Xuất phát từ nhu cầu tập trung hoá sxvà sử dụng có hiệu quả hệ thống hạ tầng cơ sở của các khu công nghiệp, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, có thể chọn một trong các dạng đầu tư hình thành và phát triển khu công nghiệp như sau:
- Một là: dựa trên quy hoạch chi tiết của từng khu công nghiệp được phê duyệt, sẽ kêu gọi các chủ đầu tư vào xây dựng các cơ sở sản xuất kinh doanh theo quy hoạch. Tỉnh đảm bảo xây dựng cơ sở hạ tầng đến chân hàng rào các khu công nghiệp theo quy hoạch. Các công trình trong KCN do các doanh nghiệp tự đầu tư xây dựng.
- Hai là: dựa theo quy hoạch chi tiết được duyệt, tỉnh sẽ giải phóng mặt bằng và đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng cho cả khu công nghiệp để các nhà đầu tư thuê mặt bằng, nhằm tăng tính hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư vào khu công nghiệp.
- Ba là: tỉnh chỉ xây dựng quy hoạch chi tiết các khu công nghiệp, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp có nhu cầu thuê đất sẽ giải phóng mặt bằng, san lấp, đầu tư xây dựng cơ bản hình thàn khu công nghiệp.
99 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1703 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quả đầu tư, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tạo ra giá trịe gia tăng, trực tiếp đóng góp vào GDP của tỉnh. Bên cạnh đó, những tác động gián tiếp làm tăng GDP vẫn còn nhưng không lớn như giai đoạn thực hiện đầu tư.
Mặc dù không thống kê một cách cụ thể và chính xác mức độ đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đối với sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Song có thể khẳng định mức đóng góp này khá lớn bởi lẽ vốn đầu tư xây dựng cơ bản của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới 30 - 40% tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh.
1.2. Cơ cấu ngành các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp với lợi thế so sánh và mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh.
Với một cơ cấu ngành phù hợp, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có những tác động tích cực tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh và nâng cao tính hiệu quả trong sự tăng trưởng kinh tế dựa trên việc khai thác có hiệu quả những lợi thế so sánh của Hải Dương.
Điểm nổi bật trong cơ cấu ngành kinh tế ngành kinh tế Hải Dương là ưu thế của ngành nông nghiệp. Một trong những mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh là nâng dần tỷ trọng của ngành công nghiệp, giảm dần tỷ trọng ngành nông - lâm - ngư nghiệp. Tình hình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Hải Dương trong thời gian qua như sau:
Bảng 11: GDP tỉnh phân theo ngành kinh tế
1990
1995
2000
Công nghiệp
7,2
16,8
37,3
Dịch vụ
16,4
12,3
27,2
Nông - lâm - ngư nghiệp
76,4
70,9
35,4
Tổng số
100.0
100.0
100.0
Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư Hải Dương
Những số liệu trong bảng 11 cho thấy trong giai đoạn 1991 - 2000, tỉnh Hải Dương đã đạt mục tiêu đề ra về việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Sự chuyển dịch cơ cấu nàt là kết quả của những thay đổi trong mối tương quan về tốc độ phát triển giữa các ngành trong nền kinh tế, trong đó giá trị tuyệt đối GDP của các ngành đều tăng (bảng 11)
Bảng 12: GDP tỉnh phân theo ngành kinh tế (giá so sánh năm 1994)
Đơn vị: tỷ đồng
1996
1999
2000
2001
Công nghiệp
326,9
1414.4
1603.9
1937.9
Dịch vụ
27,4
660.3
530.3
1106.5
Nông - lâm - ngư nghiệp
957,1
1529.0
1705.3
1864.5
Tổng số
1311,4
3603.7
3839.5
4908.9
Nguồn: Niên giám thống kê - cụ thống kê Hải Dương
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp không nhỏ vào sự chuyển dịch đó. Có một số bằng chứng có thể chứng minh cho nhận định này:
Một là, trong cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương, vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất, tiếp đó là ngành nông nghiệp.
Hai là, như đã phân tích ở trên, quá trình thực hiện đầu tư của các dự án đầu tư nước ngoài sẽ làm tăng giá trị gia tăng của ngành xây dựng, một ngành thuộc nhóm ngành công nghiệp.
Ba là, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm một tỷ trọng ngày càng lớn hơn trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp cuả thành phố (bảng 12). Tính bình quân trong giai đoạn 1996 - 2000, khu vực này chiếm tới 44,1% tổng giá trị sản xuất công nghiệp.
Bảng 13: Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh phân theo thành phần kinh tế
1997
1998
1999
2000
2001
Kinh tế Nhà nước
58.55
43.34
38.49
33.11
30.36
Kinh tế ngoài QD
15.59
15.61
15.36
18.65
20.60
Kinh tế có vón ĐTNN
25.86
41.04
46.15
48.24
48.04
Tổng số
100.00
100.00
100.00
100.00
100.00
Nguồn: Niên giám thống kê - Cục thống kê Hải Dương
Hơn nữa, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã hướng vào các ngành công nghiệp, nông nghiệp mà Hải Dương có lợi thế như chế biến nông sản, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng... Việc khai thcs những lợi thế so sánh của tỉnh là một tiền đề quan trọng nhằm nâng cao tính hiệu quả của sự tăng trưởng.
1.3. Đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ, hiện đại hoá nền sản xuất.
Trong bối cảnh hầu hết các doanh nghiệp của thành phố đều không có đủ khả năng tài chính để thay thế những thiết bị lạc hậu, công nghệ của những năm 50 - 60, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra một bước nhảy đột phá, đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ, hiện đại hoá nền sản xuất của tỉnh Hải Dương. Đây là tiền đề tạo ra năng lực cạnh tranh cho hàng hoá trong nước bằng cách nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Điều đó rất quan trọng trong bối cảnh Hiệp định thương mại Việt Mỹ đã được ký kết và Việt Nam đang chuẩn bị tham gia AFTA năm 2006. Thành công của Hải Phòng trong việc đổi mới công nghệ thông qua hợp tác đầu tư với nước ngoài thể hiện trên những khía cạnh sau:
Một là, trong các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương, 40 - 50% tổng vốn đầu tư được dành cho việc mua sắm máy móc thiết bị.
Hai là, 70% thiết bị đã được lắp đặt là thiết bị mới, 30%ê còn lại là thiết bị đã qua sử dụng nhưng đều đã được kiểm tra chặt chẽ theo các tiêu chuẩn của Bộ khoa học công nghệ và môi trường trước khi đưa vào lắp đặt và vận hành.
Ba là, trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Hải Dương, 30% số doanh nghiệp có trình độ công nghệ tiên tiến, 60% ở trình độ công nghệ trung bình so với khu vực.
