Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam nói chung, Hưng Yên nói riêng những năm qua đã thu được những thành tựu đáng khích lệ, đặc biệt trong bối cảnh đất nước còn khó khăn: thiếu vốn, công nghệ, trình độ quản lý Những kết quả này là sự hấp dẫn đầu tư cũng như sự thông thoáng của luật đầu tư nước ngoài.
Đối với Hưng Yên, nguồn vốn FDI ngày càng gia tăng và ngày càng phát huy được hiệu quả rõ rệt trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của tỉnh nói riêng, đất nước nói chung.
Tuy nhiên, Hoạt động FDI trong những năm qua tại Hưng Yên cũng bộc lộ một số hạn chế. Cơ cấu đầu tư còn bất hợp lý và hiệu quả tổng thể kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư trực tiếp còn chưa cao; môi trường pháp lý còn đang trong quá trình hoàn thiện; thủ tục hành chính còn rườm rà ; đặc biệt thời kỳ (1997 - 2000), do nhiều nguyên nhân, hoạt động của lĩnh vực này rất yếu kém, trong vòng 4 năm chỉ thu hút được vài dự án. Từ năm 2000 tới nay đã có dấu hiệu phục hồi và tăng trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc. Vì vậy, việc cải thiện toàn diện môi trường FDI tại Hưng Yên là vấn đề tất yếu trong giai đoạn hiện nay và hy vọng rằng các giải pháp nêu trên sẽ đóng góp được phần nhỏ bé trong nỗ lực giải quyết vấn đề này.
Những năm đầu thế kỷ 21 này, tỉnh Hưng Yên đang có nhiều cơ hội đồng thời phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn, đặc biệt phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt về xuất khẩu, về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các tỉnh khác và từ các nước trong khu vực. Nhưng sự ổn định về chính trị cùng với chính sách nhất quán và lâu dài, những lợi thế vốn có về tài nguyên, con người sẽ vẫn là những thế mạnh cho môi trường đầu tư của tỉnh Hưng Yên. Cùng với những nỗ lực và quyết tâm thu hút FDI của tỉnh Hưng Yên chắc chắn đây sẽ là địa chỉ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
132 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1282 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hưng Yên: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Yên nói riêng và Việt Nam nói chung thành nơi thải các máy móc thiết bị lạc hậu, làm thiệt hại lớn đến bên đối tác Việt Nam.
Khu vực có vốn FDI đóng góp đáng kể vào nền kinh tế - xã hội Hưng Yên thông qua chỉ tiêu ngân sách và doanh thu, tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn FDI còn thấp, nhất là về mặt xã hội, quan hệ sản xuất. Nhiều doanh nghiệp liên doanh thua lỗ nặng nề khiến quyền lợi kinh tế - xã hội của Hưng Yên bị ảnh hưởng. Nguyên nhân thua lỗ thì nhiều song yếu tố chính là chi phí vật chất và khấu hao tài sản cố định quá lớn do giá máy móc thiết bị bên nước ngoài đưa vào liên doanh quá cao so với thực tế. Ngoài ra, còn có thể chính các đối tác nước ngoài thực hiện “chiến lược lỗ” để thúc đẩy quá trình chuyển hóa thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Hiện tượng các liên doanh lần lượt báo lỗ đã phần nào chứng minh được điều đó.
- Những bất cập còn tồn tại của khu công nghiệp:
+ Chi phí đầu tư còn rất cao, các ngành công nghiệp vệ tinh kém phát triển.
+ Khả năng cho thuê đất của các khu công nghiệp tập trung còn nhiều hạn chế.
+ Diện tích lấp đầy chưa cao so với bình quân của các KCN trong cả nước.
+ Có KCN chưa thu hút được nhà đầu tư lớn, trình độ kỹ thuật công nghệ chưa cao.
+ Giải quyết việc làm cho người lao động còn ít.
+ Môi trường đầu tư chưa hấp dẫn (giá thuê đất cao, giải phóng mặt bằng khó khăn kéo dài và chi phí lớn; chi phí hạ tầng cao; lệ phí và các dịch vụ cao…).
+ Các chủ đầu tư chưa thực sự chủ động giải quyết khó khăn để thực hiện dự án; thiếu trách nhiệm và tinh thần hợp tác; còn bảo thủ, thiếu năng động trong xúc tiến đầu tư.
+ Vai trò của đối tác Việt Nam trong liên doanh còn rất mờ nhạt.
+ Chính sách hỗ trợ của Nhà nước và tỉnh chưa thực sự nâng cao lợi thế kinh doanh cho các KCN.
+ Do phá vỡ tổng thể quy hoạch và mục tiêu xây dựng ban đầu khiến công ty kinh doanh bị mất động lực đầu tư.
2..3.2.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
Công tác huy động và sử dụng nguồn vốn FDI ở Hưng Yên tuy đã đạt được những thành tựu đáng kể xong vẫn tồn tại những hạn chế. Ngoài các nguyên nhân khách quan như ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, tình trạng cạnh tranh trong việc thu hút FDI giữa các nước ngày càng gia tăng, phải kể đến các nguyên nhân chủ quan trước hết liên quan đến luật pháp và cơ chế, chính sách như sau:
- Luật ĐTNN sửa đổi, bổ sung làm cho các nhà ĐTNN phải thận trọng cân nhắc kỹ càng hơn trong việc ra quyết định đầu tư vào Việt Nam, vì vậy tốc độ đầu tư cũng bị chững lại. Khung pháp luật và hệ thống các văn bản của các Bộ, ngành chuyên môn chưa đủ sức hấp dẫn so với chính sách kêu gọi đầu tư của các nước trong khu vực. Văn bản hướng dẫn hoạt động ĐTNN còn tiến hành chậm, chưa rõ ràng, khó thực hiện được: chính sách thuế, giá dịch vụ, các chi phí quảng cáo… Một số cơ chế về quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái và vay vốn còn quá cứng nhắc, chưa phù hợp với tình hình cụ thể.
- Một số quy định chưa mang tính hấp dẫn đối với các nhà ĐTNN như chương trình nội địa hóa với các dự án công nghiệp nặng, điểm xuất phát phải đạt 25%, quy định xuất nhập khẩu trên 80% sản phẩm đối với lĩnh vực đầu tư vào Việt Nam; sự phân biệt giữa các Công ty trong và ngoài nước như mức chênh lệch về cước phí điện, điện thoại… Ngoài ra sự cạnh tranh và điều tiết của thị trường nội địa đã phần nào làm mất đi cơ hội cho các nhà ĐTNN, nhất là vào các lĩnh vực đem lại lợi nhuận cao như khách sạn, văn phòng, căn hộ…
- Cho đến nay, vẫn chưa thống nhất một số quan điểm, nhận thức liên quan đến đầu tư nước ngoài: quan điểm về hiệu quả ĐTNN, tỷ lệ góp vốn giữa các bên đầu tư, về việc miễn thuế thu nhập 2 năm cho các doanh nghiệp ĐTNN với thuế nhập khẩu, bên nào chịu phần chi phí giải phóng mặt bằng… Công tác đền bù giải phóng còn nhiều khó khăn, chưa được giải quyết triệt để, chế độ chính sách thiếu đồng bộ. Hơn nữa giá thuế đất quá cao, có sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, Nhà nước cho doanh nghiệp trong nước thuê đất với giá 5.000.000đồng/ha/năm (350 USD); doanh nghiệp có vốn ĐTNN là 1.300-2.000 USD/năm.
Nguồn vốn đầu tư còn chưa đủ nên tỉnh chỉ tập trung vào các công trình trọng điểm, mang tính chiến lược nên cơ cấu kinh tế không cân đối. Hơn nữa, nguồn vốn tích lũy trong nội bộ còn thấp (hơn 40% tổng vốn đầu tư), thiếu trình độ kỹ thuật - công nghệ nên phải chấp nhận hình thức liên doanh hay 100% vốn nước ngoài ở các lĩnh vực như viễn thông, điện tử… Mặc dù biết rằng hình thức này sẽ gây khó khăn trong việc quản lý và định hướng chiến lược.
- Thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài còn quá rườm rà, phức tạp. Thủ tục và các bước tiến hành dự án từ khâu thẩm định, cấp giấy phép đến theo dõi, kiểm tra sau khi cấp giấy phép đã được quy định nhưng trong quá trình thực hiện các cơ quan quản lý còn gặp nhiều lúng túng, các nhà đầu tư còn gặp rắc rối. Bởi các cơ quan quản lý yếu kém trong việc kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN sau khi được cấp giấy phép, sự thiếu đồng bộ trong việc cấp giấy phép đầu tư đã làm chậm chễ cho việc thực hiện dự án, sự không thống nhất trong quy định với thông lệ quốc tế. Ngoài ra còn kể đến những nhũng nhiễu, phiền hà của một số cán bộ cấp dưới cũng gây không ít khó chịu cho các nhà đầu tư.
- Quy hoạch không gian chung của tỉnh đã được phê duyệt nhưng các quy hoạch chi tiết của Hưng Yên chưa được khẳng định nên các nhà ĐTNN rất khó khăn trong việc lựa chọn khu vực đầu tư (đặc biệt là các dự án có quy mô xây dựng lớn).
- Công tác vận động đầu tư là một trong những công việc mới mẻ trong hoạt động FDI. Trong thực tế tuy có tham khảo kinh nghiệm của các nước khác xong vẫn còn nhiều bỡ ngỡ: thụ động trong việc hợp tác đầu tư, chưa chủ động tạo ra cơ hội đầu tư bằng cách xây dựng danh mục các dự án hoàn chỉnh.
- Trình độ cán bộ, lao động của Việt Nam còn nhiều yếu kém. Lực lượng lao động kỹ thuật, số cơ sở đào tạo công nhân kỹ thuật không những không tăng mà còn giảm đi so với trước kia. Trình độ đào tạo công nhân kỹ thuật không được nâng cao trong khi trên thế giới, khoa học - công nghệ tiến bộ nhanh, vì vậy chất lượng công nhân kỹ thuật của ta giảm đi rất nhiều so với mặt bằng chung của khu vực.
- Hiệu quả hoạt động của các dự án đầu tư trước đây còn thấp, không gây được niềm tin cho các nhà ĐTNN. Ngoài ra, sức mua của thị trường trong nước còn nhỏ bé không tạo đủ cầu để kích thích sản xuất cũng như đầu tư.
Qua phân tích ở trên, có thể thấy rằng thời gian qua, tăng trưởng của khu vực FDI và khu vực ngoài Nhà nước chính là những động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế tỉnh Hưng Yên. Hiệu quả sử dụng vốn của FDI ở Hưng Yên luôn cao hơn cao hơn các địa phương khác trong cả nước. Đóng góp của FDI trong tăng trưởng ngày càng tăng thêm. Mặc dù đầu tư FDI của Hưng Yên trong những năm gần đây tăng chậm nhưng tác động của FDI trong việc hướng ra xuất khẩu, tạo việc làm là rất tích cực. Trên nhiều mặt, FDI là có hiệu quả trong phát triển kinh tế Hưng Yên.
Tuy đã có những kết quả nhất định nhưng dòng vốn FDI đã giảm mạnh sau khủng hoảng khu vực và đang gia tăng trở lại trong những năm gần đây với tốc độ chậm chạp. Hiệu quả vốn FDI có dấu hiệu suy giảm, tuy vẫn là một trong những khu vực có hiệu quả nhất của nền kinh tế. Điều này do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan nhưng nguyên nhân chính vẫn là do những hạn chế của môi trường đầu tư Hưng Yên. Hạn chế lớn nhất là do công tác quản lý Nhà nước về hoạt động FDI chưa đạt tới tầm vĩ mô, công tác quy hoạch kém, thụ động và luôn đi sau thực tế, luật pháp, chính sách không minh bạch và hay thay đổi, thủ tục hành chính vẫn còn nặng nề. Bên cạnh đó chi phí cho hoạt động kinh doanh quá cao so với khu vực cũng hạn chế hiệu quả của FDI. Những hạn chế này đã tồn tại từ trước khi diễn ra khủng hoảng tài chính khu vực, tuy nhiên chỉ đến thời kỳ khó khăn, khi cạnh tranh giữa các nước trong khu vực trong hoạt động FDI trở nên gay gắt, nó mới bộc lộ ra một cách rõ nét.
Bối cảnh trong nước và quốc tế đã có nhiều biến động, cạnh tranh thu hút FDI giữa các nước đang phát triển, các nước trong khu vực và ngay các địa phương trong nước đang trở nên ngày càng gay gắt. Để khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc khủng hoảng khu vực, khôi phục dòng vốn FDI và tận dụng dòng vốn này một cách có hiệu quả để phát triển kinh tế trong nước, đòi hỏi phải có bước chuyển mình mạnh mẽ hơn nữa để tự hoàn thiện.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH, GIẢI PHÁP
NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ FDI Ở HƯNG YÊN
3.1. MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG THU HÚT FDI CỦA HƯNG YÊN TRONG THỜI GIAN TỚI.
3.1.1. Cơ sở định hướng.
3.1.1.1. Bối cảnh quốc tế.
Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan đang ngày một lan rộng khiến không một quốc gia nào đứng ngoài cuộc mà không bị ảnh hưởng. Phân công và hợp tác lao động quốc tế cũng đang phát triển mạnh mẽ và ngày một sâu rộng trong mọi lĩnh vực kinh tế văn hóa - xã hội. Xu thế này đòi hỏi Việt Nam phải tìm ra thế mạnh riêng của mình và xác định các lĩnh vực có thể tận dụng thế mạnh của nước ngoài để phát triển, tham gia có hiệu quả vào quá trình toàn cầu hóa, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
Mặc dù luồng FDI trên thế giới chủ yếu vẫn là đầu tư giữa các nước phát triển nhưng FDI vào các nước đang phát triển cũng gia tăng nhanh chóng. Xu thế này tạo cơ hội cho các nước đang phát triển cơ hội nhận được nhiều vốn hơn từ bên ngoài nếu có một chính sách thu hút đúng đắn. Tuy nhiên, sự cạnh tranh giữa các nước đang phát triển ngày càng cao.
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực phát triển năng động, trong đó Trung Quốc đang và sẽ tiếp tục có vai trò ngày càng quan trọng, đặc biệt sau khi gia nhập WTO năm 2002. Sau khủng hoảng tài chính, kinh tế của nhiều nước ASEAN và Đông Á đã và đang phục hồi và phát triển với khả năng cạnh tranh được tăng cường. Sự cơ cấu lại nền kinh tế, củng cố và lạnh mạnh hóa nền tài chính trong nước, đổi mới các chính sách kinh tế đặc biệt là chính sách đối ngoại, trong đó tăng trưởng thu hút FDI của các nước trong khu vực là một thách thức lớn đối với Việt Nam nói chung và Hưng Yên nói riêng.
Các công ty đa quốc gia (TNCs) liên tiếp được cơ cấu lại, làn sóng sát nhập và mua lại (M&As) diễn ra trên hầu khắp các lĩnh vực, các quốc gia để hình thành nên những tập đoàn khổng lồ chi phối các lĩnh vực kinh tế. Mặc dù không phải tất cả các hoạt động M&As đều là FDI nhưng nó chiếm phần chủ yếu trong luồng FDI tại các nước phát triển. Năm 1998 M&As đã chiếm tới 90% FDI tại Mỹ (UNCTAD - Báo cáo đầu tư thế giới năm 1999). Xu hướng này sẽ ảnh hưởng tới tất cả các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam vì phần lớn FDI tại các nước đang phát triển là từ các TNCs. Việt Nam cần nhận thức đúng đắn xu hướng này để có những điều chỉnh phù hợp trong quản lý, điều hành hoạt động FDI.
