LỜI MỞ ĐẦU
Đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn là một vấn đề nóng bỏng. Đối với Việt Nam vấn đề này càng cần được quan tâm nghiên cứu, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn mà Việt Nam đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đai hoá đất nước. Chính vì vậy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, không phải tự nhiên các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư tại Việt Nam, mà điều đó còn do rất nhiều động thái tác động đến. Một mặt là do nhu cầu của nhà đầu tư nước ngoài, mặt khác, là do sự hấp dẫn về môi trường đầu tư của nước sở tại. Hiện nay vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò rất quan trọng đối với Việt Nam. Điều bức xúc đặt ra đối với Việt Nam hiện nay là làm thế nào để thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Quan tâm đến vấn đề này và được sự đồng ý của thầy giáo trực tiếp hướng dẫn em đã quyết định chọn đề tài “Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước ASEAN và một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong việc thu hút FDI của Nhật Bản”. Em muốn tìm hiểu nguyên nhân đầu tư của Nhật Bản vào các nước ASEAN và những chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của các nước ASEAN và từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc thu hhút FDI nói chung và FDI của Nhật Bản nói riêng.
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước ASEAN trong thời gian qua
Chương III: Triển vọng và một số giải pháp thu hút FDI nói chung và FDI của Nhật Bản nói riêng vào Việt Nam
Qua đây, em muốn bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới thầy giáo Th.s Bùi Huy Nhượng, cùng toàn thể các thầy, cô giáo trong khoa Kinh tế & Kinh doanh quốc tế, toàn thể cán bộ nghiên cứu thuộc trung tâm nghiên cứu Nhật Bản đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài 2
I- Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài 2
1- Khái niệm 2
2- Đặc điểm của FDI 4
3- Ưu nhược điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài 7
II- Các hình thức và xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài 12
1- Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài 12
2- Xu hướng vận độn của đầu tư trực tiếp nước ngoài 13
III- Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI 21
1- Sự ổn định về Kinh tế chính trị xã hội và luật pháp đầu tư 22
2- Sự mềm dẻo, hấp dẫn của các hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài 23
3- Sự phát triển của cơ sở hạ tầng 25
4- Sự phát triển của đội ngũ lao động, của trình độ khoa học công nghệ và hệ thống doanh nghiệp trong nước trên địa bàn 25
5- Sự phát triển của nền hành chính quốc gia và hiệu quả của các dự án FDI đã triển khai 26
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước ASEAN trong thời gian qua 28
I- Thực trạng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước ASEAN trong thời gian qua 28
1- Số lượng vốn đầu tư 28
2- Cơ cấu FDI của Nhật Bản theo ngành ở các nước ASEAN 35
II- Những chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN 50
1- Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singpore 50
2- Chính sách đầu tư thu hút trực tiếp nước ngoài của Malaixia 52
3- Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Idonexia 53
4- Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Philippin 55
5- Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Thái Lan 58
III- Đánh giá quá trình đầu tư của Nhật Bản vào các nước ASEAN và một số bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam 59
1- Đánh giá quá trình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước ASEAN 53
2- Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 63
Chương III: Triển vọng và một số giải pháp thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam 68
I- Triển vọng của đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam 68
II- Một số giải pháp nhằm thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam 74
1- Về phía Chính phủ 75
2- Phía doanh nghiệp 84
Kết luận 88
97 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1805 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước ASEAN và một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong việc thu hút FDI của Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chế tạo sản xuất sản phẩm tiêu dùng lâu bền như: ô tô, đồ điện gia dụng, thiết bị điện tử… và tiếp đó là quá trình sản xuất linh hoạt, sản xuất các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao. Chiến lược JDI liên kết được thực hiện trong bối cảnh xung đột thương mại giữa Nhật Bản với Mỹ và Tây Âu bước vào giai đoạn căng thẳng nhất. Mục tiêu của chiến lược JDI liên kết là tìm liên minh mới, chiếm lĩnh thị trường, xuất khẩu sản phẩm sang nước thứ ba nhằm giải quyết vấn đề xung đột thương mại. Bên cạnh đó, để ứng phó với việc đồng yên lên giá, quá trình sản xuất được mở rộng sang ASEAN để rồi nhập khẩu linh kiện điện tử từ ASEAN trở lại Nhật Bản nhằm tối đa hoá lợi nhuận là chiến lược của nhiều công ty điện tử của Nhật Bản.
Tóm lại, các làn sóng cũng như các chiến lược JDI vào ASEAN đều là kết quả của những giai đoạn phát triển kinh tế nhất định. Sự phát triển kinh tế nói chung, đặc biệt là các chính sách phát triển công nghiệp đã làm nảy sinh sự bất cân đối vĩ mô trong nội tại nền kinh tế Nhật Bản, đồng thời gây ra sự xung đột thương mại gay gắt giữa Nhật Bản với Mỹ và Tây Âu. Do đó, Nhật Bản đã sử dụng JDI như một công cụ quan trọng nhằm giải quyết các mâu thuẫn và xung đột nêu trên. Các điều kiện tự nhiên (giàu tài nguyên thiên nhiên), kinh tế xã hội (trình độ phát triển thấp, lực lượng lao động dồi dào với mức lương bình quân thấp…) của ASEAN đã vô hình chung biến khu vực này thành địa bàn đầu tư lý tưởng cho Nhật Bản trong việc thực hiện chiến lược “ tiếp cận nguồn lao động”, “ giải quyết vấn đề môi trường”, và “liên kết”. Với những điều kiện hiện nay (bối cảnh kinh tế toàn cầu, chiến lược JDI, chính sách thu hút FDI của ASEAN …), ASEAN vẫn tiếp tục là địa bàn đầu tư quan trọng của Nhật Bản.
Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
Qua phân tích ở trên ta thấy đầu tư của Nhật Bản vào các nước ASEAN đều gắn liền với các chính sách của Nhật Bản, và đều thoả mãn với các chính sách hướng ngoại của các nước ASEAN. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá đất nước các nước ASEAN chủ yếu kêu gọi đầu tư nước ngoài vào các ngành khai thác, những ngành sử dụng nhiều lao động, có thể nói đây là những ngành có thế mạnh của các nước ASEAN. Đầu tư của Nhật Bản vào các nước ASEAN ngoài mục đích thực hiện các chính sách của mình mà các nhà đầu tư Nhật Bản còn bị cuốn hút bởi tính hấp dẫn của chính sách thu hút FDI của các nước ASEAN. Cũng như các nước ASEAN Việt Nam hiện đang trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục đích của chúng ta là đầu tư hướng vào việc thay thế nhập khẩu và hướng tới xuất khẩu. Chúng ta cần học hỏi các nước đi trước trong việc hoạch định chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là các nước ASEAN, trên thực tế thì các nước ASEAN đã rất thành công trong việc thu hút FDI đặc biệt là FDI của Nhật Bản. Qua việc phân tích quá trình đầu tư của Nhật Bản vào các nước ASEAN trong thời gian qua và các chính sách thu hút FDI của các nước ASEAN, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm trong việc thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư của Nhật Bản nói riêng như sau.