Với những kết quả trên, có thể khẳng định rằng, trong thời gian qua, Hải Dương đã rất thành công trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh. Thành công nay là kết quả của sự năng động, nhạy bén của các doanh nghiệp trong nước trong việc tìm kiếm đối tác liên doanh có khả năng góp vốn rất lớn của các cơ quan chức năng trong việc quản lý hoạt động chuyển giao công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.4. Tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động tăng chất lượng lực lượng lao động.
Một điều kiện quan trọng để cải thiện đời sống nhân dân là phải tạo ra nhiều việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Do đó, vấn đề giải quyết việc làm có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế tỉnh Hải Dương. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đóng một vai trò tích cực trong việc thực hiện nhiệm vụ này (bảng 14)
Bảng 14: Số lượng lao động Việt Nam và thu nhập của người lao động Việt Nam trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Hải Dương
1999
2000
2001
Số lao động (cuối năm) (người)
1015
2125
5455
Thu nhập bình quân (USD/người/tháng)
80
68
70
Nguồn: Niên giám thống kê - cục thống kê Hải DươngNăm 2001: Sở kế hoạch và đầu tư Hải Dương
Tính đến cuối năm 2001, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Hải Dương đã tạo ra khoảng 5455 chỗ làm trực tiếp và hàng vạn việc làm gián tiếp trong các ngành sản xuất, dịch vụ có liên quan. Mức thu nhập bình quân của người lao động trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 70 USD/người-tháng. Khu vực này đã góp một phần đáng kể trong việc giải quyết việc làm tăng thu nhập cho người lao động. Hơn nữa, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn thu hút được một lượng lớn lao động từ nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp - nông thôn.
Thông qua các hoạt động tại các cơ sở có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, cán bộ, công nhân Việt Nam đã được đào tạo, hoặc đào tạo lại, có điều kiện tiếp cận, tác phong công nghiệp và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Đây là cơ hội để nâng cao chất lượng lực lượng lao động hải Dương.
1.5. Đóng góp vào nguồn thu ngân sách Nhà nước.
Phần lớn các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương còn đang trong giai đoạn xây dựng hoặc đang trong thời gian miễn giảm thuế, song khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã mang lại nguồn thu không nhỏ cho ngân sách Nhà nước. Năm 1996 thu ngân sách từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 10% tổng thu ngân sách của tỉnh, năm 2000, con số này đã tăng lên 15%.
Trong một vài năm tới khi các dự án chính thức đi vào hoạt động và đã qua thời kỳ miễn giảm thuế thì nguồn thu từ các dự án này sẽ làm cho ngân sách thành phố tăng lên gấp nhiều lần.
1.6. Mở rộng thị trường xuất khẩu, thay thế nhập khẩu.
Bảng 15: Tình hình nộp ngân sách Nhà nước của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Năm
Số dự án
Nộp NSNN (Triệu USD)
1992
1
0,09223
1993
2
0,028
1994
1
0,000057
1995
8
13,145904
1996
3
0,002423
1997
0
0
1998
1
0,000055
1999
1
0,011424
2000
2
0,000056
2001
7
0,000456
Nguồn: Niên giám thống kê - Cục Thống kê Hải Dương
Trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Hải Dương, hiện có 15 doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, trong đó có 8 doanh nghiệp xuất khẩu 100% sản phẩm. Các doanh nghiệp này góp phần quan trọng vào việc mở rộng thị trường quốc tế và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu của Hải Dương. Nếu như năm 1996 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ chiếm 10% tổng kim ngạch xuất khẩu tỉnh thì năm 2000 đã chiếm tỷ trọng 25%. Trong những năm tới, khi các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động, các doanh nghiệp hoạt động nâng dần công suất, kim ngạch xuất khẩu của khu vực này sẽ chiếm tới 40 - 50% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh.
Những thành tựu đạt được trong hoạt động hợp tác đầu tư với nước ngoài của hải Dương đã làm sáng tỏ tầm quan trọng, tính đúng đắn của chủ trương thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế thành phố không chỉ trong thập kỷ qua mà còn trong những thập kỷ tới. Vì vậy để đạt được tốc độ phát triển nhanh chóng và bền vững, hải Dương cần có những chủ trương và bước đi đúng đắn, thận trong nhưng khẩn trương nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chương III
Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải dương
Sau khi nghiên cứu tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương trong thời gian qua, công việc cần làm là đề ra giải pháp cho việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới. Chính vì vậy đề tài có tên là: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương - Thực trạngvà giải pháp". Những giải pháp đề xuất là một nội dung quan trọng cấu thành nên đề tài.
Trước khi trình bày các giải pháp đề xuất, đề tài sẽ phân tích sự cần thiết của việc tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương.
I. Sự cần thiết của việc tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương
Các giải pháp tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là rất cần thiết đối với thành phố Hải Dương. Điều đó trước hết xuất phát từ một thực tế rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương trong thời gian qua tuy đã đạt được những thành tựu đáng kể song chưa tương xứng với tiềm năng và vị thế của thành phố. Vấn đề này đã được phân tích và chứng minh trong chương 2. Ngoài ra, những cơ hội, thách thức đối với Hải Dương trong thời gian tới và nhu cầu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho sự tăng trưởng và phát triển của Hải Dương trong tương lai cũng là những nhân tố quy định tầm quan trọng của các giải pháp đó.
1. Những cơ hội và thách thức đối với Hải Dương trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.1. Dự báo quy mô và sự phân bổ dòng vốn GDI toàn thế giới
Sau một thập kỷ tăng trưởng liên tục và nhanh chóng, quy mô dòng vốn FDI toàn thế giới đã giảm mạh vào năm 2001. Sự suy giảm của các nền kinh tế lớn Mỹ - Nhật và sự ngưng trệ làn sóng sáp nhập và thôn tính là nguyên nhân dẫn đến sự giảm sút dòng vốn FDI toàn thế giới.
Dự báo quy mô dòng vốn FDI trong thời gian tới, theo nhận định của IMFl, nền kinh tế Mỹ sớm có khả năng tự phục hồi kéo theo sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu thì trong thời gian 3 - 5 năm tới, mỗi năm thế giới có khả năng tiếp nhận được hơn 1000 tỷ USD vốn FDI, nhiều gấp 2 lần mức vốn bình quân năm trong giai đoạn 1991 - 2001 (526.55 tỷ USD). Xu hướng phát triển ổn định của dòng vốn FDI toàn thế giới có khả năng kéo dài trong vòng 5 - 10 năm tới.
Theo dự tính của IMF và World Bank, trong 5 - 10 năm tới, các nước công nghiệp phát triển sẽ vẫn là địa chỉ chủ yếu thu hút FDI của thế giới. Các nước này sẽ chiếm khoảng 70 - 75% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài toàn thế giới. Các nước đang phát triển sẽ nhận được 25 - 30% còn lại. Sự phân bổ dòng vốn FDI giữa các nhóm nước sẽ không thay đổi trong thập kỷ tới.
