Luận vănCung cấp luận văn cách ngành dài 141 trang
Chương 1- Cơ sở lí luận của việc dạy - học truyện
cười theo hướng tích hợp và tích cực 13
1.1 Đặc điểm của thể loại truyện cười 13.
1.1.1 Khái niệm truyện cười 13.
1.1.2 Phân loại truyện cười 16.
1.1.2.1 Truyện khôi hài . 17.
1.1.2.2 Truyện trào phúng . 18.
1.1.3 Sơ lược về thi pháp truyện cười 20.
1.1.3.1 Mục đích ý nghĩa của việc nghiên cứu thi pháp thể
loại 20.
1.1.3.2 Thi pháp chung ở truyện cười là “Nghệ thuật gây
cười” . 21.
1.1.3.3 Xung đột trong truyện cười . 27.
1.1.3.4 Kết cấu của truyện cười 28
1.1.3.5 Ngôn ngữluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Ngôn Ngữ Học trong truyện cười 30
1.1.4 Cách hướng dẫn HS tiếp cận truyện cười 32.
1.1.4.1 Khái niệm tiếp cận 32.
1.1.4.2 Tiếp cận truyện cười . 32.
1.2 Nguyên tắc tích hợp và tích cực của chương trình
Ngữ văn trong nhà trường phổ thông . 34.
1.2.1 Nguyên tắc tích hợp 34.
1.2.2 Nguyên tắc tích cực
Chương 2- Tổ chức dạy - học truyện cười theo
hướng tích hợp và tích cực 47.
2.1 Khảo sát việc thực thi Chương trình, SGK Ngữ
văn 10 ở những bài học về truyện cười 47.
2.1.1 Về chương trình 48.
2.1.2 Về SGK . 49.
2.1.3 Về giờ học truyện cười theo hướng tích hợp và tích
cực 51.
2.1.3.1 Hoạt động của thầy và trò trong giờ học Nhưng nó
phải bằng hai mày 51.
2.1.3.2 Hoạt động của thầy và trò trong giờ học Tam đại
con gà 55.
2.1.4 Kết quả hoạt động dạy truyện cười của GV theo
hướng tích hợp và tích cực (qua phiếu điều tra) . 61
2.2 Tổ chức dạy - học truyện cười theo hướng tích
hợp 62.
2.2.1 Khả năng tích hợp với Làm văn 62.
2.2.2 Khả năng tích hợp với tiếng Việt 65.
2.3 Tổ chức dạy - học truyện cười theo hướng tích
cực 68.
2.3.1 Tổ chức HS đọc văn bảnThư viện các mẫu văn bản truyện cười 68.
2.3.1.1 Đọc diễn cảm 68.
2.3.1.2 Đọc diễn cảm truyện cười . 69
2.3.2 Tổ chức HS khám phá nội dung truyện cười 71.
2.3.2.1 Truyện Tam đại con gà . 71.
2.3.2.2 Truyện Nhưng nó phải bằng hai mày . 76.
2.3.3 Tổ chức HS khám phá nghệ thuật gây cười 78.
2.3.3.1 Truyện Tam đại con gà . 79.
2.3.3.2 Truyện Nhưng nó phải bằng hai mày . 81.
Chương 3 - Thiết kế bài học về hai truyện cười trong
sáchThư viện Sách, Mỗi Ngày Một Cuốn Sách Ngữ văn 10 theo hướng tích cực và tích hợp 86.
3.1 Thiết kế bài học hai truyện cười trong SGK Ngữ
văn 10 ở các sách tham khảo 86.
3.1.1 Giới thiệu tổng quát các sách thiết kế bài học Ngữ
văn 10 đã được ấn hành 86.
3.1.2 Tóm lược các phương án dạy học được nêu ra trong
các sách tham khảo . 86.
3.2 Phương án dạy học do tác giả luận văn đề xuất 119
3.2.1 Tam đại con gà . 112.
3.2.1.1 Định hướng dạy học 119
3.2.1.1 Tiến trình dạy học . 119
3.2.2 Nhưng nó phải bằng hai mày 115.
3.2.2.1 Định hướng dạy học 123
3.2.2.2 Tiến trình dạy học . 123
C. PHẦN KẾT LUẬN 126.
Thư mục thạm khảo 131.
141 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 4423 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Dạy - Học truyện cười trong sách giáo khoa ngữ Văn 10 theo hướng tích hợp và tích cực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch tình huống gây
cười.
- Phần tiểu dẫn SGK trình bày phân loại
truyện cười.
+ Truyện khôi hài: mục đích giải trí …
+ Truyện trào phúng: phê phán thói hư tật xấu
trong nội bộ nhân dân (trào phúng bạn), phê
phán những kẻ thuộc giai cấp quan lại bóc lột
(trào phúng thù).
SGK
- Truyện cười rất ít nhân vật. Nhân vật chính
trong truyện là đối tượng chủ yếu của tiếng
cười. Vả lại truyện cười không kể về số phận,
cuộc đời nhân vật như truyện cổ tích. Mọi chi
tiết trong truyện đều hướng về tình huống gây
cười. Nến ta chỉ đọc - hiểu theo cái cười và
tình huống gây cười.
- Nhân vật truyện là anh học trò dốt hay nói
chữ, hay khoe khoang và rất liều lĩnh.
…
Ở đây cười kẻ dốt hay khoe, hay nói chữ, cả
101
- Cái cười được thể hiện
như thế nào? (trả lời câu
hỏi 1 trong SGK).
+ Mâu thuẫn trái với tự
nhiên của nhân vật.
▪ Thầy liên tiếp bị đặt
vào các tình huống. Thầy
đã giải quyết như thế
nào?
▪ Giải quyết tình huống
đã bộc lộ cái dốt của
mình như thế nào?
2. Bản chất cái cười.
Anh (chị) hãy nêu ý
nghĩa của truyện?
gan hơn dám nhận đi dạy trẻ. Cái xấu của anh
ta không dừng lại ở lời nói mà đã thành hành
động.
- Cái cười được thể hiện nhiều lần:
+ Lần thứ nhất, chữ “kê” thầy không nhận ra
mặt chữ. Học trò hỏi gấp, thầy nói liều “Dủ dỉ
là con dù dì” … cái dốt đã được định lượng.
Anh ta vừa dốt kiến thức sách vở, vừa dốt
kiến thức thực tế.
+ Lần thứ hai, ta cười về sự giấu dốt và sĩ
diện hão của anh học trò làm thầy dậy học
“thầy cũng khôn, sợ nhỡ sai, xấu hổ, mới bảo
học trò đọc khẽ” → giấu dốt. Anh ta dùng cái
láu cá vặt để giấu dốt.
+ Lần thứ ba, ta cười khi thầy tìm đến thổ
công … Cái dốt ngửa ra cả ba đài âm dương.
Thầy đắc ý “ … bảo trẻ đọc to”.
+ Lần thứ tư, chạm trán với chủ nhà. Thói
giấu dốt bị lật tẩy. Cái dốt của Thổ công được
chính thầy nhạo báng …
Thầy đã lòi cái đuôi dốt vẫn gượng gạo giấu
dốt. “Dủ dỉ … con gà”. Cái dốt nọ lồng cái
dốt kia.
Ở mỗi tình huống gây cười trên đây, anh học
trò làm thầy dạy học giải quyết tình huống
102
III. Củng cố:
anh ta đã tự bộc lộ cái dốt của mình.
Tiếng cười mang ý nghìa phê phán, hóm hỉnh,
sâu sắc và mang đậm chất dân gian.
Truyện có ý nghĩa đánh giá các hạng thầy
trong xã hội phong kiến suy tàn, trong đó có
thầy đồ dạy chữ …
Tham khảo phần ghi nhớ trong SGK.
NHƢNG NÓ PHẢI BẰNG HAI MÀY
Phương án dạy học của SGV bộ chuẩn, Phan Trọng Luận (Tổng chủ
biên)
I. Nội dung dạy học
1. Đặc điểm bài học
Truyện cười này thuộc loại ngắn nhất trong số các truyện cười dân
gian, vì thế phân tích cũng khó hơn. Truyện giống như một màn kịch ngắn
(kịch tính khá cao), vì vậy, khi phân tích, cần chú ý đến kịch tính của truyện.
2. Trọng tâm bài học.
Tập trung phân tích sự kết hợp giữa lời nói và động tác trong việc thể
hiện bản chất tham nhũng của nhân vật thầy lí.
II. Tiến trình tổ chức dạy học
a) Trước hết, cần xem xét mối quan hệ giữa Cải và thầy lí trước đó:
Quan hệ này đã được dàn xếp (Cải đã lót tiền trước cho thầy lí). Song mâu
thuẫn lại đột ngột xuất hiện khi thầy lí tuyên bố đánh Cải mười roi. Màn kịch
ngắn bắt đầu diễn ra. Một bên chủ động, còn một bên kia hoàn toàn bị động.
