Luận văn Đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố Hà Nội thời kỳ 2001-2010

Với đặc điểm là trung tâm giao lưu hàng hoá, đầu mối xuất nhập khẩu trong nước và của miền Bắc, vai trò về xuất nhập khẩu hàng hoá của Hà Nội rất lớn. Để mở rộng thị trường ra nước ngoài, Hà Nội cần làm tốt việc tiếp thị, tìm hiểu nhu cầu về hàng hoá Việt Nam, về hàng hóa sản xuất ở Bắc Bộ, ở thị trường thế giới, ở các thị trường trong khu vực. Một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện mục đích đó là xây dựng “trung tâm thương mại quốc tế” ở Thủ đô nhằm thông tin tiếp thị, tư vấn, giao dịch và tạo ra các mối quan hệ, ký kết hợp đồng thương mại quốc tế. - Trước đây Hà Nội có thế mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị trường các nước Đông âu. Đây là thị trường truyền thống, có tiềm năng tiêu thụ lớn hàng hoá của Hà Nội và Bắc Bộ. Trong tương lai cần dần phục hồi xuất khẩu các thị trường này, nâng cao chất lượng và mẫu mã để có sức cạnh tranh lớn hơn. - Thị trường phía Nam Trung Quốc là thị trường rộng lớn, tiếp giáp với Miền Bắc, có tiềm năng tiêu thụ hàng hoá rất đa dạng, kể cả các loại hàng hoá có chất lượng không cao. Trong thời gian qua thị trường này mới chủ yếu tiêu thụ hàng lương thực thực phẩm và hàng nguyên liệu. Trong thời gian tới Hà Nội cần mở rộng xuất khẩu sang các loại mặt hàng thực phẩm chế biến và các loại hàng công nghệ phẩm mà Hà Nội có thế mạnh như cơ khí tiêu dùng, điện tử, - Thị trường các nước Đông Bắc á và Đông Nam á là các thị trường mới phát triển và tiêu thụ tỷ trọng hàng xuất khẩu của Hà Nội trong những năm gần đây, cần được tiếp tục đầu tư mở rộng những mặt hàng mà Hà Nội có thế mạnh như hàng may mặc, dagiày, thủ công mỹ nghệ, thực phẩm và thực phẩm chế biến, Với việc đẩy mạnh đầu tư mở rộng thị trường trong nứoc và ra nước ngoài, trong thời gian tới, đầu tư xây dựng thị trường Thủ đô thành trung tâm giao lưu kinh tế với trong nước và nước ngoài vào loại lớn nhất cả nước, với bộ mặt thị trường văn minh, hiện đại và hệ thống các loại hình thị trường tương đối đầy đủ, tạo nên sức hút đầu tư và thương mại đối với các vùng trong cả nước và với các nhà đầu tư nước ngoài.

doc99 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1426 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố Hà Nội thời kỳ 2001-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u quả của cơ cấu kinh tế thể hiện trước hết ở tốc độ tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, ở khả năng mở rộng quy mô tổng sản phẩm quốc nội và thu nhập quốc dân, cũng như sản phẩm quốc nội tính bình quân theo đầu người. Đó là một cơ cấu kinh tế cho phép sử dụng tối đa mọi nguồn lực của xã hội, tận dụng đến mức cao nhất lợi thế so sánh của thành phố nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đã được định trước, tăng cường tích luỹ mở rộng sản xuất. Ngoài ra hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn được thể hiện ở sự thay đổi trong cơ cấu lao động xã hội theo hướng tỷ lệ lao động làm việc trong ngành nông nghiệp giảm xuống và trong ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên một cách tương ứng, ở sự thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu mà thể hiện trước hết là trong xuất khẩu tỷ trọng sản phẩm chế biến không ngừng tăng lên và chiếm đại bộ phận kim ngạch xuất khẩu. 2.4. Quan điểm nền kinh tế mở và định hướng về xuất khẩu trong chuyển dịch cơ cấu đầu tư. Thực hiện chính sách mở cửa sẽ tạo ra điều kiện để Việt Nam nói chung và Hà nội nói riêng tranh thủ được vốn, kỹ thuật, công nghệ và trình độ quản lý của nước ngoài. Thời cơ đó hết sức thuận lợi, song để phát huy hiệu quả của nhân tố bên ngoài cần phải có chiến lược cơ cấu đầu tư linh hoạt sao cho có thể tạo lập được một chu trình hợp lý về đầu tư nước ngoài - xuất khẩu. Có như thế mới phát huy được nguồn vốn nước ngoài và lợi thé so sánh của Thủ đô. 2.5. Quan điểm tự thân vận động dựa vào sức mình là chính đồng thời ra sức tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài. Lý thuyết phát triển kinh tế đã khẳng định: phát triển kinh tế là một quá trình vận động theo thời gian và do các nhân tố nội tại của nền kinh tế tạo ra. Điều đó có ý nghĩa là những thành quả kinh tế đạt được, trước hết phải là kết quả của việc huy động các yếu tố, nguồn lực từ nội bộ nền kinh tế. Có như vậy quá trình phát triển kinh tế mới đạt được sự ổn định, bền vững và lâu dài. Đối với Việt Nam nói chung và Thủ đô nói riêng do xuất phát điểm thấp, nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển là rất lớn. Trong khi hết sức coi trọng và tranh thủ nguồn vốn từ bên ngoài, vẫn phải khẳng định nguồn vốn trong nước có tính lâu dài quyết định vì cáclý do sau: Thực tế đã chứng minh việc thu hút vốn từ bên ngoài là không dễ dàng. Nhiều nghiên cứu đã đi đến thống nhất, để tiêu hao được một đồng vốn bên ngoài, cần phải có từ một đến hai đồng vốn trong nước. Sử dụng vốn ODA dễ gây ra tình trạng sử dụng lãng phí đồng vốn, nguy cơ nợ quốc tế không có khả năng thanh toán rất lớn. Khả năng lệ thuộc vào nước ngoài tăng lên. 3. Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thủ đô giai đoạn 2003 - 2010. Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng trên, với tư cách là phương tiện hình thành cơ cấu kinh tế, quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư trong thời gian tới cần đạt được mục tiêu tổng quát sau: Từng bước hình thành cơ cấu kinh tế Thủ đô theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Đó là cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó các ngành gắn bó với nhau trong một cơ cấu kinh tế thống nhất thúc đẩy nhau phát triển trên cơ sở sủ dụng có hiệu quả các nguồn lực thủ đô nhằm đạt được mức tăng trưởng nhanh, ổn định và bền vững; tỷ trọng của ngành Công nghiệp trong GDP tăng lên, tỷ trọng của ngành Nông nghiệp giảm xuống mặc dù lượng tuyệt đối vẫn tăng lên nhanh chóng; mở rộng không ngừng tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế để tái đầu tư, tạo tiền để về vốn, khoa học công nghệ, kỹ thuật và nguồn nhân lực có chất lượng cao để phát triển tiếp theo vì mục tiêu xây dựng một thủ đô giàu mạnh, công bằng, văn minh và hiện đại. Thực hiện mục tiêu đó, phương hướng chuyển dịch cơ cấu đầu tư của thủ đô giai đoạn 2001-2010 là: Thứ nhất, một mặt phải có chính sách phù hợp để nâng cao tỷ lệ tiết kiệm và duy trì một tỷ lệ đầu tư cao, mặt khác quan trọng hơn là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Điều đó có ý nghĩa là phải duy trì hệ số ICOR ở mức độ tương đối thấp, tương đương với mức hiện nay càng lâu càng tốt. Thứ hai, cơ cấu đầu tư phải tạo điều kiện thúc đẩy việc thực hiện chiến lược tăng trưởng kinh tế hướng về xuất khẩu. Chỉ có hướng mạnh về xuất khẩu mới nhanh chóng tạo được nguồn vốn ngoại tệ và kỹ thuật công nghệ cao. Nước ta vốn xuất phát điểm thấp, thị trường nội địa nhỏ hẹp do