Về chính sách thuế:
Thuế là một trong những biện pháp có thể điều chỉnh để thu hút đầu tư một cách có hiệu quả nhất. Hiện nay chính sách thuế của ta là tương đối hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài như: thế lợi tức đối với công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Đối với từng loại công ty mà có các mức thuế khácc nhau, nhưng mức thuế trung bình đối với các công ty có vốn đầu tư nước ngoài là từ 10 đến 25% trong khi đó mức thuế lợi tức đối với các công ty trong nước là 32%. Với mức thuế này thì Việt Nam là một nước tương đối hấp dẫn so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, tời gian miễn giảm thuế của Việt Nam là từ 2 đến 4 năm, trong khi đó các nước như Singapo và Malaixia thời gian miễn giảm thuế lợi tức là từ 3 đến 8 năm, thậm chí ở Singapo còn có loại hình doanh nghiệp được miễn thuế trong thời gian tối đa là 15 năm, ở Philippin thời gian miễn giảm thuế trung bình từ 4 đến 6 năm. Ngoài ra, ở Singapo còn có loại hình doanh nghiệp chỉ chịu mức thuế lợi tức là 4%/năm. Ngoài thuế lợi tức ra ở Philippin còn thực hiện việc miễn thuế thu nhập đối với người nước ngoài 3 năm kể từ khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi. Ở Philippin các khu kinh tế đặc quyền được hương rất nhiều ưu đãi về thuế như miễn thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế chuyển lợi nhuận giữa các chi nhánh… mà Việt Nam chưa thực hiện. Tóm lại, chính sách thuế của Việt Nam là tương đối hấp dẫn song còn rất nhiều vấn đề mà chúng ta chưa thực hiện được, do đó làm giảm sức hấp dẫn so với các nước trong khu vực. Điều này Việt Nam nên xem xét và dần hoàn thiện hơn.
Về các hình thức và tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài.
Hiện nay chúng ta đã gần như áp dụng tất cả các hình thức đầu tư nước ngoài mà trên thế giới thường áp dụng. Tuy nhiên, hình thức công ty cổ phần lại chưa được phép áp dụng tại Việt Nam, đây là một điều rất bất cập, hiện nay tất cả các nước ASEAN đều áp dụng loại hình này, chính vì thế Việt Nam cần xem xét và nên áp dụng ình thức này càng nhanh càng tốt. Ngoài ra, tỷ lệ góp vốn quy định đối với người nước ngoài theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là không dưới 30% vốn pháp định, trên thực tế hiện nay các công ty liên doanh tại Việt Nam phần vốn góp của bên nước ngoài chiếm đa số. Vậy chúng ta có bị mâu thuẫn không khi mà chúng ta đang muốn nâng cao tỷ lệ vốn góp của bên Việt Nam. Trong khi đó chúng ta lại quy định mức góp vốn của bên nước ngoài là không dưới 30% vốn pháp định. Vấn đề góp vốn của các nhà đầu tư nước ngoài ở các nước ASEAN là vấn đề hoàn toàn tự do, không nước nào quy định tỷ lệ vốn góp của bên nước ngoài là bao nhiêu. Điều này Việt Nam cần phải học hỏi các nước đi trước.
Về chính sách thị trường:
Hiện nay các doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp của Việt Nam theo hướng sản xuất hàng xuất khẩu không được bán hàng hoá ra thị trường nội địa. Đây là một quy định hoàn toàn cứng nhắc, việc này không xảy ra đối với các nước ASEAN, ví như đối với Philippin họ cho phép các doang nghiệp trong khu công nghiệp có thể trao đổi hàng hoá với thị trường nội địa một cách tự do.
Về chính sách sử dụng người lao động các nước ASEAN gần như không hạn chế trong việc cho phép các doanh nghiệp nước ngoài tuyển dụng lao động là người ngoại quốc. Inđônêxia đã miễn giảm thuế đối với việc sử dụng lao động là người nước ngoài. Bên cạnh đó, các nước đều áp dụng chính sách đào tạo nguồn nhân lực theo yêu cầu của nhà đầu tư nước ngoài.Vấn đề này chưa được Việt Nam xem xét thực hiện.
Về hệ thống tài chính ngân hàng: Hiện nay hệ thống ngân hàng của Việt Nam vẫn còn rất nhỏ bé và kém nhanh nhạy gây ra rất nhiều trở ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài trong việc vay vốn. Nhiều nước trong khu vực họ đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào hệ thống ngân hàng, nhiều ngan hàng nước ngoài đã được thành lập và hoạt động trên đất nước họ. Điển hình như Inđônêxia và Philippin gần đây cũng đã cải tạo lại hệ thống ngân hàng và đã có nhiều ngân hàng nước ngoài được thành lập tạo ra mối trao đổi tiền tệ thật thông thoáng nhanh gọn. Lãi suất cho vay đầu tư của các ngân hàng nước này cũng đã giảm đi rất nhiều điều này tạo ra sự hấp dẫn đối với rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Vấn đề này cần được Việt Nam học tập để mở rộng hệ thống ngân hàng nâng cao khả năng hoạt động tạo thuạan lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Về chính sách đất đai: Đất đai ở Việt Nam là thuộc sở hữu của nhà nước, do đó các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư tại Việt Nam đều phải làm thủ tục thuê đất. Điều này rất bất lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, so với các nước trong khu vực thì vấn đề đất đai của Việt Nam kém hấp dẫn hơn cả. Các nước trong khu vực đều quy định quyền sở hữu đất đối với nhà đầu tư nước ngoài theo từng loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề giao quyền sở hữu đất cho người nước ngoài ở Việt Nam là hoàn toàn không thể, chính vì vậy chúng ta cần xem xét để đưa ra một khung giá cho thuế đất phù hợp để các nhà đầu tư nước ngoài không cảm thấy quá đắt, thủ tục cho thuế đất phải nhanh gọn, thông thoáng hơn, tạo niềm tin cho nhà đầu tư nước ngoài.
Về thủ tục hành chính tất cả các nước trong khu vực đều đã dỡ bỏ những rào cản trong thủ tục hành chính, tạo ra một môi trường thông thoáng hơn với thủ tục đơn giản. Tuy nhiên, vấn đề thủ tục hành chính ở Việt Nam vẫn là một vấn đề lan giải. Các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư ở Việt Nam đều phàn nà về thủ tục hành chính của Việt Nam quá rườm rà. Hiện nay Việt Nam đang dần đơn giản hoá thủ tục hành chính, dần đi đến cơ chế một cửa làm sao tạo ra tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài tương đương với các nước trong khu vực . Do vậy chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của họ, để rút ra cho mình một hướng đi đúng đắn.
Tóm lại, với sự cố gắng học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước Việt Nam đã và đang tạo ra cho mình một hướng đi đúng đắn trong việc thu hút FDI nói chung trong đó có FDI của Nhật Bản ngày càng có triển vọng tốt đẹp hơn.
Chương III:
TRIỂN VỌNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT FDI CỦA NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM
I.Triển vọng của đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam ngày một tiến triển tốt đẹp hơn. Từ khi Việt Nam mở cửa nền kinh tế(1986) đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam ngày càng tăng. Năm 1989 Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam với số vốn là 0,6 triệu USD, năm 1990 số dự án mà Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam là 6 dự án, với số vốn là 10,2 triệu USD, năm 1992 đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam tăng mạnh số vốn là 116,72 triệu USD gấp 194,5 lần năm 1989 và hơn 11 lần so với năm 1990. Năm 1995 và năm 1996 là hai năm đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam đạt mức cao nhất. Trong năm 1995 Nhật Bản đã đầu tư vào Việt Nam với số vốn là 1.303,2 triệu USD gấp gần 11,2 lần năm 1992, số dự án trong năm này cũng tăng lên đạt 50 dự án. Năm 1996 đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam có sốdự án là 56, tuy nhiên, số vốn lại ít hơn năm 1995, trong năm này số vốn là 777,8 triệu USD. Nhưng trong những năm 1997, 1998 và 1999 thì đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam lại giảm, số vốn chỉ còn có 46,97 triệu USD vào năm 1999. Nguyên nhân đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam giảm là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy ra trong khu vực. Do đó, các nhà đầu tư nước ngoài không chỉ riêng các nhà đầu tư Nhật Bản mà tất cả các nhà đầu tư cũng đã rút vốn về nước. Đây là nguyên nhân chung mà các nước trong khu vực phải gánh chịu chứ không riêng gì Việt Nam. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam trong năm 2000 đã cho thấy sự phục hồi của nó, số vốn năm 2000 là 56,348 triệu USD và số dự án là 19 trong khi đó năm 1999 là 13 dự án. Tính đến tháng 10 năm 2001 tổng số vốn đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam là gần 4.020,8 triệu USD. Tổng số vốn đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam tính đến tháng 10 năm 2001 được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2: Đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam(1998 –2001)
Tính đến năm
Tổng số dự án được cấp giấy phép
Tổng số vốn đầu tư
(USD)
1998
211
3.550.000.000
1999
212
3.570.940.000
2000
227
3.852.000.000
Tháng 10 năm
2001
317
4.020.777.572
Nguồn: Vụ quản lý dự án – Bộ kế hoạch và Đầu tư.