Một bên xin xét lại, một bên cứ kết án. Động tác và lời nói của hai bên hoàn
toàn trái ngược nhau. Quan trọng nhất là câu kết luận của thầy lí (phải và phải
103
bằng hai) vạch trần thủ đoạn của thầy lí mà dân gian đã chỉ ra bằng câu thành
ngữ “đòn xóc hai đầu”.
b) Phân tích sự kết hợp của hai thứ “ngôn ngữ” trong truyện.
Lẽ phải – xòe năm ngón tay
Lẽ phải được nhân đôi – xòe năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay
mặt.
Ngôn ngữ bằng lời nói là ngôn ngữ công khai, nói cho tất cả các người
có mặt nghe. “Ngôn ngữ” bằng động tác (cử chỉ) là ngôn ngữ “mật”, chỉ có
người trong cuộc (thầy lí và Cải) mới hiểu được.
Sự bất đồng của hai thứ “ngôn ngữ” này được thống nhất lại với nhau,
cùng có giá trị ngang nhau: lẽ phải được tính bằng năm ngón tay, mười ngón
tay … ngón tay Cải trở thành “kí hiệu” của tiền tệ; hai bàn tay úp vào nhau
của quan là “kí hiệu” cho lượng tiền đút của Ngô và Cải. Lẽ phải bằng tiền.
Giá trị tố cáo của truyện chính là đây, lẽ phải đối với lí trưởng được đo
bằng tiền. Tiền quyết định lẽ phải. Tiền nhiều thì lẽ phải nhiều; tiền ít thì lẽ
phải ít.
Yếu tố kịch trong truyện này được thể hiện qua lời nói và động tác giữa
hai nhân vật: thầy lí và Cải. Cải yên tâm sẽ được kiện, nhưng hành động xử
kiện của thầy lí thật bất ngờ, cách giải thích của thầy lí cũng bất ngờ khiến
Cải không kịp trở tay, rơi vào tình trạng bi hài (vừa mất tiền, vừa bị đánh).
c) Phân tích lời nói gây cười kết thúc truyện.
Phải và phải bằng hai là hình thức chơi chữ độc đáo của truyện cười
này. Phải (từ chỉ tính chất) nhưng lại được dùng kết hợp với từ chỉ số lượng,
tạo ra nhận thức về sự bất hợp lí trong tư duy người nghe. Tuy nhiên điều này
lại có vẻ rất hợp lí khi ta liên tưởng đến năm đồng và mười đồng tiền đút lót
của Ngô và Cải.
104
Lời nói của thầy lí vừa vô lí lại vừa hợp lí. Vô lí trong xử kiện, nhưng
lại hợp lí trong mối quan hệ thực tế giữa các nhân vật … thể hiện một cách
sinh động và hài hước bản chất tham nhũng của mình …
d) Bình luận về nhân vật Cải.
Cải vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm. Hành vi tiêu cực đã làm anh ta
trở nên thảm hại. Anh ta vừa đáng thương, vừa đáng trách.
Phương án dạy học của SGV bộ nâng cao, Trần Đình Sử (Tổng chủ
biên)
I. Về nội dung dạy học (như truyện Tam đại con gà đã nêu).
II. Tiến trình tổ chức dạy học.
1. Phần mở đầu.
Có thể dựa vào phần Tiểu dẫn trong SGK để giới thiệu bài học.
2. Phần tổ chức dạy học.
Hướng dẫn HS trả lời, thảo luận các câu hỏi.
Truyện Nhưng nó phải bằng hai mày.
a) Truyện đã cười, quất đòn roi “chết người” vào việc xử kiện của thày
lí.
Lí trưởng trong truyện “nổi tiếng xử kiện giỏi”. Song, cái “hình thức
bên ngoài mà nhân vật có” (lí trưởng) và cái mà nó “được cho là có” (nổi
tiếng xử kiện giỏi) lại hoàn toàn đối lập với thực tế thực chất bên trong. Ngô
và Cải đều phải lo đút lót trước cho lí trưởng. Sự công bằng, lẽ phải trái,
không có ý nghĩa gì ở chốn công đường khi lí trưởng xử kiện. Lẽ phải ở đây
thuộc về kẻ nhiều tiền, nhiều lễ vật lo lót.
Những người như Cải, Ngô trở thành các nhân vật bi hài, vừa đáng
trách, đáng cười, vừa đáng thương.
b) Các thủ pháp gây cười đáng chú ý trong truyện này là:
105
- Xây dựng những cử chỉ, hành động gây cười …
- Dùng hình thức chơi chữ để gây cười. Từ “phải” trong truyện.
- Kết hợp cùng lúc cử chỉ gây cười và lời nói gây cười.
Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ công khai cho tất cả mọi người có mặt nghe,
ngôn ngữ cử chỉ (phi ngôn ngữ) chỉ có thầy lí và Cải hiểu:
Hai ngôn ngữ ấy thống nhất, làm rõ nghĩa cho nhau để chỉ cái lí của sự
phân xử.
- Truyện rất ngắn, kết thúc bất ngờ.
c) Dẫn ra một truyện giễu cợt việc xử kiện ở chốn công đường dưới
thời phong kiến. “Hai bảy mười ba”
▪ Những nét đặc sắc về nghệ thuật gây cười của truyện cười dân gian
Dựa vào hai truyện trong bài học và mục Về nghệ thuật truyện cười …
để hướng dẫn HS trả lời câu hỏi.
3. Phần củng cố.
( Tổng kết nội dung, nghệ thuật của hai truyện).
Phương án dạy học của SGV Thiết kế bài học Ngữ văn 10, Phan
Trọng Luận (Tổng chủ biên)
I. Về nội dung dạy học
▪ Nhận rõ thái độ của nhân dân dối với bản chất tham nhũng của quan
lại địa phương và tình cảnh bi hài khi lâm vào việc kiện tụng của người nông
dân lao động trong xã hội nông thôn Việt Nam xưa.
Hiểu được nghệ thuật gây cười, tạo tình huống mâu thuẫn, đối lập hình
thức bên ngoài với nội dung bên trong.
II. Tiến trình dạy - học.
1. Học văn bản.
▪ Đọc.
106
- Có thể tổ chức cho HS đọc - kể, cũng có thể chuyển thể diễn hoạt
cảnh kịch nói; phải làm sự nổi bật sự kết hợp giữa lời nói và cử chỉ của hai
nhân vật: Cải và thầy lí khi đối thoại.
▪ Tìm hiểu mâu thuẫn trong tình huống gây cười.
? Theo anh (chị), truyện có thể chia làm mấy đoạn nhỏ? Ý của mỗi
đoạn?
HS suy nghĩ, phát biểu: có thể chia thành hai đoạn nhỏ:
+ Chuẩn bị – tạo tình huống.
+ Xử kiện - giải quyết tình huống.
a) Chuẩn bị:
? Tác giả dân gian đã cho tình huống mâu thuẫn như thế nào?
- Giới thiệu thầy lí nổi tiếng xử kiện giỏi (để người đọc chờ đợi xem
thầy xử giỏi như thế nào?).
- Kể việc Cải và Ngô đều tỏ ra khôn ngoan, đều muốn thắng kiện bằng
cách đút lót vì cả hai đều quá hiểu rõ bản chất tham nhũng của thầy lí.
? Việc nêu số tiền lót tay, chè lá của từng người cụ thể (Cải: 5 đồng,
Ngô: 10 đồng) có mục đích gì?
- Đó chính là cơ sở để người đọc chờ đợi việc xử kiện sẽ được tiến
hành theo hướng nào. Cả hai đều giấu nhau việc này (vì đó là việc làm mờ
ám, phạm pháp). Chỉ có thầy lí và chúng ta biết số tiền của cả hai. Điều này sẽ
tạo sự ngạc nhiên cho Cải, và cả chúng ta, ở đoạn sau.
b) Xử kiện.
- GV yêu cầu HS nhận xét chung về cách kể - tả vụ xử kiện của thầy lí.
-HS nêu nhận xét cá nhân: Kể ngắn gọn, lược bỏ những chi tiết thừa,
không cần thiết, tập trung vào việc đẩy cao tình huống mâu thuẫn gây cười.
107
Thầy lí chỉ nói hai câu, Cải chỉ nói một câu, Ngô hoàn toàn im lặng … Và thế
là đủ.
? Tại sao thầy lí lại phán quyết ngay, không một bên hỏi bên nguyên,
bên bị?
- Vì thầy không xử theo lí, theo pháp luật mà xử theo tiền.
? Anh (chị) có nhận xét gì về cử chỉ, hành động và lời nói của Cải và
thầy lí trong cuộc xử kiện ngắn ngủi? Mối quan hệ giữa cử chỉ “xòe năm
ngón tay” của Cải, cử chỉ “xòe năm ngón tay trái úp lên ngón tay mặt” của
thầy lí và câu nói của Cải, của thầy lí như thế nào? Tác dụng nghệ thuật của
những chi tiết đó?
HS lập bảng hệ thống so sánh.
Nhân vật Cử chỉ Lời nói Dụng ý
Cải Vội xòe năm ngón
tay ngẩng mặt nhìn
thầy lí khẽ bẩm
“Xin xem xét lại, lẽ
phải về con mà”
Con đã lót tay
thầy 5 đồng.