sức cầu yếu, do đó chỉ có thể tăng trưởng lâu bền trên cơ sở mở rộng thị trường ra thế giới, tạo điềukiện mở rộng quy mô cho các ngành sử dụng lợi thế của Thủ đô. Mặt khác trong điều kiện hiện nay, xu hướng quốc tế hoá và khu vực hoá đời sống kinh tế đang tạo những khả năng thuận lợi để chúng ta hội nhập vào thị trường quốc tế. Vấn đề đặt ra là giải quyết mối quan hệ giữa hướng ngoại và hướng nội như thế nào để đảm bảo tăng trưởng nhanh và hiệu quả kinh tế cao, bền vững? Kinh nghiệm quốc tế cũng như các công trình nghiên cứu ở nước ta cho thấy thực hiện chiến lược xuất khẩu bao hàm trong đó nội dung thay thế nhập khẩu. Ngoài những sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới có thể tham gia xuất khẩu, những sản phẩm có thể tham gia thị trường thế giới cần phải có thời kỳ trưởng thành theo trình tự chu kỳ sản phẩm. Thời kỳ trưởng thành đó, không có gì khác là giai đoạn phát triển trong nước với mục tiêu trước mắt là thoả mãn nhu cầu nội địa thay thế hàng nhập khẩu. Trên ý nghĩa đó, có thể nói hai quá trình sản xuất hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu là xen kẽ nhau. Vấn đề là phải xem xét rút ngắn thời kỳ trưởng thành bằng các biện pháp kích thích cạnh tranh, thu hẹp một cách nhanh chóng phạm vi và mức độ bảo hộ hàng trong nước. Thực hiện quá trình xen kẽ như vậy đảm bảo sự tăng trưởng hướng về xuất khẩu, vưà khắc phục được tình trạng “hở sườn” do bỏ quên thị trường trong nước. Muốn vậy cần thiết phải nghiên cứu và đánh giá ưu thế và tiềm năng của từng loại sản phẩm trên cơ sở đó soạn thảo một chiến lược dài hạn về thứ tự ưu tiên xét về mặt thời gian cũng như mức độ đầu tư cho chúng. Thứ ba, trong điều kiện nguồn lực hạn chế, cơ cấu đt phải đảm bảo thực hiện chiến lược phát triển không cân đối, tập trung ưu tiên các ngành trọng điểm, hình thành và phát triển một số ngành mũi nhọn nhằm tạo ra các cực tăng trưởng lôi kéo toàn bộ nền kinh tế phát triển. Thứ tư, cơ cấu đầu tư phải kết hợp một cách hữu cơ giữa cơ cấu đầu tư theo ngành với cơ cấu đầu tư theo vùng và cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế, để vừa đảm bảo phát triển hài hoà giữa các vùng, đồng thời cho phép nâng cao tỷ lệ huy động vốn đầu tư một cách cao nhất, chuẩn bị cho tình huống hệ số ICOR tăng lên ở giai đoạn sau. Để thoả mãn được yêu cầu trên đây, phương hướng chuyển dịch cơ cấu đầu tư trong thời gian tới cần được thực hiện theo các nội dung sau đây: Chuyển dịch cơ cấu đầu tư phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhất thiết phải đi cùng với quá trình chuyển giao công nghệ và tiếp thu vốn nước ngoài. Quá trình này phải được chuẩn bị một cách chu đáo để đạt hiệu quả cao. Có hai con đường chuyển giao công nghệ chủ yếu là mua bằng phát minh sáng chế và tiếp nhận trực tiếp công nghệ từ nước ngoài. Con đường thứ hai cho phép tiết kiệm thời gian hơn và phù hợp với yêu cầu tăng trưởng nhanh, chống nguy cơ tụt hậu về mặt kinh tế. Con đường thứ nhất lại cho phép tận dụng đội ngũ khoa học trong nước vừa tiết kiệm được chi phí vưà là động lực thúc đẩy tiềm lực chất xám trong nước. Do vậy cách lựa chọn con đường chuyển giao công nghệ là tuỳ vào điều kiện cụ thể, cân nhắc giữa nhu cầu và khả năng về đội ngũ của chúng ta. Về trình độ công nghệ, cần nghiên cứu và lựa chọn những công nghệ phù hợp, đối với một số lĩnh vực, có tính chất mũi nhọn như điện tử, thông tin cần đi thẳng vào trình độ hiện đại, tạo ra lợi thế lâu dài cho các ngành công nghiệp xuất khẩu. Việc tranh thủ khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện đại phải được kết hợp với phục hồi và phát triển kinh nghiệm truyền thống của dân tộc, các công cụ cải tiến, tiến lên hiện đại và hiện đại hoá các kinh nghiệm truyền thống. Cần có chính sách đầu tư phù hợp để phát triển nông nghiệp, nông thôn, vừa hiệu quả và tốn ít vốn, vừa đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhân dân, giải quyết việc làm, thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông thôn và nông nghiệp. Chuyển dịch cơ chế đầu tư theo ngành có ý nghĩa rất lớn trong việc hình thành cơ cấu kinh tế, theo phương hướng này cần tăng cường đầu tư cho ngành công nghiệp và dịch vụ. Bố trí cơ cấu đầu tư cần đặc biệt chú ý đến việc khai thác đến mức cao nhất các lợi thế so sánh của Thủ đô như trình độ lao động cao, giao thông thuận tiện, thông tin liên lạc và hệ thống cung cấp điện khá tốt, tiềm năng phát triển du lịch lớn,… Nâng cao hiệu qủa vốn đầu tư, tập trung đầu tư chiều sâu đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh chưa sử dụng hết công suất của thiết bị, có thị trường tiềm tàng chưa khai thác được vì chất lượng và giá cả. Bố trí vốn đầu tư cần phải kết hợp với việc tiếp tục thực hiện sắp xếp lại các doanh nghiệp. Những cơ sở làm ăn kém hiệu qủa hoặc ít có vai trò đổi mới nền kinh tế thì phải thực hiện giải thể hoặc thay đổi hình thức sở hữu để tập trung vốn đầu tư chiều sâu đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Trong điều kiện nền kinh tế mở và tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình tự do hoá thương mại quốc tế và khu vực, cơ cấu đầu tư phải kết hợp được hai hướng sản xuất phục vụ xuất khẩu và sản xuất thay thế hàng nhập khẩu. Hướng kết hợp là đối với những sản phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước, mà trong nước sản xuất có hiệu quả thì cần đầu tư để nâng cao chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường, còn đối với những sản phẩm mà việc sản xuất kém hiệu quả thì cần nhập khẩu nhưng trên cơ sở tăng cường khối lượng sản phẩm xuất khẩu có lợi thế so sánh. Với phương hướng chuyển cơ cấu đầu tư tổng quát trên đây, trật tự ưu tiên về khối lượng vốn đầu tư trong thời gian tới được định hướng theo các nhóm ngành sau: Tập trung đầu tư cho một số ngành mũi nhọn như điện tử, tin học, nhất là phần mềm tin học; cơ - kim khí, nhất là cơ khí chế tạo; dệt – may – da - giầy; chế biến thực phẩm; vật liệu mới. Đầu tư phát triển mạnh các ngành dịch vụ như: tài chính, ngân hàng, vận tải, thương mại, bảo hiểm, thông tin - viễn thông, du lịch khách sạn, vì những ngành này vừa tạo tiền đề để mở rộng thị trường, mở rộng giao lưu kinh tế vừa là ngành có mức tăng trưởng cao. Đầu tư xác định và đưa vào hoạt động các trung tâm thương mại hiện đại, một số siêu thị lớn, hình thành một số khu phố buôn bán chuyên doanh và tổng hợp; đầu tư hoàn chỉnh hệ thống chợ; xác định các trung tâm thương mại của Hà Nội ở nước ngoài. Đầu tư nâng cao cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển mạnh các loại hình du lịch. Đầu tư phát triển các ngành có hệ số ICOR thấp, thu hút nhiều lao động, tạo nhiều công ăn việc làm và tăng trưởng khá nhanh. Đó là các ngành công nghiệp nhẹ như: dệt, da, may mặc, chế biến nông sản, chế tạo hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Đầu tư cỉa tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng như: điện, nước, hệ thống giao thông, thông tin bưu điện. Đầu tư cho nông nghiệp để đảm bảo phát triển nền nông nghiệp Thủ đô theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp sạch kết hợp với phát triển du lịch. 4. Huy động và định hướng bố trí vốn đầu tư xã hội. Tổng vốn đầu tư xã hội: Để đạt mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội như đã đề ra, với hệ số ICOR bình quân giai đoạn 2001 – 2010 là 4,1 thì tổng vốn đầu tư xã hội giai đoạn 2001 – 2010 khoảng 246.000 tỷ đồng, bình quân mỗi năm khoảng 24.600 tỷ đồng. Trong đó: Vốn đầu tư trong nước dự báo chiếm 67,44% tổng vốn đầu tư xã hội, vốn đầu tư nước ngoài dự kiến chiếm 32,56%, trong đó vốn FDI chiếm khoảng 28,33%, vốn ODA khoảng 4,23%. Bảng 26: Dự báo cơ cấu tổng vốn đầu tư xã hội giai đoạn 2001 – 2010. Giai đoạn 2001 - 2010 Tổng vốn đầu tư (Tr.