Theo những dự tính này, trong thập kỷ tới, quy mô dòng vốn FDI bình quân năm sẽ tăng gấp đôi trong khi sự phân bổ vốn FDI vào các nhóm nước khong thay đổi, điều này có nghĩa là quy mô vốn FDI chảy vào các nước đang phát triển sẽ có khả năng tăng gốp đôi/. Đây có thể là một cơ hội tốt để Việt Nam nói chung và Hải Dương nói riêng tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
1.2. Tình hình trong nước, khu vực và thế giới.
Sự phục hồi của nền kinh tế các quốc gia trong khu vực sau khủng hoảng, việc Trung Quốc vừa gia nhập WTO, việc Việt Nam sẽ tham gia đầy đủ vào AFTA năm 2006 và những nỗ lực thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số địa phương trình cả nước là những nhân tố cơ bản, vừa tạo thời cơ nhưng cũng đặt ra thách thức đối với việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương trong thập kỷ tới.
Một là, hiện nay nền kinh tế các nước trong khu vực đã qua thời kỳ trì trệ sau khủng hoảng và bắt đầu phục hồi. Do đó, đầu tư trực tiếp của các nước này vào Việt Nam có khả năng sẽ trăng trở lại. Tuy nhiên, chiến lược kinh tế của hầu hết các nước này đều là tập trung vào mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Các nước đều tạo lập cho mình một hệ thống cơ chế, chính sách mở cửa, thông thoáng và ưu đãi đến mức tối đa để thu hút các nhà đầu tư nước. Do đó, sự cạnh tranh thu hút vốn đầu tư giữa các quốc gia trong khu vực sẽ gay gắt hơn.
Hai là, các nước trong khu vực sẽ khó có thể cạnh trah với Trung Quốc trong việc thu hút FDI do lợi thế về thị trường lao động, thị trường tiêu dùng rộng lớn mà đất nước này có được. Hơn nữa, việc Trung Quốc trong việc cạnh tranh thu hút FDI với các nước đang phát triển khác.
Ba là, việc Việt Nam tham gia AFTA vào năm 2006 sẽ có thể là điều kiện thuận lợi để Việt Nam tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam có thể tận dụng những lợi thế về tài nguyên, nguồn nhân lực giá rẻ để sản xuất hàng hoá xuất khẩu sang các nước ASEAN.
Bốn là, hiện nay các địa phương trong cả nước đều đang tích cực thúc đẩy việc cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, Hải Dương sẽ phải cạnh tranh, thi đua với các địa phương khác để không bị mất đi những lợi thế so sánh vốn có của mình. Đây là một thách thức đối với thành phố. Nhưng sự cạnh tranh lành mạnh này sẽ góp phần làm tăng sức hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Tóm lại, tình hình trong nước, khu vực và thế giới sẽ có tác động hai mặt tới hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của thành phố Hải Dương. Vấn đề đặt ra là Hải Dương cần có những biện pháp kịp thời nhằm tận dụng những thời cơ và vượt qua những thách thức đó.
2. Nhu cầu và định hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hải Dương
Định hướng thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được xây dựng dựa trên nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế thành phố. Theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, mục tiêu kinh tế tổng quát của thành phố Hải Dương là: "Xây dựng Hải Dương trở thành một đô thị cấp quốc gia, có cơ sở hạ tầng phát triển đồng bộ; môi trường đầu tư - kinh doanh thuận lợi, làm sống động nền kinh tế, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tạo chuyển biến rõ trong việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh; chủ động hội nhập quốc tế, có nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao".
Trong giai đoạn 2001 - 2010, thành phố Hải Dương phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm là 11% (tốc độ tăng trưởng bình quân năm giai đoạn 1991 - 2000 là 10.3%). Để đạt được mục tiêu đề ra, theo ước tính của sở kế hoạch và đầu tư, Hải Dương cần thu hút được khoảng 1 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 10 năm 2001 - 2010.
Hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hải Dương sẽ tập trung vào những lĩnh vực sau:
+ Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp; khu chế xuất.
+ Các dự án sản xuất hàng xuất khẩu
+ Chăn nuôi gia súc gia cầm, sản xuất thức ăn chăn nuôi, chế biến nông sản.
+ Sản xuất máy móc
+ Sản xuất nguyên liệu, phụ liệu phục vụ cho ngành may mặc, sản xuất giày dép xuất khẩu.
+ Dự án trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, vật liệu mới.
+ Dự án trong lĩnh vực điện tử, phục vụ công nghiệp, tự động hoá
+ Dự án trong lĩnh vực y tế, giáo dục đào tạo, văn hoá
+ Dự án đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn
Về các đối tác đầu tư nước ngoài, thời gian tới, Hải Dương cần đẩy mạnh hơn nữa việc tìm kiếm những nguồn vốn đầu tư từ Mỹ, Tây Âu, Trung Quốc... đồng thời vẫn phải chú trọng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước trong khu vực như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông...
Nhu cầu và định hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa đặt ra yêu cầu, vừa là định hướng cho những giải pháp để xuất nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương.
3. Những hạn chế tồn tại của việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Bên cạnh những thành tựu đạt được, tình hình thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương thời gian qua còn bộ lộ một số hạn chế tồn tại. Phần này sẽ làm rõ một vài hạn chế và nguyên nhân cơ bản của những hạn chế đó.
3.1. Sự suy giảm đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hải Dương trong những năm gần đây.
Như đã phân tích trong phần thực trạng cấp giấy phép đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương, từ năm 1998, mức vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút được đã giảm rất nhiều so với những năm trước đó.
Nguyên nhân làm cho quy mô vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hải Dương giảm mạnh từ năm 1998 là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á năm 1997. Mức độ ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tới quy mô vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là rất lớn bởi lẽ các nhà đầu tư châu á chiếm một tỷ trọng lớn trong các đối tác nước ngoài đầu tư vào Hải Dương.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ làm biến động tỷ giá hối đoái theo hướng bất lợi cho đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Do đồng tiền của các quốc gia trong khu vực bị mất giá nên giá cả hàng hoá ở các quốc gia này giảm 30 - 40%. Trong điều kiện đó, các nhà đầu tư ở các quốc gia này c cắt giảm các hoạt động đầu tư sản xuất hàng hoá tại Việt Nam để nhập khẩu về nước mình. Mặt khác, đồng tiền của các quốc gia trong khu vực bị mất giá, trong khi đồng Việt Nam lại khá ổn định (thực chất là đồng Việt Nam lên giá), làm tăng chi phí sản xuất tại Việt Nam, do đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giảm.
Biến động về tài chính còn làm cho các tổ chức tài chính ngân hàng gặp khó khăn, rủi ro cao nên họ càng hạn chế cho các doanh nghiệp vay tiền để đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là đầu tư vào khu vực Đông Nam á, trong đó có Việt Nam.
