi hôi trong không khí chuồng nuôi ở các cơ sở chăn nuôi hộ gia đình thường cao hơn so với các cơ sở chăn nuôi tập thể. Do vậy các cơ sở chăn nuôi hộ gia đình mùi hôi thường nặng và khó chịu hơn ở các cơ sở chăn nuôi tập thể.
59 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1740 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá tình trạng ô nhiễm môi trường ở một số cơ sở chăn nuôi gà; nghiên cứu sản xuất và ứng dụng chế phẩm EM trong việc cải thiện môi trường và chất thải chăn nuôi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hỗ trợ nhau phát triển, nhằm nâng cao hiệu suất của hệ thống hữu cơ truyền thống. Công nghệ vi sinh vật hữu hiệu (EM) được bắt đầu từ năm 1989 với sự khởi đầu là Hội nghị Quốc tế Nông nghiệp thiên nhiên cứu thế .
ăThành phần sinh học của EM.
Theo thông báo của APNAN, trong chế phẩm EM có khoảng 80 – 125 loài vi sinh vật kị khí và hiếu khí thuộc 10 chi khác nhau, chúng tạo thành một hệ thống vi sinh thái, tạo ra nhiều sản phẩm khác nhau, hỗ trợ nhau sinh trưởng và phát triển
Theo giáo sư Higa (1996), trong chế phẩm EM chủ yếu có 4 nhóm chính là: vi khuẩn, xạ khuẩn, nấm men, nấm sợi.
Theo Bùi Thị Phương Hoà (2000),[1] trong EM không có các vi khuẩn gây bệnh như: Salmonella, E.coli, Clostridium… Đặc biệt, các tác giả của Trường Đại học Quốc gia đã bước đầu tìm hiểu về cơ chế hoạt động của chế phẩm EM, họ phát hiện có sự sinh sản IAA (một chất điều tiết sinh trưởng thực vật), và có mặt các vi khuẩn cố định Nitơ, hoạt động của chúng thông qua đánh giá hoạt tính nitrogenase và phát hiện sự thúc đẩy phân giải Xenlulose (Nguyễn Quang Thạch,1998) [9].
Các loại vi sinh vật cơ bản trong EM gồm:
* Nhóm vi khuẩn quang hợp:
Nhóm vi khuẩn quang hợp là một nhóm độc lập, nó hỗ trợ cho các vi sinh vật khác. Các vi khuẩn này tổng hợp các chất có lợi tiết ra từ rễ cây, các chất hữu cơ hoặc khí độc hại (Sunfit Hydro) bằng cách sử dụng ánh sáng mặt trời và sức nóng của đất như là nguồn cung cấp năng lượng. Những chất có ích được phát triển bằng các vi sinh vật bao gồm các axit amin, axit nucleic, các chất hoạt động sinh học và đường. Tất cả chúng thúc đẩy sự sinh trưởng, phát triển của cây trồng.
Các loài vi sinh vật hữu hiệu khác nhau có chức năng riêng của nó. Tuy nhiên, vi khuẩn quang hợp được coi là hạt nhân cơ bản cho hoạt động của EM.
* Nhóm vi khuẩn lactic.
Vi khuẩn lactic sản sinh ra axit lactic từ đường và các cácbon hydrat khác (được tạo ra bởi vi khuẩn quang hợp và nấm men). Do đó người ta ứng dụng qua trình lên men lactic rất rộng rãi để chế biến thức ăn , ủ chua thức ăn cho gia súc, gia cầm và sản xuất axit lactic. Chính vì vậy vi khuẩn lactic được đưa vào trong chế phẩm EM với mục đích chủ yếu là chuyển hoá thức ăn khó tiêu thành thức ăn dễ tiêu. Ngoài ra, axit lactic còn là một chất khử trùng mạnh, điều đó ngăn chặn các vi sinh vật gây hại và làm tăng nhanh chóng sự phân huỷ các chất hữu cơ. Hơn nữa, vi khuẩn lactic thúc đẩy sự lên men và phân huỷ các vật liệu như linhin, xenlullo,.. vì vậy có thể phân huỷ được các chất hữu cơ khó phân huỷ.
* Nhóm xạ khuẩn.
Xạ khuẩn là nhóm vi sinh vật phân bố rộng rãi trong đất và trong chế phẩm EM (sau vi khuẩn và nấm). Chúng tham gia vào quá trình phân giải các chất hữu cơ trong đất như xenlullose, tinh bột góp phần khép kín vòng tuần hoàn vật chất trong tự nhiên. Do đặc tính này nên chế phẩm EM còn được ứng dụng trong quá trình chế biến phân huỷ rác.
* Nhóm nấm.
Nhóm nấm gồm 2 chủng AH4 và AH5. Theo khoá phân loại của Raper và Fernell thì chủng AH4 thuộc chi Aspergillus còn AH5 thuộc chi Penicillium. Nấm sợi sản sinh men cũng tham gia vào quá trình chuyển hoá vật chất ở trong đất cùng các vi sinh vật khác. Do vậy chúng có thể khử được mùi hôi của rác, nước thải, khử được chất độc và ngăn chặn sự lan tràn vào gây hại của sâu bọ, vi sinh vật và côn trùng có hại.
* Nhóm nấm men
Nhóm nấm men gồm 2 chủng Na và Nb.
Nấm men tổng hợp nên các chất chống vi khuẩn và các chất kháng sinh có ích khác từ các axit amin, đường đã được tạo ra do các vi khuẩn quang hợp chất hữư cơ và cây đáp ứng sự đòi hỏi cho quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Nấm men còn tham gia vào quá trình chuyển hoá vật chất, phân huỷ các chất hữu cơ trong đất.
Các chất hoạt động sinh học như các hormon, enzim … được tạo ra bởi nấm men thúc đẩy quá trình hoạt động của tế bào và phân rễ của cây trồng. Các chất chiết ra từ chúng cũng là chất nền có lợi cho các vi sinh vật hữu hiệu như vi khuẩn lactic hay xạ khuẩn.
Ngoài hoạt tính sinh lý, bản thân tế bào nấm men còn có rất nhiều các vitamin và axit amin, đặc biệt là các axit amin không thay thế. Do đó, chế phẩm EM còn được dùng để bổ sung vào thức ăn cho gia súc tạo năng suất cao.
2.4.2. Tình hình sử dụng EM trên thế giới và ở Việt Nam.
ă Tình hình sử dụng EM trên thế giới.
Tại hội nghị đầu tiên về Nông nghiệp thiên nhiên cứu thế tổ chức tại Thái Lan, các nhà khoa học đã thảo luận về giá trị khoa học của công nghệ sinh học EM và tăng cường sử dụng nó. Từ đó, Mạng lưới Nông nghiệp Thiên Nhiên Châu á Thái Bình Dương (APNAN) đã được thành lập.
Hoạt động của mạng lưới APNAN dựa trên nguyên lý của Nông nghiệp thiên nhiên cứu thế và công nghệ vi sinh vật hữu hiệu EM. Hàng loạt các thử nghiệm về EM đã được chứng minh và sử dụng rộng rãi trong sản xuất cũng như trong đời sống ở nhiều nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Brazin, Mỹ, Nam Phi,…Họ coi đó như là một giải pháp cho việc phát triển Nông nghiệp bền vững, nhằm nâng cao năng xuất và chất lượng cây trồng cũng như vật nuôi, đồng thời đảm bảo về vệ sinh chất thải, vệ sinh môi trường.
ở Hàn Quốc, thử nghiệm được tiến hành để điều tra ảnh hưởng của EM trên sự sinh trưởng và hiệu quả của những loại cây trồng khác sản lượng lúa tăng 16% trên mức bình thường. Sự sinh trưởng và sản lượng của cải lá, cải củ đã tăng lên rõ rệt ở những lô đất có sử dụng EM với những lô đất sử dụng phân bón hoá học …(Phạm Văn Ty, 2000
) .
Tại Myanma, dự án về sản xuất và sử dụng EM Bokashi đã được tiến hành trên một vùng đất rộng lớn. EM Bokashi được sử dụng rộng rãi với kết quả rất tốt(hướng dẫn sử dụng EM)[8].
ă Tình hình sử dụng EM ở Việt Nam.
ở Việt Nam, công nghệ EM được chính thức đưa vào từ tháng 4 năm 1997. Trong mấy năm qua kể từ khi tiếp cận với công nghệ này, nhiều nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu và ứng dụng nó trong điều kiện Việt Nam. Hàng loạt các báo cáo khoa học đã ra đời và cho đến nay đã được ứng dụng một cách có hiệu quả trong trồng trọt, vệ sinh môi trường, xử lý rác thải… Trong lĩnh vực chăn nuôi thú y, nhiều đề tài đã được triển khai như: khử mùi hôi thối chuồng trại, phòng chống tiêu chảy do loạn khuẩn, cải thiện tiêu hoá hấp thu ở gà, lợn, trâu bò…(Phạm Khắc Hiếu và cộng sự, 2002) [13].
2.4.3. ứng dụng của EM.