Qua việc điểm lại tình hình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời gian qua, chúng ta có thể thấy đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam ngày càng tăng và chúng ta có thể hy vọng vào triển vọng của nó trong tương lai.
Triển vọng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam phụ thuộc vào một số yếu tố sau:
Thứ nhất, là môi trường khu vực: Sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, hiện nay kinh tế các nước trong khu vực đang đi vào phục hồi và phát triển. So với năm 1998 – năm ảm đạm nhất của nền kinh tế khu vực Đông Nam á, thì năm 1999 tốc độ tăng trưởng của Thái Lan đạt 4%; Malaixia là 4,5%; Philippin là 3%; Singapo là 4,8%. Với sự phục hồi kinh tế khu vực đã lấy lại niềm tin đối với các nhà đầu tư quốc tế, mmở ra giai đoạn mới cho việc thu hút vốn đầu tư quốc tế nói chung, của Nhật Bản nói riêng. Năm 1999 FDI của thế giới là 140 tỷ, trong đó cá nước châu á thu hút 91 tỷ USD, tăng 1% so với năm 1998. Sự phục hồi kinh tế khu vực tác động đến dòng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trên hai khía cạnh. Thứ nhất, nó làm tăng lên sự cạnh tranh trong thu hút FDI của Nhật giữa các quốc gia. Thứ hai, sự phục hồi này thúc đẩy tăng cường hợp tác,giao dịch làm ăn giữa các quốc gia, vì vậy làm tăng sức hấp dẫn của cả khu vực đối với các dòng FDI. Nếu Việt Nam có chiến lược cải thiện tốt môi trường đầu tư, nâng cao lợi thế so sánhtrong các yếu sản xuất, bảo đảm sự ổn định xã hội v.v… thì chắc chắn sẽ giành được sự chú ý caocủa các nhà đầu tư, trong đó có Nhật Bản.
Thứ hai, là xét từ phía Nhật Bản ta thấy xuất hiện những dấu hiệu nói lêndòng FDI của Nhật Bản sẽ gia tăng trong những năm tới. Đó là sự phục hồi kihn tế đi liền với sự ổn định chính trị với đường lối đối ngoại hướng về châu á. Nếu trong năm 1997 và 1998 nền kinh tế Nhật rơi vào mức tăng trưởng âm đã làm ảnh hưởng đến khả năng đầu tư ra nước ngoài cuả Nhật thì năm 1999 nền kinh tế đã bắt đầu phuc hồi, tốc độ tăng trưởng đạt 0,6%. Sự tăng trưởng kinh tế của Nhật Bảnsẽ góp phần làm sôi động môi trươbgf kinh doanh của khu vực, thúc đẩy các hoạt động trao đổi, đầu tư trong nội bộ khu vực. Đặc biệt với chính sách hướng về châu á thì cùng sự phát triển kinh tế Nhật Bản, chắc chắn quan hệkinh tế, trong đó có hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật vào khu vực sẽ gia tăng hơn. Nếu vậy chúng ta có thể hy vọng về triển vọng mở rộng FDI vào khu vực cũng như Việt Nam. Ông Nakamura, đại sứ Nhật tại Việt Nam cũng cho rằng: với nền kinh tế Nhật Bản đang trên đà phục hồi và kinh tế khu vực cũng có dấu hiệu phục hồi trong những năm tới. Tôi tin rằng các nhà đầu tư Nhật Bản sẽ tiếp tục trở lại Việt Nam.
Thứ balà, nhìn nhận từ những chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam cũng cho thấy những tác động tích cực đến thu hút FDI. Mặc dù Việt Nam cũng chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực nhưng do chưa hội nhập sâu và hơn nữa do có sự điều tiết vĩ mô tốt, Việt Nam vẫn giữ được sự ổn định kinh tế xã hội trong những năm qua. Do đó, đã tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài,trong đó có Nhật Bản .
Cùng với sự mở cửa nền kinh tế, luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam luôn có sự cải thiện theo hướng có lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài nên Việt Nam đã thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là các nhà đầu tư Nhật Bản. Việt Nam luôn được các nhà đầu tư Nhật Bản tin tưởng vào môi trường đầu tư. Theo kết quả một cuộc khảo sát “Nghiên cứu tổng quan năm 1996” (Từ 1/4/1996 đến 31/3/1997) của viện nghiên cứu đầu tư và phát triển quốc tế ngân hàng xuất nhập khẩu Nhật Bản (JEXIM) đối với các công tycủa Nhật Bản hoạt động đầu tư tại nước ngoài cho thấy: Việt Nam luôn năm trong số 10 nước có triển vọng hấp dẫn nhất đối với đầu tư trực tiếp của Nhật Bản cả trung hạn và dài hạn.
Bảng 3: Các nước có triển vọng nhất về FDI của Nhật cho thời kỳ dài hạn.
Xếp hạng
Năm tài chính 1994
(4/94 – 4/95)
Năm tài chính 1995 (4/95- 4/96)
Năm tài chính 1996
(4/96 – 4/97)
1
Trung Quốc
Trung Quốc
Trung Quốc
2
Việt Nam
Việt Nam
ấn Độ
3
Thái Lan
ấn Độ
Việt Nam
4
Mỹ
Mỹ
Mỹ
5
Inđônêxia
Inđônêxia
Inđônêxia
6
Malaixia
Thái Lan
Thái Lan
7
ấn Độ
Mianma
Malaixia
8
Mêhicô
Malaixia
Mianma
9
Singapo
Philippin
Philippin
10
Đài Loan
Anh
Mêhicô
Nguồn: Thông tin phục vụ lãnh đạo, số 14(134), 7/1997. Viện nghiên cứu, Bộ tài chính
Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam có triển vọng rất tốt. Điều này có thể thấy rõ nhất là từ phía Việt Nam, thể hiện trong việc Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực về mọi mặt trong thời gian qua. Mặc dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á, nhưng Việt Nam vẫn giữ được sự ônr định kihn tế – xã hội trong những năm qua. Riêng năm 1999, mức tăng GDP đạt 5%. Sản lượng nông nghiệp đạt 33,8 triệu tấn, tăng 2 triệu tấn so với năm 1998 và là mức cao nhất từ trước cho tới nay. Kim ngạch xuất khẩu tăng 22% so với năm 1998, tăng vượt hơn hai lần so với kế hoạch đề ra. Kết quả sự phát triển kinh tế Việt Nam là cơ sở quan trọng tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài trong đó có Nhật Bản. Cơ sở hạ tầng của Việt Nam cũng đã và đang được nâng cấp, hệ thống thông tin liên lạc đã đứng ngang hàng được với các quốc gia trong khu vực. Cùng với việc cải cách kinh tế và cơ sở hạ tầng. Việt Nam đang triển khai các biện pháp nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị, tăng cường đấu tranh chống tham nhũng. Đáng chú ý là chính phủ Việt Nam rất quan tâm đến việc cải thiện môi trường đầu tư mà biểu hiện rõ nét nhất gần đây là ban hành quyết định 53 với nhiều nội dung quan trọng theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc giảm chi phí sản xuất, tạo điều kiện kinh doanh bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài.Vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài được đảng và nhà nước quan tâm nhiều hơn.