đ) BQ một năm Cơ cấu (%) Tổng số 245710 24571 100 A. Vốn trong nước 165710 16571 67,44 1. Vốn đầu tư phát triển thuộc NSNN 47114 4711,4 19,17 * Trung ương trên địa bàn 16200 1620 6,59 * ĐP quản lý (XDCB tập trung+NQQH) 30914 3091,4 12,58 2. Vốn tín dụng đầu tư theo KH NN 9336 933,6 3,80 3. Vốn đầu tư của các DNNN 47340 4734 19,27 4. Vốn đầu tư của các DN ngoài NN 49140 4914 20,00 5. Vốn của dân và các nguồn khác 12780 1278 5,20 B. Vốn đầu tư nước ngoài 80000 8000 32,56 1. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 69600 6960 28,33 2. ODA 10400 1040 4,23 Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội. Trong tổng vốn đầu tư, vốn có tính chất ngân sách chỉ chiếm khoảng 19,17%, nếu tính cả vốn ODA chiếm khoảng 23,4%. Tuy phần vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ, song đây là nguồn rất quan trọng có tác động mạnh, trực tiếp đến việc tạo môi trường, điều kiện để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra sư đột phá. Trong nguồn vốn ngân sách, vốn đầu tư địa phương hàng năm phải huy động khoảng 4131 tỷ đồng, trong đó vốn trong nước khoảng 3091 tỷ, vốn ODA khoảng 1040 tỷ đồng. Phân bổ vốn đầu tư: Để đạt mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế như trên, vốn đầu tư xã hội cho các ngành và lĩnh vực như sau: Đầu tư cho công nghiệp: 100.570 tỷ đồng (bình quân mỗi năm 10.057 tỷ) chiếm tỷ trọng 40,93% tổng vốn đầu tư xã hội. Đầu tư cho nông nghiệp: khoảng 4.000 tỷ đồng (bình quân mỗi năm khoảng 400 tỷ) chiếm tỷ trọng 1,62% Đầu tư cho lĩnh vực dịch vụ khoảng 141.140 tỷ đồng (bình quân mỗi năm khoảng 14.114 tỷ) chiếm tỷ trọng 57,45%. Trong tổng đầu tư xã hội, vốn ngân sách Nhà nước được tập trung cho phát triển cơ sở hạ tầng, hỗ trợ một phần cho các doanh nghiệp Nhà nước mà Thành phố ưu tiên phát triển. Phần vốn chủ yếu để đầu tư phát triển sản xuất là vốn tự huy động. II- Các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư Để thực hiện mục tiêu, phương hướng chuyển dịch cơ cấu đầu tư cũng như phương án bố trí cơ cấu đầu tư đã được xác định trên đây cần thực hiện một hệ thống các biện pháp đồng bộ về kinh tế – kỹ thuật – xã hội – pháp lý sau: 1. Giải pháp nhằm khuyến khích phát triển các ngành kinh tế trọng điểm, mũi nhọn. Với định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Hà Nội như đã trình bày ở trên, một trong những vấn đề quan trọng của việc xác định các giải pháp cho việc thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là tìm ra các giải pháp tác động đến sự phát triển các ngành kinh tế trọng điểm, mũi nhọn: cơ kim khí, dệt da – may, điện - điện tử, chế biến lương thực thực phẩm. Nhóm ngành cơ kim khí cần đầu tư chiều sâu, khai thác tối đa năng lực sản xuất và công nghệ hiện có kết hợp với đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại hoá nhằm sản xuất các sản phẩm chất lượng đạt trình độ quốc tế đảm bảo thay thế hàng nhập khẩu và có tỷ lệ xuất khẩu cao. Nhóm ngành dệt – da – may cần hình thành các khu chăn nuôi công nghiệp nhằm cung cấp nguồn nhuyên liệu cho ngành công nghiệp da, tập trung đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ, đẩy mạnh các ngành công nghiệp phụ trợ và nhanh chóng hình thành các nhà máy sản xuất phụ liệu cho ngành để thay thế dần hàng nhập khẩu. Cổ phần hoá để thu hút mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển. Nhóm ngành chế biến lương thực – thực phẩm nên mở rộng liên kết với các vùng để tạo nguồn nguyên liệu tập trung có chất lượng cao. Cải tiến dây chuyền công nghệ chế biến gạo, rau quả để khai thác các tiềm năng sản xuất và tiêu thụ của Thủ đô. Mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, đặc biệt là gạo và thực phẩm chế biến. Nhóm ngành điện - điện tử cần cải tiến cơ cấu vốn đầu tư, có chính sách sử dụng con người và bồi dưỡng đào tạo để khai thác cao nhất các tài năng trí tuệ, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, có các chính sách bảo hộ nhằm tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất trong nước phát triển, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn và quy chế quản lý chất lượng nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm nội địa. Cụ thể hoá các giải pháp trên, xin đưa ra một số giải pháp: - Nâng cao chất lượng hàng hoá của tất cả các ngành: là một trong những yếu tố quan trọng cho phép tăng lượng hàng hoá xuất khẩu cũng như tăng giá trị hàng hoá nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao. Các cơ sở sản xuất cần phấn đấu để sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá đạt tới tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Để làm được điều này cần tập trung đầu tư chiều sâu vào những khâu trọng yếu quyết định tính cạnh tranh của sản phẩm. - Giải pháp về công nghệ: + Xây dựng chính sách công nghệ, hướng công nghiệp Hà Nội đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ mới. Tận dụng khai thác triệt để lợi thế “chất xám” trong nguồn nhân lực của Thủ đô. + Tập trung đổi mới công nghệ, khắc phục các yếu kém, tồn tại về trình độ công nghệ sản xuất hiện nay trong các ngành cơ khí, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, công nghiệp chế biến nông sản, công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp và y dược, công nghiệp điện tử và tin học, công nghệ phục vụ giao thông vận tải, xây dựng cơ sở hạ tầng và quản lý đô thị. + Phương châm của đổi mới công nghệ là nghiên cứu cải tiến các công nghệ hiện có, tăng cường chuyển giao công nghệ trong nước, coi trọng việc nhập công nghệ tiên tiến, hiện đại một cách có chọn lọc, hợp lý của nước ngoài, hiện đại hoá các ngành công nghiệp truyền thống gắn chặt đổi mới công nghệ, nhập công nghệ, phát triển công nghệ và bảo vệ môi trường. + Mục tiêu của đổi mới công nghệ là nhằm tạo bước ngoặt về năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh với hàng nước ngoài trên thị trường trong nước, tăng khả năng xuất khẩu. + Mạnh dạn tìm kiếm và thiết kế “khe đột phá” trong một số lĩnh vực công nghệ mới, công nghệ cao mà Thủ đô có lợi thế, tạo