3.1.1.2. Bối cảnh trong nước.
Sau gần 20 năm thực hiện chủ trương thu hút và sử dụng FDI cho phát triển kinh tế, FDI có những thành công và đóng góp tích cực trong sự phát triển kinh tế Việt Nam. Do nhiều nguyên nhân dòng FDI vào Việt Nam đã suy giảm trong những năm gần đây và chưa phục hồi lại như cũ. Có thể thấy rằng Việt Nam đã qua giai đoạn ban đầu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều rộng với việc tìm kiếm thị trường mới của các đối tác nước ngoài. Giai đoạn phát triển mới yêu cầu Việt Nam phải có những biến đổi căn bản về chính sách thu hút và sử dụng FDI để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước.
Do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á, nền kinh tế Việt Nam đã suy giảm đà tăng trưởng và hiện vẫn chưa phục hồi như giai đoạn trước khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng đã khiến nền kinh tế Việt Nam bộc lộ những yếu kém nhất định và đòi hỏi sự tái cơ cấu lại nền kinh tế trên tất cả các lĩnh vực để đạt được mục tiêu tăng trưởng bền vững.
Việt Nam đã ký kết hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 46 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới và hiện đang đàm phán để ký kết Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam - Nhật Bản. Việt Nam cũng đã ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, trong đó cũng đã dành hẳn 1 chương về đầu tư. Việt Nam đã là thành viên của ASEAN và việc chuẩn bị gia nhập hoàn toàn vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA năm 2006). Các cam kết song phương và đa phương đã được ký kết đang đặt ra những yêu cầu bức bách đối với nền kinh tế trong nước là phải tự lớn mạnh để chuẩn bị tốt cho tiến trình hội nhập. Với tư cách là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, khu vực FDI cũng đứng trước bối cảnh hội nhập và cần sự điều chỉnh cùng với những định hướng phù hợp để phát huy tối đa hiệu quả của nguồn vốn này cho phát triển kinh tế.
3.1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của FDI trong thời gian tới.
Tỉnh cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ trương chính sách của Nhà nước và của tỉnh để nhân dân thấy rõ lợi ích của cá nhân, của địa phương, của tỉnh để sẵn sàng chuyển đất sang làm công nghiệp. Tập trung phát triển thêm các KCN nhằm khuyến khích, thu hút FDI và các thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển công nghiệp. Thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế theo hướng phát triển CNH - HĐH. Đẩy nhanh tiến độ triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng cho các KCN và các khu quy hoạch công nghiệp như đường giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc và bố trí sử dụng đất để sử dụng tiết kiệm và các vấn đề về môi trường. Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho các dự án đã được chấp thuận sớm đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động có hiệu quả.
Thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước của đơn vị mình trong việc theo dõi, kiểm tra các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài để đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM THU HÚT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ FDI TẠI HƯNG YÊN.
3.2.1. Tiếp tục đổi mới nhận thức đối với FDI.
Trước hết về quan điểm chung, chúng ta cần đánh giá đúng vị trí của FDI trong nền kinh tế quốc dân: FDI là bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư của Quốc gia, mà nguồn vốn trong nước xét tổng thể có ý nghĩa quyết định. FDI không thay thế được các nguồn đầu tư khác, nhưng có thế mạnh riêng của nó. Trong những năm trước mắt, khi nguồn vốn tích lũy từ nội bộ nền kinh tế còn hạn hẹp, nguồn ODA chưa đáng kể thì FDI chiếm vị trí quan trọng góp phần cải tiến cơ cấu kinh tế quốc dân. FDI là việc thu hút dòng tiền từ các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện các hình thức đầu tư như liên doanh, 100% vốn nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Rõ ràng FDI khác với ODA là không xảy ra tình trạng nợ cho các thế hệ mai sau. Khi bỏ vốn đầu tư vào Việt Nam, chủ đầu tư buộc phải quan tâm, làm chủ tiền đẻ ra. Trong quan hệ làm ăn với các đối tác Việt Nam theo nguyên tắc phân chia lợi nhuận và rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên. Vì vậy trong quá trình thu hút FDI cần phải có nhận thức tư duy phù hợp đó là:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một nguồn vốn tất yếu để phát triển nền kinh tế quốc gia. Chúng ta không nên ngộ nhận FDI là nhân tố chỉ có hại cho nền kinh tế độc lập, tự chủ hay cho rằng FDI làm mất chủ quyền dân tộc.
- Đánh giá dòng vốn FDI, không nên coi FDI là chiếc “chìa khóa vàng” cho sự phát triển kinh tế của Quốc gia.
- Cần có chính sách kinh tế đặc biệt cho Hưng Yên thực hiện tốc độ tăng trưởng kinh tế đột phá để theo kịp các tỉnh trong khu vực trong thời gian ngắn nhất.
- Thực hiện chiến lược CNH - HĐH, đặc biệt là chiến lược công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu và chiến lược công nghiệp hóa thay thế hàng nhập khẩu.
- Cần nghiên cứu và có nhận thức sâu sắc về nền kinh tế thị trường để xây dựng chiến lược thu hút FDI cho phù hợp hơn (lấy kinh tế thị trường điều tiết cho phát triển FDI).
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới cơ chế chính sách.
Cần tạo môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo xu hướng đồng bộ hóa về luật, tăng ưu đãi về tài chính cho nhà đầu tư đi đôi với việc kiểm soát chặt chẽ những điều kiện liên quan đến sự phát triển ổn định, bền vững (như yếu tố xã hội - môi trường) cho phù hợp với tình hình trong nước và thông lệ quốc tế. Cần coi trọng cả việc ban hành quy chế mới và dỡ bỏ những quy chế không phù hợp với thông lệ quốc tế (như xem xét việc đánh thuế trùng trong việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài hoặc quy định về việc hoàn vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất của bên Việt Nam khi tham gia liên doanh thì liên doanh đó phải nộp thuế sử dụng vốn như một tài sản cố định…). Phải tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các luật. Cần sớm ban hành Luật Bất động sản. Đặc biệt, cần tiến tới thống nhất điều chỉnh các hoạt động đầu tư trong nước và ngoài nước bởi một luật đầu tư thống nhất chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Các văn bản dưới luật cần được ban hành kịp thời với nội dung rõ ràng, thống nhất với luật. Khi thực hiện đầu tư, các nhà ĐTNN thường đụng chạm đến các văn bản dưới luật (góp vốn, thuê đất, tuyển dụng lao động, xuất nhập khẩu…) nếu không có văn bản hướng dẫn cụ thể thì hoạt động đầu tư gặp nhiều khó khăn. Sớm hoàn chỉnh và bổ sung các văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định 24/2000/NĐ-Chính phủ, Nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000, đảm bảo tính thực thi thống nhất từ Trung ương đến các địa phương và tới doanh nghiệp. Đồng thời phải phối hợp giữa các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất các giải pháp giải quyết xung đột về pháp lý giữa Luật Đầu tư nước ngoài với các văn bản pháp luật khác như Bộ Luật dân sự, Luật Đất đai, Luật Ngân hàng… nhằm tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho hoạt động của các doanh nghiệp.