Nghĩa là lẽ phải,
nhờ có số tiền ấy
đã thuộc về Cải.
Thầy lí Xòe năm ngón tay
trái úp lên năm
ngón tay phải.
“Tao biết mày phải
… nhưng nó lại
phải … bằng hai
mày”
Thằng Ngô lót
tay thầy 10 đồng
nên “phải” bằng
hai Cải.
Nhận xét: Mối quan hệ giữa cử chỉ và lời nói trong cuộc đối thoại công
khai và hàm ẩn giữa hai nhân vật Cải - người đi kiện và thầy lí - Người xử
kiện giỏi diễn ra thật bất ngờ và lí thú:
+ Nhân vật Cải:
▪ Cử chỉ có trước: xòe năm ngón tay, ngửa mặt nhìn thầy lí …
108
▪ Lời nói có sau, nói to trước công đường, cho thầy lí nghe, cho Ngô và
mọi người nghe. Câu nói của Cải có hai nghĩa (tường minh và hàm ẩn …).
+ Nhân vật thầy lí.
▪ Cử chỉ đáp ngay: xòe năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay mặt …
▪ Câu nói của thầy trả lời đúng với câu vừa hỏi, vừa xin vừa nhắc của
Cải. Chú ý “Nhưng … “ không phải ngẫu nhiên mà thầy ngừng lời một chút,
cốt để Cải phải tự nghĩ mà cố hiểu: “nó lại phải … bằng hai mày!” …
Từ “phải” … là cách chơi chữ thường gặp trong truyện cười dân gian.
+ Sự thật, thầy lí quen ăn của đút, xử kiện vì tiền, đã vừa kín đáo vừa
trắng trợn bộc lộ ngay tại phiên tòa xử vụ kiện Cải – Ngô. Ta hiểu vì sao thầy
lí mở miệng là phán quyết ngay, không cần điều tra, xét hỏi. Ý nghĩa trào
phúng, phê phán thể hiện thật rõ ràng, sắc nét.
? Sau câu trả lời và cử chỉ của quan, Cải rơi vào tình trạng như thế nào?
Bình luận về nhân vật Cải.
2. Tổng kết
- HS đọc nội dung phần ghi nhớ.
- Yêu cầu: Đối chiếu với truyện cưòi Tam đại con gà, khái quát những
đặc sắc nghệ thuật của truyện cười.
Phương án dạy học trong cuốn Thiết kế dạy học Ngữ văn 10, Hoàng
Hữu bội
I. Nội dung dạy học
Truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày châm biếm thói tham
nhũng (ăn của đút lót) của quan lại trong xã hội xưa. Truyện rất ngắn gọn
nhưng lại dựng lên được một màn kịch nhỏ, khiến cho cái đáng cười được bộc
lộ ra một cách cụ thể, sống động.
109
II. Tiến trình dạy học
1. Tìm hiểu đối tƣợng đƣợc đƣa ra châm biếm.
Gợi dẫn 1. Hãy đọc truyện và cho biết: Truyện cười này quất đòn roi
vào thói hư tật xấu nào trong xã hội?
Yêu cầu:
Truyện cười này vạch trần thói tham nhũng của quan lại trong xã hội
trước. Đối tượng phê phán của truyện này là “một lí trưởng nổi tiếng xử kiện
giỏi”. Nhưng giữa cái tiếng tăm bên ngoài và thực chất bên trong của lí
trưởng lại đối lập nhau: Vì đồng tiền mà lí trưởng đã bất chấp công lí, xử
thắng kiện cho kẻ đút lót nhiều hơn. Sự mâu thuẫn đó đã nói lên một điều: Sự
công bằng, lẽ phải trái không có nghĩa lí gì ở chốn công đường khi lí trưởng
xử kiện.
2. Tìm hiểu nghệ thuật gây cƣời.
Gợi dẫn 2: Các tác giả dân gian đã sử dụng những thủ pháp gây cười
nào trong truyện này?
Yêu cầu:
Trước hết các tác giả dân gian đã tạo ra một câu chuyện đầy kịch tính.
Cải đã đút lót cho thầy lí trước 5 đồng, cứ đinh ninh là mình thắng kiện, ngờ
đâu giữa chốn công đường lại bị thầy lí tuyên án phạt một chục roi. Cải uất
ức, bèn chất vấn lại thầy lí bằng cử chỉ, động tác và lời nói, để nhắc nhở thầy
lí nhớ đến số tiền Cải đã “lót trước”. Và rồi yếu tố bất ngờ khác lại xuất hiện:
Cũng bằng cử chỉ, động tác và lời nói, thầy lí đã “thông báo” lại cho Cải biết
lí do vì sao bị đánh.
Sự kết hợp giữa cử chỉ, động tác và lời nói của hai nhân vật (Cải và
thầy lí ở trong truyện là nét độc đáo của nghệ thuật gây cười ở truyện này:
“Cải vội xòe năm ngón tay, ngẩng mặt nhìn thầy lí, khẽ bẩm:
110
- Xin xét lại, lẽ phải về con mà”
Thầy lí cũng xòe năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay mặt nói:
- “Tao biết mày phải … nhưng nó lại phải … bằng hai mày!”
Như vậy, các tác giả dân gian còn dùng cả thủ pháp gây cười quen
thuộc của người bình dân xưa: chơi chữ. Câu nói cuối của thầy lí có hai từ
phải:
+ Lẽ phải, người phải (cái đúng, người đúng)
+ Chỉ là điều bắt buộc phải làm, nhất thiết phải có.
Chính sự lập lờ giữa hai nghĩa ấy đã tạo nên tiếng cười sảng khoái và
sâu sắc.
3. Khắc sâu ấn tƣợng về tác phẩm.
Gợi dẫn 3: Sau khi tiếp xúc với hai truyện cười trong SGK, anh (chị) có
ấn tượng gì về người Việt Nam bình dân xưa? Nếu yêu cầu giới thiệu ngắn
gọn đặc điểm của truyện cười thì anh (chị) sẽ giới thiệu như thế nào?
Yêu cầu:
- Truyện cười là một bằng chứng về trí thông minh sắc sảo và tinh thần
lạc quan của người bình dân xưa. Truyện cười cũng phản ánh khát vọng của
họ về một xã hội công bằng với cuộc sống yên vui, thanh bình.
- Đặc trưng của truyện cười:
+ Truyện cười rất ngắn gọn (gói kín, mở nhanh, không thừa lời, thừa
chi tiết).
+ Truyện cười có kết cấu chặt chẽ (cái đáng cười được đặt vào tình
huống để nó diễn biến tự nhiên, nhanh chóng đi đến chỗ “gay cấn”, rồi kết
thúc bất ngờ).
+ Nhân vật trong truyện cười rất ít, chỉ xuất hiện trong một tình huống
nhất định với một hành vi nhất định, để gây cười.
111
+ Ngôn ngữ trong truyện cười giản dị, tự nhiên, sinh động, sắc bén và
có tính hài hước.
Phương án dạy học trong cuốn Thiết kế bài giảng Ngữ văn 10,
Nguyễn Văn Đường (chủ biên)
I. Nội dung
Thấy được sự đánh giá của nhân dân về các nhân vật: thầy lí, Cải, Ngô.
Đó cũng là bản chất tham nhũng, ăn của đút của quan lại địa phương và hành
vi tiêu cực của người lao động trong xã hội Việt Nam xưa khi tự mắc vào
vòng kiện tụng, làm mồi ngon cho bọn sâu mọt đục nước béo cò. đặc sắc của
truyện cười là hết sức ngắn gọn, hấp dẫn, bất ngờ, chơi chữ, kết hợp lời nói và
cử chỉ, đầy hàm ý gây cười và châm biếm, chế giễu, đả kích.
II. Tiến trình dạy - học
Hoạt động 1.
KIỂM TRA BÀI CŨ
(hình thức: vấn đáp)
Hoạt động 2.
DẪN VÀO BÀI MỚI
Hoạt động 3.
HƢỚNG DẪN TÌM HIỂU KHÁI QUÁT
1. Đọc - kể
Yêu cầu: Từng câu, từng từ, từng chữ cố thể hiện mâu thuẫn gây cười,
nhất là câu kết tả cử chỉ và lời nói của lí trưởng.
2. Giải thích từ khó.
Ngoài những từ trong chú thích, giải thích thêm từ: lí trưởng, lót.
Hoạt động 4.
HƢỚNG DẪN ĐỌC - HIỂU CHI TIẾT.
112
GV? Một trong những đặc điểm phổ biến của truyện cười là tạo mâu
thuẫn gây cười bằng cách đặt nó trong những tình huống truyện để chuẩn bị
cho mâu thuẫn phát triển. Trong truyện này, tình huống truyện là gì?
- HS trả lời.
- GV hỏi bổ sung:
Vai trò của câu mở đầu với toàn truyện?
Hành động đó, với hai người, nhằm mục đích gì?
Với tác giả dân gian nó có tác dụng gì?
- HS phân tích, giải thích, suy luận, phát biểu.
Định hướng:
a) Trước khi xử kiện.