Mặt khác Việt Nam là một trong số những nước có khá nhiều thuận lợi, đáp ứng được với những yêu cầu đặt racủa nhà đầu tư nước ngoài về nguồn lực con người, trình độ đân trí, sự ổn định của chế độ chính trị xã hội. lợi thế lớn nhất của Việt Nam là một thị trường với sức mua của hơn 80 triệu dân, một mảnh đất màu mỡ đầy tiềm năng chưa được khai thác hết với nguồn nhân lực dồi dào, cần cù chịu khó và năng động, nguồn tài nguyên phong phú được dựa trên một nền tảng vững chắc về chính trị xã hội ổn định. Đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thế giới và khủng hoảng tài chính trong khu vực hiện nay, những lợi thế so sánh trên đây của Việt Nam lại càng phát huy tác dụng nhiều hơn trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đặc biệt là dòng vốn đầu tư từ Nhật Bản.
Triển vọng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam càng được khẳng định rõ hơn, khi chúng ta nghe được lời nhận xét về môi trường đầu tư của Việt Nam từ chính những người Nhật. Trong một cuộc hội thảo tại Tokyo, ông Numata, cố vấn Hiệp hội quốc tế hoá các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản đã đề cập đến những nguên nhân khiến các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam.Theo ông, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong những năm gần đây giảm là do nguyên nhân từ phía các nhà đầu tư, ví dụ như do kinh tế Nhật Bản trì trệ, cộng thêm khủng hoảng tài chính trầm trọng ở châu á, làm cho hoạt động đầu tư của Nhật Bản và các nền công nghiệp mới nổi lênở châu á(NIEs) giảm sút, không phải do thị trường Việt Nam kếm hấp dẫn. Năm 1999 có 298 dự án đầu tư vào Việt Nam, ở mức cao, điều này cho thấy thị trường Việt Nam vẫn được quan tâm nhiều. Ông Namuta cho rằng Việt Nam hiện nay đang có những ưu thế từng xuất hiện ở Nhật Bản trong thập kỷ 60, đó là hoạt động kinh tế sôi động, tiền công lao động thấp giá thành rẻ, cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện, có nhiều cơ hội làm ăn và có nhiều triển vọng. Các nhà đầu tư nước ngoài có thể tìm thấy ở Việt Nam những gì thuận lợi cho công cuộc kinh doanh mà ở Nhật Bản không còn nữa. từ đó họ rút ra kết luận: muốn vào thị trường Việt Nam, hãy vào ngay từ bây giờ. Ông còn nhận xét nền kinh tế Việt Nam tuy bị ảnh hưởng bợi cuộc khủng hoảng tài chính châu á nhưng kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng điều này đã tạo một niềm tin lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng. Và ông cũng nhận xét là có rất nhiều xí nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam làm ăn đã thành công. Theo ông Numata, kinh tế Nhật Bản trong thập kỷ 90 đứng trước 4 điểm bất lợi: đồng yên cao, chi phí lao động cao, sự mệt mỏi của tiền tệ trong nước, phải cạnh tranh với ASEAN và Trung Quốc. Trong tình hình đó, Nhật Bản đã chọn đầu tư vào Việt Nam, nơi có tài nguyên phong phú, chi phí lao động rẻ và trình độ lao động cao, tiềm năng thị trường lớn, vị trí địa lý phù hợp. Giờ đây, các doanh nghiệp Nhật Bản vẫn đánh giá cao và quan tâm đầu tư vào thị trường Việt Nam. Ông đặc biệt nhấn mạnh tình hình chính trị – xã hội Việt Nam rất ổn định đã tạo điều kiện để các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư vào Việt Nam.
Theo đánh giá của ông Shoichi Kameyama, chủ tịch Phòng thương mại Nhật Bản tại Philippin thì Việt Nam là nước có môi trường đầu tư mang tính cạnh tranh cao hơn nhiều so với Philippin, môi trường pháp lý tốt hơn đồng thời đưa ra cho các nhà đầu tư những ưu đãi chắc chắn, đáng tin cậy hơn. Do vậy, trong 6 tháng đầu năm 2001, nhiều nhà đầu tư Nhật Bản ban đầu dự định đến làm ăn ở Philippin, cuối cùng họ đẫ chuyển sang Việt Nam, nơi có chi phí sản xuất thấp hơn nhiều và sản phẩm sản xuất ra có chất lượng không hề thua kém.
Chính những nhận xét thực tế của người Nhật trên đây càng khẳng định chắc chắn hơn triển vọng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam sẽ ngày một tốt đẹp hơn.Việt Nam đã thực sự là nước thu hút vốn đầu tư nước ngoài nói chung, đầu tư Nhật Bản nói riêng mạnh nhất trong khu vực.
II. Một số giải pháp nhằm thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam.
Để thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 chúng ta cần thực hiện rất nhiều chiến lược, trong đó có chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo kinh nghiệm của những nước đi trước thì vốn đầu tư nước ngoài đóng góp rất lớn vào quá trình đi lên công nghiệp hoá của quốc gia đó. Vì vậy, để đạt được mục tiêu đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp phát triển vào năm 2020 thì nguồn vốn FDI là rất cần thiết. Qua thời gian đầu của quá trình thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta luôn quan tâm đến viêc cải thiện chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong thời gian này, chúng ta đã đạt được những thành công nhất định, nhiều nhà đầu tư lớn trên thế giới đã đến đầu tư tại Việt Nam và đã gặt hái được những thành công, trong số những nhà đầu tư nước ngoài đó không thể không kể đến các nhà đầu tư Nhật Bản. Các nhà đầu tư Nhật Bản luôn được xếp vào danh sách các nhà đầu tư lớn nhất đầu tư vào Việt Nam. Điều này chứng tỏ rằng vốn đầu tư trực tiếp của Nhật Bản đóng góp rất lớn vào việc thực hiện công cuộc CNH, HĐH của nước ta. Trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện chính sách đầu tư nhằm nâng cao việc thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và đặc biệt là đầu tư trực tiếp của Nhật Bản.
Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước ASEAN – những nước đã rất thành công trong việc thu hút vốn FDI nói chung và Nhật Bản nói riêng để phục vụ cho mục đích CNH của mình, nghiên cứu về những chính sách nhằm thu hút vốn FDI của các nước ASEAN, tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị về giải pháp nhằm thu hút FDI nói chung và FDI của Nhật Bản nói riêng đối với Việt Nam cả về phía Chính phủ và phía các doanh nghiệp Việt Nam.
1.Về phía Chính phủ:
1.1. Cần có sự nhận thức đầy đủ và nhất quán về nội dung, tính đặc thù của FDI và tầmm quan trọng nhiều mặt của FDI đối với công cuộc phát triển kinh tế của ta hiện nay cũng như trong những năm tới. Đặc biệt cần đánh giá đúng vai trò FDI từ Nhật Bản, xem đó là đầu nguồn của dòng thác FDI vào châu á nòi chung và vào Việt Nam nói riêng.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài và Việt Nam trải qua hơn 10 năm thực hiện nhưng sự thực vẫn là lĩnh vực rất mới; quan niệm của chúng ta về FDI, kinh nghiệm tiếp nhận quản lý FDI cũng còn nhiều bất cập. Vì vậy cần có thông tin, tổ chức tìm hiểu về hoạt động FDI, trong đó có FDI của Nhật Bản. FDI có những đặc điểm khác biệt cơ bản đối với các hình thức đầu tư quốc tế khác không chỉ ở quyền điều hành đối với tài sản đầu tư mà nó còn là hinhf thức chuyển giao lớn về vốn và công nghệ… FDI không chỉ có tác dụng tích cực với nước đầu tư cũng như nước nhận đầu tư mà nó còn có tác động tiêu cực, nhất là với nước nhận đầu tư. Đối với chung ta, nước nhận đầu tư, sẽ có lợi như gia tăng nguồn vốn; tiếp nhận đượccông nghệ kỹ thuật và quản lý tiên tiến; khai thác, phát huy được tiềm năng kinh tế của các vùng, ngành qua đó giải quyết dược lao động, tăng thu nhập cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh góp phần vào cải thiện cán cân thanh toán… Gắn liền với nó là nguy cơ phụ thuộc nước ngoài về công nghệ, nguồn vốn, chịu sự can thiệp của bên ngoài đối với các quyết sách về kinh tế. Đáng chú ý nữa là những tác động về văn hoá - xã hộicó thể làm thay đổi các giá trị chuẩn mực xã hội, nhất là với nước đang hướng tới phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì càng cần chú ý đéen tác động về mặt này.