Cho đến thời điểm này, cơn bão tài chính đã đi qua, tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương và Việt Nam đã có dấu hiệu phục hồi song không đáng kể. Một thách thức mới nảy sinh khi nền kinh tế các nước trong khu vực đã qua thời kỳ trì trệ, bắt đầu vào giai đoạn phục hồi. Chiến lược kinh tế của hầu hết các nước này đều là tập trung vào mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Do đó, các nước điều tạo lập cho mình một hệ thống cơ chế, chính sách cởi mở, thông thoáng và ưu đãi đến mức tối đa để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa các nước trong khu vực sẽ còn gay gắt hơn khi Trung Quốc đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO.
Như đã phân tích trong phần thực trạng cấp giấy phép đầu tư tại Hải Dương, so với cả nước, Hải Dương là một địa điểm đầu tư hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài từ rất sớm. Song khả năng cạnh tranh đã có trước đây của Hải Dương so với các địa phương khác trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đang có xu hướng tăng dần (đứng thứ 9). Tuy nhiên, so với các tỉnh phía Nam, Hải Dương nói riêng và các tỉnh phía Bắc nói chung vẫn còn thua kém. Đó là do.
Một là, về cơ chế quản lý, trong cùng một khuôn khổ pháp lý chung còn nhiều bất cập, các cơ quan quản lý Nhà nước ở Miền Nam linh hoạt hơn, áp dụng các quy chế một cách "mềm dẻo" theo hướng tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. Họ luôn đi tiên phong trong việc cải tạo, đơn giản hoá các thủ tục hành chính. Trong khi đó, tại khu vực Phía Bắc, sự thiếu hợp tác của các cơ quan chức năng được coi như một yếu tố gây trở ngại đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài. Tại Hải Dương, thủ tục cấp giấy phép đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài đã được đơn giản hoá rất nhiều, tuy nhiên, các nhà đầu tư vẫn còn gặp phiền phức trong khâu triển khai dự án như việc giải phóng mặt bằng, việc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải chịu sự kiểm tra, giám sát của quá nhiều cơ quan chức năng.
Hai là, về sức mua của thị trường, sức nua của thị trường miền Nam lớn hơn so với niềm Bắc. Người dân miền Nam nhạy cảm với kinh doanh hơn, dễ hoà nhập hơn với hoạt động của cộng đồng, mức thu nhập chi cho tiêu dùng cũng lớn hơn. Trong khi đó, người dân miền Bắc lại tiết kiệm và lo xa hơn. Chính vì nguyên nhân này mà nhiều nhà đầu tư sau khi so sánh đã quyết định đầu tư tại các tỉnh phía Nam.
Ba là, bên cạnh đó, những hạn chế về khả năng than gia hợp tác kinh doanh với nhà đầu tư nước ngoài của các doanh nghiệp Hải Dương, những sai lầm trong chiến lược kinh doanh của các khu công nghiệp, cũng là những nguyên nhân làm giảm tính hấp dẫn của Hải Dương đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Tóm lại, đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương trong những năm gần đây có tăng nhưng chưa tương xứng với tiềm năng và vị thế của thành phố. Hải Dương cần có những biện pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng phát triển kinh tế trong thời gian tới. Cùng với các địa phương trong cả nước, những nỗ lực của Hải Dương sẽ góp phần tăng năng lực cạnh tranh của Việt Nam so với các quốc gia trong khu vực trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
3.2. Xu hướng giảm dần tỷ trọng hình thức doanh nghiệp liên doanh
Hình thức doanh nghiệp liên doanh vốn là hình thức đầu tư chiếm ưu thế trong giai đoạn 1991 - 2001, đặc biệt là trong những năm đầu tiên của giai đoạn này. Tuy nhiên trong những năm gần đây, tỷ trọng hình thức doanh nghiệp liên doanh trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương cso xu hướng giảm dần. Xu hướng này cần được lý giải và tìm phương án thích hợp để hạn chế bởi lẽ trong 3 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh là hình thức mang lại những lợi ích lâu dài và ổn định cho những nhận đầu tư. Có hai nguyên nhân giải thích sự suy giảm này:
Một là, về phía các nhà đầu tư nước ngoài, sau một thời gian kinh doanh ở Việt Nam, họ đã quen với môi trường đầu tư ở đây. Đối với họ, sự hỗ trợ và chi sẻ rủi ro của các đối tác Việt Nam không còn quan trọng như trước nữa. Môi trường pháp lý của Việt Nam cũng thông thoáng hơn, thủ tục pháp lý về đầu tư được đơn giản hoá rất nhiều, các tổ chức tư vấn đầu tư cũng xuất hiện ngày càng nhiều hơn. Mặt khác, bản thân các nhà đầu tư nước ngoài thích hình thức doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài hơn vì họ không muốn chia sẻ kinh nghiệm quản lý, bí quyết sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp nước nhận đầu tư.
Hai là, về phía các doanh nghiệp trong nước, thời gian gần đây, khả năng mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư với nước của các doanh nghiệp Hải Dương có xu hướng chững lại do các nguyên nhân sau:
Về các doanh nghiệp Nhà nước, hiện nay Hải Dương có khoảng 220 doanh nghiệp Nhà nước. Các doanh nghiệp Nhà nước là chủ thể cơ bản than gia hợp tác liên doanh với nước ngoài (chiếm tới 91,1% tổng số dự án và 99,5% tổng vốn đầu tư). Do những về năng lực tài chính, hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước tại Hải Dương góp vốn liên doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất. Trước đây, giá trị quyền sử dụng đất được tính căn cứ theo Quyết định 179/1998/QĐ - BTC của Bộ Tài chính. Năm 2000, Bộ tài chính đã ban hành quyết định 189/2000/QĐ - BTC thau cho Quyết định 179. Theo quyết định mới này, quyền sử dụng đất không được định giá cao như trước nữa. Sự thay đổi chính sách này đã làm giảm khả năng tham gia liên doanh của các doanh nghiệp Nhà nước.
Một nguyên nhân khác lý giải việc các doanh nghiệp Nhà nước tại Hải Dương có xu hướng hạn chế các hoạt động hợp tác đầu tư với nước ngoài cũng như nhiều hoạt động đầu tư khác trong thời gian gần đây là do rất nhiều doanh nghiệp đang trong quá trình sắp xếp lại. Theo chủ trương tổ chức lại doanh nghiệp Nhà nước, nhiều doanh nghiệp Nhà nước ở Hải Dương sẽ chuẩn bị cổ phần hoá, chia tách, sáp nhập, giải thể.. Trong giai đoạn chuẩn bị cho những thay đổi về cơ cấu tổ chức, các doanh nghiệp này có xu hướng duy trì những hoạt động sản xuất hiện có và tạm hoãn lại tất cả những hoạt động đầu tư cho đến khi ổn định cơ cấu tổ chức mới.