Do bản chất của EM là một hỗn hợp các vi sinh vật hữu ích nên nó được ứng dụng rất rộng rãi trong nhiều ngành đặc biệt là ngành chăn nuôi và quản lý môi trường đô thị.
ă EM trong xử lý chất thải ở thành phố, ở các bể chứa chế biến rác và ở các nhà máy chế biến nông sản.
Thay cho việc sử dụng các hoá chất độc hại thông thường như vôi bột, thuốc diệt trùng, thuốc diệt ruồi muỗi…Sử dụng công nghệ EM đã trở thành một quy trình trong vấn đề sử lý chất thải.
Việc sử dụng EM để sử lý chất thải có thể đảm bảo được điều kiện vệ sinh môi trường, làm giảm và thực tế làm mất mùi hôi thối cũng như quần thể ruồi nhặng. Điều này tạo môi trường tốt hơn cho tất cả các cơ thể sống.
Phun dung dịch EM vào rác thải theo từng lớp làm tăng khả năng lên men, phân huỷ chúng, không làm cho chúng thối và biến rác thải này thành loại có ích, không còn độc hại nữa. Với EM thì các chất thải hữu cơ không cần phải đốt vì các chất này có thể biến đổi thành phân bón vì vậy có thể tái sử dụng chúng một cách có hiệu quả (Hướng dẫn sử dụng EM) [8].
Còn trong các nhà máy chế biến nông sản việc sử dụng EM đã khử được mùi thối của xương , mặt khác chất lượng của bột xương sẽ tăng về hàm lượng Nitơ.
Nghiên cứu sử dụng EM trong sử lý nước thải và bùn thải ở công ty đường – rượu – bia Việt Trì cho thấy EM không những giảm hẳn mùi khó chịu mà khi EM kết hợp với than bùn có thể mở ra hướng rất tích cực là tạo ra phân hữu cơ cho trồng trọt, cho cải tạo đất (Nguyễn Quang Thạch,1999) [12].
ă EM trong chăn nuôi, thú y.
Các kết quả thu được ở nhiều nước trên thế giới và ở Việt Nam đã cho thấy phạm vi ứng dụng công nghệ EM trong lĩnh vực chăn nuôi là rất rộng. Những lợi ích từ thực tế cho thấy công nghệ EM không chỉ làm tăng năng suất, tăng sức khoẻ cho vật nuôi mà còn khắc phục được những vấn đề về ô nhiễm môi trường.
Thử nghiệm trên gà đẻ và gà dò được bổ sung EM trong thức ăn với tỉ lệ 1% và rải nền chuồng với lượng 50g/m2. Theo dõi thành phần lý hoá học của phân, nước thải và tiểu khí hậu chuồng nuôi, kết quả cho thấy:
- Chất thải trong chuồng được cải thiện, ít mùi hôi, thời gian thối rữa lâu hơn.
- Hàm lượng H2S trong phân giảm từ 2 đến 10 lần, hàm lượng lipid giảm 0,6-1,4%, vật chất khô và hàm lượng nước trong phân cũng giảm 5-20 lần. Protein toàn phần trong phân tăng hơn so đối chứng (Đậu Ngọc Hào và cộng sự, 2001) [14].
Dùng EM trong chăn nuôi đã có nhiều ảnh hưởng tốt như sau:
1.Ngăn chặn mùi hôi trong chuồng nuôi, trong bể chứa nước bẩn và làm giảm quần thể ruồi nhặng cũng như các côn trùng có hại khác.
2.Làm tăng sức đề kháng, tăng tính miễn dịch chống lại các bệnh tật, tăng sự sống và tăng khả năng sinh sản của vật nuôi.
3.Làm giảm các nhân tố gây stress ảnh hưởng đến chất lượng của vật nuôi góp phần làm tăng chất lượng các sản phẩm của động vật.
4.Làm giảm nhu cầu sử dụng thuốc thú y, thuốc kháng sinh và các chất tẩy thường dùng trong chăn nuôi.
Ngoài ra, tác dụng kháng khuẩn của EM1 khá mạnh, phổ tác dụng rộng thậm chí cả đối với các vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh, có thể sử dụng trong điều trị bệnh do nhiễm khuẩn. Đặc biệt các vi khuẩn sản sinh H2S, NH3, Indol… cũng bị ức chế bởi EM1, điều này giải thích cơ chế khử mùi hôi thôi ở chuồng trại, các bãi rác thải, bể phốt nhà vệ sinh…của EM1.
Với liều 1ml/kg thể trọng, EM1 có tác dụng điều trị bệnh tiêu chảy của lợn do E.coli và Salmonella. Cho lợn uống 1ml EM1/kg thể trọng, sau 48 giờ, kiểm tra số lượng E.coli và Salmonella/1g phân thì thấy số lượng E.coli và Salmonella đều giảm rõ rệt, nhất là ở lứa tuổi 1 – 21 ngày. Đặc biệt trên lợn mắc tiêu chảy có loạn khuẩn, bội nhiễm E.coli và Salmonella thì tác dụng kháng khuẩn của EM1 càng thể hiện mạnh mẽ (Phạm Khắc Hiếu và cộng sự, 2002) [16].
Dùng EM trong chăn nuôi còn rất an toàn cho gia súc, gia cầm. Khi tiêm trực tiếp chế phẩm EM1 vào tĩnh mạch lợn và gà với liều lượng 1ml/kg thể trọng để kiểm tra độc tính. Qua theo dõi các chỉ tiêu lâm sàng thân nhiệt, tần số hô hấp, mạch đập...) trước và sau khi tiêm thì thấy rằng không có gì biến đổi và nằm trong phạm vi sinh lý. Theo dõi các chỉ tiêu huyết học thì thấy rằng EM không làm thay đổi về hồng cầu, huyết sắc tố, không ảnh hưởng đến tăng trọng, chỉ làm thay đổi công thức bạch cầu trong một vài ngày đầu sau đó trở lại bình thường. Điều này chứng tỏ EM1 không độc độc với lợn và gà. Nếu sử dụng qua đường tiêu hoá chắc chắn độ an toàn còn cao hơn ( Phạm Khắc Hiếu và cộng sự,2002) [10].
Phần III
Nội dung,vật liệu và phương pháp nghiên cứu.
3.1. Nội dung nghiên cứu.
- Nghiên cứu sản xuất, kiểm tra và thử nghiệm EM1 (EM thứ cấp) và Bokashi bổ sung thức ăn.
- Điều tra, đánh giá điều kiện vệ sinh thú y của các cơ sở chăn nuôi gà hộ gia đình và chăn nuôi tập thể.
- Điều tra các bệnh của gia cầm liên quan liên quan đến môi trường.
- ảnh hưởng của chế phẩm EM đối với môi trường chăn nuôi gà (EM cho ăn và EM bổ sung chất đệm chuồng).
3.2. Nguyên liệu nghiên cứu.
3.2.1.Động vật thí nghiệm.
Gà con 1 ngày tuổi.
3.2.2.Nguyên liệu.
- Dung dịch EM gốc.
- Nguyên liệu để sản xuất EM Bokashi: Cám gạo, bột ngô, rỉ mật, mùn cưa, nước sạch.
- Môi trường, hoá chất và các dụng cụ phòng thí nghiệm phục vụ nghiên cứu.
3.3. Phương pháp nghiên cứu.
3.3.1.Phương pháp đo một số yếu tố tiểu khí hậu chuồng nuôi.
* Xác định độ bụi không khí.
Xác định độ bụi không khí bằng máy MODEL – LD.1(Laser Dust Monitor Model LD.1) của Nhật dựa trên nguyên lý phân tích hạt trong không khí. Kết quả biểu thị trên màn hình bằng mg/m3 không khí.
Nguyên lý: Bụi trong không khí được hút vào một buồng có chiếu sáng. Số lượng các hạt bụi chắn tia sáng tạo ra số xung có cường độ tương ứng , được chuyển báo trên màn hiện số (hạt tinh thể lỏng) nhờ một bộ phận quang điện cực nhạy, số xung điện đếm được sẽ tương ứng với nồng độ bụi đã đo.
Mẫu không khí được lấy ở độ cao cách mặt đất 1,5m. Tại mỗi khu vực kiểm tra, đo ít nhất 3 điểm và lấy trung bình kết quả.
S [bụi ]các điểm đo
Nồng độ bụi không khí (mg/m3) = ´ 0,01.
Số điểm lấy mẫu.
*Xác định độ ẩm và nhiệt độ không khí.
Xác định độ ẩm và nhiệt độ không khí bằng máy máy đo độ ẩm K2 HI 8564 cầm tay (Portable Thermo – Hyrometers HI 8564) của Mỹ.
Khoảng đo 10 – 95% với ẩm độ
và 0 – 600C với nhiệt độ.
Cách xác định: Đo ở độ cao 1m cách sàn đối với lao động ngồi và 1,5m đối với lao động đứng. Cần đo ít nhất 3 mẫu rồi lấy kết quả trung bình.
*Xác định độ chuyển động không khí (tốc độ gió).