Nhận thức về tác động hai mặt của FDI cho phép ta có những quyết sách mạnh dạn, chính xác trong quá trình thu hút FDI. Đi cùng với những chính sách, biện pháp thu hút cần thiết lập những bộ luật phù hợp với thông lệ quốc tế để hạn chế tác động tiêu cực.
Nhật Bản là một trong ba nhà đầu tư quốc tế hàng đầu trên thế giới. Nguồn FDI của Nhật đổ vào khu vực châu á ngày càng lớn. chúng ta cần nhận thức rõ vai trò đầu nguồn của dòng FDI Nhật. Vì vậy, cần có chính sách tổng thể trong quan hệ với Nhật mang tính dài hạn, xem Nhật là đối tác chiến lược của Việt Nam trong những năm tới đây. Chúng ta cần có những nghiên cứu tìm hiểu sâu về cách thức làm ăn của người Nhật đồng thời kết hợp những hoạt động xúc tiến đầu tư, trong đó chú ý thông tin về thị trường của Việt Nam cho các doanh nhân Nhật Bản.
1.2. Đẩy mạnh cải thiện cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt nhằm góp phần nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam.
Trong cuộc điều tra hàng năm của ngân hàng xuất – nhập khẩu Nhật Bản thì vấn đề cơ sở hạ tầng xã hội nghèo nàn của Việt Nam là vấn đề nổi cộm trong môi trường đầu tư của nước ta. Để gia tăng tính cạnh tranh trong việc thu hút FDI nói chung, của Nhật Bản nói riêng, không thể không tập trung nâng cấp cơ sở hạ tầng.
Trong phát triển cơ sở hạ tầng không chỉ chú ý vào phần “cứng” như xây dựng đường sá, kho tàng bến bãi, thông tin liên lạc… mà phải chú ý cả phần cơ sở hạ tầng “mềm”, trong đó đặc biệt chú trọng đào tạo nguồn nhân lực. Thực tế có không ít các công ty Nhật Bản phàn nàn gặp khó khăn trong việc lựa chọn nhân sự đủ năng lực ở Việt Nam.
Hiện nay, chúng ta đã xây dựng được những khu chế xuất, khu công nghiệp. Nhưng trong số đó chỉ có số ít là hoạt động có hiệu quả, trong việc xây dựng những khu chế xuất, khu công nghiệp, chúng ta đã xây dựng thiếu đồng bộ, tràn lan không phù hợp với yêu cầu của các nhà đầu tư, do đó, đã không thu hút được họ. Chúng ta nên xây dựng những khu chế xuất, khu công nghiệp trọng điểm. Trong điều kiện hạ tầng xã hội còn yếu, lại chưa đều giữa các vùng thì cần có qui hoạch phù hợp về phát triển ngành, lĩnh vực. Không cứ nhất thiết tất cả các tỉnh phải có đầu tư nước ngoài. Cần dựa trên cơ sở thế mạnh của từng vùng, tỉnh mà kêu gọi đầu tư nước ngoài nói chung, của Nhật Bản nói riêng.
Cần tạo sự bình đẳng về mọi mặt giữa các công ty trong và ngoài nước, giữa người Việt Nam với người nước ngoài.Trong điều kiện dịch vụ kếm chúng ta lại thi hành chính sách giá phân biệt và quá cao đối với ngưoừi nước ngoài quả là bất hợp lý, khong những không khuyến khích được các hoạt động kinh doanh sản xuất mà cả hoạt động du lịch cũng bị hạn chế.
Trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực cần có kế hoạch đào tạo lực lượng lao động phục vụ cho khu vực FDI nói chung và khu vực FDI của Nhật Bản nói riêng, trong đó không chỉ chú ý nâng cao trình độ kỹ thuật mà phải biết ngoại ngữ, có kiến thức tối thiểu về nền văn hoá, đặc biệt trong văn hoá kinh doanh của các đối tác.
1.3. Cần tiếp tụcnghiên cứu sửa đổi luật đầu tư theo hướng thông thoáng hơn, kết hợp ban hành các quy định có liên quan đến FDI đẻ tạo ra môi trường pháp lý hấp dẫn, có sức cạnh tranh. Hoàn thiện môi trường pháp lý, đảm bảo hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài bầng những điều khoản có tính chất ưu đãi về mặt lợi ích kinh tế cuả họ và đảm bảo an toàn về vốn cho họ. Xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ, đảm bảo thi hành pháp luật nghiêm minh, cần có một cơ chế giải quyết tranh chấp rõ ràng, một cơ quan toà án nghiêm minh và công bằng.
Trong thời gian vừa qua, chúng ta đã liên tục cải thiện luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Trải qua quá trình nghiên cứu và sửa đổi luật đầu tư nước ngoài theo hướng có lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là trong lần sửa đổi năm 2000 vừa qua,có thể nói, luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam hiện nay là tương đối hấp dẫn so với các nước trong khu vực, cơ chế cũng như qui định đối với các nhà đầu tư nước ngoài đã thông thoáng hơn nhiều. Tuy nhiên, luật đầu tư nước ngoài của ta vẫn còn có những điểm bất cập và thiếu đồng bộ, các văn bản pháp luật thì quá cồng kềnh. Có thể thấy điều bất cập của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là: Về các hình thức đầu tư nước ngoài luật chưa đề cập đến loại hình là công ty cổ phần. Trong khi đó, hình thức này đã được áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Do đó, để ngày càng thu hút được vốn FDI chúng ta cần phải tiếp tục hoàn thiện bộ luật đầu tư nước ngoài. Hướng sửa đổi và hoàn thiện luật đầu tư nên chú ý vào một số điểm cơ bản sau:
Cần có những qui định rõ ràng về hình thức đầu tư và lĩnh vực đầu tư, đặc biệt cần quy định rõ hơn các lĩnh vực khuyến khích đầu tư, lĩnh vực được đầu tư nhưng có kèm điều kiện, lĩnh vực cấm đầu tư và có lẽ nên mở rộng lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư. Với những quy định rõ ràng sẽ hạn chế được tiêu cực trong xét duyệt và cấp phép đầu tư.
Cần sửa đổi các điều khoản giảm bớt sự can thiệp quá sâu vào quản lý nội bộ của doanh nghiệp có voón đầu tư nước ngoài, bảo đảm cho họ quyền bình đẳng với các nhà đầu tư trong nước. Cần chú ý đến các quy định nhằm giảm bớt chi phí đầu tư qua đó làm tăng sức cạnh tranh của môi trường đầu tư.
Việc sửa đổi phải tính đến sự thống nhất của các quy định, điều khoản của luật với các chính sách khác có liên quan đến FDI, tránh tình trạng chồng chéo nhau giữa các văn bản, gây khó hiểu cho các nhà đầu tư.