Nguyên tắc cần đảm bảo là tạo “sân chơi” bình đẳng cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN và các doanh nghiệp trong nước. Trong quá trình xây dựng chính sách phải lấy ý kiến của các chuyên gia, nhà ĐTNN và các đối tác trong nước, căn cứ vào tình hình cụ thể mà đưa ra chính sách. Quá trình thực hiện chính sách phải được tổng kết theo định kỳ để rút kinh nghiệm, bổ sung hoàn thiện chính sách. Để khuyến khích hoạt động ĐTNN cần quan tâm tới một số chính sách:
- Chính sách đất đai: Cần cụ thể hóa việc cho thuê, thế chấp, chuyển nhượng đất đai; giảm giá thuê đất, công tác đo đạc chỉ lên tiến hành tối đa 2 lần, thủ tục đơn giản, chi phí giải phóng mặt bằng được xác định trên cơ sở giá thị trường và có sự thỏa thuận với người sử dụng đất. Xúc tiến việc xây dựng pháp lệnh đền bù và tái định cư, bỏ hệ số K khi xác định giá đất đền bù thiệt hại, quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị thu hồi đất phải di chuyển đến nơi ở mới, quy định bắt buộc về cơ sở hạ tầng, nhất là trường học và cơ sở khám chữa bệnh tại khu tái định cư và các công trình phúc lợi khác phục vụ đời sống của nhân dân.
- Chính sách thuế và hỗ trợ tài chính: Rà soát lại các chính sách về thuế để đảm bảo tính ổn định và thay đổi những bất hợp lý theo hướng khuyến khích các dự án thực hiện nội địa hóa, khắc phục tình trạng nhập khẩu nguyên liệu, vật tư, linh kiện để sản xuất chịu thuế cao hơn nhập thành phẩm. Nhà nước cần nghiên cứu chính sách ưu đãi tài chính: Giải quyết vấn đề hoàn thuế, chuyển lợi nhuận về nước, vốn góp, hỗ trợ các dự án đã được cấp giấy phép hưởng những ưu đãi về thuế lợi tức, giá thuê đất mới, giảm thuế doanh thu cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, cho phép các tổ chức tài chính hỗ trợ về mặt tài chính cho các đối tác Việt Nam ở đơn vị liên doanh nhằm hạn chế cao nhất mức thiệt hại của Việt Nam và các nhà ĐTNN tìm được đối tác trong nước có đủ năng lực về tài chính.
Thực hiện nới lỏng các chính sách: miễn giá thuê đất trong 3 năm đầu và giảm tối thiểu 50% giá thuê đất trong 5 năm tiếp theo (đối với các KCN cần có mức ưu đãi cao hơn, thận chí gấp đôi), thực hiện nguyên tắc “không hồi tố”, giảm thuế lợi tức xuống 5%; các doanh nghiệp FDI có quyền quyết định lập quỹ dự phòng, không bắt buộc phải trích từ lợi nhuận; giảm thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; cho các phương tiện vận tải đồng bộ sản xuất hoặc không sản xuất ở Việt Nam, nguyên vật liệu không sản xuất ở Việt Nam được miễn giảm thuế giá trị gia tăng. Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, nâng cao mức thu nhập chịu thuế cho người nước ngoài và giảm mức thuế suất.
Bổ sung chính sách cụ thể về thu phí để hoàn vốn nhằm đưa hình thức BOT, BTO, BT vào thực tiễn.
- Chính sách lao động và tiền lương: Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN được phép tuyển lao động trực tiếp không cần thông qua cơ quan lao động Việt Nam, thỏa thuận mức lương bằng tiền đồng. Nhà nước chỉ cần quy định mức lương tối thiểu phù hợp với tình hình cùng thời kỳ.
- Chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm: Khuyến khích xuất khẩu sản phẩm chất lượng cao, đã thông qua chế biến; sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam; nghiên cứu ban hành chính sách chống độc quyền, chống phá giá hàng hóa, xây dựng luật cạnh tranh để tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Trường hợp doanh nghiệp ĐTNN bị thua lỗ do việc bán sản phẩm dưới giá thành kéo dài vì động cơ không lành mạnh cần phải được sử lý về trách nhiệm và kinh tế. Bảo hộ thị trường trong nước bằng các biện pháp hành chính nên rất hạn chế và chỉ hướng vào một số mặt hàng nhất định.
- Chính sách công nghệ: Xây dựng chiến lược thu hút công nghệ hiện đại, coi trong xây dựng khu công nghệ cao, công nghệ sạch ở vùng thích hợp với hệ thống quy chế rõ ràng. Máy móc, thiết bị đưa vào góp vốn hoặc nhập khẩu hải quan giám định chất lượng. Xử lý thỏa đáng việc nhập thiết bị đã qua sử dụng theo nguyên tắc để nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm và tự quyết định nhưng phải bảo đảm các quy định về an toàn lao động và vệ sinh môi trường. Đào tạo cán bộ quản lý khoa học công nghệ, thường xuyên đưa một số cán bộ có phẩm chất và chuyên môn cao ra nước ngoài để tiếp cận thông tin về công nghệ, từ đó nâng cao hiệu quả giám định chất lượng công nghệ. Bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ công nghệ.
- Chính sách về giá: Việt Nam đã có lộ trình cụ thể về giảm chi phí kinh doanh cho các doanh nghiệp FDI theo hướng từng bước xóa bỏ chế độ hai giá và phân biệt đối xử về giá giữa khu vực trong nước và khu vực có vốn nước ngoài. Ban vật giá chính phủ đã trình Thủ tướng Chính phủ đề án điều chỉnh giá, phí để thống nhất một mặt bằng chung cho đầu tư trong nước và nước ngoài và lộ trình này đã và đang được thực hiện theo hướng nâng giá áp dụng cho người Việt Nam lên và giảm giá áp dụng đối với khu vực nước ngoài. Giá điện năm 2002 cũng đã giảm đối với khu vực FDI. Cước viễn thông cũng đã được điều chỉnh giảm theo lộ trình mà đợt giảm cước gần đây nhất là từ ngày 1/4/2003. Việt Nam đã và đang triển khai thực hiện các cam kết về lộ trình giảm giá và thực hiện xóa bỏ cơ chế 2 giá.
Tuy nhiên, ngay cả khi xóa bỏ được chế độ 2 giá và thực hiện lộ trình giảm giá thì mức giá kinh doanh ở Việt Nam vẫn còn ở mức rất cao so với khu vực, đặc biệt là giá điện, nước, cước vận tải đường biển, cước hàng không… làm giảm hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế. Việc giảm giá không chỉ làm giảm so với Việt Nam mà phải làm giảm so với mặt bằng chung của khu vực thì mới có thể khuyến khích được dòng FDI vào. Do vậy, song song với việc đẩy nhanh xóa bỏ cơ chế 2 giá, vấn đề quan trọng hơn là phải thực hiện giảm chi phí kinh doanh.
Để thực hiện tốt việc giảm giá thì biện pháp hữu hiệu nhất là tạo ra một môi trường cạnh tranh thực sự cho các doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ hiện đang ở mức giá cao, chẳng hạn như ngành viễn thông, cung cấp nước, cung cấp điện… Những ngành này hiện nay sự tham gia của khu vực ngoài Nhà nước còn rất hạn chế. Trong thời gian trước mắt, những lĩnh vực này có thể mở rộng cho các nhà đầu tư trong nước như chính sách đang áp dụng đối với dịch vụ viễn thông rồi dần dần mở cửa cho đầu tư nước ngoài. Việc mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài trong một số lĩnh vực dịch vụ theo cam kết tại Hiệp định thương mại Việt - Mỹ là 5 - 7 năm sau ngày Hiệp định có hiệu lực. Thời gian cũng không còn nhiều, do vậy, cải tổ khu vực trong nước để đủ sức cạnh tranh trước khi mở cửa thị trường là rất quan trọng.