Xác định tốc độ gió bằng máy Model 4070112(Thermo – Anenometter Model – 4070112) cầm tay với nguyên lý dùng đầu cảm ứng đặc chủng của hãng sản xuất phân tích độ chuyển động không khí. Kết quả hiển thị trên màn hình điện tử.
Khoảng đo của máy là 0,4 á 25m/s.
Tiến hành đo: Đo ở độ cao 1m cách sàn đối với lao động ngồi và 1,5m đối với lao động đứng. Mỗi vị trí kiểm tra, tiến hành ít nhất 3 phép đo rồi lấy giá trị trung bình.
*Xác định cường độ ánh sáng.
Xác định cường độ ánh sáng bằng máy đo cường độ ánh sáng ISO – TECH ILM 350.
Nguyên lý: Máy được cấu tạo bởi hai bộ phận chính là: Tế bào quang điện và điện kế. Khi nguồn điện chiếu và tế bào quang điện thì sẽ biến quang năng thành điện năng và được đo bằng điện kế. Kết quả hiển thị trên màn hình tính ra bằng LUX.
Tiến hành đo: Đặt ngửa tế bào quang điện lên mặt phẳng cần đo ( tránh bóng đo ngẫu nhiên).
S Cường độ ánh sáng các điểm kiểm tra
Cường độ ánh sáng = (±0,2%).
Số điểm kiểm tra.
* Đo tiếng ồn.
Tiến hành đo: Phép đo cách các tường hoặc các bề mặt phản xạ ít nhất 1m, cách sàn nhà 1,2 – 1,5m; cách cửa sổ khoảng 1,5m.
Để máy cách cán bộ đo 1,5m.
Tại mỗi khu vực kiểm tra đo ít nhất 3 lần rồi lấy giá trị trung bình.
*Xác định nồng độ khí NH3 (ppm)
Xác định nồng độ NH3 bằng máy đo nồng độ NH3 Safe Log 100 của hãng Quest (Mỹ) với nguyên lý: Không khí được thổi qua Sensor đặc chủng của máy. Kết quả phép đo được hiển thị trên màn hình bằng nồng độ ppm NH3 trong không khí.
*Xác định nồng độ khí CO2.
Xác định nồng độ CO bằng máy đo nồng độ CO2 MODEL RI – 411A (Portable CO2 Indicator Model – 411A) của Nhật Bản.
Khoảng đo từ 0 – 1,99%.
Mỗi khu vực phải kiểm tra ít nhất 4 lần.
*Xác định nồng độ khí H2S.
Xác định hàm lượng khí H2S theo thường quy phân tích của Viện Y học Lao động và vệ sinh môi trường (1993) dựa trên khả năng hấp phụ với khí độc H2S có trong chuồng nuôi. Lấy các mẫu khí H2S bằng máy EC. 2000 Gelmal (Mỹ) rồi phân tích theo tiêu chuẩn ngành. Đo màu quang phổ hấp phụ vùng trông thấy bằng máy đo mật độ Spectronic 20 – D biểu thị bằng mgr/l
Thời gian đo các chỉ tiêu vệ sinh chuồng nuôi tốt nhất là vào 10 giờ sáng, một tuần một lần.
3.3.2. Phương pháp kiểm tra vi khuẩn trong phân.
*Phương pháp xác định tổng số vi khuẩn.
Xác định tổng số vi khuẩn có mặt trong phân gà bằng phương pháp xét nghiệm vi sinh trên thạch Plate count Argar với các kỹ thuật xét nghiệm vi sinh vật học thường quy trong phòng thí nghiệm và phương pháp nghiên cứu thông dụng.
Phương pháp xác định được tiến hành theo trình tự như sau:
Mẫu được pha loãng với các nồng độ 10-1, 10-2,, 10-3 … , dùng pipet hút 0,1 ml ml dung dịch đã được pha loãng trên cấy vào môi trường thạch (mỗi nồng độ cấy 2 đĩa). Để tủ ấm 370C trong 24 giờ sau đó đếm số khuẩn lạc phát triển trên môi trường thạch (Trên môi trường đặc, mỗi vi khuẩn đứng riêng rẽ sẽ phát triển thành một khuẩn lạc riêng biệt) từ đó tính ra số lượng vi khuẩn có trong một đơn vị mẫu nghiên cứu. Theo phương pháp đếm số khuẩn lạc phát triển trên môi trường thạch của Nguyễn Vĩnh Phước(1994), kết quả được tính theo công thức:
a+b+c+d
ồCFU/g = ´ F
n1.1+ n2..0,1
a,b.c.d : Số khuẩn lạc có trong 4 đĩa thạch.
n1 : Số đĩa thạch ở nồng độ pha loãng thấp.
n2 : Số đĩa thạch ở nồng độ pha loãng cao hơn.
F : Hệ số pha loãng khi bắt đầu.
*Phương pháp xác định vi khuẩn E.coli.
Sử dụng các môi trường tăng sinh và môi trường thạch L – EMB để nuôi cấy và kiểm tra vi khuẩn E.coli.
Vi khuẩn có khả năng lên men và sinh hơi đường Lactose làm pH của môi trường giảm.
Cách tiến hành: Cân vô trùng 25g mẫu cho vào bình trộn tốc độ cao có chứa 225ml dung dịch nước đệm peptol. Tiếp tục pha loãng đến nồng độ cần thiết (10-2, 10-3…)
Từ mỗi độ pha loãng trên hút 1ml dung dịch cho vào mỗi ống LT, lắc đều và nuôi trong tủ ấm 350C trong 48 giờ. Kiểm tra các ống dương tính ( có hình thành ga và có hiện tượng đục nhẹ do lên men đường). Từ các ống LT dương tính, dùng que cấy vòng chuyển 1 ăng đầy vào môi trường EC và nuôi trong bể nước ấm 450C trong 48 giờ. Kiểm tra các ống dương tính (có hình thành ga và có hiện tượng vẩn đục).
Từ các ống EC dương tính đã được kiểm tra ở trên lấy 1 ăng đầy ria cấy trên thạch L – EMB sau đó nuôi ở tủ ấm 350C trong 18 – 24 giờ. Kiểm tra các đĩa có khuẩn lạc. Khuẩn lạc E.coli điển hình có trung tâm đen, có hoặc không có ánh kim.
Lấy ít nhất 2 khuẩn lạc điển hình nhất từ mỗi điã thạch L – EMB cấy chuyển vào thạch nghiêng, nuôi ở tủ ấm 350C trong 24 giờ. Nhuộm Gram.
Giám định E.coli băng các phản ứng sinh hoá như : Indol, VP, Citrat và phản ứng lên men đường. Vi khuẩn có khả năng lên men và sinh hơi đường lactose.
* Phương pháp xác định vi khuẩn yếm khí.
Sử dụng môi trường thạch TSC để kiểm tra vi khuẩn yếm khí.
Hút 25 ml mẫu cho vào bình tam giác vô trùng chứa 225 ml dung dịch pha loãng Peptol, trộn đều trong 1-2 phút ở tốc độ 10.000 – 12.000 vòng/phút ta được dung dịch pha loãng 1/10. Tiếp tục pha loãng đến các nồng độ cần thiết(10-2, 10-3,10-4,… ).
Đổ 6 –7 ml thạch TSC (có bổ sung kháng sinh) vào một đĩa petri, lắc đều, để khô. Cấy chuyển 1ml của mỗi nồng độ pha loãng vào giữa từng đĩa thạch, mỗi nồng độ cấy 2 đĩa. Sau đó đổ thêm 15ml thạch TSC (có bổ sung kháng sinh) vào đĩa. Trộn đều với dung dịch nuôi cấy bằng cách lắc nhẹ .Để khô,đặt vào bình yếm khí sau đó để vào tủ ấm 370C trong vòng 20-24 giờ.
Tính kết quả : Đếm các khuẩn lạc màu đen trên môi trường thạch rồi tính toán số lượng vi khuẩn yếm khí có trong 1 gam mẫu như công thức tính toán tổng số vi khuẩn yếm khí theo công thức sau:
A´1000
Số vi khuẩn =
S´K
A: Số khuẩn lạc trên đĩa thạch.
S: Diện tích hộp lồng.
K: Hệ số thời gian lấy mẵu.
( K=1 với thời gian lấy mẫu 5 phút).
( K=2 với thời gian lấy mẫu 10 phút).
Khẳng định sự có mặt của vi khuẩn Clostridium perfringer bằng nhuộm Gram, khả năng di động và sự phát triển của nó trên môi trường đặc hiệu nuôi cấy yếm khí.
3.3.3. Phương pháp xác định tổng số vi sinh vật hiếu khí có trong không khí chuồng nuôi.
Sử dụng phương pháp láng bụi của Kock (Đỗ Ngọc Hoè,1990). Dùng các đĩa thạch thường đặt ở các điểm ở những độ cao khác nhau trong 5 phút. Vi khuẩn theo bụi và những giọt nước rơi trên đĩa thạch. Để các đĩa thạch này vào tủ ấm 370 trong 24 giờ rồi kiểm tra các vi khuẩn. Số lượng vi khuẩn hiếu khí được tính toán theo công thức sau:
A´1000
Số vi khuẩn =
S ´ K
A: Số khuẩn lạc trên đĩa thạch.