Có thể nói rằng, xu hướng giảm dần tỷ trọng hình thức doanh nghiệp liên doanh trong những năm gần đây xuất hiện do những nguyên nhân từ cả hai phía, các nhà đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp Việt Nam. Các nguyên nhân từ phía nhà đầu tư nước ngoài là những nguyên nhân mang tính khách quan, là xu thế tất yếu không thể thay đổi. Đẩy nhanh tiến trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, khuyến khích sự phát triển của khu vực ngoài quốc doanh và tạo mọi điều kiện thuận lợi hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài là những biện pháp có thể thực hiện nhằm hạn chế xu hướng biến động không như mong muốn này.
3.3. Những khó khăn của các khu công nghiệp, khu chế xuất.
So với một số khu công nghiệp khác trong cả nước, đặc biệt là các khu công nghiệp ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Vũng Tàu, tỷ lệ diện tích đất sử dụng tại các khu công nghiệp ở Hải Dương quá nhỏ bé (8 - 10%), trong khi tỷ lệ diện tích đất sử dụng bình quân của các khu công nghiệp trong cả nước là 35%, của khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam là 45%.
Có rất nhiều nguyên nhân lý giải tình trạng này. Song ba nguyên nhân cơ bản nhất là:
Một là, sự cạnh tranh thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp Việt Nam đang ngày một gay gắt hơn. Kết quả khảo sát mới đây của các cơ quan chức năng cho thấy, tình hình phát triển các khu công nghiệp trong cả nước thời gian qua đã có biểu hiện tràn lan, mất cân đối. Cho tới nay có quá nhiều khu công nghiệp được thành lập, trong khi vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong một số năm gần đây liên tục giảm mạnh, khả năng thu hút vốn đầu tư trong nước vào các khu công nghiệp còn hạn chế. Với tốc độ thu hút đầu tư nước ngoài của cả nước trong thời gian qua, nếu tập trung tất cả các dự án có vốn đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp thì phải mất 15 - 20 năm nữa mới có thể lấp đầy các khu công nghiệp. Trong khi đó tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào các khu công nghiệp chỉ chiếm 23,5% tổng vốn đầu tư. Có thể nói rằng hiện nay "cung" về khu công nghiệp tại Việt Nam đã vượt quá xa "cầu".
Hai là, chính sách "Một cửa" trong các khu công nghiệp vẫn còn khiếm khuyết, chưa hoàn thiện.
Trong năm 1997, chính phủ đã quyết định áp dụng chính sách "Một cửa, tại chỗ" đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất nhằm đơn giản hoá công tác quản lý Nhà nước về đầu tư trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Theo chính sách mới này, ban quản lý các khu công nghiệp Hải Dương được uỷ quyền thực hiện một số chức năng quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài. Phương thức quản lý này bước đầu cũng có tiến bộ, nhưng vẫn còn nhiều tầng nấc chồng chéo, thủ tục phiền hà. Tuy được uỷ quyền quản lý các doanh nghiệp trong khu công nghiệp tại Hải Dương, nhưng có nhiều khâu ban quản lý vẫn phải xin ý kiến trung ương. Sự phối hợp giữa ban quản lý và các sở, ban ngành trực thuộc thành phố Hải Dương chưa thật thông suốt. Một số bộ phận, ngành vẫn chưa uỷ quyền cho ban quản lý khu công nghiệp ví dụ như Bộ xây dựng, Bộ khoa học công nghệ và môi trường.
Chính sách "Một cửa" chưa hoàn thiện còn thể hiện rõ trong việc giám sát, kiểm tra của các cơ quan chức năng. Nhiều doanh nghiệp trong khu công nghiệp tại Hải Dương than phiền rằng họ phải chịu sự quản lý, kiểm tra giám sát của quá nhiều cơ quan chức năng. Việc này làm mất thời gian và chi phí, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Công tác tổ chức thực hiện chính sách "Một cửa" đã gây khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp tại Hải Dương, gây một ấn tượng không tốt đẹp trong các nhà đầu tư nước ngoài về các khu công nghiệp Hải Dương.
Một trong những mục tiêu cơ bản nhất của việc xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất là nhằm tạo những điều kiện thuận lợi, tăng tính hấp dãn của địa phương đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên việc đầu tư xây dựng khu công nghiệp tại Hải Dương trong thời gian qua đã không đáp ứng được yêu cầu đó, thậm chí còn làm giảm tính hấp dẫn, sức cạnh tranh của thành phố so với các địa phương khác trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương trong thời gian qua đã đạt được không ít thành công song cũng không tránh khỏi những hạn chế. Những hạn chế này một phần do các điều kiện khách quan đem lại. Tuy nhiên, những hạn chế đó cũng phản ánh một thực trạng rằng còn có những sai lầm, những việc chưa làm hoặc đã làm nhưng chưa đủ mạnh trong công tác thu hút và quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài của thành phổ Hải Dương. Tất cả những thành công và những hạn chế của giai đoạn đã qua đều là những bài học kinh nghiệm quý giá cho việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hải Dương trong các giai đoạn sau:
II. Một số giải pháp đề xuất
Những phân tích trên đã làm sáng tỏ tầm quan trọng của việc tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương. Để đạt được mục tiêu đó Hải Dương có thể thực hiện rất nhiều giải pháp khác nhau. Đề tài này đề xuất một số giải pháp chủ yếu trên cơ sở phát huy những thành tựu và khắc phục những hạn chế trong công tác thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hải Dương trong thời gian qua.
1. Những giải pháp từ phía Nhà nước
Trong bối cảnh Trung Quốc vừa gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, kinh tế các nước trong khu vực đã phục hồi sau khủng hoảng và đang áp dụng những chính sách hấp dẫn tối đa nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, Nhà nước Việt Nam cần có những biện pháp kịp thời và đủ mạnh để tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Các giải pháp cơ bản nhất bao gồm:
Một là, tiếp tục cải cách hệ thống pháp luật theo hướng đồng bộ, hoàn thiện và phù hợp với hệ thống quốc tế. Một hệ thống pháp lý như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn và làm cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm hơn khi đầu tư vào Việt Nam, đồng thời là công cụ hữu hiệu để Nhà nước quản lý các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội lâu dài của các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển của Việt Nam.
Hai là, nâng cao chất lượng các quy hoạch ngành, vùng cả nước, đồng thời dự báo chính xác nhu cầu thị trường để làm cơ sở cho việc xây dựng và công bố danh mục các dự án cần thu hút vón đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thực hiện tốt công tác quy hoạch và kế hoạch hoá đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ góp phần làm tăng tính cân đối, tính hiệu quả của hoạt động kinh tế này.