- Nêu một nhận định, một lời đánh giá cao, một lời khen tài xử kiện của
lí trưởng. Câu chuyện sẽ chứng minh cái giỏi trong xử kiện của lí trưởng. Vấn
đề đã bắt đầu được nêu ra tuy chưa có gì đáng cười.
Ngô và Cải là hai người dân lao động bình thường; bỗng nhiên đánh
nhau rồi mang nhau ra kiện ở chính quyền …
Cải sợ kém thế, lót trước quan 5 đồng; nhưng Ngô lại cao tay hơn biện
chè lá những 10 đồng. Tất nhiên, chỉ có quan biết rõ điều này … chắc hẳn anh
nào cũng tin mình thắng kiện.
b) Khi xử kiện
- GV? Thầy lí đã xử kiện như thế nào? Lời kết án đã gây phản ứng gì?
tới ai?.
- HS nhận xét.
Định hướng
+ Thầy không điều tra, không phân tích, vội kết án ngay, không hề có
sức thuyết phục.
113
+ Cải ngạc nhiên, vội tìm cách kêu xin quan xét lại.
+ Ngô im lặng vì đã được xử thắng kiện.
- GV hỏi tiếp: Phân tích các mối quan hệ giữa lí trưởng và Cải thể hiện
trong cử chỉ, hành động và lời nói của từng người.
- HS phân tích, phát biểu.
Định hướng: Mâu thuẫn gây cười cứ dần dần phát triển và bộc lộ theo
từng cử chỉ, hành động và câu nói của hai nhân vật. Ở câu nói thứ nhất của
Cải, có sự ngầm kết hợp với cử chỉ xòe năm ngón tay (5 đồng quan đã nhận)
…
Cách giải thích của quan thật nhanh nhẹn, thông minh và cũng bất ngờ
không kém.
Lẽ phải của nó (Ngô) = 10 ngón tay xòe = (10 đồng = 5x2 = gấp đôi)
quan cũng đã nhận.
Đến đây, dù tác giả không viết, không kể, nhưng chúng ta đoán chắc,
Cải phải chịu thua … trước cái lí lẽ tự nhiên, cử chỉ gọn gàng và câu nói cũng
đầy hàm ý của quan.
Lẽ phải không xuất phát từ luật pháp, từ công lí mà từ tiền, từ hối lộ.
Về cách xử kiện theo tiền đút lót này thì quả thật lí trưởng là một tay
nổi tiếng xử kiện giỏi. Tiếng cười bật ra vì sự chứng minh chặt chẽ nhận xét ở
câu đầu, theo hướng ngược lại, lẽ phải bằng tiền.
1 lẽ phải: 5 đồng. Ngô thắng; Cải bại là truyện đương nhiên.
2 lẽ phải: 10 đồng
- GV hỏi: kết quả cuối cùng đối với Cải? Có thể rút ra bài học gì.
- HS bàn luận.
Định hướng:
114
Hoàn toàn bất ngờ. Cải vừa mất tiền lại vừa bị đánh. Oan ức mà không
thể kêu oan …
- GV nêu vấn đề: Nhận xét lời kết của lí trưởng.
- HS nhận xét.
Định hướng:
Chơi chữ độc đáo: phải bằng hai ; quan hệ giữa số lượng và chất lượng,
vừa có lí vừa vô lí …
- GV nêu tiếp vấn đề: Bình luận về Ngô và Cải.
- HS phát biểu tự do.
Hoạt động 5.
HƢỚNG DẪN TỔNG KẾT VÀ LUYỆN TẬP
1. Truyện vạch trần, cười cợt và phê phán bản chất gì? Của ai? Bằng
cách nào? Biện pháp chơi chữ thể hiện rõ nhất ở câu nào?
2. Đọc Ghi nhớ tr.96
3. Sưu tầm tiếp một số truyện cười cùng chủ đề.
Phương án dạy học trong cuốn Giới thiệu giáo án Ngữ văn 10 (nâng
cao), Nguyễn Khắc Đàm - Nguyễn Trọng Hoàn.
I. Nội dung dạy học.
Giúp HS: Hiểu được đối tượng, nguyên nhân, ý nghĩa của tiếng cười
trong truyện.
- Thấy được nghệ thuật đặc sắc của truyện cười: truyện ngắn gọn tạo
được yếu tố bất ngờ, những cử chỉ, lời nói gây cười.
II. Tiến trình dạy học.
1. Kiểm tra bài cũ.
2. Giới thiệu bài mới.
115
Hoạt động của GV và
HS
Yêu cầu cần đạt
I. Đọc - hiểu
Truyện: Nhưng nó
phải bằng hai mày.
- Truyện cười cái gì
(cái cười ở truyện này
là gì)?
Biện pháp gây cười của
truyện này là gì? Em
hãy phân tích từng biện
pháp đó trong truyện.
- Truyện cười cách xử kiện “tài tình” của lí
trưởng. Nói một cách hình ảnh: truyện đã tát vào
mặt thầy lí trong việc xử kiện. Cái cười ấy bật
lên là do mâu thuẫn của sự vật. Đó là mâu thuẫn
giữa sự đồn đại, cái tiếng với phẩm chất bên
trong của thầy lí.
Nổi tiếng xử kiện giỏi mâu thuẫn với bản thân
bên trong (nhận tiền đút lót)
Sự công bằng, lẽ phải không có nghĩa lí gì ở
chốn công đường khi thầy lí xử kiện. Lẽ phải ở
đây thuộc về kẻ nhiều tiền.
- Dùng cử chỉ kết hợp với lời nói của các nhân
vật làm cho tiếng cười bật ra. Ngoài biện pháp
ấy, tác giả dân gian còn dùng cách chơi chữ.
+ Trước hết là cử chỉ và lời nói của Cải trước
thầy lí: … “Cải vội xòe năm ngón tay …” cử chỉ
và lời nói ấy của Cải như muốn lót số tiền mà
anh ta lót trước.
+ Thầy lí cũng “xòe năm ngón tay trái úp lên
năm ngón tay mặt” … Cử chỉ ấy phù hợp với
lời nói với Cải …
116
Qua hai truyện rút ra
một số nét nghệ thuật
của truyện cười dân
gian Việt Nam.
- Dùng cách chơi chữ để gây cười. đây là lời
thầy lí “Tao biết mày phải … nhưng nó lại phải
bằng hai mày”. “Phải” mang nhiều nét nghĩa.
+ Lẽ phải chỉ cái đúng đối lập với cái sai.
+ Nghĩa thứ hai là điều bắt buộc phải có. Lời
thầy lí lập lờ cả hai nghĩa ấy kết hợp với hai bàn
tay úp lên nhau thì rõ ràng Ngô đã phải gấp hai
Cải, cách xử lí của thầy lí giỏi quá. Tiếng cười
bật ra.
- Truyện cười rất ngắn gọn, nó kị sự dài dòng.
- Truyện cười có kết cấu chặt chẽ. Mọi chi tiết
đều hướng đến mục đích gây cười.
Tiếng cười bao giờ cũng rộ lên ở kết thúc
truyện.
- Truyện cười rất ít nhân vật. Nhân vật chính là
đối tượng của tiếng cười.
- Ngôn ngữ trong truyện cười giản dị nhưng rất
tinh, rất sắc, nhất là ngôn ngữ và cử chỉ của
nhân vật ở cuối truyện.
+ Cả hai truyện đều ngắn gọn, tiêu biểu cho
truyện châm biếm hài hước của truyện cười dân
gian …
117
Phương án dạy học trong cuốn Giới thiệu giáo án Ngữ văn 10
(chương trình chuẩn), Nguyễn Khắc Đàm - Nguyễn Trọng Hoàn.
I. Nội dung dạy học.
Giúp HS: Hiểu được cái cười (nguyên nhân cái cười) và thấy được thái
độ của nhân dân với bản chất tham nhũng của quan lại địa phương. Đồng thời
thấy được cảnh bi hài của người lao động lâm vào cảnh kiện tụng.
II. Tiến trình dạy học.
1. Kiểm tra bài cũ.
2. Giới thiệu bài mới.
Hoạt động của GV và
HS
Yêu cầu cần đạt
I. Tìm hiểu chung.
(HS đọc văn bản)
Giải nghĩa các từ khó
II. Đọc - hiểu
- Nhân vật trong truyện
là ai?
- Cái cười được miêu tả
như thế nào? (Trả lời
câu hỏi 1 và 2 ở SGK).
Có nhận xét gì về cử
SGK
- Nhân vật trong truyện là lí trưởng với người
theo kiện là Cải và Ngô.
- Trước hết giới thiệu sự việc một cách ngắn
gọn. Viên lí trưởng “nổi tiếng xử kiện giỏi”. Cải
và Ngô đánh nhau rồi mang nhau đi kiện. Cải sợ
kém thế lót trước cho thầy lí 5 đồng. Ngô biện
chè lá 10 đồng. Kết quả xử kiện Ngô thắng Cải
thua.
- Cái cười còn được miêu tả đầy kịch tính qua
cử chỉ và hành động gây cười.