S: Diện tích hộp lồng.
K: Hệ số thời gian lấy mẫu.
(K = 1 với thời gian lấy mẫu 5 phút).
(K = 2 với thời gian lấy mẫu 10 phút).
3.3.4. Phương pháp xác định số lượng bào tử nấm trong không khí chăn nuôi.
Sử dụng môi trường thạch nấm Sabouroud có thêm Cloramphenicol 100mg/l để kiểm tra nấm trong không khí.
Phương pháp tính số lượng bào tử nấm trong không khí chuồng nuôi cũng tương tự phương pháp tính số lượng vi sinh vật hiếu khí.
3.3.5. Phương pháp sản xuất và kiểm tra chất lượng chế phẩm EM Bokashi.
EM Bokashi bổ sung thức ăn và chất độn chuồng được sản xuất và kiểm tra chất lượng theo quy trình của Nhật Bản.
Sau khi được sản xuất Bokashi được làm khô tới mức cần thiết và được kiẻm tra về số lượng vi khuẩn, nấm men, nấm mốc và các chỉ tiêu lý hoá khác trên các môi trường nuôi cấy thích hợp.
Độ an toàn của Bokashi được kiểm tra trên chuột nhắt trắng.
EM Bokashi cho ăn có mùi vị thơm ngon, bảo quản nơi thoáng mát.
3.3.6. Phương pháp bố trí thí nghiệm.
* Thí nghiệm trên gà con.
Thí nghiệm được thực hiện trên tổng số 20 con, chia thành 2 lô, mỗi lô 10 con đồng đều về trọng lượng cơ thể và tỷ lệ trống mái.
Lô1: Gà được ăn thức ăn bổ sung Bokashi với tỷ lệ 1% và nền chuông được rải 50g Bokashi/m2,1lần/tuần.
Lô 2: Gà được nuôi dưỡng bình thường với thác ăn tổng hợp dành cho gà con (cám tổng hợp).
Thời gian nuôi là 28 ngày cho cả 2 lô. Cả 2 lô đều được tiêm phòng bằng vacxin Lasota, Gumboro và được chăm sóc, theo dõi theo chế độ chăn nuôi động vật thí nghiệm. Hằng ngày ghi chép cẩn thận mọi diễn biến, sự phát sinh, phát triển, tình trạng ốm, chết, các điều kiện bình thường cũng như các bệnh có liên quan. Cân gà vào các thời điểm là: 7, 14, 21 ngày tuổi và khi kết thúc thí nghiệm.
Chỉ tiêu theo dõi:
+ Biến đổi của hệ vi khuẩn đường tiêu hoá ở gà (E.coli, vi khuẩn tổng số, Clostridium).
+ Màu sắc, mùi, tình trạng của phân gà.
+ Tỷ lệ gà ỉa chảy, ốm và chết.
+ Tỷ lệ tăng trọng của gà trước và sau thí nghiệm.
* Thí nghiệm trên gà mái đẻ.
Thí nghiệm được tiến hành tại
Gà mái đẻ giống đồng đều về tuổi, sức khoẻ, và sản lượng trứng. Thí nghiệm với 20 gà mái, chia làm 2 lô, mỗi lô 10 đồng đều về tỷ lệ trống mái.
Lô 1: Gà được ăn thức ăn bổ sung Bokashi với tỷ lệ 1%, nền chuồng được rải Bokashi với 50g/m2.
Lô2: Gà được nuôi dưỡng theo chế độ bình thường.
Sơ đố bố trí thí nghiệm.
TT
Lô
Bố trí thí nghiệm
1
Đối chứng
Không sử dụng chế phẩm EM Bokashi bơ sung thức ăn hay chất độn chuồng.
2
Thí nghiệm
Bổ sung chế phẩm EM Bokashi trong thức ăn với tỷ lệ 1% và rải 50g/m2 trên nền chuồng.
Chỉ tiêu theo dõi:
+ Nồng độ các chất khí thải trong chuồng nuôi (CO,NH3…)
+ Một số chỉ tiêu lý hoá chất thải.
+ Tổng số vi khuẩn, nấm trong không khí chuồng nuôi.
3.3.7.Phương pháp xử lý số liệu.
Các số liệu thu thập được trong quá trình làm thí nghiệm được sử lý bằng toán thống kê sinh vật học trên máy tính bằng chương trình Excel 5.0.
Phần IV.
Kết quả và thảo luận.
4.1. Kết quả khảo sát một số các chỉ tiêu chuồng trại ở một số cơ sở chăn nuôi gà hiện nay.
4.1.1. Kết quả khảo sát một số chỉ tiêu môi trường chuồng nuôi ở các cơ sở chăn nuôi gà hiện nay.
Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố để duy trì và phát triển của con người và sinh vật. Bất kể một thay đổi nào của môi trường cũng làm ảnh hưởng đến đời sống của con người và sinh vật.
Do vậy, trong chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gà nói riêng vấn đề vệ sinh môi trường chuồng trại luôn là một vấn đề được các nhà kỹ thuật quan tâm hàng đầu. Để đánh giá một cách tổng quát nhất về tình hình vệ sinh môi trường chăn nuôi gà hiện nay chúng tôi đã tiến hành khảo sát các chỉ tiêu ảnh hưởng đến môi trường như : nhiệt độ, ẩm độ, tốc độ gió… của một số cơ sở chăn nuôi gà. Kết quả được trình bày ở bảng 1.
ă Kết quả khảo sát các yếu tố nhiệt độ và ẩm độ trong không khí chuồng nuôi.
Kết quả ở bảng 1 cho thấy: nhiệt độ của 4 cơ sở chăn nuôi được khảo sát đều tương đối đạt yêu cầu và đều nằm trong khoảng giới hạn cho phép là 18-250C. Cụ thể, ở Xí nghiệp gà Lương Mỹ nhiệt độ đo được là 20.3 0C, Xí nghiệp gà Liên Ninh là 22.80C, cơ sở chăn nuôi của anh Hải là 24.5 0C và cơ sở chăn nuôi của ông Luận là 23.7 0C. Có thể do tại thời điểm chúng tôi tiến hành khảo sát, nhiệt độ của môi trường ngoài không khí hơi thấp nên đã gây ảnh hưởng đến nhiệt độ trong môi trường chuồng nuôi, làm cho nhiệt độ môi trường chuồng nuôi cũng thấp. Như vậy, có thể thấy nhiệt độ chuồng nuôi cũng phụ thuộc vào nhiệt độ không khí.
Tuy nhiên, ẩm độ ở các cơ sở chăn nuôi này lại tương đối cao, đặc biệt cao nhất là ở cơ sở chăn nuôi của ông Lê Duy Luận, ẩm độ lên tới 82,4%, hơn mức cho phép là 60-70%. ẩm độ này kéo dài sẽ dẫn đến tăng cường các chất khí độc hại, các vi sinh vật gây bệnh, làm ảnh hưởng xấu đến sức đề kháng của gia cầm. Có thể giải thích là do cơ sở chăn nuôi này không có hệ thống thông gió, cường độ lưu thông gió quá thấp (0,1m/s), mật độ chăn nuôi quá cao mà phân rác độn chuồng lại không được thu dọn thường xuyên, tích tụ lâu ngày.
Còn ở XN gà Lương Mỹ ẩm độ đo được là 63,2%. So với ẩm độ của các cơ sở chăn nuôi khác, chúng tôi thấy ẩm độ ở đây là thấp nhất và nằm trong khoảng giới hạn cho phép. Có được kết quả như vậy là do cơ sở chăn nuôi này đã được xây dựng theo mô hình hở của Cuba, có sàn lưới mắt cáo cách mặt đất khoảng 1m, phân rác, độn chuồng được quét dọn thường xuyên, đồng thời hệ thống thông gió hoạt động rất hiệu quả (tốc độ gió lên tới 0,9m/s).
Nhiệt độ và ẩm độ không khí có ảnh hường rất lớn đến sức sản xuất của gia cầm. Nhiệt độ và ẩm độ cao quá hay thấp quá thì đều có ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ thức ăn của gia cầm, làm giảm tốc độ sinh trưởng, phát triển và sức đề kháng bệnh của chúng. Do vậy, việc quan tâm đến nhiệt độ và ẩm độ trong chăn nuôi là một việc cần thiết.
ă Kết quả khảo sát độ bụi trong không khí chuồng nuôi.
Kết quả ở bảng 1 cho thấy:
Mặc dù ẩm độ của các cơ sở chăn nuôi này tương đối cao nhưng độ bụi vẫn lớn và nằm trong khoảng 0,4- 0,53mg/m3, cao hơn so với chỉ tiêu vệ sinh cho phép là 0,4mg/m3KK.