Trong khi sửa đổi cần cân nhắc kỹ, hướng sửa đổi là tăng hấp dẫn – tức là bổ sung những gì còn thiếu bất cập chứ không phải là thay đổi ngược lại về quan điểm, chính sách điều này sẽ làm cho các nhà đầu tư khó kịp thời nắm bắt được những chính sách mới đó. Cần cân nhắc sửa đổi, tránh tình trạng các ưu đãi có thể có tác dụng ngược lại với ý định và mong muốn tốt đẹp của nhà nước, đồng thời gây thiệt hại cho ngân sách của nhà nước.
1.4.Hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư phát triển khu công nghiệp.
Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao là một trong những pương thức thu hút, tổ chức sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ nước ta. Có thể nói, chính sách phát triển khu công nghiệp là một chính sách quan trọng trong chính sách thu hút đầu tư của chúng ta. Chính phủ đã ban hành nghị định 36/CP(24/4/1997) về qui chế khu công nghiệp. Qui chế khu công nghiệp là văn bản pháp quy quan trọng quy định hoạt động đầu tư phát triển trong khu công nghiệp, khẳng định chính sách thu hút đầu tư, những lĩnh vực khuyến khích, ưu đãi các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước đầu tư xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng và sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp. Việc phát triển khu công nghiệp đã thu hút được khối lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài. Chính sách thu hút đầu tư trong khu công nghiệp tương đối hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, tuy nhiên, trong những chính sách đó còn bộc lộ rất nhiều những yếu kém mà chúng ta cần phải khắc phục. Chẳng hạn: trong chính sách đất đai nhăm tạo thuận lợi và sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư, bảo đảm cho họ yên tâm đầu tư lâu dài, trong đó tạo cho nhà đầu tư có quyền thực sự sử dụng, chuyển nhượng và thế chấp đất đã cho thuê. Khung giá cho thuê đất gần đây đã được giảm đáng kể, trong đó có sự ưu đãi theo ngành nghề và theo địa bà hoạt động. Mặc dù vậy, do những hạn chế về thể chế pháp lý, cơ sở hạ tầng nói chung còn kém, việc định giá cho thuê đất ở một số khu công nghiệp còn cao, hợp đồng thuê đất và thủ tục xây dựng còn phức tạp,… cho nên sức hấp dẫn các nhà đầu tư vào khu công nghiệp còn kém; Chính sách thuế và ưu đãi tài chính đã và đang được sửa đổi theo hướng tạo thêm môi trường đầu tư hấp dẫn hơn qua việc áp dụng tỷ suất thuế hợp lý, thời gian và mức độ ưu đãi miễn giảm thuế để bảo đảm cho các nhà đầu tư có khả năng tăng tỷ lệ lợi nhuận. Tuy nhiên vẫn còn không ít những vướng mắc cần được tháo gỡ, nhất là trong vận dụng, tổ chức thực hiện chính sách còn có nơi, có chỗ còn chưa minh bạch, nhất quán;… Để phát huy hiệu quả các chính sách thu hút đầu tư, công tác quản lý hoạt động khu công nghiệp lần đầu tiên ở nước ta đẫ áp dụng cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ”, thực hiện một bước quan trọng cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư phát triển khu cônh nghiệp. Để hoàn thiện cơ chế quãn lý này, Quyết định 100/TTg( tháng 7/2000) của Thủ tướng chính phủ tiếp tục mở rộng phân cấp và tăng thêm chức năng quản lý nhà nước về khu công nghiệp cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.Tuy nhiên do tổ chức bộ máy và năng lực cán bộ quản lý chưa theo kịp với yêu cầu đổi mới, cho nên việc vận hành cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ” chưa thông suốt, việc thực hiện một số thủ tục hải quan, về cấp phép xây dựng, đăng ký chế độ kế toán, đăng ký sử dụng lao động nước ngoài,… còn phức tạp. Đáng lưu ý là có chính sách mới được ban hành thông thoáng, rõ ràng nhưng khi thực thi chính sách đó ở một số nơi lại thiếu nhất quán và chậm trễ, thậm chí người thi hành công vụ lại làm cho chính sách bị sai lệch… Những yếu kém này thường tác động xấu, hạn chế hiệu quả của chính sách thu hút đầu tư. Chính vì vậy, để nâng cao sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài chúng ta cần phải đưa ra những gải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động của khu công nghiệp hơn nữa. Trứoc hết có thể xem xét giải quyết một số vấn đề chính như sau:
Có nhận thức đúng và xác định rõ mục tiêu xây dựng và phát triển khu công nghiệp. Mục đích chính sách thu hút đầu tư ở đây chủ yếu là tạo điều kiện để nhà đầu tư có nhiều thuận lợi hoạt dự ánộng kinh doanh có hiệu quả. Từ đó yêu cầu và nội dung chính sách không lệch sang hướng thu lợi qua các phí, lệ phí từ nhà đầu tư.
Quy chế khu công nghiệp được xác điịnh chủ yếu trên cơ sở Luật đầu tư nước ngoài (1996), nhiều chính sách cụ thể đến nay đã thay đổi, vì thế đã đến lúc Quy chế khu công nghiệp hiện hành cần được sửa đổi, bổ sung:
Tập trung sửa đổi, điều chỉnh một số tồn tại đã rõ, đã được các nhà đầu tư trong và ngoài nước đề đạt đến nhiều lần, chẳng hạn thu hẹp các chênh lệch về hai giá, phi lệ phí giữa đầu tư trong nước và ngoài nước; khắc phục sự chậm trễ trong giải phóng mặt bằng, bảo đảm tỷ suất thuế và mức ưu đãi thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp…
Hoàn thiện chính sách nhất thiết phải đi liền với đổi mới cơ chế thực hiện chính sách, đưa pháp luật và chính sách thực sự đi vào cuộc sống trên cơ sở thực hiện cải cách hành chính, vận dụng tốt hơn cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ” trong các hoạt động khu công nghiệp.
1.5. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, chống hiện tượng tham nhũng trong quá trình quản lý điều hành hoạt động FDI.
Nhìn chung môi trường đầu tư của Việt Nam hiện nay là khá hấp dẫn. Tuy nhiên, các nhà đầu tư nước ngoài còn phàn nàn rất nhiều về thủ tục hành chính của chúng ta. Trong thực tế thi hành, các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng vẫn còn thấy rất nhiều vướng mắc, như quá trình đấu thầu còn phiền hà, nhất là các thủ tục đền bù di dân, giải phóng mặt bằng… Hướng cải cách cần tăng độ ổn định, thiết lập các bước, quy định rõ ràng, nhanh chóng trong cac khâu thẩm định, cấp giấy phép, sử lý vấn đề phát sinh. Có như vậy mới hạn chế được hiện tượng tham nhũng. Để đạt được điều này cần tiến hành một số việc như sau:
Cần tập trung xử lý dứt điểm những vướng mắc của các dự án đang triển khai nhằm tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. Cần mạnh dạn quyết định giải thể một số dự án không sinh lợi theo đề nghị của phía Nhật Bản.
Phải tập trung nâng cao chất lượng quy hoạch, chuẩn bị dự án và đối tác Việt Nam tham gia hợp tác đầu tư với Nhật Bản. Mạnh dạn giới thiệu, lựa chọn các đối tác tư nhân tham gia liên doanh với phía bạn. Trên cơ sở quy hoạch đầu tư phát triển của quốc gia, các bộ, địa phương cần triển khai chi tiết hoá quy hoạch cho phù hợp với địa phương mình. Từ đó sớm công khai danh mục các dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài để các nhà đầu tư nước ngoài đi đúng hướng, tiết kiệm thời gian trong việc triển khai các cơ hội đầu tư.