điều kiện tiến tới hoà nhập bình đẳng về công nghệ đối với khu vực. Phấn đấu đến năm 2010 hình thành được một vài ngành công nghiệp mũi nhọn dựa trên công nghệ cao (công nghệ điện tử, tin học) góp phần chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng hiện đại hoá. - Phát triển tối ưu các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao với mục tiêu: thu hút tối đa các công ty đầu tư lấp đầy các khu chế xuất và khu công nghiệp, thu hút tối đa vốn, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý, tiên tiến của các công ty đa quốc gia. + Công bố quy hoạch phát triển công nghiệp để thu hút các nguồn đầu tư trong và ngoài nước. Công bố cả ranh giới các khu công nghiệp dự kiến xây dựng để quản lý chặt chẽ đất đai, tránh gây thiệt hại lãng phí sau này. + Xác định rõ ràng các mục tiêu hoạt động và định hướng rõ cơ cấu ngành nghề và sản phẩm khu chế xuất, khu công nghiệp. + Lựa chọn các đối tác mạnh về tài chính để liên doanh xây dựng cơ sở hạ tầng và đầu tư vào các khu chế xuất, khu công nghiệp. + Cơ sở hạ tầng của khu chế xuất, khu công nghiệp phải được xây dựng đồng bộ và đi trước một bước. Chỉ có như vậy mới có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. + Giải pháp về thuế quan: Về thực chất nhằm vào hai mục tiêu:khuyến khích tăng trưởng xuất khẩu ở một số ngành, đồng thời góp phần bảo hộ thị trường nội địa. + Miễn giảm thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu. + Đánh thuế có phân biệt đối với từng loại ngành doanh nghiệp. Có sự ưu đãi về thuế đối với: các ngành và doanh nghiệp đang sản xuất những sản phẩm xuất khẩu, các doanh nghiệp mới thành lập, các ngành và doanh nghiệp đang sử các sản phẩm tận dụng có hiệu quả các nguồn lực sẵn có. - Các giải pháp về tài chính: Đây có thể là công cụ hữu hiệu để tạo ra sự chuyển biến nhanh về cơ cấu, tạo nên những đột phá và xung lực phát triển mạnh. + Ưu đãi về tín dụng: hình thức chủ yếu là ưu đãi về khối lượng và thời hạn tín dụng để tạo ra một sự kích thích phát triển. Trong một số trưòng hợp ngoại lệ có thể ưu tiên cung cấp tín dụng với lãi xuất thấp hơn bình thường đối với các cơ sở dám bỏ vốn đầu tư vào các lĩnh vực ít hấp dẫn, lâu thu hồi vốn nhưng lại cần thiết cho nền kinh tế. + Tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận đến các nguồn vay nước ngoài. + Xây dựng một chính sách tỉ giá hối đoái phù hợp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu và các sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu. - Các giải pháp khác: + Thành lập quỹ khuyến mại để khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh, trong đó có hàng xuất khẩu. + Thành lập qũy bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. + Tăng cường thông tin thương mại nhanh chóng, kịp thời và thông suốt. + Khuyến khích đầu tư nước ngoài để phát triển thương mại. 2. Giải pháp về quy hoạch Để nâng cao tính cạnh tranh của chiến lược, quy hoạch cơ cấu kinh tế, điều quyết định là phải nâng cao chất lượng của chiến lược và quy hoạch phát triển theo hướng: - Đi đôi với xây dựng chiến lược dài hạn (5năm, 10 năm) - Gắn chiến lược phát triển với chiến lược sản phẩm và chiến lược thị trường của các doanh nghiệp. - Các quy hoạch phải xây dựng trên cơ sở: + Coi trọng công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường và dự đoán sự thay đổi của thị trường. + Dự báo tiến bộ của khoa học công nghệ của ngành và tác động của nó tới phát triển các bộ phận của cơ cấu kinh tế. + Đánh giá đầy đủ: nguồn lực, cơ hội, thách thức và khả năng cạnh tranh. + Tổ chức việc phối hợp giữa các cơ quan của Thành phố trong xây dựng và thực hiện quy hoạch. - Phải gắn quy hoạch với chính sách và các giải pháp thực hiện 3. Giải pháp về nguồn nhân lực Con người có vai trò quyết định trong quá trình phát triển kinh tế. Một mặt con người là tiềm lực sản xuất chính của xã hội, mặt khác là người được hưởng những lợi ích và thành quả của phát triển kinh tế. Trên ý nghĩa đó nó là động lực của quá trình phát triển của một đất nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định một trong những mục tiêu của chương trình phát triển giáo dục - đào tạo là: “đào tạo bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu CNH – HĐH…, đảm bảo nguồn lao động có chất lượng cho các lĩnh vực ứng dụng công nghệ tiên tiến. Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ vững mạnh, đủ sức giải quyết những vấn đề được đặt ra trong chương trình phát triển khoa học và công nghệ”. Quán triệt tư tưởng trên, để thực hiện tốt quá trình CNH - HĐH kinh tế Thủ đô nói chung và quá trình chuyển dịch cơ cấu nói riêng, Hà Nội cần có chính sách phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. - Chính sách giải quyết việc làm và phân bố lao động: đây là một chính sách mang tính chất chiến lược. Chính sách này cần được đặt trong mối quan hệ thống nhất với các chính sách sau: + Phát triển các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, các dự án thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tạo việc làm có giá trị kinh tế cao và giá trị lao động cũng cao. + Phát triển các lĩnh vực ngành nghề có khả năng thu hút được nhiều lao động như công nghiệp điện - điện tử, công nghiệp chế biến, dệt may,… đối với khu vực phi chính thức, chú ý tới các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh và dịch vụ. + Phát triển hình thức gia công sản xuất hàng hoá tiêu dùng cho xuất khẩu theo hướng đa dạng hoá mặt hàng, trước hết là các mặt hàng có công nghệ sử dụng nhiều lao động như may mặc, gốm sứ, lắp ráp điện tử,… + Phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, sử dụng nhiều lao động nhưng cần ít vốn, khôi phục các làng nghề truyền thống có giá trị kinh tế cao ở khu vực nông thôn ngoại thành nhằm giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động ở khu vực nông thôn. - Chính sách đào tạo: để có khả năng đứng vững trong sự cạnh tranh của thị trường, tạo được những sản phẩm có chất lượng và có khả năng xuất khẩu đòi hỏi có một trình độ công nghệ sản xuất cao, đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề và những cán bộ quản lý giỏi. Chính sách đào tạo và tái đào tạo lao động và cán bộ cần được thực hiện theo hướng sau: + Đào tạo và đào tạo mới các đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu ở các cơ quan tổng hợp, các nhà doanh nghiệp, lao động kỹ thuật kết hợp với huy động lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật đông đảo của trung ương trên địa bàn tham gia xây dựng Thủ đô đáp ứng yêu cầu đổi mới. + Khuyến khích và có những hình thức thích hợp tranh thủ chất xám, trình độ khoa học, kỹ thuật cao của các viện nghiên cứu, các trung tâm khoa học, các trường đại học… trên địa bàn Hà Nội trong việc giúp đào tạo, tái đào tạo, nâng cao chất lượng lao động Thủ đô, cũng như giúp cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của các địa phương khác. + Mở