Trong đó cao nhất là của cơ sở chăn nuôi gia đình anh Hải, độ bụi lên đến 0,53mg/m3. Do cơ sở này chăn nuôi rất nhiều gà đẻ, sự hoạt động của chúng đã làm cho chất độn chuồng bị xáo trộn đồng thời làm tăng độ bụi lên, hơn nữa nguyên liệu làm chất độn chuồng ở đây là trấu, dăm bào …nên cũng là một trong những nguyên nhân tạo bụi. Vì vậy, mặc dù chuồng trại ở đây khá thông thoáng, cường độ lưu thông gió khá cao (tốc độ gió là 0,8m/s) nhưng độ bụi đo được vẫn rất lớn.
Còn thấp nhất là của xí nghiệp gà Lương Mỹ, độ bụi đo được là 0,39mg/m3. Do xí nghiệp này được xây dựng ở địa thế: nằm cách xa khu dân cư nên không bị ảnh hưởng bởi các tác nhân gây bụi như giao thông, sản xuất… đồng thời hệ thống thông gió hoạt động rất tốt, tốc độ gió cao nên đã đẩy lùi được lượng lớn bụi ra ngoài.
Hai cơ sở chăn nuôi còn lại, hàm lượng bụi cũng cao và cao hơn so với chỉ tiêu cho phép. Cụ thể, độ bụi của Xí nghiệp gà Liên Ninh là 0.41mg/m3 và của cơ sở ông Lê Duy Luận là 0.49mg/m3.
ă Kết quả khảo sát yếu tố chiếu sáng chuồng nuôi.
Việc đảm bảo đầy đủ ánh sáng là một yêu cầu cần thiết đối với một cơ sở chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi gà. Theo số liệu ở bảng 1, cường độ ánh sáng của 4 cơ sở chăn nuôi đo được lần lượt là 350 Lux, 150.5 Lux, 501.3 Lux và 180 Lux.
So với tiêu chuẩn cho phép là 200 Lux thì cả 4 cơ sở chăn nuôi này đều tương đối đạt yêu cầu.
Yếu nhất là của xí nghiệp gà Liên Ninh, cường độ ánh sáng đo được là 150,5 Lux, còn cao nhất trong 4 cơ sở là ở cơ sở của Trần Hải, do chuồng trại được xây trên một mô đất rộng, lợi dụng được ánh sáng tự nhiên nên cường độ ánh sáng ở đây lên tới 805.1 Lux . Chúng tôi cũng thấy rằng ở các cơ sở chăn nuôi vùng cao, vùng bán sơn địa như trại gà Lương Mỹ thì cường độ ánh sáng cao hơn so với các cơ sở chăn nuôi nằm khuất trong khu dân cư như trại gà Liên Ninh ( Lương Mỹ: 350 Lux; Liên Ninh: 150.5 Lux).
Cường độ ánh sáng thích hợp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sinh trưởng, phát triển của gà, đặc biệt là gà đẻ. Điều đó cũng đã được chúng tôi xác nhận khi quan sát các đàn gia cầm của 4 cơ sở trên. Chúng tôi nhận thấy, ở những cơ sở có cường độ chiếu sáng phù hợp (Cơ sở Anh Trần Hải) thì tốc độ sinh trưởng cũng như khả năng sinh sản của gia cầm đều cao hơn. Nhận xét này cũng hoàn toàn phù hợp với kết luận của nhiều tác giả khác.
Do vậy, để đạt hiệu quả tốt trong chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi gà thì sự cung cấp đầy đủ ánh sáng là rất cần thiết.
ă Kết quả khảo sát yếu tố tốc độ gió ở chuồng nuôi.
Môi trường thông thoáng, sạch sẽ thì rất có lợi cho sức khoẻ, đồng thời hạn chế được các vi sinh vật gây bệnh cũng như các chất khí độc hại. Do vậy trong chăn nuôi, sự thoáng khí rất là quan trọng. Tốc độ gió chính là chỉ tiêu đánh giá mức độ và điều kiện thông thoáng trong chuồng nuôi.
Mức độ quy định của vệ sinh thú y cho phép tốc độ gió trong các trại chăn nuôi là 0.2- 0.5m/giây.
Theo dõi 4 cơ sở chăn nuôi, chúng tôi thấy rằng tốc độ gió ở hầu hết các cơ sở này đều đạt yêu cầu, bởi kiểu chuồng ở các cơ sở chăn nuôi hiện nay đều được làm theo mô hình chuồng hở (theo mô hình của Cuba), lợi dụng được ánh sáng tự nhiên và sự lưu thông khí trời.
Chỉ có cơ sở chăn nuôi gà của ông Lê Duy Luận thì tốc độ gió là 0,1 m/s, thấp nhất so với chỉ tiêu cho phép, do cơ sở này không xây dựng theo mô hình hở mà xây dựng theo mô hình khép kín dùng đèn để chiếu sáng. Với tốc độ gió này thì sẽ không đảm bảo được độ thông thoáng của chuồng nuôi, và là điều kiện rất thuận lợi cho vi sinh vật phát triển (số lượng vi sinh vật ở đây là cao nhất: 3,4´105).
Còn ở Xí nghiệp gà Lương Mỹ tốc độ gió là 0,9m/s, cao nhất so với các cơ sở chăn nuôi khác. Sự thoáng khí là rất cần thiết, tuy nhiên nếu tốc độ gió quá cao thì cũng có ảnh hưởng không tốt đối với gia cầm vì nó sẽ làm tăng sự toả nhiệt của da, và dẫn đến tình trạng bị tiêu hao năng lượng, làm giảm sức đề kháng của chúng.
Do vậy, chúng tôi thiết nghĩ việc xây dựng một mô hình chuồng trại thông thoáng vào mùa hè, ấm áp vào mùa đông và hạn chế được ảnh hưởng của gió lùa là một việc cần được quan tâm.
ăKết quả khảo sát vi sinh vật trong không khí chuồng nuôi.
Trong không khí chuồng nuôi, số lượng vi sinh vật nhiều hay ít đều phụ thuộc vào điều kiện vệ sinh chăm sóc.
Kết quả ở bảng 1 cho thấy, ở những cơ sở chăn nuôi có tốc độ gió thấp, ẩm độ cao thì số lượng vi sinh vật thường cao và ngược lại. Cụ thể như ở cơ sở chăn nuôi của ông Lê Duy Luận, số lượng vi sinh vật đếm được là 3,4´105 vsv/m3KK, tương ứng với tốc độ gió là 0,1m/s (chỉ tiêu cho phép 0,4m/s) và ẩm độ là 82.4% (chỉ tiêu cho phép 70%). Ngược lại ở Xí nghiệp gà Lương Mỹ, tốc độ gió là 0.9m/s và ẩm độ là 63,2% nên có thể thấy số lượng vi sinh vật đếm được ở đây ít hơn rõ rệt (2,3´104 vsv/m3KK). Còn ở cơ sở chăn nuôi của anh Hải, mặc dù tốc độ gió là 0,8m/s nhưng số lượng vi sinh vật vẫn cao và không đảm bảo yêu cầu vệ sinh thú y (số lượng vi sinh vật đếm được là 7,8´104 vsv/m3KK). Do ở cơ sở này chăn nuôi gà đẻ nên hàm lượng bụi ở đây rất lớn. Bụi trong không khí thường mang rất nhiều vi sinh vật.
Như vậy, tạo ra một môi trường chăn nuôi thông thoáng sẽ góp phần rất đáng kể trong việc làm hạn chế số lượng các vi sinh vật.
Tóm lại, qua bảng 1 chúng ta thấy rằng hầu hết các cơ sở chăn nuôi đều chưa hoàn toàn đạt tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường không khí.
4.1.2. Kết quả khảo sát các chất khí độc hại tạo mùi hôi trong không khí chuồng nuôi.
Hàng ngày gà thải ra ngoài một lượng phân và nước tiểu nhất định, các thành phần hữu cơ trong phân gà dưới tác dụng của vi sinh vật và bị ôxy hoá thành các khí độc hại, đây cũng chính là nguồn gây ra mùi hôi khó chịu trong chuồng nuôi. Tuỳ thuộc vào điều kiện vệ sinh, vào chế độ chăm sóc của người công nhân chăn nuôi mà mùi hôi nhiều hay ít khác nhau. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát một số các khí đó ở một số các cơ sở chăn nuôi.
Kết quả được thể hiện ở bảng 2.
Mức độ hôi được phát hiện bằng khứu giác theo Osweiler và cộng sự,1985[22] là 10 ppm hoặc có thể thấp hơn.
Qua kết quả bảng 2 cho ta thấy:
Mức độ mùi hôi trong các cơ sở chăn nuôi hộ gia đình thường cao hơn so với các cơ sở chăn nuôi tập thể. Cụ thể, ở Xí nghiêp gà Lương Mỹ và Xí nghiệp gà Liên Ninh nồng độ khí NH3 trong chuồng nuôi thấp hơn hẳn. Nồng độ NH3 ở 2 cơ sở này lần lượt là 0.023mg/l; 0.03mg/l, trong khi đó nồng độ NH3 của 2 cơ sở chăn nuôi gia đình là 0,3mg/l và 2,0 mg/l cao hơn mức cho phép rất nhiều lần. Có thể giải thích do các cơ sở chăn nuôi gia đình mật độ gia cầm thường cao hơn so với các cơ sở chăn nuôi tập thể, mà điều kiện chăm sóc vệ sinh không được đảm bảo bằng. Chuồng nuôi ẩm ướt, không thông thoáng, sạch sẽ là nguyên nhân làm cho mùi hôi không được lưu thông, và NH3 càng có cơ hội đi vào chuồng trại. Do vậy các cơ sở chăn nuôi hộ gia đình mùi hôi thường nặng và khó chịu hơn ở các cơ sở chăn nuôi tập thể.