- Đó là cử chỉ: “Cải vội xoè năm … khẽ bẩm”.
118
chỉ này?
Cười còn được thể hiện
bằng thủ pháp nghệ
thuật nào?
Anh (chị) đánh giá thế
nào về nhân vật Ngô và
Cải?
II. Củng cố.
- Qua hai truyện, chúng
ta rút được nhận xét gì
về truyện cười dân
gian.
- Cử chỉ ấy của Cải như muốn nhắc thầy lí số
tiền mà anh ta “lót” trước. Cử chỉ ấy phù hợp
với điều thầy lí thông báo với Cải liền đó. Nó
vẫn còn ẩn một nghĩa khác … Sự kết hợp giữa
cử chỉ và lời nói đã làm bật tiếng cười.
- Dùng hình thức chơi chữ để gây cười. Đây là
lời thầy lí: „Tao biết … hai mày”. Phải trong câu
nói này mang nhiều ý nghĩa. Một là lẽ phải …
Nghĩa thứ hai là điều bắt buộc cần phải có. Lời
thầy lí lập lờ cả hai nghĩa ấy, cộng với hai bàn
tay úp vào nhau bằng 10 ngón thì rõ ràng Ngô
đã phải gấp hai Cải và lẽ phải ở Ngô cũng gấp
hai. Cách xử kiện của thầy lí thật tài tình.
- Tác giả dân gian dùng tiếng cười để quất đòn
roi vào việc xử kiện của lí trưởng. Song Cải và
Ngô lâm vào kiện mà mất tiền. Riêng Cải mất
tiền còn bị „phạt một chục roi”. Tiếng cười cũng
dành cho họ nhưng thật chua chát. họ vừa đáng
thương vừa đáng trách.
- Truyện ít nhân vật, bố cục chặt, rất ngắn gọn.
Cái cười thường được tạo ra từ những mâu
thuẫn giữa cái có/không, bình thường/không
bình thường, đạo lí/nghịch lí, ngoài/trong, hiện
119
tượng/bản chất.
- Bản chất cái cười là ý nghĩa phê phán của nó.
3.2. Phƣơng án dạy - học do tác giả luận văn đề xuất.
3.2.1. Tam đại con gà.
3.2.1.1. Định hƣớng dạy học.
- Câu chuyện Tam đại con gà phản ánh thực chất mâu thuẫn trái tự
nhiên trong nhân vật thầy đồ (dốt nhưng lại “lên mặt văn hay chữ tốt”); lại
dám nhận lời đi dạy trẻ. Khi “sự thật” bị phát hiện anh ta liền tìm cách giấu
dốt; việc sử dụng nghệ thuật gây cười đặc sắc, truyện cười này đã lật tẩy thói
xấu đó.
- Tích hợp với các bài văn tự sự (Lập dàn ý; Miêu tả và biểu cảm; chọn
sự việc và chi tiết tiêu biểu, …). Với tiếng Việt là bài Hoạt động giao tiếp,
văn bản; Đặc điểm ngôn ngữ sinh hoạt.
Dạy học theo định hướng trên thì GV và HS ở bài học này sẽ là:
- Tìm hiểu đối tượng xấu được đưa ra cười cợt, phê phán.
- Dùng các kiến thức của Làm văn và tiếng Việt phát hiện nghệ thuật
gây cười độc đáo của dân gian (nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ).
3.2.1.2. Tiến trình dạy học.
1. Tiếp xúc bước đầu với văn bản.
a) Đọc văn bản
+ Học sinh có thể đọc và kể.
+ Giáo viên nhận xét.
b) Khái niệm truyện cười.
120
+ Nhắc lại khái niệm truyện cười (SGK trang 18).
Gợi dẫn 1: Những truyện cười nào ở chương trình văn cấp II em đã
được học? Căn cứ vào ý nghĩa tiếng cười trong truyện, truyện cười được chia
làm mấy loại?
Yêu cầu:
- Chương trình lớp 6 với hai tác phẩm: Treo biển và Lợn cưới, áo mới.
- Căn cứ vào tiếng cười trong truyện, truyện cười được chia thành hai
loại: Truyện khôi hài và truyện trào phúng.
2. Tìm hiểu đối tượng xấu được đưa ra cười cợt, phê phán.
Gợi dẫn 2: Loại người nào trong xã hội, sự việc xấu nào trong cuộc
sống đã trở thành đối tượng của sự cười cợt, phê phán ở truyện “Tam đại con
gà”
Yêu cầu:
Truyện cười Tam đại con gà kể về một anh học trò học hành dốt nát
nhưng lại dám liều lĩnh nhận việc dạy trẻ trong một gia đình nông dân biết
chữ. Anh ta trở thành đối tượng của sự cười cợt, phê phán của dân gian không
phải ở sự dốt nát, mà là do sự giấu dốt. Tiếng cười được toát ra từ mâu thuẫn
trái tự nhiên trong cách ứng phó của nhân vật “thầy” ở một số tình huống.
Gợi dẫn 3: Trong phần tiếp theo của truyện, hãy chọn những sự việc và
chi tiết tiêu biểu để tìm xem có những tình huống gây cười cụ thể nào? Thầy
đã giải quyết như thế nào với các tình huống ấy?
Yêu cầu:
- Tình huống thứ nhất là gặp chữ “kê” trong cuốn sách Tam thiên tự
“thầy thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối thầy không biết là chữ gì”. Chứng tỏ
thầy quá dốt, học trò lại hỏi gấp, thầy bí và cuống, nói liều: “Dủ dỉ là con dù
dì”. Thầy giảng bừa một câu thuận miệng. Tuy dốt nhưng thầy rất ranh mãnh
121
láu cá: “Thầy cũng khôn, sợ nhỡ sai, người nào biết thì xấu hổ, mới bảo học
trò đọc khẽ”.
Để biết chắc đúng sai, thầy đến trước bàn thờ thổ công “khấn thầm xin
ba đài âm dương ( … ). Thổ công cho ba đài được cả ba ( … ). Thầy lấy làm
đắc chí lắm, hôm sau ngồi bệ vệ trên giường, bảo trẻ đọc cho to”. Lời kể ở
đây rất hài hước “khấn thầm”; “ thầy lấy làm đắc chí lắm”, hôm trước thì
“bảo học trò đọc khẽ”, còn hôm sau thì “bệ vệ ngồi trên giường, bảo học trò
đọc cho to”.
Gợi dẫn 4: Niềm vui của thầy, tiếng đọc bài rất to của học trò do thầy
ra lệnh lại dẫn đến tình huống thứ hai một cách tự nhiên như thế nào?
Yêu cầu:
- Tình huống thứ hai xảy đến thật bất ngờ mà hợp lí khi thầy đối mặt
với chủ nhà. Nghe tiếng con đọc bài „kì lạ” bố của chúng chạy vào mở sách
xem qua, nhận ra ngay chữ ;kê” là gà liền chất vấn thầy. Lúc này thầy tự nhận
thầm rằng mình dốt và nhận ra một sự thật nữa là “thổ công nhà nó cũng dốt”
như mình. Nhưng thầy vẫn không chịu nhận là mình sai và rất “nhanh trí”,
biến báo chống chế: Thầy khẳng định lại nghĩa của chữ “kê” là gà - điều này
thầy đã biết từ lâu “vẫn biết”. Thực tế là thầy mới biết do ông chủ vô tình
giảng cho; thầy còn làm ra vẻ uyên bác: dạy đến gốc, đến “tam đại” (ba đời)
con gà.
Đến đây người đọc lại ngạc nhiên, lạ lùng như ông chủ, vì chưa thấy ai
dạy thế bao giờ, phải hỏi lại cho ra nhẽ: “Tam đại con gà là nghĩa làm sao?
Và rồi, thầy đã trả lời bằng một câu hoàn toàn vô nghĩa, vô lí chỉ được cái
khá vần (lưng), nhịp nhàng dễ nhớ: Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công,
con công là ông con gà!”.
122
Câu trả lời thực chất chỉ là sự nhanh trí, láu cá, lí sự cùn của thầy. Đến
đây tiếng cười oà ra, mâu thuẫn đã được giải quyết bất ngờ mà tự nhiên, rất
phù hợp với tính cách của nhân vật và truyện kết thúc ở đó.
3. Tìm hiểu nghệ thuật gây cười.
Gợi dẫn 5: Nét độc đáo trong nghệ thuật gây cười ở truyện Tam đại
con gà là gì? Từ truyện này, chúng ta có thể thấy được những nét đặc trưng
nào của truyện cười?
Yêu cầu:
- Về mặt kết cấu: đây là một truyện cười có kết cấu chặt chẽ: mở đầu
giới thiệu nhân vật rất ngắn gọn; tiếp đến là đặt nhân vật có thói xấu vào
những tình huống thích hợp để cho nhân vật tự bộc lộ nhằm bật lên tiếng
cười; cuối cùng kết thúc bằng một yếu tố rất bất ngờ, hợp lí.
- Về nhân vật: Truyện chỉ có hai nhân vật. Nhân vật chính trở thành đối
tượng của sự cười cợt, phê phán. Anh ta chỉ biểu lộ một vài hành vi ứng phó
trái lẽ thường trong những tình huống bình thường ( như trên đã phân tích).