Cụ thể, chế độ 2 giá đối với giá điện, theo lộ trình xóa bỏ cơ chế 2 giá, sẽ được loại bỏ trong năm 2004. Để làm giảm chi phí điện năng, Chính phủ khuyến khích việc đầu tư vào nguồn điện và dự thảo Luật điện đang trong quá trình soạn thảo và sẽ trình Quốc hội phê duyệt trong năm 2004. Sau khi được phê duyệt và có hiệu lực, giá điện sẽ được xác định bởi thị trường chứ không phải do Nhà nước quy định như hiện nay.
Đối với chi phí viễn thông, việc loại bỏ cơ chế 2 giá cũng được thực hiện theo lộ trình. Trong thời gian tới, cùng với việc mở cửa thị trường dịch vụ viễn thông, giá cước viễn thông cũng sẽ được xác định theo cơ chế thị trường và tiến gần hơn với mức giá chung trong khu vực. Chính phủ quan tâm đến khía cạnh này và đang chỉ đạo sát sao các cơ quan liên quan thực hiện đề án giảm giá.
- Chính sách về lao động và thu nhập: Đối với chi phí lao động, đặc biệt là chi phí quản lý lao động bậc trung và cao cấp. Việt Nam đang sửa đổi pháp lệnh thuế, thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao theo hướng nâng mức khởi điểm chịu thuế và giảm mức điều tiết thu nhập. Dự thảo này được các doanh nghiệp hưởng ứng vì có điều kiện sử dụng lao động Việt Nam ở vị trí cao để giảm chi phí thuê người nước ngoài. Không những thế, việc sửa đổi Pháp lệnh cũng sẽ tạo điều kiện chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý cho người Việt Nam. Đối với công nhân, các mô hình đào tạo nghề đang được nghiên cứu và triển khai áp dụng để tăng cường đội ngũ lao động có kỹ năng, được đào tạo, tăng khả năng tuyển dụng và giảm chi phí đào tạo lại đối với các doanh nghiệp FDI.
- Chính sách cơ sở hạ tầng: Đối với chi phí mặt bằng, việc giảm giá cũng cần được đẩy mạnh, đặc biệt là thúc đẩy tiến độ giải phóng mặt bằng và giảm giá chi phí đền bù giải tỏa. Việc giải phóng mặt bằng cần được thực hiện cương quyết, theo đúng tiến độ. Các đơn vị cấp phường/xã, huyện/thị xã, cần mạnh dạn, kiên quyết trong công tác giải tỏa. Việc giải tỏa cần công khai, minh bạch và công bằng đối với các hộ, các đơn vị phải giải tỏa thì việc giải tỏa sẽ thực hiện đúng tiến độ.
Đối với các lĩnh vực hạ tầng như nâng cấp hệ thống cảng biển hệ thống đường quốc lộ cũng như đường tại các vùng khó khăn… Chính phủ cần tìm nguồn hỗ trợ của nước ngoài mà chủ yếu là dành nguồn ODA, tạo cơ chế khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng dưới hình thức BOT, BT trong nước, phát hành trái phiếu công trình hoặc cân đối ngân sách để đầu tư nâng cấp. Việc đầu tư nâng cấp hệ thống hạ tầng sẽ góp phần làm giảm chi phí hạ tầng giao thông.
3.2.3. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính.
UBND, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hưng Yên và các ngành có liên quan cần rà soát lại chức trách của mình, giảm thiểu thủ tục hành chính, bộ máy gọn nhẹ, giúp tiết kiệm được thời gian và tiền bạc cho nhà đầu tư nước ngoài nhanh chóng đưa các dự án đi vào hoạt động cũng như thực hiện tốt những mục tiêu đề ra trong các dự án.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài không chỉ nhằm cải thiện thủ tục nhanh để có giấy phép đầu tư mà trước hết là ở những thủ tục sau giấy phép để dự án được triển khai nhanh chóng; đồng thời tăng cường công tác quản lý hoạt động đầu tư khi dự án đi vào vận hành; kiểm tra giám sát việc thực hiện có đúng tiến độ không và khi cần có thể điều chỉnh ngay, tránh phiền hà, lãng phí. Công tác kiểm tra tài chính không quá 1 lần/năm. Cần có sự phối hợp chặt chẽ dưới sự lãnh đạo chung của Bộ Kế hoạch và Đầu tư để đảm bảo vừa đơn giản thủ tục, vừa thống nhất quản lý chung trong cả nước. Kiên quyết từ chối những dự án không bảo đảm các tiêu chuẩn mà pháp luật quy định (đặc biệt là về môi trường) hoặc không có tác dụng tích cực trong sự nghiệp CNH - HĐH.
Tăng cường công tác thông tin, tư vấn, tận dụng việc nối mạng internet để cập nhật thông tin, hiểu thêm về đối tác và giới thiệu Việt Nam với thế giới. Thông qua mạng máy tính để Nhà nước quản lý thống nhất.
Tiến hành nâng cao năng lực quản lý của các cấp, các ngành trong hoạt động đầu tư nước ngoài thông qua việc cơ cấu lại bộ máy quản lý theo hướng tinh giảm, gọn nhẹ, thực hiện nguyên tắc thống nhất về “một cửa”, “một mối”.
Cần nâng cao trình độ ngoại ngữ, trình độ lý luận gắn với thực tiễn về chuyên ngành kinh tế đối ngoại. Đào tạo và đào tại lại nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu hiện nay. Lựa chọn những cán bộ có trình độ chuyên môn vững, giỏi ngoại giao, nhạy bén, năng động trong công việc để bố trí công tác vào lĩnh vực thu hút và quản lý đầu tư nước ngoài.
Cần có những quy định cụ thể về trách nhiệm kinh tế, hình sự đối với các cá nhân, tổ chức trong hoạt động đầu tư nước ngoài, tránh tình trạng trốn tránh trách nhiệm, đùn đẩy và quy trách nhiệm một cách chung chung. Chỉ đạo chặt chẽ việc xây dựng tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn Thanh niên trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, duy trì hoạt động của các tổ chức này.
Cần xây dựng quy chế phối hợp cụ thể giữa Chính phủ các Bộ quản lý các ngành với UBND tỉnh Hưng Yên trong việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài theo đúng thẩm quyền. Cần triệt để và kiên quyết hơn trong việc quy định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính và trách nhiệm cá nhân công chức cụ thể ở mọi khâu, mọi cấp, công khai các công trình, thời hạn sử lý các thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Trước mắt tỉnh tập trung tiến hành các biện pháp cụ thể sau:
- Mở rộng diện đăng ký cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án quy mô vừa và nhỏ. Đối với các dự án khuyến khích đầu tư thì được được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài đã có giấy phép đầu tư mà muốn kinh doanh các ngành nghề khác có liên quan thì chỉ phải đăng ký ngành kinh doanh với Sở Kế hoạch và Đầu tư Hưng Yên.
- Thực hiện tốt thời gian cấp giấy phép, chậm nhất là 45 ngày đối với dự án cần thẩm định và 15 - 30 ngày đối với dự án đăng ký (đối với một số dự án trong KCN có quy mô nhỏ thì được cấp phép dưới 10 ngày).
- Đơn giản hóa thủ tục hải quan: nên tiến hành kiểm tra tại cửa khẩu với thời gian ngắn, hạn chế thời gian gửi hàng tại kho để kiểm tra. Sửa đổi các quy định hiện hành về cấp thị thực xuất nhập cảnh và giảm mức thu lệ phí cấp thị thực xuất nhập cảnh đối với người nước ngoài.
- Việc đền bù giải phóng mặt bằng do phía Việt Nam đảm nhận và chi phí được tính vào vốn góp.
- Mở rộng quyền quản lý đầu tư cho Hưng Yên.
- Hưng Yên được cấp phép cho tất cả các dự án đầu tư vào tỉnh, không bị ràng buộc ở mức vốn và diện tích sử dụng trừ danh mục cấm hoặc danh mục do Thủ tướng quyết định. Các dự án đầu tư vào KCN hoặc khu chế xuất cũng như khu công nghệ cao không cần phải xin giấy phép, chỉ cần đăng ký với các điều kiện được công bố trước.