Cùng với hoàn thiện công tác quy hoạch, cần chú trọng nâng cao hiệu quả, chất lượng của bộ phận phụ trách công tác FDI của cả nước cũng như ở từng địa phương. Không chỉ tập trung vào vấn đề thẩm định và cấp giấy phép mà cần chú ý hơn đến việc giải quyết thủ tục hành chính liên quan và nhất là việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện đầu tư. Củng cố quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, nâng cao năng lực quản lý của các cấp, các ngành, các địa phương và đơn vị hợp tác đầu tư với nước ngoài. Phân cấp quản lý chặt chẽ, đồng bộ, đảm bảo sự tập trung thốnh nhất, khắc phục hiện tượng chia cắt, phân tán. Bên cạnh đó cần cải cách lại bộ máy hành chính, giảm thiểu các thủ tục phiền hà, đơn giản các thủ tục tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiếp tục cải thiện những điều kiện trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, hệ thống bảng biểu thống kê. Theo các nhà đầu tư Nhật Bản thì “các đơn từ giấy phép… không nên chỉ làm bằng tiếng Anh mà nên sử dụng cả một số ngôn ngữ khác (như tiếng Nhật Bản ) để tránh những khó khăn trong quá trình tìm hiểu và xin cấp giấy phép. Đồng thời cần tăng nhanh tốc độ và đơn giản hoá việc cấp giáy phép nhập cảnh, các thủ tục hải quan, giảm bớt những trở ngại đối với những đối tác địa phương trong quá trình thiết lập các doanh nghiệp”.
Đi liền với việc xác định vai trò quan trọng của nguồn vốn FDI của Nhật Bản, về mặt tổ chức phải chăng cần có một bộ phận riêng trong Bộ kế hoạch – đầu tư chuyên theo dõi động thái FDI của Nhật. Hình thành một cơ ché phối hợp giữa các nhà hoạt động thực tiễn với những nhà nghiên cứu về Nhật Bản, nhất là những nhà nghiên cứu liên quan đến FDI của Nhật Bản để tìm kiếm những giải pháp că về ngắn hạn và dài hạn nhằm thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam. Có thể là những cuộc sinh hoạt trao đổi thường kỳ. Đây là việc làm có ý nghĩa và rất cần thiết trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI trong khu vực đang gia tăng.
1.6. Đẩy mạnh quá trình đổi mới phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Nhằm gia tăng sức hút đối với FDI của Nhật Bản nói riêng và FDI trên thế giới nói chung. Chúng ta cần tiếp tục đổi mới, cải cách kinh tế, tạo ra sự phát triển năng động của nền kinh tế. Sự phát triển kihn tế của Việt Nam, nói như ngài đại sứ Nhật Bản Takeshi Nakamura, chính là sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Việc phát triển kinh tế không chỉ tạo ra cơ hội đầu tư mà còn tăng thu nhập mở rộng nhu cầu. Điều này rất có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư nước ngoài nhằm vào sản phẩm phục vụ thị trường Việt Nam.
Đổi mới phát triển kinh tế chính là giữ vững sự ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát và ổn định tiền tệ, giá cả. Phát triển mạnh nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước với sự tham gia của các thành phần nkinh tế, trong đó một mặt phải củng cố kinh tế quốc dân theo hướng hiệu quả, đồng thời phải phát triển mạnh kinh tế tư nhân dưới nhiều hình thức. Dịch chuyển cơ cấu kinh tế cho phù hợp với sự phát triển của phân công lao động quốc tế. Một cơ cấu kinh tế mới chỉ nên tập trung phát triển mạnh các ngành và lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh. Thiết lập một thị trường thông tin công bằng đối với mọi thành viên trong xã hội, đảm bảo quyền thông tin của mọi người dân và các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Mở cửa về thông tin trong và ngoài nước, nhất là thông tin kinh tế, thị trường, văn hoá, xã hội, khoa học công nghệ dưới mọi hình thức. Cải cách lại hệ thống giá cả ở Việt Nam, tránh hiện tượng phân biệt mức giá giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài. Đồng thời Chính phủ Việt Nam phải hạn chế cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các mắt hàng có hiện tượng bão hoà trên thị trường.
Hội nhập quốc tế là vấn đề rất cần thiết khi thực hiện đổi mới phát triển kinh tế. Hội nhập quốc tế chính là tạo ra những mối quan hệ với các nước trên thế giới, tham gia vào các tổ chức quốc tế nhằm tận dụng những nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự phát triển kinh tế đất nước. Trong các nguồn lực bên ngoài đó có nguồn vốn FDI. Trong những năm đầu của thế kỷ 21 này vấn đề hội nhập cần dược xúc tiến mạnh hơn. Việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN, việc đàm phán tiến tới gia nhập WTO… sẽ là những nhân tố rất quan trọng cho việc gia tăng đầu tư nước ngoài, trong đó có đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam.
Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, không đổi mới, không hội nhập thì không những không thu hút được FDI mà nền kinh tế cũng khó có thể phát triển. Đất nước sẽ tụt hậu so với thế giới - đó là nguy cơ lớn nhất và cũng là lý do thúc đẩy quá trình hội nhập và mở cửa, qua đó thu hút FDI, biến ngoại lực thành nội lực để phát triển nền kinh tế nước nhà.
Trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế phải thật quan tâm đến phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính, đặc biệt là việc cải tổ hệ thống tài chính, hệ thống ngân hàng, luật tài chính, luật ngân hàng cho phép các ngân hàng hoạt động đúng chức năng của nó, có các điều luật quy định rõ ràng về kinh doanh tiền tệ trên thị trường tiền tệ, làm cho hoạt động tài chính của ta phù hợp với xu hướng chung của khu vực và thế giới.
1.7. Bên cạnh đó Chính phủ Việt Nam phải có biện pháp nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA của Nhật Bản để làm tốt vai trò hỗ trợ cho việc tăng cường thu hút FDI từ Nhật Bản. Đặc điểm của nguồn vốn FDI của Nhật Bản là nhằm vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở nước tiếp nhận đầu tư, tạo
điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư Nhật Bản đạt dược hiệu quả cao hơn trong việc đầu tư vào Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cần quản lý và sử dụng có hiệu quả và chống thất thoát nguồn vốn ODA mà Nhật Bản viện trợ, Chính phủ nên sử dụng nguồn vốn này trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho việc làm ăn với đối tác Nhật Bản.
Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam cần thiết lập những mối quan hệ thân mậtvới các Chính phủ nước ngoài nhằm tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước đó sang Việt Nam làm ăn. Hoạt động đầu tư nước ngoài có được thực hiện hay không, điều đó còn tuỳ thuộc vào cả hai phía bên đầu tư và bên nhận đầu tư. Vì vậy, để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, cần thiết phải tiến hành đồng bộ các giải pháp khác nhau nhưng thực chất lại gắn bó với nhau, hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Một mặt Việt Nam cần tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn, mặt khác cần tạo sự hiểu biết và lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài. Phải kết hợp hài hoà lợi ích của hai bên đây là cơ sở quan trọng hàng đầu của hợp tác đầu tư.
Về phía các doanh nghiệp:
Để thu hút được FDI của các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng vào hợp tác làm ăn với các doanh nghiệp trong nước, thì bản thân các doanh nghiệp trong nước cần có sự nỗ lực nhằm đáp ứng những yêu cầu hợp tác của phía nhà đầu tư Nhật Bản. Cụ thể, các doanh nghiệp trong nước nên làm một số công việc như sau:
Các doanh nghiệp phải tự tìm kiếm đối tác đầu tư nước ngoài.