- Về ngôn ngữ: Lời kể đậm đà chất dân gian, được thể hiện qua hệ
thống từ ngữ đặc tả hành vi của nhân vật: “đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ
tốt”, “học trò lại hỏi gấp, thầy cuống, nói liều”, “thấy vậy, thầy lấy làm đắc
chí lắm, …”. Cái lí lẽ chống chế của anh học trò dạy trẻ thì rất sẵn trong dân
gian: “Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà”,
“Sáo sậu là cậu sáo đen” …
4. Khắc sâu ấn tượng về tác phẩm.
Qua truyện cười này, các tác giả dân gian muốn nói với chúng ta điều
gì?
Yêu cầu.
Học sinh đọc phần ghi nhớ trong SGK.
123
3.2.2. Nhưng nó phải bằng hai mày
3.2.2.1. Định hƣớng dạy học.
- Truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày châm biếm thói tham
nhũng (ăn của đút lót) của quan lại trong xã hội xưa. Truyện rất ngắn gọn
nhưng lại dựng lên được một màn kịch nhỏ, khiến cho cái đáng cười tự nó
bộc lộ ra một cách cụ thể, sống động.
- Tích hợp với một số truyện cười cùng chủ đề khác: Tuổi Sửu chứ
không phải tuổi Tí; Hai bảy mười ba, …
Với phân môn Tiếng Việt bài: Hoạt động giao tiếp; Thực hành các biện
pháp tu từ; Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, Phong cách nghệ thuật. Cùng
phân môn Làm văn các bài văn về văn tự sự (Lập dàn ý; Chọn sự việc và chi
tiết tiêu biểu … ).
Theo định hướng trên, ở giờ học truyện cười này, hoạt động của GV và
HS chỉ xoay quanh hai chủ đề.
- Tìm hiểu đối tượng xấu được đưa ra châm biếm.
- Phát hiện những nét đặc sắc nghệ thuật của truyện này trên cơ sở so
sánh với truyện “Tam đại con gà” đã học.
3.2.2.2. Tiến trình dạy học.
1. Tiếp xúc bước đầu với tác phẩm.
- Đọc - kể.
Yêu cầu: Từng câu, từng chữ có thể hiện mâu thuẫn gây cười, nhất là
câu kết tả cử chỉ và lời nói của lí trưởng.
2. Tìm hiểu đối tượng xấu được đưa ra châm biếm.
Gợi dẫn 1: Đọc xong truyện em cho biết: Truyện cười này quất đòn roi
vào thói hư tật xấu gì? đối tượng nào trong xã hội?
Yêu cầu:
124
Truyện cười này vạch trần thói tham nhũng (ăn của đút lót) của quan lại
xã hội trước. Đối tượng phê phán ở truyện cười này là “một viên lí trưởng nổi
tiếng xử kiện giỏi”.
Gợi dẫn 2: Bằng sự lựa chọn những chi tiết cùng sự việc tiêu biểu
trong truyện hãy kể lại ngắn gọn cốt truyện và dụng ý của tác giả dân gian đề
cập trong truyện này?
Yêu cầu: Vì đồng tiền mà lí trưởng bất chấp công lí, xử thắng kiện cho
kẻ đút lót nhiều hơn.
Tiếng tăm bên ngoài mâu thuẫn với thực tế bên trong
Sự mâu thuẫn đó nói lên một điều: Sự công bằng, lẽ phải trái không có
nghĩa lí gì ở chốn công đường khi lí trưởng xử kiện.
3. Tìm hiểu nghệ thuật gây cười.
Gợi dẫn 3: Liên hệ với truyện Tam đại con gà và cho biết ở truyện này,
các tác giả dân gian đã sử dụng các thủ pháp gây cười nào?
Yêu cầu:
Trước hết, các tác giả dân gian đã tạo ra một câu chuyện đầy kịch tính.
Trước khi xử kiện, Cải đã lót trước cho thầy lí năm đồng, cứ đinh ninh là
mình thắng kiện. Ngờ đâu, giữa chốn công đường thầy không điều tra, không
phân tích, phán quyết ngay Cải bị “phạt một chục roi”.
Gợi dẫn 4: Hãy chú ý hoạt động giao tiếp diễn ra ở chốn công đường
này, ngoài việc sử dụng phương tiện lời nói các nhân vật giao tiếp còn kết
hợp phương tiện nào khác để thể hiện mục đích giao tiếp của mình? Em có
nhận xét gì về cách kể - tả vụ kiện của thầy lí?
Yêu cầu:
Cải ngạc nhiên, uất ức vội tìm cách kêu xin quan xét lại bằng lời nói
cùng cử chỉ, động tác để nhắc nhở thầy lí nhớ đến số tiền Cải đã lót trước. Và
125
rồi yếu tố bất ngờ khác lại xuất hiện: Cũng bằng cử chỉ động tác và lời nói,
thầy lí đã ngầm “thông báo” lại cho cải biết lí do vì sao bị đánh.
Cách kể vụ xử kiện này rất ngắn gọn. Thầy lí chỉ nói hai câu, cải chỉ
nói một câu, Ngô hoàn toàn im lặng … thế là đủ, không có thêm chi tiết thừa.
Gợi dẫn 5: Vì sao lại nói sự kết hợp giữa cử chỉ ,động tác và lời nói
của hai nhân vật (Cải và thầy lí) ở trong truyện là nét độc đáo của nghệ thuật
gây cười ở truyện này?
“Cải vội xoè năm ngón tay, ngẩng mặt nhìn thầy lí, khẽ bẩm
- Xin xét lại, lẽ phải về con mà!”
Thầy lí cũng xoè năm ngón tay trái úp lên trên năm ngón tay mặt, nói:
“Tao biết mày phải … nhưng nó lại phải … bằng hai mày!”.
Yêu cầu:
Như vậy các tác giả dân gian còn dùng cả thủ pháp gây cười của người
bình dân xưa: chơi chữ độc đáo. Câu nói của thầy lí trả lời đúng với câu vừa
hỏi, vừa xin, vừa nhắc của Cải. Thú vị ở chỗ: thầy lí cũng công nhận ở chỗ
Cải có lẽ phải (đã nhận tiền – 5 đồng). Nhưng không phải ngẫu nhiên mà thầy
ngừng một chút, cốt để Cải phải tự nghĩ mà cố hiểu “Nhưng nó lại phải …
bằng hai mày!”. Trong câu nói có hai từ “phải”: từ “phải” thứ nhất mang
nghĩa “lẽ phải”, “người phải” (cái đúng, người đúng, đối lập với cái sai,
người sai); còn từ “phải” thứ hai là chỉ điều phải làm, nhất thiết phải có. Hai
lần phải, phải bằng hai; quan hệ giữa số lượng và chất lượng vừa có lí vừa vô
lí. Vô lí trong xử kiện nhưng có lí trong thực tế quan hệ giữa ba nhân vật.
Hoá ra lẽ phải không xuất phát từ luật pháp, từ công lí mà từ tiền, từ hối
lộ. Về cách xử kiện theo tiền đút lót này thì quả thật lí trưởng là một tay nổi
tiếng xử kiện giỏi.
Gợi dẫn 6: Kết quả cuối cùng đối với Cải có thể rút ra bài học gì?
126
Yêu cầu: Cải vừa mất tiền vừa bị đánh. Rõ ràng tiền mất tật mang. Oan
ức mà không thể kêu oan, đành ngậm bồ hòn làm ngọt mà rút ra kinh nghiệm.
4. Khắc sâu ấn tượng về tác phẩm:
Gợi dẫn 7: sau khi đọc - hiểu hai văn bản trong truyện cười trong SGK,
anh (chị) có ấn tượng gì về người Việt Nam bình dân xưa? Nếu yêu cầu giới
thiệu ngắn gọn đặc điểm của truyện cười thì anh (chị) sẽ giới thiệu ntn?
Yêu cầu:
Truyện cười là một bằng chứng về trí thông minh, sắc sảo và tinh thần
lạc quan của người bình dân xưa. Truyện cười cũng phản ánh khát vọng của
họ về một xã hội công bằng, với cuộc sống yên vui, thanh bình.
- Đặc điểm của truyện cười.
+ Truyện cười rất ngắn gọn (gói kín, mở nhanh, không thừa lời, thừa
chi tiết).
+ Truyện cười có kết cấu chặt chẽ (cái đáng cười luôn được đặt vào
tình huống để nó diễn biến tự nhiên nhanh chóng đi đến chỗ “gay cấn”, rồi kết
thúc bất ngờ.)
127
C. PHẦN KẾT LUẬN
1. Dựa vào những công trình nghiên cứu khoa học về truyện cười. Luận
văn đã xác định rõ: đặc điểm thể loại truyện cười và lí luận về đổi mới
phương pháp dạy học văn theo hướng tích hợp và tích cực. Đó là những tiền
đề lí thuyết làm cơ sở cho việc nhận diện, định hướng tiếp cận, phân tích,
khám phá truyện cười và phương pháp tổ chức HS chiếm lĩnh tác phẩm
truyện cười của GV trong nhà trường phổ thông.