UBND tỉnh Hưng Yên là chủ đầu tư các công trình cho tỉnh để các dự án đầu tư thực sự hiệu quả, sát mục đích sử dụng.
Hưng Yên được phép ra các quyết định thu hút đầu tư như miễn giảm thuế, hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, tư vấn miễn phí…
3.2.4. Làm tốt công tác quy hoạch đầu tư.
Tỉnh cần bổ sung, hoàn thiện quy hoạch ngành, quy hoạch không gian cho từng huyện, thị xã để tạo ra một cơ cấu không gian, cơ cấu sản phẩm hợp lý, phát triển đồng bộ các vùng kinh tế, các ngành kinh tế của tỉnh, mở rộng không gian đầu tư ở tất cả các huyện.
Công tác làm quy hoạch cần phải được thay đổi. Để triển khai làm quy hoạch, cần có đầu tư phù hợp cho công tác khảo sát, đánh giá một cách toàn diện hoạt động FDI từ trước tới nay, khảo sát đánh giá hiệu quả trên từng ngành, từng vùng theo từng đối tác với các hình thức đầu tư để có được cái nhìn toàn diện về hiệu quả hoạt động FDI thời gian qua. Việc tham khảo ý kiến của các nhà khoa học trong và ngoài nước trong quá trình xây dựng quy hoạch cũng là cần thiết và nên làm. Việc tổ chức các đoàn tham quan, khảo sát kinh nghiệm thành công và thất bại của các tỉnh bạn cũng là rất cần thiết.
Việc xây dựng quy hoạch FDI cần phải quán triệt các quan điểm sau:
- Quy hoạch FDI phải gắn liền, là bộ phận không tách rời của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói riêng và cả nước nói chung, cũng như gắn liền với quy hoạch phát triển vùng, ngành, trên cơ sở cân đối các nguồn lực trong và ngoài nước.
- Quy hoạch FDI phải đảm bảo sự rõ ràng, cụ thể nhưng cũng đồng thời phải có tính cởi mở, tính thay thế, tính định hướng.
- Quy hoạch FDI phải bám sát vào các khả năng, điều kiện hiện có của tỉnh, nhận định những cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế đất nước nói chung và hoạt động FDI nói riêng đề hiện thực hóa các mục tiêu đề ra trong quy hoạch.
- Quy hoạch FDI phải hội đủ cả tính khoa học và tính khả thi.
Từ những quan điểm trên đây, việc xây dựng quy hoạch cần được tổ chức thực hiện theo quy trình sau:
- Điều tra tổng thể tình hình hoạt động và đánh giá hiệu quả của FDI tìm ra được những mặt được và chưa được của hoạt động này, chỉ ra những ngành, huyện, thị trấn thu hút và sử dụng FDI có hiệu quả. Để thực hiện được bước này thì điều quan trọng nhất là xây dựng được hệ thống tiêu chí, quan điểm đánh giá hiệu quả.
- Nghiên cứu, khảo sát kinh nghiệm của một số quốc gia, vùng trong công tác quy hoạch.
- Xây dựng dự thảo quy hoạch thu hút và sử dụng vốn FDI, chỉ ra những ngành có lợi thế trong thu hút FDI, những ngành không có khả năng thu hút FDI, những ngành cần thu hút FDI nhất là ngành có kỹ thuật cao phải có chính sách, biện pháp thích hợp.
- Tổ chức lấy ý kiến các nhà khoa học, các chuyên gia trong và ngoài nước.
- Hoàn chỉnh quy hoạch và ban hành.
- Tổ chức thực hiện và giám sát thực hiện.
- Tổng kết đánh giá định kỳ và thực hiện những sử đổi bổ sung cập nhật nếu cần thiết. Việc sử đổi bổ sung cập nhật cũng cần thực hiện theo quy trình xây dựng ban đầu (tuy theo nội dung sửa đổi bổ sung hay cập nhật mà lựa chọn vai trò và phạm vi thích hợp).
Việc xây dựng quy hoạch đòi hỏi phải được sự quan tâm đúng mức và nguồn kinh phí nhất định. Nguồn kinh phí này do Nhà nước và tỉnh Hưng Yên đầu tư là hợp lý nhất trên cơ sở tận dụng tối đa hỗ trợ từ các nguồn khác như phối hợp với các tổ chức quốc tế trong công cuộc khảo sát, điều tra, đánh giá và xây dựng hệ thống quan điểm hiệu quả, học hỏi kinh nghiệm nước ngoài…
Việc xây dựng quy hoạch tốt vừa là giải pháp, vừa là điều kiện để toàn bộ hoạt động FDI, kể cả hoạt động quản lý trở nên có hiệu quả.
Ưu tiên tập trung đầu tư vào các ngành công nghiệp tạo sản phẩm có hàm lượng chất xám và công nghiệp nghệ cao như chế tạo máy công cụ và động cơ, lắp ráp chế tạo ôtô xe máy; đồ điện tử. Phát triển từng bước trung tâm thương mại, thị trường tài chính - ngân hàng, thị trường dịch vụ, tư vấn kỹ thuật, tiếp thị, dịch vụ khách sạn. Hình thành một số siêu thị, trung tâm dịch vụ tổng hợp… Các Bộ, ngành trung ương phối hợp chặt chẽ với tỉnh trong việc xây dựng quy hoạch phát triển Hưng Yên, từ đó xây dựng các dự án kêu gọi đầu tư và công bố cho các nhà đầu tư nước ngoài để họ dễ dàng lựa chọn dự án, chọn địa điểm đầu tư có hiệu quả.
Nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể nói chung và quy hoạch đầu tư nước ngoài nói riêng sẽ tránh được tình trạng đầu tư tràn lan, đầu tư theo phong trào làm phung phí nguồn lực, giảm hiệu quả các dự án FDI, làm cho các nhà đầu tư nước ngoài giảm lòng tin.
3.2.5. Xây dựng hoàn thiện hạ tầng cơ sở kỹ thuật.
- Một trong những nguyên nhân khiến chi phí kinh doanh tại Hưng Yên nói riêng và Việt Nam nói chung quá cao là do cơ sở hạ tầng quá thấp kém, cả về số lượng cũng như chất lượng. Việc đầu tư cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng là điều kiện quan trọng để hoạt động của khu vực FDI nói riêng và hoạt động đầu tư nói chung có hiệu quả. Việc cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng cần một khối lượng vốn đầu tư rất lớn, do vậy, trong hoàn cảnh của Hưng Yên nói riêng và Việt Nam nói chung, không thể đầu tư dàn trải mà phải đầu tư có trọng điểm, cân nhắc thời điểm và quy mô đầu tư cho các công trình hạ tầng.
- Đối với những vùng địa phương trên địa bàn tỉnh có cơ sở hạ tầng phát triển, cần tiếp tục đầu tư để duy trì, cải tạo và nâng cấp để tạo động lực phát triển, tạo điều kiện thu hút các dự án FDI mới cũng như tạo thuận lợi cho các dự án đã được cấp phép hoạt động là hết sức cần thiết. Cơ sở hạ tầng trên địa bàn tỉnh do trình độ phát triển hạ tầng đã tốt hơn so với trước đây, khả năng chi trả cho việc sử dụng hạ tầng cũng cao hơn, do vậy, ngoài nguồn vốn Nhà nước có thể huy động các nguồn vốn khác, các phương thức như BOT, BT, BTO (trong nước hoặc nước ngoài) hoặc dùng hình thức trái phiếu, tín phiếu công trình để đầu tư cho hạ tầng. Việc tiếp tục đầu tư cho các vùng này, tạo điều kiện cho vùng, trên địa bàn tỉnh tiếp tục phát triển mạnh, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển ở các vùng phụ cận.