rộng sự hợp tác quốc tế trong việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ, công nhân kỹ thuật với nhiều hình thức phong phú để nhanh chóng nâng cao trình độ, tay nghề của lao động ở Thủ đô. + Tập trung hơn nữa việc đào tạo lại cho số cán bộ, công nhân kỹ thuật bằng nhiều hình thức linh hoạt để họ nhanh chóng nắm bắt những kiến thức mới, đáp ứng kịp thời yêu cầu mới mà nền kinh tế thị trường đặt ra. 4. Các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, huy động vốn cho đầu tư phát triển. Để tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi, trong thời gian tới cần chú trọng trước hết vào các biện pháp kinh tế vĩ mô nhằm bảo đảm sự ổn định chính trị, kinh tế và xã hội. Xây dựng đồng bộ, nhất quán các pháp chế kinh tế, bảo đảm trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế, thực hiện cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa mọi thành phần kinh tế, tạo lập môi trường tài chính tiền tệ lành mạnh, khống chế lạm phát; xây dựng nền hành chính Nhà nước chuyển từ “quản lý” các hoạt động đầu tư sang “giúp đỡ”, “hỗ trợ” các hoạt động đầu tư. Thực hiện cải cách các thủ tục hành chính nhằm tạo mọi điều kiện thuậ lợi nhất cho nhà đầu tư thực hiện các hoạt động đầu tư trên địa bàn Hà Nội. Thực hiện đối xử bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, nhất là trên các phương diện tiếp cận tín dụng, đất đai để thực hiện các hoạt động đầu tư, tiếp cận thông tin và thị trường (cả thị trường trong nước và hoạt động xuất nhập khẩu)… Tiếp tục hoàn chỉnh các quy hoạch tổng thể, quy hoạch phát triển ngành; hoàn thành các quy hoạch chi tiết trên địa bàn Thủ đô và công bố công khai các quy hoạch để mọi người dân đều biết và thực hiện theo quy hoạch. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng ưu tiên phục vụ tốt cho các hoạt động đầu tư, hỗ trợ xây dựng hạ tầng các khu công nghiệp. Thành lập tổ chức hỗ trợ đầu tư trực thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố với các nhiệm vụ: cung cấp các thông tin cần thiết, hướng dẫn làm các thủ tục, thực hiện tư vấn cho nhà đầu tư. Mở rộng thị trường chứng khoán, tạo điều kiện cho mọi người, mọi doanh nghiệp đều có thể tham gia đầu tư trực tiếp thông qua mua cổ phiếu và trái phiếu. Thí điểm thành lập 1 –2 công ty đầu tư của Thành phố để tham gia đầu tư vào các doanh nghiệp nhằm giúp các doanh nghiệp có khó khăn về vốn trong đầu tư phát triển sản xuất. Cùng với những giải pháp chung trên đây, mỗi loại hình, mỗi khu vực đầu tư lại có những nét đặc thù riêng cần có những giải pháp riêng như nhóm giải pháp cho khu vực đầu tư trong nước; nhóm giải pháp cho khu vực đầu tư nước ngoài,… 4.1. Khu vực đầu tư trong nước 4.1.1. Đầu tư của ngân sách Nhà nước Đầu tư hàng năm của ngân sách Nhà nước thường chỉ chiếm 13-16% trong tổng đầu tư xã hội của Thành phố. Tuy nhiên đây là nguồn đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong tạo các cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội ở Thủ đô. Chính sự đầu tư này đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho thu hút các nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế khác. Trong thời gian tới, đầu tư ngân sách của Thành phố ngoài việc tập trung cho xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội ở Thủ đô cũng cần dành một phần thoả đáng để hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành, lĩnh vực mà Thành phố khuyến khích phát triển thông qua hỗ trợ vốn xây dựng dự án, hỗ trợ xây dựng hạ tầng ngoài hàng rào, hỗ trợ lãi suất tiền vay,… Để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án sử dụng vốn ngân sách cần tăng cường các biện pháp : Nâng cao chất lượng công tác xây dựng và thẩm định các dự án đầu tư. Thực hiện nhanh việc phê duyệt các thủ tục đầu tư. - Ban hành và thực hiện nhất quán chính sách đền bù giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng của Thành phố. - Tăng cường việc kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các dự án đầu tư đã được ghi kế hoạch vốn hàng năm. Thực hiện nghiêm chỉnh kỷ luật trong thực hiện các kế hoạch Nhà nước trong đầu tư xây dựng của Thành phố nhàm khắc phục tình trạng công trình không thực hiện hết vốn phải điều chỉnh nhiều lần và kéo dài thời gian thực hiện dự án làm giảm hiệu quả của vốn đầu tư. 4.1.2. Đối với khu vực doanh nghiệp - Thực hiện việc khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng phần lợi nhuận của mình để tái đầu tư như: hoàn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần vốn tái đầu tư lấy từ lợi nhuận, hỗ trợ lãi suất đối với các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, đầu tư vào các lĩnh vực mới mà Thành phố khuyến khích phát triển. - Tập trung giải quyết các vấn đề nợ tồn đọng giữa các doanh nghiệp để tạo điều kiện về vốn cho các doanh nghiệp mở rộng đầu tư. - Đẩy mạnh hoạt động của các trung tâm xúc tiến thương mại, tạo điều kiện tiếp cận thông tin thị trường cho các doanh nghiệp (kể cả việc hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp tham gia các hội trợ trong và ngoài nước để giới thiệu sản phẩm). - Cải tiến các thủ tục cho vay, cấp ưu đãi đầu tư, cấp phép đầu tư theo hướng tạo điều kiện và giúp đỡ các doanh nghiệp. - Cho phép các doanh nghiệp có đủ điều kiện được phát hành cổ phiếu doanh nghiệp bán cho mọi người có nhu cầu tham gia đầu tư trực tiếp. 4.1.3. Đối với đầu tư của khu dân cư Đầu tư của dân cư Thủ đô là một tiềm năng lớn cần được huy động cho phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian tới. Những biện pháp tăng cường thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư phát triển của Hà Nội là: - Tạo điều kiện để dân cư tự đầu tư như: cung cấp rộng rãi và đầy đủ thông tin định hướng để người dân lựa chọn hình thức và nơi đầu tư phù hợp với điều kiện của họ; tạo môi trường kinh doanh an toàn và lành mạnh để giúp người dân an tâm đầu tư vào sản xuất kinh doanh: làm tốt công tác quản lý thị trường, quản lý chất lượng, mẫu mã và nhãn hiệu sản phẩm để ổn định môi trường kinh doanh lành mạnh. - Thực hiện cơ chế huy động đóng góp đầu tư tuỳ theo khả năng, điều kiện và nhu cầu các tầng lớp dân cư khác nhau. Tạo điều kiện thuận lợi cho những người có nhu cầu tự đầu tư xây nhà được đầu tư để xây dựng nhà của mình, đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng trong nội bộ các khu dân cư. Mở rộng cơ chế huy động đóng góp đầu tư của dân chúng cho sự phát triển các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hoá, vệ sinh môi trường. - Đẩy mạnh các hoạt động thu hút vốn trong dân vào đầu tư phát triển các công trình dô thị tập trung thông qua phát hành trái phiếu công trình. - Đổi mới hoạt động của hệ thống tín dụng trên cả hai phương diện thu hút tiền gửi và mở rộng cho vay đầu tư. - Đẩy nhanh tiến trình thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước cũng tạo môi trường thuận lợi và là một biện pháp quan trọng để thu hút vốn đầu tư dài hạn trong dân cư thông qua bán cổ phiếu của các doanh nghiệp cho dân chúng. 