Khí Sulfua hydro (H2S) được coi là một khí rất độc hại và là một yếu tố gây mùi nặng hơn bất kỳ một loại khí thải nào trong chăn nuôi.. Người ta có thể xác định được mùi của H2S trong chuồng nuôi ở nồng độ rất thấp (0.025ppm). Trong 4 cơ sở chăn nuôi được chúng tôi khảo sát, chỉ có ở XN gà Lương Mỹ nồng độ H2S đo được là 0 mg/l, đạt yêu cầu so với tiêu chuẩn vệ sinh, vì với tốc độ gió 0,9m/s thì có thể đẩy lùi được các khí độc nên hàm lượng của khí (H2S) ở đây ít nhất. Còn ở xí nghiệp gà Liên Ninh, nồng độ H2S lên tới 0.037mg/l cao hơn nhiều so với chỉ tiêu cho phép là 0.015mg/l. Do xí nghiệp này bị che khuất bởi khu dân cư nên độ thông thoáng kém hơn, gió không lưu thông được nên không đẩy lùi được khí này ra ngoài dẫn đến hàm lượng khí H2S của xí nghiệp này cao hơn so với các cơ sở chăn nuôi khác. Còn hai cơ sở còn lại nồng độ H2S lần lượt là 0,022 mg/l và 0.02mg/l.
Chuồng trại càng ẩm ướt thì nồng độ khí H2S và NH3 càng tăng. Độ ẩm, khí NH3 và H2S luôn có mối quan hệ tương đương (Lại Thị Cúc,1994) [21]. Do vậy, việc tạo ra môi trường thông thoáng, không ẩm ướt đảm bảo vệ sinh ở các cơ sở chăn nuôi là một việc làm rất quan trọng.
4.2. Kết quả nghiên cứu sản xuất chế phẩm EM1 và EM Bokashi trong phạm vi thí nghiệm và kiểm tra một số các chỉ tiêu của các chế phẩm này.
EM mẹ là một dung dịch màu nâu và không có khí ga (EM dạng ngủ) được tiếp nhận tại trung tâm phát triển công nghệ Việt-Nhật. Từ EM mẹ chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu và sản xuất thành công chế phẩm EM1 (EM thứ cấp) và EM Bokashi trong phạm vi thí nghiệm dựa theo quy trình kỹ thuật của tổ chức APNAN( mạng lưới nông nghiệp thiên nhiên Châu á Thái Bình Dương).
Trước khi đưa các chế phẩm này vào thí nghiệm trên gà chúng tôi đã tiến hành kiểm tra một số các chỉ tiêu liên quan như : độ pH, màu sắc, mùi vị, số lượng vi sinh vật, số lượng bào tử nấm men…. Kết quả được trình bày ở bảng 3, 4.
4.2.1.Kết quả nghiên cứu một số các tính chất của chế phẩm EM1 (EM thứ cấp).
Chế phẩm EM1 được sản xuất từ EM mẹ trong điều kiện yếm khí hoàn toàn với công thức như sau:
1l dung dịch EM mẹ/ 200ml rỉ đường/10l nước hoà đều với nhau. ủ trong tủ ấm 370C khoảng 3-4 ngày. Sau khi sản xuất dung dịch EM1 có màu nâu, có mùi chua thơm dễ chịu và lắc thấy xuất hiện khí ga ( khác EM mẹ không có khí ga).
Theo dõi độ pH của dung dịch EM1, kết quả ở bảng 3 cho thấy:
Độ pH trong dung dịch EM1 giảm nhanh sau 24 giờ nuôi cấy, từ 6,3 lúc ban đầu xuống còn 5,0. Các ngày tiếp theo, pH của EM1 giảm chậm hơn và giữ mức khá ổn định sau 5 ngày (3,6- 3,5).
Bảng 3: Một số đặc tính của chế phẩm EM1
Thời gian
Nuôi cấy ở 370C trong tủ ấm
(Giờ)
PH
Độ ga
(CO2)
Nấm men
0
6,3
Không
KXĐ
24
5,2
Có ít
2,0´107
48
4,9
Có ít
5,8´107
72
4,5
Nhiều
3,0´108
96
3,9
Nhiều
KXĐ
120
3,6
Nhiều
KXĐ
144
3,5
Nhiều
KXĐ
168
3,3
Nhiều
KXĐ
192
3,3
Nhiều
KXĐ
Độ pH giảm như vậy chứng tỏ lúc đầu các vi khuẩn trong dung dịch EM, đặc biệt là vi khuẩn Lactic ở trạng thái không hoạt động nhưng sau khi được cung cấp thức ăn (rỉ đường) và được ủ ở nhiệt độ thích hợp chúng đã thức tỉnh và hoạt động rất hiệu quả. Vì thực chất đây là một quá trình lên men lactic, dưới tác dụng của vi khuẩn lactic, phần lớn lượng đường được cung cấp chuyển thành axit lactic nên làm cho độ pH của dung dịch giảm đi (pH < 4,2 là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của vi khuẩn lactic).
Về mức độ hình thành khí ga của dung dịch, chúng tôi thấy rằng một ngày sau khi pha chế đã xuất hiện khí ga (khí CO2), những ngày tiếp theo khí ga tăng lên rất rõ và nhiều. Điều này cũng chứng tỏ lúc đầu vi sinh vật trong EM còn đang ở trạng thái ngủ, không hoạt động, nhưng sau khi được cung cấp thức ăn chúng thức tỉnh và hoạt động rất tích cực.
Kiểm tra số lượng nấm men trong 1 lít chế phẩm EM1, chúng tôi thấy rằng sau 24 giờ nuôi cấy số lượng là 2,0´107 bào tử, tiếp tục nuôi cấy thì số lượng bào tử nấm men tăng lên nhưng không đáng kể (5,8´107 – 3,0´108). Điều này chứng tỏ số lượng bào tử nấm men có thể tăng lên đến một giới hạn khi được cung cấp dinh dưỡng và ủ ở nhiệt độ thích hợp.
4.2.2.Một số đặc điểm của chế phẩm EM Bokashi.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, sau khi sản xuất EM1 chúng tôi tiến hành sản xuất chế phẩm EM dạng Bokashi.
Tuỳ theo mục đích sử dụng, chúng tôi đã dùng một số một số các nguyên liệu khác nhau để sản xuất, nhưng thành phần chủ yếu của EM Bokashi vẫn là cám gạo, bột ngô , rỉ đường và EM thứ cấp (EM1).
Dung dịch EM thứ cấp được trộn đều với cám gạo, bột ngô, rỉ đường, nước sạch theo tỷ lệ 0.5l EM1/ 10kg cám gạo/ 3kg bột ngô/ 200ml rỉ đường/ nước vừa đủ (khoảng 3 lit) rồi ủ trong tủ ấm 370C khoảng thời gian 4-5 ngày. Đây là công thức của chế phẩm EM Bokashi dạng bổ sung thức ăn.
Còn chế phẩm EM Bokashi dạng bổ sung nền chuồng cũng được chế từ các nguyên liệu trên nhưng tỷ lệ cám ngô và cám gạo ít hơn, cụ thể là: 0.5l EM1/ 3kg cám gạo/1kg bột ngô/ 200ml rỉ đường/ nước vừa đủ, ngoài ra cần bổ sung thêm khoảng 70% mùn cưa mịn (7-8kg). Thời gian ủ của chế phẩm này dài hơn so với EM Bokashi bổ sung thức ăn và thường ủ trong 5-7 ngày.
Sau khi sản xuất, cả hai dạng chế phẩm này được hong khô ở nơi thoáng mát, tránh ánh nắng mặt trời trực tiếp cho đến một độ khô cần thiết (ẩm độ 12 –14% là được). Sau đó chúng tôi tiến hành kiểm tra về mùi vị, màu sắc, ẩm độ số lượng nấm mốc, nấm men và vi khuẩn tổng số của cả 2 chế phẩm trên. Kết quả được trình bày ở bảng 4.
Bảng 4: Một số đặc điểm của chế phẩm EM Bokashi.