Cụ thể, luận văn đã xác định được hướng tiếp cận truyện cười theo
hướng tích hợp, tích cực: đi từ việc tiếp xúc bước đầu với văn bản rồi tìm hiểu
tính cách nhân vật và cốt truyện, phát hiện cái đáng cười và nghệ thuật gây
cười (mâu thuẫn gây cười, kết cấu, cường điệu, ngôn từ … ) để tìm hiểu ý
nghĩa của truyện trong tiếng nói của tác giả dân gian. Bên cạnh đó, bài học
còn được tích hợp với Làm văn, Tiếng Việt, … để từ đó HS có tri thức và kĩ
năng tổng hợp về Ngữ văn.
Trong những giờ học truyện cười GV sẽ là người tổ chức, hướng dẫn,
định hướng HS hoạt động đa dạng để phát huy được tính tích cực, chủ động
của họ trong học tập.
2. Dưới ánh sáng của những tiền đề lí thuyết của việc dạy - học truyện
cười trong nhà trường nêu trên, tác giả luận văn đã tiến hành khảo sát thực tế
dạy học truyện cười trong SGK Ngữ văn 10 ở trường phổ thông hiện nay - với
hình thức dự giờ, trao đổi, trò chuyện với GV và HS, kiểm tra kết quả học tập
sau mỗi bài học của HS bằng câu hỏi … Luận văn đã trình bày kết quả khảo
sát theo hai mặt: Về chương trình, SGK; Về giờ học truyện cười.
Luận văn đã chỉ ra và phân tích khá rõ kết quả đạt được và những hạn
chế trong giờ học truyện cười ở trường THPT. Cụ thể là:
Về một nội dung giờ học: Cách phân tích phổ biến khi dạy truyện cười
đã đi theo hướng thi pháp thể loại. Thế nhưng, đây là bài học truyện cười (hai
128
bài) mà chỉ dạy trong một tiết học. Do thường bị gấp rút về thời gian (hết giờ)
cho nên hoặc GV khai thác chưa thật triệt để, hoặc nội dung bài học dàn trải
không khắc sâu được vấn đề cốt lõi, cơ bản của tác phẩm cho HS trong quá
trình chiếm lĩnh tác phẩm. Hơn nữa khi dạy bài học này, GV còn chưa thật
quán triệt quan điểm tích hợp, tích cực. Vì vậy mà nội dung và nghệ thuật của
tác phẩm còn rất qua loa đại khái. Qua bài học HS vẫn chưa nắm chắc được
đặc điểm của thể loại này cùng dư âm ý nghĩa bài học của tác phẩm.
Về phương pháp tổ chức giờ học: đã có một số giờ dạy đề cập tới vấn
đề tích hợp tích cực, song đa số giờ học truyện cười ở trường PTTH còn phải
khắc phục một số hạn chế như: chưa coi trọng hoạt động bước đầu tiếp xúc
với tác phẩm; GV tham kiến thức, làm việc quá nhiều trong giờ học, chưa thật
sự là người hướng dẫn, tổ chức các hoạt động của HS; Việc vận dụng phương
pháp gợi tìm của GV chưa hợp lý cần có sự lựa chọn và sử dụng linh hoạt các
biện pháp, phương pháp nhằm tích cực hoá hơn nữa hoạt động của HS trong
một giờ học …
Cũng trên cơ sở thực tế việc dạy - học truyện cười theo phương pháp
mới tích hợp, tích cực hiện nay luận văn đã mạnh dạn đề cập đến cách tổ chức
hoạt động day-học truyện cười theo hướng tích hợp và tích cực cụ thể là luận
văn đã xác định đựợc hai vấn đề chính: Tổ chức dạy - học truyện cười theo
hướng tích hợp; tổ chức dạy - học truyện cười theo hướng tích cực.
Tổ chức dạy - học truyện cười theo hướng tích hợp lại gồm hai vấn đề
nhỏ:
- Khả năng tích hợp với Làm văn (nghĩa là những kiến thức trong văn
bản truyện cười đó có thể tích hợp với những kiến thức nào của bộ môn Làm
văn và ngược lại).
129
- Khả năng tích hợp với tiếng Việt (nghĩa là những kiến thức trong văn
bản truyện cười đó có thể tích hợp với những kiến thức nào của bộ môn tiếng
Việt và ngược lại).
Từ đó hướng đến vấn đề tổ chức dạy - học truyện cười theo hướng tích
cực. Luận văn đã đưa ra phương hướng cụ thể trong giờ học truyện cười.
- Tổ chức HS đọc văn bản truyện cười.
- Tổ chức HS khám phá nội dung truyện cười.
- Tổ chức HS khám phá nghệ thuật gây cười
3. Nhằm khắc phục những hạn chế của thực tế, luận văn đã tiếp thu,
vận dụng những kinh nghiệm, thành tựu nghiên cứu về dạy học truyện cười
của những thế hệ đi trước, và mạnh dạn đề xuất hướng đi mới khi dạy-học
truyện cười theo hướng tích hợp, tích cực.
Do vậy, luận văn đã trình bày những phương án Thiết kế bài học hai
truyện cười trong SGK Ngữ văn 10 ở các Sách tham khảo được Nxb Giáo dục
và Nxb Hà Nội ấn hành, coi đó là những gợi ý quý báu để giáo viên phổ thông
tham khảo. Đồng thời tác giả luận văn cũng đề xuất giải pháp riêng của mình
trên các mặt.
- Vận dụng phương pháp dạy học văn theo hướng tích hợp tích cực để
xác định hướng dạy và nội dung bài dạy cụ thể.
- Tổ chức giờ học truyện cười với hoạt động song phương của thầy và
trò. Trong đó thầy là người giữ vai trò hướng dẫn, trò là chủ thể tiếp nhận,
tích cực, chủ động tìm hiểu, chiếm lĩnh tác phẩm dưới sự tổ chức hướng dẫn
của thầy.
Giải pháp đưa ra được cụ thể bằng việc thực hiện thiết kế bài học về hai
truyện cười trong sách Ngữ Văn 10 theo hướng tích hợp và tích cực.
130
4. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là việc dạy - học truyện cười ở
trường phổ thông không còn điều gì phải bàn bạc nữa. Bởi lẽ do điều kiện
thời gian hạn hẹp, luận văn chỉ được thực hiện qua việc khảo sát đánh giá
thực tế dạy học truyện cười theo hướng tích hợp, tích cực trên địa bàn hạn hẹp
của Bắc Giang, việc dạy thể nghiệm cũng chưa được thực hiện. Do vậy những
đóng góp của luận văn có thể được xem như một trong những luống cày đầu
tiên xới lên mảnh đất vừa khai thác.
Những kết quả đóng góp của luận văn trên cả hai mặt lí luận và thực
tiễn dạy học truyện cười nêu trên tuy nhỏ bé song cũng có tác dụng mở ra
những hướng nghiên cứu tiếp tục cho các bạn đồng nghiệp sau này. Tác giả
luận văn mong muốn được sự quan tâm đóng góp của các nhà khoa học, các
thầy cô và các bạn đồng nghiệp để đề tài này phong phú và hoàn thiện hơn.
131
THƢ MỤC THAM KHẢO
1. Lê Bảo – Vũ Dương Quỹ (2006), Văn bản Ngữ văn 10 (gợi ý-đọc và
hiểu lời bình), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Hoàng Hữu Bội (2002), Thiết kế bài học Ngữ văn 6 theo hướng tích
hợp, Nxb Giáo dục.
3. Hoàng Hữu Bội (2006), Thiết kế dạy học ngữ văn 10 (phần văn học),
Nxb Giáo dục.
4. Hoàng Hữu Bội - Nguyễn Huy Quát (1997), Tài liệu tham khảo về
phương pháp dạy học văn trong nhà trường, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
5. Nguyễn Viết Chữ (2001), Phương pháp dạy học tác phẩm văn
chương (theo loại thể), Nxb đại học Quốc gia, Hà Nội.
6. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2001), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
7. Nguyễn Văn Đường (2006), Thiết kế bài giảng Ngữ văn 10, tập 1,
Nxb Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Đường (2001), Về dạy học văn lớp 6 THCS theo hướng
tích hợp, Tạp chí giáo dục số 10.
9. Nguyễn Trọng Hoàn (Chủ biên) (2006), Đọc hiểu văn bản Ngữ văn
10, Nxb Giáo dục.
10. Nguyễn Trọng Hoàn (2002), Tích hợp và liên hội trong dạy học
Ngữ văn, Tạp chí Giáo dục số 22.
11. Nguyễn Thị Thanh Hương (1998), Phương pháp tiếp nhận tác
phẩm văn học ở trường phổ thông trung học, Nxb Giáo dục.
12. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương, Nxb
Giáo dục Hà Nội.
132
13. Nguyễn Thanh Hùng (2006), Tích hợp trong dạy học Ngữ văn, Tạp
chí khoa học Giáo dục, số 6.
14. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (1997), Phương pháp dạy học văn,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
15. Phan Trọng Luận (1999), Đổi mới giờ học Tác phẩm văn chương ở
trường Trung học phổ thông, tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 1997 –
2000, Nxb Giáo dục.
16. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (1999), Thiết kế bài học Tác phẩm văn
chương ở nhà trường phổ thông, Nxb Giáo dục.
17. Phan Trọng Luận (2000), Cảm thụ văn học - giảng dạy văn học,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
18. Phan trọng Luận (Chủ biên) (2006), SGK và SGV Ngữ văn 10, Tập
1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2006), Thiết kế bài học Ngữ văn 10,
Nxb Giáo dục.
20. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2006), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên
thực hiện chương trình SGK lớp 10 Trung học phổ thông, Hà Nội.
21. Nguyễn Xuân Lạc (1998), Văn học dân gian Việt Nam trong nhà
trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Trần Gia Linh (1999), Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường,
Truyện dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
23. Đinh Gia Khánh (Chủ biên) (2006), Văn học dân gian Việt Nam,
Nxb Giáo dục (In lần thứ 10).
24. Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên) (2002), Ngữ văn 6, Nxb Giáo dục.
25. Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên)
(1997), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
133
26. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.
27. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2006), SGK và SGV Ngữ văn 10, tập 1,
nâng cao, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
28. Hoàn Tiến Tựu (1996), Bình giảng truyện dân gian, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
29. Hoàn Tiến Tựu (1997), Mấy vấn đề về phương pháp giảng dạy-
nghiên cứu văn học dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn
học dân gian, Nxb Giáo dục.
31. Trần Nho Thìn (Chủ biên) (2006), Phân tích tác phẩm Ngữ văn 10,
Nxb Giáo dục.
32. Nhiều tác giả (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 1, Văn học dân
gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Nhiều tác giả (2001), Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, tập III,
Truyện cười - truyện trạng cười - truyện ngụ ngôn, Nxb Giáo dục.
34. Nhiều tác giả, tài liệu bồi dưỡng (2005), Nâng cao năng lực cho GV
Trung học phổ thông về đổi mới Phương pháp dạy học môn Ngữ văn, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN !
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Hoàng Hữu
Bội - Người thầy đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình học
tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa, các thầy cô
giáo trong tổ phương pháp dạy học – khoa Ngữ văn trường ĐHSP
Thái Nguyên, ĐHSP I Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ khích lệ em trong
quá trình nghiên cứu và học tập tại trường.
Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn Sở Giáo dục đào
tạo Bắc Giang, Ban giám hiệu, các thầy cô giáo trong tổ Văn
Trường THPT số II Yên Dũng - tỉnh Bắc Giang, bạn bè, đồng nghiệp
đã tạo điều kiện cho em trong suốt thời gian qua.
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2007.
Tác giả
Nguyễn Thị Thanh Tâm
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHSP : Đại học sư phạm.
HS : Học sinh.
Nxb : Nhà xuất bản.
ntn : Như thế nào.
GS : Giáo sư.
GV : Giáo viên.
THCS : Trung học cơ sở.
THPT : Trung học phổ thông.
TPVC : Tác phẩm văn chương.
TPVH : Tác phẩm văn học.
TS : Tiến sĩ.
SGK : Sách giáo khoa.
SGV : Sách giáo viên.
VHDG : Văn học dân gian.
CHÚ THÍCH TRÍCH DẪN
- Phần trích dẫn gồm hai thông số đặt trong dấu ngoặc. Giữa hai thông
số là dấu chấm phẩy.
* Thông số thứ nhất là số thứ tự của tài liệu trong danh mục tài liệu tham
khảo.
* Thông số thứ hai là số trang của tài liệu mà ở đó luận văn sử dụng
trích dẫn.
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………. 1.
1. Lí do chọn đề tài …………………………………. 1.
2. Lịch sử vấn đề ……………………………………... 4.
3. Mục đích nghiên cứu ……………………………… 11.
4. Đối tượng nghiên cứu ……………………………... 11.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ……………………………… 11.
6. Phương pháp nghiên cứu ………………………….. 11.
7. Bố cục luận văn ……………………………………. 12.
B. PHẦN NỘI DUNG ……………………………….. 13
Chƣơng 1- Cơ sở lí luận của việc dạy - học truyện
cƣời theo hƣớng tích hợp và tích cực ……………….. 13
1.1 Đặc điểm của thể loại truyện cười ……………… 13.
1.1.1 Khái niệm truyện cười …………………………….. 13.
1.1.2 Phân loại truyện cười ……………………………… 16.
1.1.2.1 Truyện khôi hài ……………………………………. 17.
1.1.2.2 Truyện trào phúng …………………………………. 18.
1.1.3 Sơ lược về thi pháp truyện cười …………………… 20.
1.1.3.1 Mục đích ý nghĩa của việc nghiên cứu thi pháp thể
loại ………………………………………………… 20.
1.1.3.2 Thi pháp chung ở truyện cười là “Nghệ thuật gây
cười” ………………………………………………. 21.
1.1.3.3 Xung đột trong truyện cười ………………………... 27.
1.1.3.4 Kết cấu của truyện cười …………………………… 28
1.1.3.5 Ngôn ngữ trong truyện cười ……………………….. 30
1.1.4 Cách hướng dẫn HS tiếp cận truyện cười ………… 32.
1.1.4.1 Khái niệm tiếp cận ………………………………… 32.
1.1.4.2 Tiếp cận truyện cười ………………………………. 32.
1.2 Nguyên tắc tích hợp và tích cực của chương trình
Ngữ văn trong nhà trường phổ thông ………………... 34.
1.2.1 Nguyên tắc tích hợp ……………………………….. 34.
1.2.2 Nguyên tắc tích cực ……………………………….. 42.
Chƣơng 2- Tổ chức dạy - học truyện cƣời theo
hƣớng tích hợp và tích cực ……………………… 47.
2.1 Khảo sát việc thực thi Chương trình, SGK Ngữ
văn 10 ở những bài học về truyện cười ………….. 47.
2.1.1 Về chương trình …………………………………… 48.
2.1.2 Về SGK ……………………………………………. 49.
2.1.3 Về giờ học truyện cười theo hướng tích hợp và tích
cực ………………………………………………… 51.
2.1.3.1 Hoạt động của thầy và trò trong giờ học Nhưng nó
phải bằng hai mày ………………………………… 51.
2.1.3.2 Hoạt động của thầy và trò trong giờ học Tam đại
con gà ……………………………………………… 55.
2.1.3.3 Nhận xét thực tế hoạt dộng của thầy và trò trong giờ
học truyện cười ở trường phổ thông ………………. 58.
2.1.4 Kết quả hoạt động dạy truyện cười của GV theo
hướng tích hợp và tích cực (qua phiếu điều tra) …... 61
2.2 Tổ chức dạy - học truyện cười theo hướng tích
hợp ………………………………………………… 62.
2.2.1 Khả năng tích hợp với Làm văn …………………… 62.
2.2.2 Khả năng tích hợp với tiếng Việt ………………….. 65.
2.3 Tổ chức dạy - học truyện cười theo hướng tích
cực ………………………………………………… 68.
2.3.1 Tổ chức HS đọc văn bản truyện cười ……………… 68.
2.3.1.1 Đọc diễn cảm ……………………………………… 68.
2.3.1.2 Đọc diễn cảm truyện cười …………………………. 69
2.3.2 Tổ chức HS khám phá nội dung truyện cười ……… 71.
2.3.2.1 Truyện Tam đại con gà ……………………………. 71.
2.3.2.2 Truyện Nhưng nó phải bằng hai mày ……………... 76.
2.3.3 Tổ chức HS khám phá nghệ thuật gây cười ……….. 78.
2.3.3.1 Truyện Tam đại con gà ……………………………. 79.
2.3.3.2 Truyện Nhưng nó phải bằng hai mày ……………... 81.
Chƣơng 3 - Thiết kế bài học về hai truyện cƣời trong
sách Ngữ văn 10 theo hƣớng tích cực và tích hợp ….. 86.
3.1 Thiết kế bài học hai truyện cười trong SGK Ngữ
văn 10 ở các sách tham khảo …………………….. 86.
3.1.1 Giới thiệu tổng quát các sách thiết kế bài học Ngữ
văn 10 đã được ấn hành …………………………… 86.
3.1.2 Tóm lược các phương án dạy học được nêu ra trong
các sách tham khảo ………………………………... 86.
3.2 Phương án dạy học do tác giả luận văn đề xuất 119
3.2.1 Tam đại con gà ……………………………………. 112.
3.2.1.1 Định hướng dạy học ……………………………….. 119
3.2.1.1 Tiến trình dạy học …………………………………. 119
3.2.2 Nhưng nó phải bằng hai mày ……………………… 115.
3.2.2.1 Định hướng dạy học ……………………………….. 123
3.2.2.2 Tiến trình dạy học …………………………………. 123
C. PHẦN KẾT LUẬN 126.
Thư mục thạm khảo ……………………………….. 131
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV_07_SP_VH_NTTT.pdf