4.2. Khu vực đầu tư nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Trong những năm qua đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nguồn lực bên ngoài rất quan trọng cho phát triển kinh tế của Thủ đô (năm 2001 đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp gần 13% GDP, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1997-2001 đạt trên 22%/năm; gía trị sản xuất công nghiệp chiếm tới 32%). Trong những năm tới, đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn giữ một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế ở Hà Nội, nó không những bổ sung nguồn vốn quan trọng mà còn cung cấp và là nhân tố thúc đẩy đổi mới thiết bị, Công nghệ thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế Thủ đô, góp phần nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, từ đó nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh. Những giải pháp nhằm cải thiện môi trườngg đầu tư, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư FDI của Hà Nội trong thời gian tới là: - Thực hiện nghiêm chỉnh luật đầu tư nước ngoài sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua trên địa bàn Thủ đô nhằm tạo những thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, thực hiện việc giải quyết các thủ tục cấp phép đầu tư nước ngoài ở Hà Nội theo nguyên tắc một cửa, nhanh gọn và thuận lợi. Thực sự coi các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân và đối xử với các doanh nghiệp này cũng bình đẳng như các doanh nghiệp trong nước. - Tiếp tục cân đối vốn để xây dựng hoàn chỉnh các công trình hạ tầng kỹ thuật (hệ thống cung cấp điện; hệ thống cấp thoát nước; hệ thống thông tin liên lạc, đường giao thông,…) đến chân hàng rào các khu công nghiệp, các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài. - Xây dựng chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên cơ sở chuẩn bị thật tốt danh mục các lĩnh vực, các dự án đầu tư nước ngoài thành phố ưu tiên và có chính sách cụ thể, hấp dẫn. - Đảm bảo mọi diện tích đất khi giao cho các dự án đầu tư nước ngoài thuê đều đã hoàn thành việc giải phóng mặt bằng. - Có chính sách ưu đãi hơn đối với các dự án đầu tư vào các khu công nghiệp tập trung như: giảm giá thuê đất, giảm giá kinh doanh cơ sở hạ tầng trong các khu công nghiệp, đa dạng các hình thức thanh toán tiền thuê đất và cơ sở hạ tầng nhằm tạo những thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư. - Đề nghị Nhà nước cho phép mở rộng các lĩnh vực và hình thức thu hút đầu tư nước ngoài, cho phép áp dụng hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài đối với các lĩnh vực trước đây không cho phép xây dựng như: xây dựng và kinh doanh bất động sản (khách sạn, thương mại, văn phòng, căn hộ); vui chơi giải trí…Mở rộng việc khuyến khích triển khai các dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT. - Tạo điều kiện thuận lợi cho phép các dự án tồn đọng lâu, khả năng thực hiện thấp được chuyển nhượng cho các nhà đầu tư khác, chuyển đổi hình thức đầu tư và thậm chí có thể cho chuyển đổi mục tiêu hoạt động của dự án cho phù hợp với những biến động của thị trường. - Tập trung đào tạo nguồn nhân lực bảo đamr cung cấp nhu cầu tuyển dụng của các nhà đầu tư nước ngoài. Đối với thu hút vốn ODA Trong những năm qua, vốn ODA đã góp phần quan trọng trong phát triển các cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội của Hà Nội. Các lĩnh vực thu hút nhiều vốn ODA là: cấp nước, thoát nước, xây dựng hạ tầng đô thị mới, tiếp đến là vệ sinh môi trường, y tế, giáo dục - đào tạo. Trong thời gian tới nguồn vốn viện trợ ODA vẫn có ý nghĩa quan trọng mà chúng ta cần tích cực thu hút để đầu tư phát triển các cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội của Thủ đô. Những biện pháp cần thiết triển khai để cải thiện môi trường, tăng thu hút vốn ODA của Hà Nội là: - Ban hành quy chế quản lý, điều phối và sử dụng thống nhất nguồn vốn ODA. Xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan Nhà nước trong việc thu hút và sử dụng vốn ODA vừa hiệu quả, vừa phù hợp thông lệ quốc tế. - Hoàn thành nhanh chóng các quy hoạch chi tiết trên địa bàn Thủ đô. Tăng cường công tác kế hoạch hoá các chương trình, dự án ODA để chủ động cân đối nguồn vốn ở trong nước từ khâu chuẩn bị đầu tư cho tới quá trình thực hiện chương trình, dự án. Củng cố hệ thống tổ chức và bố trí các cán bộ đủ năng lực làm các công việc quản lý, điều phối và sử dụng vốn ODA, thực hiện nguyên tắc một cửa và đổi mới cách tiếp cận các dự án ODA theo ngành và theo chương trình tổng thể để tránh trùng lắp và sử dụng lãng phí nguồn vốn này. - Nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị, xây dựng các chương trình, dự án đầu tư cần kêu gọi vốn ODA để chủ động kêu gọi các nguồn vốn. - Hoàn thiện chính sách giải phóng mặt bằng, đảm bảo giải phóng mặt bằng tiến độ thực hiện các dự án đầu tư, tạo điều kiện giải ngân nhanh các nguồn vốn ODA để lấy lại cảm tình và lòng tin của các nhà tài trợ. Ban hành các chính sách khuyến khích và sử dụng lực lượng trực tiếp của Nhà nước nhằm hướng dẫn mọi thành phần kinh tế chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo đúng định hướng đã đề ra. - Có chính sách miễn, giảm thuế đối với các hoạt động đầu tư tạo sản phẩm mới, sản phẩm xuất khẩu, đầu tư vào Công nghệ cao, đầu tư vào các ngành mà Thành phố ưu tiên phát triển nhằm cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng đã xác định. - Tạo mọi điều kiện thuận lợi về cung cấp các loại dịch vụ, điều kiện về cơ sở hạ tầng cho phát triển những vùng, những ngành mà Thành phố khuyến khích. - Thành phố tập trung đầu tư trực tiếp hoặc hỗ trợ đầu tư cho các ngành, các lĩnh vực có tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thủ đô theo hướng đã định như Công nghệ thông tin, khoa học Công nghệ, đào tạo nghề,… Tăng cường vai trò của Chính quyền Thành phố trong lĩnh vực đầu tư công cộng; sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân sách. Đầu tư công cộng thường được thể hiện dưới dạng các chương trình đầu tư công cộng nhằm đảm bảo các hàng hoá và dịch vụ công cộng cho toàn xã hội, tạo nên nền tảng ban đầu cho các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh, cũng như hệ thống tổ chức, giáo dục y tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật,… có điều kiện phát triển thuận lợi. Trong điều kiện kinh tế thị trường, một trong những chức năng của Chính quyền các cấp đã được khẳng định là đảm bảo cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng. ở nước ta trong những năm tới các chương trình đầu tư công cộng cần được mở rộng, hơn nữa là với tốc độ nhanh. Trong đó các mục tiêu đầu tư ưu tiên của Thành phố cần tập trung ưu tiên vào kết cấu hạ tầng và dịch vụ công cộng. Do yêu cầu cấp