Để cùng nhau hợp tác thành công trong công việc thì trước hết các bên phải hiểu rõ và nắm bắt được nhu cầu của nhau. Chính vì vậy, trước khi hợp tác với nhau các bên phải tìm hiểu nhau. Việc tìm hiểu đó có thể là tìm hiểu về uy tín của nhà đầu tư nước ngoài, tìm hiểu về khả năng tài chính của họ, khả năng đáp ứng công nghệ của họ. Ngoài ra, doanh nghiệp cần phải lựa chọn đối tác cho phù hợp với năng lực của mình. Một doanh nghiệp có năng lực tài chính kém, qui mô nhỏ thì không thể và cũng không nên liên kết với công ty có qui mô quá lớn, điều này có thể gây ra sự phụ thuộc của công ty nhỏ vào công ty lớn, dần dần làm mất đi vai trò của mình trong công ty và quyền điều hành công ty hoàn toàn thuộc phiá đối tác có năng lực cao hơn. Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần xem xét thật kỹ lưỡng trong việc lựa chọn đối tác làm sao tìm kiếm được đối tác phù hợp nhất đối với khả năng của mình.
. Các doanh nghiệp trong nước cần liên tục đào tạo nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ công ty.
Hiện nay, đội ngũ quản lý của các doanh nghiệp trong nước còn rất kém. Chính vì điều này đã không đáp ứng được sự hợp tác của các nhà đầu tư nước ngoài. Những nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư hiện nay hầu hết họ muốn đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài, mà chúng ta lại có nhu cầu liên doanh với họ để tiếp thu kinh nghiêm quản lý cũng như muốn tiếp nhận công nghệ tiên tiến của họ. Tuy nhiên, họ không muốn liên doanh với chúng ta một phần là họ không muốn chia sẻ lợi nhuận, nhưng phần lớn nguyên nhân ở đây là do năng lực quản lý cũng như sự hiểu biết nắm bắt công nghệ của chúng ta còn hạn chế. Mọi nhà đầu tư khi đi đầu tư vào thi trường nước ngoài đều thấy lạ lẫm trong môi trường mới, vì vậy họ luôn muốn có những nhà kinh doanh của nước sở tại có năng lực cùng hợp tác với họ nhằm giúp họ hiểu biết về cơ cấu thị trường, quy mô thị trường, cũng như hiểu biết sâu hơn về nền văn hoá của nước sở tại - đây là yếu tố rất dễ gây ra xung đột giữa các bên trong việc hợp tác kinh doanh, và gây ra sự đổ vỡ cho các bên. Chính vì vậy họ cần các đối tác của nước sở tại phải thực sự có năng lực trong mọi lĩnh vực. Để đáp ứng được các yêu cầu của nhà đầu tư nước ngoài các doanh nghiệp phải chú trọng đến việc đào tạo cán bộ quản lý công ty tức là đào theo yêu cầu của các đối tác nước ngoài. Ngoài ra, doang nghiệp cần phải lựa chọn thành viên có đầy đủ năng lực kinh nghiệm để hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài. Không phải ai cũng có thể hợp tác với các đối tác nước ngoài, bởi vì trình độ của những nhà đầu tư nước ngoài thường rất cao và đòi hỏi đối tác cũng phải có năng lực tương đương.
2.3. Các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu kỹ nền văn hoá của đối tác
Một trong những yếu tố quan trọng trước khi tiến hành hợp tác cần phải quan tâm đến là yếu tố văn hoá. Không hiểu rõ nền văn hoá rất dễ dẫn đến xung đột và gây ra sự đổ vỡ trong hợp tác. Văn hoá ở đây bao gồm: ngôn ngữ, phong tục, tập quán… Mỗi quốc gia có một nền văn hoá riêng biệt, vì vậy để hiểu được phong cách làm ăn của đối tác nước ngoài các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu thật sâu về nền văn hoá của họ. Các doanh nghiệp phải có những khoá học cho các cán bộ quản lý cũng như công nhân làm việc trong công ty hiểu rõ nề văn hoá của đối tác nước ngoài, từ đó hiểu được phong cách làm việc của họ. Trên thực tế có rất nhiều xung đột xẩy ra do yếu tố văn hoá gây ra như hiểu nhầm ý của đối tác nước ngoài do không hiểu sâu chính xác về ngôn ngữ của họ, hoặc không hiểu họ nói gì do không biết ngôn ngữ của họ, chính vì vậy gây ra rất nhiều trở ngại cho viẹc ra quyết định. Ngoài ra, có rất nhiều trường hợp đối tác nước ngoài đánh đập công nhân Việt Nam, điều này cũng không thể đổ hết lỗi cho các nhà đầu tư nước ngoài là hành hung công nhân Việt Nam mà chúng ta phải xem xét nhìn nhận lại cho thật công bằng để rút ra những điều cần điều chỉnh lại trong đội ngũ công nhân của công ty. Hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài là những nhà kinh doanh thuộc các nước tư bản, do đó họ đều có phong cách làm việc nghiêm khắc. Đặc biệt là các nhà đầu tư Nhật Bản, trong khi đó người Việt Nam chúng ta lại gần như là những người không có trách nhiệm trong công việc, hay lơ là trong khi làm việc, bỏ bê công việc điều này hoàn toàn trái với phong cách làm việc của người nước ngoài chính vì vậy đã gây ra những xung đột giữa đối tác nước ngoài với công nhân. Để khắc phục được điều này bên Việt Nam cần cố gắng tìm hiểu thật kỹ nền văn hoá của đối tác nước ngoài.
Tóm lại, hiện nay chúng ta đang là những người có nhu cầu tiếp nhận công nghệ tiến tiến cũng như kinh nghiệm quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng. Chính vì vậy chúng ta phải đáp ứng yêu cầu của họ từ đó đạt được mục đích của mình. Tuy nhiên, không phải đáp ứng một cách phụ thuộc, họ bảo gì ta làm đó mà đáp ứng yêu cầu của họ ở đây là theo hướng có lợi cho Việt Nam. Chẳng hạn vấn đề đào tạo cán bộ sẽ nâng cao được năng lực cho chính các cán bộ trong nước.
KẾT LUẬN
Qua việc phân tích, đánh giá đầu tư của Nhật Bản vào các nước ASEAN ta hiểu được nguyên nhân đầu tư của Nhật Bản vào các nước ASEAN và nắm bắt rõ được chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của các nước ASEAN. Bên cạnh đó, chúng ta cũng thấy được vai trò của vốn đầu tư của Nhật Bản đối với các nước ASEAN trong việc thực hiện công cuộc công nghiệp hoá đất nước. Cũng giống như các nước ASEAN, Việt Nam đang trong thời kỳ thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nguồn vốn đầu tư nước ngoài là rất cần thiết trong thời kỳ này, và chúng ta cũng nhận thấy được vai trò của vốn FDI, trong đó có nguồn vốn FDI của Nhật Bản đối với sự phát triển đất nước. Với tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, Việt Nam hiện nay rất giống các nước ASEAN trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá đất nước. Chúng ta hoàn toàn có thể hy vọng vào sự thu hút đầu tư nước ngoài trong tương lai, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư Nhật Bản – những nhà đầu tư luôn cần đến nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ. Hy vọng rằng chúng ta sẽ sớm đạt được mục tiêu trở thành một nước công nghiệp phát triển vào năm 2020 mà Đảng và nhà nước đã đề ra.
Trong thời gian thực tập tại trung tâm nghiên cứu Nhật Bản, được sự đồng ý, giúp đỡ của thấy giáo hướng dẫn và sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ nghiên cứu trong trung tâm, em đã lựa chọn đề tài tốt nghiệp: “Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại các nước ASEAN và một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong việc thu hút FDI của Nhật Bản”. Em đã tìm hiểu quá trình đầu tư của Nhật Bản vào các nước ASEAN trong thời gian qua và biết được nguyên nhân đầu tư của Nhật Bản vào các nước này, bên cạnh đó còn tìm hiểu một cách kỹ lưỡng về chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của các nước ASEAN và từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong việc thu hút FDI nói chung và FDI cảu Nhật Bản nói riêng.
Do chưa có điều kiện nghiên cứu sâu hơn từ các dự án cụ thể nên không thể tránh được những thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến đong góp của các thầy, cô giáo để đề tài được hoàn thiện hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KDQT07.docx