Ba là, duy trì thường xuyên các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc của chính phủ, các bộ, ngành với các dncó vốn đầu tư nước ngoài để kịp thời nắm bắt những vấn đề phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài. Đây là việc làm rất cần thiết để đánh giá tác động của các chính sách của Nhà nước đối với các doanh nghiệp, từ đó có những bước điều chỉnh phù hợp.
Bốn là, song song với các chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, Nhà nước cần tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước, khuyến khích, hỗ trợ phát triển của khu vực tư nhân. Bởi lẽ, chính các doanh nghiệp trong nước là những người chủ động tìm kiếm đối tác nước ngoài để hợp tác đầu tư. Họ cũng là lực lượng cơ bản nhất quảng bá về môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam với các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn thế nữa, một nền kinh tế phát triển hiệu quả dựa trên các doanh nghiệp trong nước vững mạnh sẽ tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài tiến hanhhf đầu tư vào Việt Nam.
Bên cạnh đó, qua nghiên cứu hoạt động của các khu công nghiệp tại Hải Dương, đề tài có hai ý kiến đề xuất với Nhà nước trong công tác xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất như sau:
Một là, Nhà nước cần xây dựng một quy hoạch, kế hoạch hợp lý hơn về phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất trên cơ sở đánh giá chính xác nhu cầu đầu của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, tránh hiện tượng phát triển tràn lan, "cung" về khu công nghiệp, khu chế xuất vượt quá xa so với "cầu".
Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước về đầu tư trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, đặc biệt chú trọng tới công tác tổ chức thực hiện các chính sách mới. Chính sách quản lý "một cửa" hiện nay được đưa ra với mục đích tốt đẹp là đơn giản hoá công tác quản lý đầu tư trong các khu công nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi và tăng sức hấp dẫn của các khu công nghiệp đối với các nhà đầu tư. Tuy nhiên, công tác tổ chức thực hiện chính sách này chưa hoàn thiện nên đã gây tác động ngược chiều đối với các nhà đầu tư. Ban quản lý các khu công nghiệp còn gặp nhiều vướng mắc trong việc phối hợp với các cơ quan chức năng cùng quản lý các doanh nghiệp khu công nghiệp. Hậu quả là các doanh nghiệp này đáng lẽ được hưởng một cơ chế quản lý đơn giản, hiệu quả hơn thì lại bị gây phiền hà hơn bởi nhiều cơ quan chức năng cùng kiểm tra, giám sát hoạt động của họ.
Thực hiện tốt những giải pháp trên sẽ làm cho môi trường đầu tư ở Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
2. Những giải pháp từ phía thành phố Hải Dương
Những giải pháp từ phía Nhà nước sẽ góp phần làm tăng sức hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong cuộc cạnh tranh, thi đua thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với các địa phương khác, Hải Dương cũng cần có sư chủ động và những nỗ lực mạnh mẽ của riêng mình.
2.1. Tiếp tục cải cách cơ chế quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài
Thời gian vừa qua, các tỉnh phía Nam thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài một phầnlà do các cơ quan quản lý Nhà nước ở đây linh hoạt hơn, áp dụng các quy chế một cách "mềm dẻo" theo hướng tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. Theo kinh nghiệm của các tỉnh phía Nam. Thành phố Hải Dương cũng bắt đầu có những bước đi nhanh chóng trong việc cải cách cơ chế quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài.
Bước đi đầu tiên được thực hiện trong năm 2001 - "năm cơ chế" của thành phố Hải Dương. Trong năm 2001, thành phố đã ban hành 37 cơ chế liên quan đến đền bù giải phóng mặt bằng quy trình cấp đất, thủ tục hải quan, cơ chế ưu đãi và khuyến khích đầu tư. Với những cơ chế vừa ban hành, hiện nay Hải Dương được các nhà đầu tư đánh giálà có cơ chế quản lý và ưu đãi đầu tư thông thoáng, hấp dẫn không thua kém bất cứ địa phương nào tróng cả nước.
Bước đi thứ hai là bước đi khởi động cho việc vận hành các cơ chế đã ban hành trong năm 2001. Năm 2002 được thành phố xác định là "năm doanh nghiệp" nhằm đưa các cơ chế đã ban hành vào thực tiễn, thúc đẩy việc đổi mới, phát triển các loại hình doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Những bước tiến trên thể hiện thiện chí rất lớn của Hải Dương đối với các nhà đầu tư nói chung và các nhà đầu tư nước ngoài nói riêng. Tuy nhiên, hiệu quả của các cơ chế chính sách này phụ thuộc chủ yếu vào quá trình tổ chức thực hiện.
Để thực hiện có hiệu quả các cơ chế vừa ban hành, cần có sự tổ chức, bố trí, phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành liên quan. Đồng thời, thành phố cũng cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các cơ chế này, duy trì các cuộc gặp gỡ rhường niên với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhặp kịp thời phát hiện, giải quyết, sửa chữa những thiếu sót, những vấn đề bất cập nảy sinh.
2.2. Đẩy nhanh tiến trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước, khuyến khích sự phát triển của khu vực tư nhân.
Như đã phân tích trong phần đánh giá tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương, tình trạng hiện nay của các doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân của Hải Dương gây rất nhiều khó khăn đối với việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc đẩy mạnh tiến trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước và khuyến khích, hỗ trợ sự phát triển của khu vực tư nhân không chỉ làm tăng khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn làm tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương.
Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hải Dương cho thấy chính các doanh nghiệp trong nước là những người chủ động tìm kiếm đối tác nước ngoài để hợp tác đầu tư. Họ cũng là lực lượng cơ bản nhất quảng bá về môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam, của Hải Dương với các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước sẽ đóng góp một phần to lớn vào việc tăng khả năng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Hải Dương.
Thực tế cũng cho tình hình các doanh nghiệp trong nước cũng là một nguyên nhân cơ bản dẫn đến hiện tượng suy giảm tỷ trọng hình thức doanh nghiệp liên doanh trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương thời gian qua. Muốn tăng tỷ trọng hình thức doanh nghiệp liên doanh, đảm bảo hiệu quả lâu dài của đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước chính là giải pháp quan trọng nhất.
2.3. Nâng cấp cơ sở hạ tầng
- Tích cực tăng thu, tăng tỷ trọng chi cho hạ tầng cơ sở: đầu tư cho gao thông, điện, nước, thông tin liên lạc; đầu tư xây dựng khu dân cư; nâng cấp hệ thống khách sạn - du lịch.
- Tranh thủ các nguồn vốn của Trung ương, các Bộ, ngành để đầu tư cho cơ sở hạ tầng.
- Đa dạng hoá các hình thức đầu tư như: BOT, BT, đổi đất lấy cơ sở hạ tầng, đầu tư và chuyển giao công nghệ, ứng vốn thi công:
- Trên cơ sở quy hoạch các khu, cụm công nghiệp tập trung, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: đường vào, điện, nước, thông tin liên lạc... của một số khu công nghiệp, còn đất đai chưa tiến hành san lấp ngay mà vẫn để người dẫ cày cấy, canh tác bình thường. Khi có dự án mới vào, nhờ cơ sở hạ tầng đã có, nhà đầu tư có thể triển khai nhanh và thuận lợi dự án của mình.