bách của việc cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng, nhu cầu đầu tư của Thành phố cho mục tiêu này hết sức căng thẳng. Để giải quyết được nhiệm vụ này, Thành phố phải xử lý ba vấn đề chủ yếu sau: - Tiết kiệm chi tiêu thường xuyên để nâng cao tỷ lệ ngân sách cho các chương trình đầu tư - Cân nhắc, lựa chọn các mục tiêu đầu tư công cộng để đạt được hiệu quả kinh tế xã hội lớn nhất. - Thực hiện lồng ghép các dự án theo các nguồn vốn và các chủ đầu tư. Tiếp tục đổi mới kế hoạch hoá Công tác kế hoạch hoá trong thời gian tới phải tiếp tục đổi mới theo hướng nâng cao chất lượng xây dựng chiến lược và quy hoạch các ngành, các lĩnh vực của kinh tế Thủ đô. Cần khẩn trương nghiên cứu, xác định vị trí của các ngành, các lĩnh vực trong một chiến lược cơ cấu kinh tế dài hạn để phân bổ vốn đầu tư một cách có hiệu quả. Cần đánh giá tiềm năng lợi thế của các ngành, các lĩnh vực để chủ động trong việc phối hợp cơ cấu kinh tế với các tỉnh trong cả nước, các nước trong khu vực mà trước hết là trong khối ASEAN. Mở rộng và hoàn thiện các phương pháp kế hoạch hoá theo chương trình và dự án để tập trung nguồn lực còn hạn hẹp vào mục tiêu cần ưu tiên của kế hoạch Nhà nước. Khuyến khích đầu tư FDI một cách có lựa chọn và nâng cao hiệu quả sử dụng chúng. Để thu hút vốn FDI đầu tư theo hướng chuyển dịch cơ cấu đầu tư, trước hết cần tiến hành đánh giá tình hình thực hiện vốn đầu tư của các dự án trên giác độ phù hợp với quy hoạch phát triển của các ngành, các lĩnh vực ưu tiên để từ đó xác định yêu cầu của việc phân phối lại vốn và dự án. Bước tiếp theo là tiến hành nghiên cứu và xây dựng danh mục các dự án trọng điểm theo hướng chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo thứ tự ưu tiên. Cùng với việc tiếp tục hoàn thiện môi trường đầu tư cần đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư bằng nhiều hình thức. Mục tiêu mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm nhiều nhất là lợi nhuận, còn về phía Việt Nam, một trong những khai thác quan trọng từ FDI là nhằm cấu trúc lại nền kinh tế Thủ đô. Hai mục tiêu đó thường có xu hướng xa rời nhau và tất nhiên vấn đề quan trọng là phải có biện pháp để kéo gần lại. Thực tế đã chỉ rõ, chính sách về ưu đãi thuế là một công cụ hiệu quả để điều chỉnh mối quan hệ giữa hai mục tiêu cuả hai phía. Các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm đến chính sách ưu đãi về thuế, vì đó là ưu đãi cụ thể, chi tiết và hữu hình nhất, ổn định lâu dài được pháp luật đảm bảo. Theo hướng này không nên xác định sự tiếp nhận vốn đầu tư phụ thuộc vào khu vực địa lý hay ngành nghề mà cần phân biệt các mức độ ưu đãi khác nhau được khuyến khích đầu tư. - Cần đặc biệt chú trọng đầu tư trong nước Trong điều kiện thiếu vốn gay gắt, việc khuyến khích đầu tư nước ngoài là hết sức quan trọng. Song dù nguồn vốn nước ngoài lớn thì vốn trong nước vẫn chiếm vị trí quyết định, có tính bền vững, lâu dài. Do đó, đầu tư trong nước phải thật sự được coi trọng. Vấn đề đặt ra hiện nay là giải quyết mối quan hệ giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài như thế nào cho hợp lý. Việc đẩy mạnh đầu tư trong nước hoàn toàn không mâu thuẫn với chiến lược tăng trưởng hướng về xuất khẩu, mặc dù Công nghệ của ta còn ở trình độ thấp. Xét trên phương diện một số sản phẩm nào đó, sản xuất trong nước có thê chia làm 3 mức độ: Hoàn toàn chưa sản xuất được trong khi thị trường trong nước và xuất khẩu đang đòi hỏi lớn. Đối với những sản phẩm đó, việc khuyến khích đầu tư nước ngoài là hết sức cần thiết cả về phương diện vốn đầu tư cả phương diện kỹ thuật – Công nghệ. Đã sản xuất được song chưa vươn lên trình độ khu vực và thế giới. Đối với những sản phẩm đó, cần thiết kêu gọi đầu tư nước ngoài ở một mức độ nhất định, vừa khai thác lợi thế so sánh phục vụ xuất khẩu, vừa tạo môi trường cạnh tranh cần thiết cho sản xuất trong nước vươn lên trình độ quốctế. Đã sản xuất được với trình độ khá cao, có thể cạnh tranh với sản phẩm nước ngoài. Với sản phẩm đó, cần hạn chế đầu tư nước ngoài đến mức mà dành phần ưu tiên khyến khích đầu tư trong nước. Để khuyến khích đầu tư trong nước, Thành phố cần phải tạo ra môi trường thuận lợi, có chính sách ưu đãi đối với các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, không khác gì so với cơ chế ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài. Để các doanh nghiệp trong nước có mức lợi nhuận thoả đáng, Nhà nước cần hỗ trợ trên các mặt chủ yếu sau: - Thực hiện quy chế ưu đãi có thứ tự ưu tiên theo định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã được định hướng. - Hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp một cách bình đẳng giữa các thành phần kinh tế bằng các chính sách kinh tế như: tín dụng, mặt bằng sản xuất, khoa học – Công nghệ, đào tạo nhân lực,… Phát triển nguồn nhân lực Phát triển nguồn nhân lực trong thời gian tới cần chú ý cả về số lượng và chất lượng. Cần nâng cao thể lực toàn diện nguồn nhân lực trên cơ sở đảm bảo về dinh dưỡng, về dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ. Nâng cao trình độ học vấn của nguồn nhân lực bằng các biện pháp như: cải thiện điều kiện giáo dục đối với lứa tuổi đến trường, tăng cường công tác giáo dục thường xuyên (bao gồm cả xoá nạn mù chữ), mở rộng các hình thức đào tạo nghề và nâng cao kỹ năng trình độ nghề nghiệp của nguồn nhân lực, đào tạo cán bộ chuyên môn khoa học kỹ thuật. Mở rộng quy mô đào tạo các chủ doanh nghiệp, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn đối với đội ngũ công chức Nhà nước phát triển nguồn nhân lực cần chú trọng đến cơ cấu, đặc biệt là cơ cấu ngành nghề, để chuẩn bị, đón đầu cho từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cùng với việc phát triển nguồn nhân lực trong nước, cần ra sức tranh thủ lực lượng các nhà khoa học người Việt sống ở nước ngoài (khoảng 400.000 người), giúp họ có cơ hội gây dựng sự nghiệp lớn cho bản thân và cho quê hương bản quán. Trước mắt cần xúc tiến nhanh việc thành lập các tổ tư vấn về khoa học Công nghệ phục vụ việc chuyển giao Công nghệ vào thành phố đạt kết quả cao. 5. Các giải pháp về sử dụng vốn đầu tư. Đây cũng là một giải pháp quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Giải pháp này dựa trên việc phát huy độ “mở” của cơ cấu kinh tế. Chỉ trên cơ sở mở rộng được thị trường mới có thể thực hiện được các định hướng và các mục tiêu kinh tế xã hội đồng thời cũng góp phần thúc đẩy việc hình thành các ngành “cực tăng trưởng” cho Thủ đô. Trong giai đoạn 2001-2010 để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, Hà Nội cần triệt để khai thác thị trường các khu vực, thúc đẩy mối quan hệ bạn hàng vốn sẵn có, nâng cao năng lực sản xuất phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. 