Chỉ tiêu
Bokashi bổ sung thức ăn
Bokashi bổ sung chất độn chuồng
Thành phần
Cám gạo, cám ngô, rỉ đường, nước
Cám gạo, cám ngô, mùn cưa, rỉ đường, nước
Màu sắc
Màu vàng của ngô
Màu xám của mùn cưa
Mùi vị
Mùi thơm, chua
Mùi chua hắc
Độ ẩm (%)
14
12
Nấm men (CFU/g)
2´107 - 5´108
106 - 107
Vi khuẩn tổng số
(CFU/g)
106 - 107
105 - 106
Kết quả ở bảng 4 cho thấy:
Chế phẩm EM Bokashi dạng bổ sung thức ăn có màu vàng của cám, có mùi chua thơm của nấm men. Khi kiểm tra 1 gam chế phẩm này thì thấy số lượng bào tử nấm men là 2´107 - 5´108 và số lượng vi khuẩn tổng số là 108 – 109.
Còn EM Bokashi dạng bổ sung đệm chuồng thì có màu xám của mùn cưa, mùi chua hắc của nấm và số lượng nấm men, vi khuẩn tổng số thì giảm 10 lần so với Bokashi bổ sung thức ăn (106 - 107 và 105 - 106).
Trước khi đưa các chế phẩm EM thứ cấp và EM Bokashi này vào thí nghiệm thì phải kiểm tra độ an toàn của chúng. Nhưng do điều kiện thời gian không cho phép nên chúng tôi không tiến hành kiểm tra được. Nhưng đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu và chứng minh được độ an toàn của chúng, vì vậy chúng tôi có thể yên tâm để tiến hành thí nghiệm.
4.3.Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của EM Bokashi đối với môi trường chăn nuôi và chất thải của gà.
4.3.1.Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của EM Bokashi đối với môi trường chăn nuôi.
Do điều kiện không cho phép, chúng tôi chỉ tiến hành thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng của chế phẩm EM Bokashi đối với môi trường và chất thải chăn nuôi trên đàn gà gia đình với sơ đồ bố trí thí nghiệm như đã nói ở chương II.
Bổ sung EM Bokashi vào thức ăn với tỷ lệ 1% và rải nền chuồng với lượng 50g/m2 trong thời gian một tuần. Sau đó tiến hành theo dõi và kiểm tra các chỉ tiêu môi trường. Kết quả thu được rất khả quan và được trình bày ở bảng 5.
Bảng 5: Kết quả nghiên cứu về các yếu tố tiểu khí hậu chuồng nuôi.
Chỉ tiêu theo dõi
Lô thí nghiệm
Trước thí nghiệm
( Không bổ sung EM)
Sau thí nghiệm
(Có bổ sung EM)
Độ bụi
Mg/m3KK
0,37
0,41
ẩm độ
%
71.9
72.7
Nhiệt độ
0C
22.5
22.0
Tốc độ gió
M/giây
0.2
0.2
CO2
mg/l
0.12
0.075
NH3
mg/l
0.02
0.008
H2S
mg/l
0.032
0.01
Độ nhiễm khuẩn không khí
VSV/m3KK
32,58´105
28,05´105
Nấm mốc
VSV/m3KK
182
158
E.coli
VSV/m3KK
705
549
Kết quả ở bảng 5 cho thấy các chỉ tiêu môi trường chuồng nuôi trước và sau khi thí nghiệm có sự thay đổi. Độ ẩm của chuồng gà sau khi thí nghiệm giảm được gần 1%. Còn các chỉ tiêu khác như tốc độ gió, độ bụi hầu như không có gì thay đổi.
Nhưng với các chất khí độc hại, thì chúng tôi thấy có sự chênh lệch rõ rệt, sau khi thí nghiệm hàm lượng các chất khí trên đều giảm , đặc biệt là khí H2S . Cụ thể trước khi thí nghiệm hàm lượng H2S đo được là 0.032mg/l còn sau khi thí nghiệm bổ sung EM Bokashi thì hàm lượng H2S chỉ còn lại 0.01mg/l, đã giảm 31,4%.
Còn các khí độc khác như khí NH3 , khí CO2 hàm lượng của chúng cũng thay đổi, cụ thể như sau: trước thí nghiệm hàm lượng NH3 và CO2 đo được lần lượt là 0.02; 0.12mg/l và sau khi thí nghiệm thì hàm lượng của chúng còn lại 0.008; 0.075mg/l.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng dưới tác dụng của EM các chất khí độc hại trong chuồng nuôi đã giảm xuống rất đáng kể. Kết quả này rất phù hợp với kết quả thí nghiệm của Li và cs [25] khi nuôi gà Broiler. Tác giả cho rằng dưới tác dụng của EM khí NH3 đã chuyển hoá thành một chất ít độc hơn nên đã duy trì được môi trường an toàn cho vật nuôi.
Các nghiên cứu khác cũng cho thấy dù EM được bổ sung bằng con đường nào, qua thức ăn, nước uống hay rải đệm chuồng thì chúng đều làm giảm được mùi hôi trong chuồng nuôi, góp phần làm giảm sự ô nhiễm môi trường.
Ngoài ra, các chỉ tiêu vi sinh vật trong không khí chuồng nuôi cũng được giảm xuống đáng kể. Kết quả ở bảng 5 cho thấy:
Tổng số vi khuẩn hiếu khí đếm được trước khi thí nghiệm là 32,58´105vk/m3KK và sau khi thí nghiệm là 28.05´105vk/m3KK. Tương tự, số lượng bào tử nấm mốc, số lượng vi khuẩn E.coli đếm được trước thí nghiệm lần lượt là 182 bào tử, 705vk/m3KK và sau thí nghiệm là 158 bào tử, 549vk/m3KK. Chứng tỏ rằng, sau khi sử dụng EM số lượng các vi sinh vật đều được giảm đi rõ rệt.
Như vậy, việc sử dụng EM Bokashi trong chăn nuôi đã góp phần rất đáng kể trong việc cải thiện môi trường, nên sẽ làm giảm được nguy cơ mắc bệnh của gà.
4.3.2.Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của EM Bokashi đối với chất thải chăn nuôi.
Sử dụng EM Bokashi trong chăn nuôi ngoài tác dụng cải thiện môi trường ra còn có tác dụng rất tốt trong việc sử lý chất thải chăn nuôi. Kết quả được trình bày ở bảng 6.
Bảng 6: Kết quả nghiên cứu một số thành phần hoá học của nước thải chuồng gà có bổ sung EM Bokashi.
Nước thải
Chỉ tiêu
Đơn vị
Sau thí nghiệm
Trước thí nghiệm
BOD5
mg/l
100
125
COD
mg/l
448
542
E.coli
vk/l
98
166
Vi khuẩn tổng số
vk/l
121
1145
Clostridium
vk/l
24
46
Chúng ta biết rằng hàm lượng chất hữu cơ trong nước thải được đánh giá bằng 2 chỉ tiêu BOD và COD (chính là lượng oxy tiêu tốn để xác định hàm lượng chất hữu cơ có mặt trong nước thải). COD và BOD càng cao chứng tỏ hàm lượng chất hữu cơ trong chất thải càng lớn.
Kết quả ở bảng 6 cho thấy sau khi thí nghiệm các chỉ tiêu BOD5, COD có giảm hơn so với trước khi thí nghiệm tuy không có sự khác biệt nhiều. Trước thí nghiệm BOD5 và COD đo được lần lượt là 125; 542 mg/l và sau khi thí nghiệm thì giảm xuống còn 100; 448 mg/l. Điều này chứng tỏ hàm lượng các chất hữu cơ trong nước thải đã được giảm xuống sau khi sử dụng EM.
Đồng thời số lượng vi khuẩn tổng số và vi khuẩn Clotridium cũng giảm đi sau khi thí nghiệm, cụ thể là số lượng của vi khuẩn tổng số và Clostridium trước khi thí nghiệm là 1145 ; 46 vk còn sau khi thí nghiệm là 121; 24 vk.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng sự dụng EM đã mang lại hiệu quả rất tốt trong việc sử lý chất thải, làm sạch môi trường chăn nuôi.
Tóm lại, sử dụng chế phẩm EM trong chăn nuôi đã có tác dụng rất tốt trong việc xử lý môi trường và chất thải chăn nuôi. Riêng đối với môi trường chăn nuôi EM đã làm giảm nồng độ các chất khí độc hại, làm giảm hẳn mùi hôi thối.
Phần V
Kết luận và đề nghị
I. Kết luận.
Từ những kết quả nghiên cứu và thảo luận về tình trạng vệ sinh thú y ở một số cơ sở chăn nuôi gà và ứng dụng của chế phẩm EM trong việc cải tạo môi trường được trình bày ở trên chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Điều kiện vệ sinh môi trường ở hầu hết các cơ sơ chăn nuôi gia cầm chúng tôi khảo sát hiện nay đều chưa đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép, ẩm độ, độ bụi, vi sinh vật … trong không khí chuồng nuôi đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
Nồng độ các chất khí độc hại tạo mùi hôi trong không khí chuồng nuôi ở các cơ sở chăn nuôi hộ gia đình thường cao hơn so với các cơ sở chăn nuôi tập thể. Do vậy các cơ sở chăn nuôi hộ gia đình mùi hôi thường nặng và khó chịu hơn ở các cơ sở chăn nuôi tập thể.
Đã sản xuất thử nghiệm thành công chế phẩm EM thứ cấp và EM Bokashi từ cám, ngô, mùn cưa với 2 dạng:
- EM bokashi bổ sung thức ăn.