2.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Một trong những tồn tại lớn và ảnh hưởng đến thu hút đầu tư nước ngoài vào Hải Dương là vấn đề cung cấp lao động bao gồm cả bộ quản lý, nghiệp vụ, công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, Hải Dương cần thực hiện đồng thời hai biện pháp; đào tạo nhân lực và thu hút nhân tài.
Về công tác đào tạo nhân lực, những việc cần làm bao gồm:
+ Lập dự báo về nhu cầu lao động của thành phố hải Dương trong thời gian tới.
+ Điều tra về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn thành phố.
+ Lập quy hoạch, kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ và công nhân kỹ thuật phù hợp với tình hình dự báo.
+ Tranh thủ sự giúp đỡ của Chính phủ, các bộ, ban ngành liên quan các nguồn vốn trong và ngoài nước, sự hỗ trợ từ các chương trình của các tổ chức quốc tế để phát triển hệ thống đào tạo tại Hải Dương theo quy hoạch và kế hoạch đã đề ra.
Việc thu hút nhân tài cũng rất cần được quan tâm. Hiện nay rất nhiều sinh viên Hải Dương sau khi tốt nghiệp đai học có xu hướng ở lại Hà Nội, bởi theo họ ở đây có nhiều cơ hội nâng cao trình độ, nâng cao thu nhập hơn so với Hải Dương. Để thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao này, thành phố Hải Dương cần có những biện pháp hữu hiệu như:
+ Có những ưu đãi, hỗ trợ cụ thể đối với những sinh viên tốt nghiệp có nguyện vọng công tác tại Hải Dương, tạo điều kiện khuyến khích họ nâng cao trình độ chuyên môn để đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của thành phố.
+ Các cơ quan chức năng cần phối hợp với các doanh nghiệp của thành phố trong việc tuyên truyền, giới thiệu với sinh viên vềcơ hội việc làm tại Hải Dương, triển vọng và những nỗ lực phát triển của thành phố.
Việc đào tạo nhân lực và thu hút nhân tài là gải pháp có ý nghĩa to lớn không chỉ với việc tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn rất có ý nghĩa đối với sự phát triển của thành phố Hải Dương.
2.5. Điều chỉnh chiến lược phát triển của các khu công nghiệp
2.5.1. Về hình thức đầu tư: Xuất phát từ nhu cầu tập trung hoá sxvà sử dụng có hiệu quả hệ thống hạ tầng cơ sở của các khu công nghiệp, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, có thể chọn một trong các dạng đầu tư hình thành và phát triển khu công nghiệp như sau:
- Một là: dựa trên quy hoạch chi tiết của từng khu công nghiệp được phê duyệt, sẽ kêu gọi các chủ đầu tư vào xây dựng các cơ sở sản xuất kinh doanh theo quy hoạch. Tỉnh đảm bảo xây dựng cơ sở hạ tầng đến chân hàng rào các khu công nghiệp theo quy hoạch. Các công trình trong KCN do các doanh nghiệp tự đầu tư xây dựng.
- Hai là: dựa theo quy hoạch chi tiết được duyệt, tỉnh sẽ giải phóng mặt bằng và đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng cho cả khu công nghiệp để các nhà đầu tư thuê mặt bằng, nhằm tăng tính hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư vào khu công nghiệp.
- Ba là: tỉnh chỉ xây dựng quy hoạch chi tiết các khu công nghiệp, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp có nhu cầu thuê đất sẽ giải phóng mặt bằng, san lấp, đầu tư xây dựng cơ bản hình thàn khu công nghiệp.
Trong điều kiện hiện nay phải đồng thời triển khai cả 3 hình thức đầu tư, nhưng cần tập trung moi nguồn lực và kêu gọi đầu tư để thực hiện một số khu công nghiệp theo hình thức thứ 3. Trước hết là kêu gọi các nhà đầu tư bỏ vốn vào xây dựng cơ sở hạ tầng như cụm công nghiệp giầy. Tỉnh sẽ trực tiếp đầu tư vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng một số cụm, khu công nghiệp, như: đảm bảo đường điện có điện áp thích hợp, đường giao thông hệ thống cấp nước sạch, thoát nước chung, đến ngoài hàng rào khu công nghiệp,(riêng đường giao thông sẽ quy hoạch và đầu tư từng bước một số đường nhánh đi vào các vị trí ở sau đường chính để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư vào sâu trong khu công nghiệp).
2.5.2. Tính toán các khối lượng đầu tư: cụ thể để xây dựng các cơ sở hạ tầng giao thông, hệ thống điện, cấp thoát nước, bưu chính viễn thông, các cơ sở dịch vụ, khu vui chơi giải chí, trường học, khu nhà ở... cho từng khu công nghiệp để kêu gọi đầu tư và làm căn cứ bố trí vốn đầu tư trong kế hoạch hàng năm.
Qua số liệu tính toán của các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì kinh phí đầu tư cơ sở hạ tầng bình quân cho 1 ha khu công nghiệp là 1.210 triệu đồng/ha.
Số liệu sơ bộ của một số khu công nghiệp như sau:
- Khu công nghiệp Nam Sách 132 ha, tổng vốn đầu tư cơ sở hạ tầng là 150 tỷ đồng.
- Khu công nghiệp Phú Thái 40ha, tổng vốn đầu tư cơ sở hạ tầng là 56,7 tỷ đồng.
- Khu công nghiệp phía Bắc thành phố Hải Dương (đầu tư bước 1) là 50ha, tổng kinh phí là 39,6 tỷ đồng.
- Cụm công nghiệp giầy của Bộ công nghiệp 41ha, tổng kinh phí 71,9 tỷ đồng.
- Nếu tính riêng 3 khu công nghiệp đã quy hoạch của tỉnh Hải Dương (Nam Sách, Phú Thái, Bắc thành phố Hải Dương), tổng diện tích 222,17 ha, tổng kinh phí là 236,6 tỷ đồng, bình quân 1,1 tỷ đ/ha.
(Chi tiết từng hạng mục có biểu kèm theo)
Qua số liệu trên cho thấy nhu cầu vốn nhu cầu vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp là rất lớn, khả năng ngân sách của tỉnh khó có thể đáp ứng được, nên cần phải gọi vốn đầu tư từ mọi nguồn và có kế hoạch triển khai từng bước, từng khu công nghiệp cho phù hợp.
2.5.3. ban hành các cơ chế chính sách cụ thể: Về đảm bảo cơ sở hạ tầng, dịch vụ cho các khu công nghiệp.