5.1. Đối với thị trường trong nước Việc mở rộng thị trường Hà Nội phải trên cơ sở phân tích lợi thế so sánh của thị trường Hà Nội với thị trường các vùng trong nước và trên quan điểm liên kết hợp tác và hỗ trợ để cùng nhau phát triển. Với đặc điểm về vị trí địa lý tự nhiên, về giao thông vận tải và tiềm năng kinh tế, thị trường Hà Nội cần mở rộng và liên kết với thị trường Hải Phòng và Quảng Ninh để hình thành một trục phát triển nòng cốt về kinh tế – thương mại, có vai trò động lực và dẫn dắt thị trường khu vực Bắc Bộ và cả nước phát triển. Việc liên kết này là toàn diện, nhưng cần đặc biệt quan tâm trong việc liên kết các hoạt động xuất nhập khẩu. Với lợi thế so sánh của thị trường Hà Nội, cần mở rộng mối liên kết và hỗ trợ với thị trường các tỉnh thuộc khu vực Bắc Bộ, trong đó thị trường Hà Nội giữ vai trò là thị trường trung tâm, thị trường buôn bán phát luồng ở khu vực phía Bắc nước ta. Nhìn chung, trong việc mở rộng thị trường, Hà Nội cần chú ý mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá sản xuất của Hà Nội và thu mua nguyên vật liệu, hàng hoá của các địa phương khác sản xuất, phục vụ cho sản xuất, đời sống và xuất khẩu của Hà Nội. Trong việc tiêu thụ hàng hoá sản xuất của Hà Nội, phải làm tốt việc tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu và tổ chức tốt các kênh lưu thông để cung cấp hàng hoá thuận tiện cho người tiêu dùng và cần chú ý thị trường khu vực Bắc Bộ mà Hà Nội có thế mạnh. Trong việc thu mua nguyên vật liệu và hàng hoá của các địa phương sản xuất cần phát huy thế mạnh của Hà Nội là đầu mối giao lưu hàng hoá và đầu mối phát luồng lớn nhất ở phía Bắc, cho nên không chỉ là việc thu mua đơn thuần mà quan trọng là việc liên kết và tổ chức khơi nguồn hàng, giúp đỡ tạo ra vùng sản xuất nguyên liệu và hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu tiêu thụ của thị trường Hà Nội, thị trường xuất khẩu và các thị thị trường khác trong nước. Hình thức liên kết giữa Hà Nội và các địa phương để khơi nguồn hàng rất phong phú và đa dạng như góp vốn liên doanh, ký kết hợp đồng dài hạn, các địa phương sản xuất thô, Hà Nội sản xuất tinh,… 5.2. Đối với thị trường ngoài nước. - Với đặc điểm là trung tâm giao lưu hàng hoá, đầu mối xuất nhập khẩu trong nước và của miền Bắc, vai trò về xuất nhập khẩu hàng hoá của Hà Nội rất lớn. Để mở rộng thị trường ra nước ngoài, Hà Nội cần làm tốt việc tiếp thị, tìm hiểu nhu cầu về hàng hoá Việt Nam, về hàng hóa sản xuất ở Bắc Bộ, ở thị trường thế giới, ở các thị trường trong khu vực. Một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện mục đích đó là xây dựng “trung tâm thương mại quốc tế” ở Thủ đô nhằm thông tin tiếp thị, tư vấn, giao dịch và tạo ra các mối quan hệ, ký kết hợp đồng thương mại quốc tế. Trước đây Hà Nội có thế mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị trường các nước Đông âu. Đây là thị trường truyền thống, có tiềm năng tiêu thụ lớn hàng hoá của Hà Nội và Bắc Bộ. Trong tương lai cần dần phục hồi xuất khẩu các thị trường này, nâng cao chất lượng và mẫu mã để có sức cạnh tranh lớn hơn. - Thị trường phía Nam Trung Quốc là thị trường rộng lớn, tiếp giáp với Miền Bắc, có tiềm năng tiêu thụ hàng hoá rất đa dạng, kể cả các loại hàng hoá có chất lượng không cao. Trong thời gian qua thị trường này mới chủ yếu tiêu thụ hàng lương thực thực phẩm và hàng nguyên liệu. Trong thời gian tới Hà Nội cần mở rộng xuất khẩu sang các loại mặt hàng thực phẩm chế biến và các loại hàng công nghệ phẩm mà Hà Nội có thế mạnh như cơ khí tiêu dùng, điện tử,… - Thị trường các nước Đông Bắc á và Đông Nam á là các thị trường mới phát triển và tiêu thụ tỷ trọng hàng xuất khẩu của Hà Nội trong những năm gần đây, cần được tiếp tục đầu tư mở rộng những mặt hàng mà Hà Nội có thế mạnh như hàng may mặc, dagiày, thủ công mỹ nghệ, thực phẩm và thực phẩm chế biến,… Với việc đẩy mạnh đầu tư mở rộng thị trường trong nứoc và ra nước ngoài, trong thời gian tới, đầu tư xây dựng thị trường Thủ đô thành trung tâm giao lưu kinh tế với trong nước và nước ngoài vào loại lớn nhất cả nước, với bộ mặt thị trường văn minh, hiện đại và hệ thống các loại hình thị trường tương đối đầy đủ, tạo nên sức hút đầu tư và thương mại đối với các vùng trong cả nước và với các nhà đầu tư nước ngoài. Kết luận Q ua hơn 10 năm đổi mới, cùng với cả nước trong quá trình hướng tới mục tiêu từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước Công nghiệp...Trong cơ cấu kinh tế, tuy Nông nghiệp liên tục phát triển mạnh, song Công nghiệp và dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng rất lớn trong GDP và lao động xã hội, Thủ đô Hà Nội đã đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhìn chung trong suốt thời gian qua cơ cấu kinh tế của Thủ đô Hà Nội bước đầu đã có sự thay đổi về chất. Tỷ trọng Nông nghiệp giảm đi, tỷ trọng các ngành Công nghiệp tăng đáng kể. Cùng với sự đi lên của các ngành công nghiệp, khối ngành dịch vụ đã có những hướng phát triển mới, tạo sự thay đổi căn bản về bộ mặt của Thủ đô và nâng cao đời sống của nhân dân thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, những kết quả đó chỉ là bước đầu, Hà Nội vẫn còn phải đương đầu với những khó khăn và thách thức lớn: công nghiệp chưa thực sự giữ vai trò đầu tàu phát triển, mối quan hệ công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ chưa gắn bó chặt chẽ...Để có một cơ cấu kinh tế hợp lý tạo cơ sở cho tăng trưởng và phát triển kinh tế,xứng đáng với vai trò là trung tâm đầu não về chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, đồng thời là một trung tâm lớn về kinh tế, một trung tâm giao dịch quốc tế của cả nước. Hà Nội cần tiếp tục thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thực hiện điều này đòi hỏi sự khai thác, vận dụng tổng hợp các tiềm năng sẵn có và những điều kiện thuận lợi từ bên ngoài. Tài liệu tham khảo Giáo trình kinh tế đầu tư - Th.S Từ Quang Phương- Nhà xuất bản thống kê Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX - NXB Chính trị quốc gia – 1996, 2001. Nghị quyết 15-NQ/TW của Bộ Chính trị Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các ngành trọng điểm mũi nhọn ở Việt Nam. Chủ biên: Đỗ Hoài Nam – NXB Khoa học xã hội – 1996. Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội thành phố Hà Nội giai đoạn 2001-2010 Số liệu Kinh tế xã hội của Thủ đô Hà Nội – Cục thống kê Hà Nội - 1997,1998, 1999, 2000 Các nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ CNH ở Việt Nam – Chủ biên: Bùi Tất Thắng – NXB Khoa học xã hội – 1997. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với kinh tế thế giới - Đồng chủ biên: Lê Du Phong – Nguyễn Thành Đô - NXB Chính trị quốc gia – 1999. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH nền KTQD. Nguyễn Đình Giao – NXB Chính trị quốc gia – 1994. Hà Nội niên giám Thống kê - Cục Thống kê Hà Nội – 2001 Luận văn các khoá 39, 40 thuộc khoa Kinh tế đầu tư. Bài viết ở một số báo, tạp chí và Website. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37008.doc
Tài liệu liên quan