- EM Bokashi bổ sung chất độn chuồng [theo quy trình kỹ thuật của tổ chức APNAN( mạng lưới nông nghiệp thiên nhiên Châu á Thái Bình Dương)].
Cả 2 loại chế phẩm trên đều rất tốt và an toàn đối với vật nuôi.
Sử dụng EM Bokashi bổ sung vào thức ăn cho gà với tỷ lệ 1% và rải nệm chuồng với 50g/m2 đã có tác dụng rất tốt trong việc sử lý môi trường và chất thải chăn nuôi. Đã làm giảm đáng kể nồng độ các chất khí độc hại có mặt trong không khí nuôi, làm giảm hẳn mùi hôi đồng thời làm giảm hẳn số lượng các vi sinh vật có trong môi trường chăn nuôi.
Chứng tỏ sử dụng chế phẩm EM trong chăn nuôi có tác dụng rất tốt, rất hiệu quả và góp phần làm giảm thiều ô nhiễm môi trường chăn nuôi, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.
II. Đề nghị
Các cơ quan chức năng cần có các biện pháp tích cực trong việc kiểm tra, giám sát vệ sinh thú y. Làm tốt công tác thú y để bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ sức khoẻ của con người cũng như sức khoẻ của vật nuôi.
Xây dựng mô hình chuồng trại chăn nuôi hợp lý, ấm áp về mùa đông, thoáng mát về mùa hè để nâng cao năng suất chăn nuôi.
Mở rộng việc nghiên cứu và đưa chế phẩm EM vào mục đích chăn nuôi để xử lý chất thải nhằm cải tạo môi trường.
Tài liệu tham khảo
Tài liệu trong nước.
Bùi Thị Phương Hoà- Nghiên cứu tình trạng ô nhiễm trong chăn nuôi gà công nghiệp và ứng dụng chế phẩm EM Bokashi nhằm cải thiện môi trường và năng suất vật nuôi, 2000- Luận văn thạc sỹ.
Giáo trình Vệ Sinh Thú y.
Trương Quang- “ảnh hưởng của bệnh CRD đến một số chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của đàn gà giống ISA bố mẹ hướng thịt”. Báo cáo khoa học- Tạp chí KHKT Thú y, số 4- tập IX,2002, trang 15.
Đào Thị Hảo và cs – “ Xác định ảnh hưởng của Mycoflasma Galisepticum đến các chỉ tiêu sinh sản của gà”. Báo cáo khoa học – Tạp chí KHKT Thú y, số 4, tập VII,2000, trang35.
Trần Thị Hạnh và cs “ Tình trạng ô nhiễm Salmonella trong chăn nuôi gà công nghiệp và sản phẩm chăn nuôi”. Báo cáo khoa học – Tạp chí KHKT Thú y, số 1, tập VI, 1999.
Hoàng Thạch, Phan Địch Lân “ Một số nhận xét mới về bệnh cầu trùng ở gà công nghiệp nuôi tại thành phố Hồ Chí Minh”. Boá có khoa học – Tạp chí KHKT Thú y, số 3, tậpVI,1999, Trang 6.
Nguyễn Thị Tâm “ Kiểm
Hướng dẫn sử dụng EM.
Nguyễn Quang Thạch và cs - ảnh hưởng chế phẩm EM đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của đậu tương vụ Xuân Hè ở Việt Nam. Đại học Nông Nghiệp I Hà Nội.
Phạm Khắc Hiếu và cs “ Kiểm tra độc tính cấp diễn của chế phẩm EM1 trên gà và lợn”. Báo cáo khoa học – Tạp chí KHKT Thú y, số 2, tập IX, 2002, trang 58.
Phạm Hồng Sơn và cs “Khảo sát khả năng gây độc mãn tính của chế phẩm EM trên đàn gà thịt”. Báo cáo khoa học – Tạp chí KHKT Thú y, số 2, tập X, 2003, trang 57.
Nguyễn Quang Thạch và cs “Kết quả bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của chế phẩm đến sinh trưởng, phát triển năng suấtvà một số chỉ tiêu sinh học của cây trồng, vật nuôi,1998”.
Giáo trình Bệnh Truyền Nhiễm gia súc .
Đậu Ngọc Hào và cs “ảnh hưởng của chế phẩm EM Bokashi đến chất thải môi trường vật nuôi”. Báo cáo khoa học – Tạp chí KHKT Thú y, số2, tập VIII, 2001, trang 44.
Cẩm nang thú y viên.
Phạm Khắc Hiếu và cs “ Nghiên cứu tác dụng kháng khuẩn của chế phẩm EM1”. Báo cáo khoa học – Tạp chí KHKT Thú y, số 1, tập IX, 2002, trang 15.
Đỗ Ngọc Hoè – Một số chỉ tiêu vệ sinh ở các chuồng gà công nghiệp và nguồn nước cho chăn nuôi ở khu vực quanh Hà Nội. Luận án phó tiến sỹ Khoa học Nông nghiệp, Hà Nội, 1995.
Tài liệu tập huấn về công tác vệ sinh an toàn thực phẩm có nguồn gốc động vật – Cục Thú y, 2001.
Lê Hồng Mận, Lê Hồng Phi - ảnh hưởng của chế độ chiếu sáng khác đến gà đẻ trứng thương phẩm. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật Nông Nghiệp,1983, trang 10, 466, 468.
Hoàng Thị Thu Hằng – Một số chỉ tiêu vệ sinh và kinh tế ở chuồng nuôi gà đẻ bố mẹ ARBOR ACRES giai đoạn 25 – 40 tuần tuổi có sử dụng focmol và chế phẩm sinh học DE – ODORASE. Luận án thạc sỹ Nông nghiệp, Hà Nội, 1997.
Lại Thị Cúc - ảnh hưởng của một số chất độ lót đến đến một số chỉ tiêu tiểu khí hậu chuồng nuôi gà 0 – 28 ngày tuổi. Luận văn thạc sỹ khoa học Nông Nghiệp – Hà Nội, 1994 tr7; 66 – 70.
Tài liệu Nước ngoài.
MelakhinGP; Grin N. Ia ( Lê Hồng Mận, Bùi Lan Hương Minh dich) – Sinh lý gia cầm, NXB Nông nghiệp – Hà Nội và NXB Mir Maxcơva 1989.
Nesheim Malden C.Poultry production. Philadelphia, 1979. T15 – 52.
Halbak và cs ( Nguyễn Chí Bảo dịch) – Nuôi dưỡng và chăn sóc gà mái đẻ. NXB Khoa học và kỹ thuật, 1978, T 316 – 374.
Li W. J, Y. Zh. Ni và cs – Effective microgranism for sustainble animal production in China. Beijing Agricultual Univercity; Beijing, China and The Internation Nature Farming Research center, atani, Japan.
26. Higa. T – Effective microgranism; Their vale in Kyusei Nature Famy and sustainable agrialtive 1996, p 20-23. In J. F. Parr, S.B. Hornik and M.E.Simpson. Proceedings of the third International confenence on Kýueinatủe farmy. U.S Department of agrialture, Washington, D.C.USA
Bảng 1:
Kết quả khảo sát một số các yếu tố môi trường tại một số cơ sở chăn nuôi.
Các chỉ tiêu theo dõi
Cơ sở theo dõi
Độ bụi (mg/m3K)
Nhiệt độ (0C)
ẩm độ
(%)
ánh sáng (Lux)
Tốc độ gió (m/s)
VSV
Độ ồn
Chỉ tiêu cho phép
0,4
18-25
60-70
200
0,2-0,5
2.5´104
70
XN gà Lương mỹ – Hà Tây
0,39
20,3
63,2
350
0,9
2,3´104
63,2
Trại gà Liên Ninh – Hà Tây
0,41
22,8
77,5
150,5
0,3
3,0´104
73,5
Cơ sở gà anh Trần Hải – Hà Tây
0,53
24,5
75,4
805,1
0,8
7,8´104
78,8
Cơ sở gà ông Lê Duy Luận
0,49
23,7
82,4
180
0,1
3,4´105
80,8
Bảng 2.
Kếtqủa khảo sát một số khí độc trong môi trường chăn nuôi.
Khu vực chăn nuôi
Cảm nhận (mùi)
Hàm lượng trung bình đo được (mg/l)
Ruồi muỗi
CO2 (mg/l)
H2S (mg/l)
NH3 (mg/l)
Tiêu chuẩn cho phép
Không có mùi
0,25
0,015
0,02
Không có
XN gà Lương Mỹ – Hà Tây
Có mùi hôi
0,07- 0,12
0,0
0,023
Có ít
XN gà Liên Ninh- Hà Tây
Mùi hôi nhiều
0,13- 0,21
0,037
0,03
Không có
Cơ sở gà anh Hải
Có mùi hôi
0,10- 0,12
0,02-0,025
0,3
Có ít
Cơ sở gà ông Lê Duy Luận
Mùi hôi nhiều
0,17- 0,2
0,01- 0,02
2,0
Không có
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33872.doc