- Đối với các huyện có cơ sở hạ tầng chưa phát triển, cần dành các nguồn vốn tài trợ, vốn theo các chương trình mục tiêu của Nhà nước, vốn ưu đãi… để đầu tư cho hạ tầng, từ đó mới có khả năng huy động được vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác để phát triển nhằm thu hút tối đa các thành phần kinh tế nhất là nguồn vốn FDI.
- Nâng cao vai trò của Nhà nước trong xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng ngoài hàng rào KCN. Khi cấp giấy phép đầu tư, tỉnh phải bố trí vốn để thực hiện mạng lưới hạ tầng. Nên xác định chi phí này như là một nguồn vốn đối ứng thực hiện FDI, nếu tỉnh không đủ vốn thì cho phép vay ưu đãi hoặc được phát trái phiếu công trình để xây dựng. Có kế hoạch huy động các nguồn lực của toàn thể nhân dân để đầu tư vào các công trình trọng điểm, khoản thanh toán được trả bằng nguồn thu từ thuế của các dự án đầu tư nước ngoài. Thực hiện nghiêm túc việc hoàn trả số tiền cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã ứng trước để xây dựng hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào với quy định cụ thể thời gian hoàn trả vốn cho nhà đầu tư để các nhà ĐTNN thực hiện dự án nhanh hơn.
Khuyến khích tư nhân bỏ vốn đầu tư vào phát triển hạ tầng KCN. Như vậy sẽ tạo lòng tin cho các nhà ĐTNN, giúp họ chỉ việc tiến hành sản xuất kinh doanh ngay sau khi được cấp giấy phép đầu tư. Công tác triển khai dự án được diễn ra nhanh hơn, vốn đầu tư vào sản xuất lớn hơn, sản phẩm được bán ra phù hợp với thị trường và đúng thời cơ.
3.2.6. Mở rộng các hình thức thu hút và vận động đầu tư.
Cho phép doanh nghiệp có vốn ĐTNN được phép phát hành cổ phiếu, trái phiếu để mở rộng quy mô đầu tư. Một số tập đoàn có nhiều dự án đầu tư được phép thành lập công ty quản lý vốn để điều hành chung và hỗ trợ các dự án đã đầu tư.
Cho phép các nhà đầu tư được tự do lựa chọn hình thức đầu tư, đối tác đầu tư, ngành nghề và địa điểm đầu tư. Xử lý linh hoạt hơn việc chuyển đổi hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đối với các dự án sử dụng công nghệ cao, xuất khẩu phần lớn sản phẩm, xây dựng hạ tầng KCN ở địa bàn kinh tế- xã hội khó khăn, xem xét việc cho phép dự án quảng cáo theo hình thức liên doanh.
Cho phép các ngân hàng tự quyền quyết định việc mua bán và ngoại tệ cho doanh nghiệp ĐTNN. Xúc tiến hoạt động thị trường của thị trường tài chính một cách đầy đủ theo hướng tự do hóa. Đồng thời quản lý và xử lý tốt các hoạt động tín dụng thương mại quốc tế để đảm bảo tín nhiệm trong thanh toán quốc tế, đặc biệt phải có bước chuẩn bị chu đáo, xúc tiến việc thành lập thị trường chứng khoán.
Gắn công tác vận động, xúc tiến đầu tư với chương trình, dự án, đối tác, địa bàn cụ thể. Bộ, ngành, UBND phải có trách nhiệm hướng dẫn các nhà đầu tư trong khâu tìm hiểu, chuẩn bị dự án, xem xét cấp giấy phép và triển khai.
Các Bộ, ngành cần tổ chức phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế thị trường đầu tư, chính sách của Nhà nước, các tập đoàn đa quốc gia, các tập đoàn và các công ty lớn để có chính sách vận động đầu tư phù hợp; nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút ĐTNN của các nước trong khu vực để kịp thời có những đối sách phù hợp, tránh bị động và lạc hậu.
Xây dựng nội dung để đưa lên mạng Ineternet, các tạp chí quốc tế, các dự án, các công trình, chính sách kêu gọi đầu tư vào Hưng Yên để các doanh nghiệp, tư nhân nước ngoài dễ dàng nghiên cứu tìm hiểu. Gửi tới các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, các tổ chức Việt kiều danh mục các dự án ĐTNN cần thu hút đầu tư. Tổ chức thường kỳ các hội nghị với các doanh nghiệp nước ngoài, các nhà tài trợ, các cuộc họp mặt, tiếp xúc với nhà đầu tư, họp báo để giới thiệu cơ hội đầu tư.
3.2.7. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý và nâng cao chất lượng người lao động hoạt động trong khu vực FDI.
Thứ nhất, đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động FDI cần tuyển chọn những người có đủ trình độ, năng lực để làm công tác quản lý.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động FDI cần được thường xuyên cập nhật kiến thức, thông tin về FDI cũng như tình hình kinh tế chung về lĩnh vực hay ngành mà mình phụ trách. Mỗi cán bộ quản lý cần được đào tạo căn bản về nghiệp vụ quản lý Nhà nước, quản lý Nhà nước về kinh tế nói chung và quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI nói riêng.
Thứ ba, thường xuyên cập nhật các kiến thức, quan điểm, chính sách mới của các ngành, lĩnh vực có liên quan cho các cán bộ quản lý do ban quản lý FDI liên quan đến hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.
Thứ tư, đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động FDI cần được thường xuyên bổ xung các kiến thức cần thiết, bổ trợ cho công tác hoạt động như ngoại ngữ và kỹ năng máy tính. Kỹ năng làm việc nhóm và kỹ năng giao tiếp cũng là các kỹ năng cần thiết đối với các cán bộ quản lý hoạt động FDI.
Thứ năm, điều kiện làm việc của cán bộ quản lý FDI cần được quan tâm đuúng mức, đảm bảo các trang thiết bị cần thiết cho hoạt động quản lý. Trong thời đại của công nghệ thông tin hiện nay, việc trang bị các trang thiết bị cần thiết lại càng trở nên quan trọng.
Thứ sáu, đội ngũ cán bộ quản lý FDI cần định kỳ nắm tình hình ở cơ sở để không xa rời thực tiễn. Đối với cán bộ quản lý cấp trung ương, việc đi cơ sở có ý nghĩa và yêu cầu cao hơn bởi vì ngoài nắm tình hình trực tiếp từ các doanh nghiệp còn phải nắm được tình hình quản lý hoạt động FDI.
Với những yêu cầu như vậy, đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động FDI cần có mức đãi ngộ xứng đáng để tận tâm với công việc. Tuy nhiên, chính sách đãi ngộ với đội ngũ công chức trong bộ máy quản lý Nhà nước nói chung và quản lý Nhà nước trong khu vực FDI nói riêng không thể xử lý riêng biệt mà phải được xử lý tổng thể trong việc đổi mới chính sách lương, thưởng… cho toàn đội ngũ cán bộ làm việc trong khu vực FDI.
3.2.8. Một số vấn đề khác.
Cần nhanh chóng rà soát, phân loại và đánh giá tình hình thực hiện của tất cả các dự án trên địa bàn để có biện pháp xử lý, hỗ trợ cho phù hợp. Tập trung chỉ đạo điều hành xử lý nghiêm hành vi vi phạm của các nhà ĐTNN, cũng như giải quyết nhanh các vấn đề khó khăn phát sinh tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này vượt qua.
* Đối với các dự án chưa đi vào sản xuất kinh doanh.