- Tăng cường quảng bá để các nhà đầu tư, các doanh nghiệp vào đầu tư cơ sở sản xuất kinh doanh hình thành khu công nghiệp. Kêu gọi các nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư vào kinh doanh các cơ sở hạ tầng, đầu tư phát triển các dịch vụ bên cạnh khu công nghiệp nhất là công trình văn hoá, nhà ở... tỉnh có các chính sách ưu đãi cho các nhà đầu tư này như: ưu đãi vay vốn, giá thuê đất, ưu đãi các loại thuế theo quy định, (miễn giảm thuế ở mức ưu tiên), hỗ trợ giải phóng mặt bằng, đảm bảo các thủ tục đầu tư vào khu công nghiệp thuận tiện, nhanh nhất.
- Trong quá trình triển khai thực hiện đầu tư của tỉnh theo các chương trình, mục tiêu cần quan tâm kết hợp để đầu tư phục vụ cho các khu công nghiệp, như các chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; chương trình thu hút vốn đầu tư; chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; chương trình phát triển kinh tế dịch vụ...
- Các chính sách cụ thể về đảm một số cơ sở hạ tầng cho các khu công nghiệp như: tỉnh đảm bảo đường giao thông chính đến khu công nghiệp và đường vành đai ngoài khu công nghiệp, tỉnh miễn tiền thuê đất cho các nhà đầu tư, thuê đất xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp trong 10 năm đầu. Về tỉnh đảm bảo đường điện có cấp điện áp phù hợp theo yêu cầu đến chân hàng rào khu công nghiệp, xây dựng tram bưu chính viễn thông trong khu công nghiệp, hệ thống cấp, thoát nước, đến hàng rào khu công nghiệp...
- Chính sách cho thuê cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp như miễn giảm thuế giá tri gia tăng trong thời hạn 3- á-5 năm đầu với hoạt động kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp.
2.5.4. Về tổ chức quản lý các khu công nghiệp
- Tỉnh thành lập ban quản lý các dự án công nghiệp trực thuộc UBND tỉnh để giúp UBND tỉnh giải quyết các công việc về khu công nghiệp. Ban quản lý do 1 đồng chí lãnh đạo UBND tỉnh phụ trách, các thành viên gồm: sở kế hoạch đầu tư, tài chính vật giá, công nghiệp, xây dựng, đại chính, giao thông... Biên chế của ban có từ 2 - 3 cán bộ chuyên trách.
- Ban quản lý các dự án giúp UBND tỉnh chỉ đạo, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các ngành, các cấp trong việc quy hoạch chi tiết xây dựng và quản lý hoạt động của từng khu công nghiệp.
- Ban quản lý các dự án có trách nhiệm hoàn thành quy hoạch chi tiế các khu công nghiệp trong toàn tỉnh để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt làm căn cứ để triển khai, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, gọi vốn đầu tư sản xuất vào các khu công nghiệp, trước hết là khu Bắc - Tây bắc thành phố Hải Dương, sau đó là khu Phả Lại - Hoàng Thái, khu Cầu Ghẽ - Quán gỏi, cụm phía nam thành phố Hải Dương.
- Ban quản lý dự án khu công nghiệp có trách nhiệm: thực hiện các thủ tục về đầu tư, các cơ chế chính sách cụ thể với các khu công nghiệp, quy định rõ ràng việc tiếp nhận và quản lý các dự án, quy trình, thủ tục, thời gian hoàn thành các bước công việc. Trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc tiếp nhận thẩm định và triển khai thực hiện.
2.6. Tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư, phát triển dịch vụ tư vấn đầu tư.
Xúc tiến đầu tư là hoạt động giới thiệu các nhà đầu tư nước ngoài về môi trường đầu tư Hải Dương và hỗ trợ các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư. Hoạt động xúc tiến đầu tư có thể được tiến hành theo nhiều cách thức khác nhau như: giới thiệu về Hải Dương trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua mạng Internet, tổ chức các cuộc gặp gỡ giữa các cơ quan chức năng của thành phố với các nhà đầu tư nước ngoài... công tác xúc tiến đầu tư chỉ thực sự có hiệu quả khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, ngành của thành phố.
Đi liền với công tác xúc tiến đầu tư, Hải Dương cần phát triển hơn nữa dịch vụ tư vấn đầu tư. Dịch vụ tư vấn đầu tư không chỉ dừng ở việc cugn cấp thông tin cho các nhà đầu tư nước ngoài và Việt Nam gặp gỡ, cùng hợp tác với nhau. Nói một cách khác, dịch vụ tư vấn đầu tư cần đạt đến trình độ môi giới đầu tư.
Qua nghiên cứu tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài, có một thực tế rằng, rất nhiều doanh nghiệp của Hải Dương nói rằng họ có đất đai, nhà xưởng, có kinh nghiệm sản xuất, có hiểu biết về thị trường và rất cần tìm đối tác nước ngoài cùng liên doanh, cùng khai thác và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường mà không tìm được. Trong khi đó, cùng có nhiều nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào Hải Dương mà không biết nên lựa chọn lĩnh vực đầu tư nào và tìm đối tác Việt Nam nào để hợp tác đầu tư. Nếu dịch vụ tư vấn đầu tư của Hải Dương có thể làm trung gian giữa các đối tác đầu tư nước ngoài và Việt Nam thì Hải Dương không chỉ có cơ hội thu hút được nhiều hơn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mà hiệu quả sử dụng nguồn vốn này cũng sẽ được nâng cao.
Với những lý do phân tích trên, việc xúc tiến đầu tư và phát triển dịch vụ tư vấn đầu tư cũng là một vấn đề rất cần được quan tâm. Tất nhiên, để công tác xúc tiến đầu tư có hiệu quả, cũng như để phát triển dịch vụ tư vấn đầu tư lên mức độ như đã đề xuất trong đề tài không phải là việc dễ dàng. Song giải pháp này sẽ có rất có ý nghĩa đối với việc tăng cường thu hút vằ nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương cả trong giai đoạn trước mắt và lâu dài
Kết luận
Qua các nội dung phân tích trong đề tài, có thể thấy rằng hoạt động thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương thời gian qua đã đạt được những thành công đáng kể, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế thành phố.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương thời gian qua chưa tương xứng với tiềm năng và vị thế của thành phố.
Tình hình trong nước và thế giới đang mở ra nhiều cơ hội và thách thức đối với việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam nói chung và Hải Dương nói riêng. Để tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, bên cạnh những chủ trương chung của Nhà nước, Hải Dương cần chủ động thực hiện một số giải pháp như: tiếp tục cải cách cơ chế quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài, đẩy nhanh tiến trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước, khuyến khích sự phát triển của khu vực tư nhân; nâng cấp cơ sở hạ tầng; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; điều chỉnh chiến lược kinh doanh của các khu công nghiệp; tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư, phát triển dịch vụ tư vấn đầu tư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29713.doc