Kiểm tra tình hình triển khai các dự án, tìm ra các nguyên nhân gây ách tắc từ đó tập trung tháo gỡ. Bãi bỏ một số thủ tục không cần thiết, công bố rõ ràng quy trình trách nhiệm, thời gian xử lý các thủ tục. Cố gắng tập trung đầu mối về Sở Kế hoạch và Đầu tư Hưng Yên tránh gây tình trạng phân quyền trong quá trình xử lý, gây khó khăn, nhũng nhiễu. Thực hiện xử lý công bằng, nghiêm minh các hiện tượng vòi vĩnh gây sách nhiễu đối với các nhà đầu tư.
Hỗ trợ vốn cho các dự án khó khăn về tài chính, cung cấp, giới thiệu cho các doanh nghiệp nước ngoài những đối tác trong nước có tiềm lực tài chính, phù hợp với từng dự án cụ thể.
* Đối với các dự án đang hoạt động.
Tiếp tục kiểm tra hoạt động của các dự án này, cho phép được hưởng những ưu đãi của các quy định mới về thuế, giá thuê đất. Xem xét miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp thực sự lỗ vốn. Cho phép các dự án tồn đọng chuyển đổi chủ đầu tư, mục tiêu và hình thức đầu tư cho phù hợp với điều kiện kinh doanh thị trường.
Cho phép các dự án kinh doanh hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn được phép tăng tỷ lệ tiêu thụ trong nước, nếu những sản phẩm đó vẫn phải nhập khẩu và thị trường trong nước có nhu cầu.
* Đối với các doanh nghiệp phải bán ngoại tệ: Cần đơn giản hóa thủ tục, có giải pháp khắc phục rủi ro về thay đổi tỷ giá hối đoái, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khi cần có thể mua đủ và kịp thời lượng ngoại tệ đã quy định. Hỗ trợ bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp đang thực sự khó khăn do khủng hoảng tài chính, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp.
Xem xét việc cấp giấy phép xây dựng mới và giãn tiến độ xây dựng các KCN phải chuyển trọng tâm vào hoạt động vận động đầu tư để lấp đầy diện tích cho thuê. Khắc phục tình trạng đầu tư tràn lan, phân tán, cạnh tranh không lành mạnh giữa trong và ngoài KCN, giữa các KCN với nhau.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động tài chính có vốn ĐTNN nhằm khắc phục sơ hở gây thiệt hại đến lợi ích của bên Việt Nam.
Đôn đốc các doanh nghiệp có vốn ĐTNN thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo tài chính theo đúng quy định hiện hành nhằm hỗ trợ cho các cơ quan quản lý Nhà nước nắm bắt được kịp thời tình hình hoạt động của các doanh nghiệp để có biện pháp quản lý thích hợp với từng thời kỳ.
Duy trì và phát triển mối quan hệ hợp tác giữa doanh nghiệp với các cơ quan quản lý Nhà nước bằng các hình thức thích hợp trong quá trình xây dựng chính sách và cơ chế quản lý hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài, nhằm bảo đảm các chính sách mới ban hành sớm được thực hiện và có tính thực thi cao.
Nâng cao vai trò và năng lực của cán bộ quản lý Việt Nam trong các liên doanh để một mặt nhanh chóng tiếp thu được kinh nghiệm về quản lý kinh doanh, mặt khác có thể trực tiếp theo dõi và phát hiện các hoạt động sai trái của phía nước ngoài như chuyển giá, bán phá giá…
KẾT LUẬN
Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam nói chung, Hưng Yên nói riêng những năm qua đã thu được những thành tựu đáng khích lệ, đặc biệt trong bối cảnh đất nước còn khó khăn: thiếu vốn, công nghệ, trình độ quản lý… Những kết quả này là sự hấp dẫn đầu tư cũng như sự thông thoáng của luật đầu tư nước ngoài.
Đối với Hưng Yên, nguồn vốn FDI ngày càng gia tăng và ngày càng phát huy được hiệu quả rõ rệt trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của tỉnh nói riêng, đất nước nói chung.
Tuy nhiên, Hoạt động FDI trong những năm qua tại Hưng Yên cũng bộc lộ một số hạn chế. Cơ cấu đầu tư còn bất hợp lý và hiệu quả tổng thể kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư trực tiếp còn chưa cao; môi trường pháp lý còn đang trong quá trình hoàn thiện; thủ tục hành chính còn rườm rà…; đặc biệt thời kỳ (1997 - 2000), do nhiều nguyên nhân, hoạt động của lĩnh vực này rất yếu kém, trong vòng 4 năm chỉ thu hút được vài dự án. Từ năm 2000 tới nay đã có dấu hiệu phục hồi và tăng trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc. Vì vậy, việc cải thiện toàn diện môi trường FDI tại Hưng Yên là vấn đề tất yếu trong giai đoạn hiện nay và hy vọng rằng các giải pháp nêu trên sẽ đóng góp được phần nhỏ bé trong nỗ lực giải quyết vấn đề này.
Những năm đầu thế kỷ 21 này, tỉnh Hưng Yên đang có nhiều cơ hội đồng thời phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn, đặc biệt phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt về xuất khẩu, về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các tỉnh khác và từ các nước trong khu vực. Nhưng sự ổn định về chính trị cùng với chính sách nhất quán và lâu dài, những lợi thế vốn có về tài nguyên, con người sẽ vẫn là những thế mạnh cho môi trường đầu tư của tỉnh Hưng Yên. Cùng với những nỗ lực và quyết tâm thu hút FDI của tỉnh Hưng Yên chắc chắn đây sẽ là địa chỉ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Thị Ngọc Anh, Liên doanh và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 1998.
2. Phùng Quốc Chí, Đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Hưng Yên, Tạp chí Kinh tế thế giới (tháng 2 năm 2004).
3. GS.TS. Tô Xuân Dân, Giáo trình Kinh tế học quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 1999.
4. Đỗ Đức Định (chủ biên), Công nghiệp hóa - hiện đại hóa: phát huy lợi thế so sánh, kinh nghiệm của các nền kinh tế đang phát triển ở Châu Á, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1999.
5. Đỗ Đức Định (chủ biên), Kinh tế đối ngoại, Xu hướng điều chỉnh chính sách ở một số nước Châu Á trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa, Nhà xuất bản thế giới, Hà Nội 2003.
6. Vũ Chí Lộc, Giáo trình Đầu tư nước ngoài, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 1997.
7. Nguyễn Trọng Luân (2002), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
8. Phùng Xuân Nhạ, Đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ công nghiệp hóa ở Malaysia - Kinh nghiệm đối với Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội 2000.
9. Phùng Xuân Nhạ, Đầu tư quốc tế, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 2001.
10. Nguyễn Xuân Thắng (chủ biên), Một số xu hướng phát triển chủ yếu hiện nay của nền kinh tế thế giới, Nhà xuất bản Khoa học - Xã hội, Hà Nội 2003.
11. GS.TS. Nguyễn Ngọc Trân (2003), Một số vấn đề kinh tế toàn cầu hiện nay, Nhà xuất bản Thế giới.
12. TS. Bùi Anh Tuấn, Tạo việc làm cho người lao động qua đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 2000.
13. TS. Nguyễn Trọng Xuân (2002), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
14. Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư từ năm1995 đến 2003.
15. Báo cáo hàng năm về tình hình thu hút FDI của tỉnh từ 1997 - 2003, Sở kế hoạch và đầu tư Hưng Yên.
16. Công nghiệp hóa và chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu, Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1997.
17. Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển, Học viện Quan hệ quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996.
18. Hướng dẫn hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995.
19. Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi, bổ sung năm 2000.
20. Những điều cần biết về chính sách khuyến khích đầu tư đối với người Việt Nam định cơ ở nước ngoài và người nước ngoài thường trú tại Việt Nam, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương - Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài, Hà Nội, tháng 5 năm 2002.
21. Niên giám thống kê hàng năm của tỉnh từ năm 1997 - 2003, Cục thống kê tỉnh Hưng Yên.
22. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh đến năm 2010 và một số định hướng đến năm 2020, Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37196.doc