+ Bộ Tài chính nghiên cứu việc thành lập các tổ chức mua, bán nợ để giải quyết các khoản nợ, nhất là nợ khó đòi của các DNNN trong diện CPH nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này CPH và đi vào hoạt động thuận lợi.
+ Đề nghị Chính phủ xem xét việc hoãn thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với DNNN CPH trong 2 năm đầu và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo nhằm tạo điều kiện cho CTCP mới ra đời đi vào hoạt động thuận lợi, trả lợi tức cổ phiếu một cách thoả đáng để động viên các cổ đông và thu hút thêm các nhà đầu tư.
+ Bộ Nội vụ cần ra văn bản hướng dẫn việc giải quyết số cán bộ quản lý DNNN khi đơn vị chuyển sang CTCP; bố trí sắp xếp hoặc ưu tiên giải quyết chế độ khi họ không tiếp tục trong CTCP.
+ Chỉ đạo cụ thể về hoạt động của tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể trong CTCP nhằm duy trì và phát huy tốt vai trò của các tổ chức này trong hoạt động của CTCP.
Tóm lại, cả trên phương diện lý luận, thực tiễn và kinh nghiệm đều khẳng định chủ trương CPH DNNN của Đảng và nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn, hợp quy luật, có lập trường quan điểm rõ ràng, hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới. CPH DNNN là một trong những giải pháp tích cực nhằm nâng cao tính năng động và hiệu quả không chỉ của các DNNN mà còn của cả hệ thống các DN trong nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN ở Việt Nam.
CPH DNNN ở Việt Nam là vấn đề mới, phức tạp và rất nhạy cảm. Đây là việc không thể chần chừ, chậm chạp, và càng để lâu, gánh nặng càng lớn, càng thêm thiệt hại cho nền kinh tế. Việc tiếp tục đẩy mạnh tiến trình này đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ khá nhiều vấn đề, từ thống nhất về quan điểm, chủ trương cho đến các giải pháp kinh tế, kỹ thuật và sự nỗ lực, kiên định thực hiện đường lối đã vạch ra của không chỉ các ngành, các cấp trực tiếp thực hiện CPH DNNN, mà còn của cả các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước.
53 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1451 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để tạo nên sự thống nhất trong tổ chức thực hiện; mục tiêu, phương pháp, bước đi trong tiến hành cổ phần hoá cần phải được xác định cụ thể, rõ ràng và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước; xây dựng khung pháp lý cho cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được tiến hành thuận lợi, đặc biệt coi trong chính sách xã hội, nhất là chính sách đối với người lao động tại doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá; xây dựng năng lực tổ chức điều hành của cơ quan thuộc chính phủ đủ sức thực hiện nhiệm vụ trong quá trình cổ phần hoá ở doanh nghiệp nhà nước.
Phần thứ hai
thực trạng cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
2.1- Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Trong những năm 80 của thế kỷ 20, nền kinh tế đất nước trong tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước đã bộc lộ nhiều yếu kém do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu bất cập về cơ chế quản lý doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước là một đòi hỏi tất yếu.
Ngay từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, cùng với việc đổi mới các chính sách kinh tế - xã hội, Đảng ta đã sớm có chủ trương chuyển một bộ phận doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần cụ, cụ thể như sau:
- Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (tháng 12/1991) nêu rõ: "chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp".
Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (tháng 11/1994) đã nêu mục đích, hình thức cổ phần hoá và mức độ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá: "Để thu hút thêm vốn, tạo thêm động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả, cần thực hiện các hình thức cổ phần hoá có mức độ thích hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; trong đó sở hữu nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối".
Nghị quyết số 10 - NQ/TW ngày 17/03/1995 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước đã bổ sung thêm về phương châm tiến hành cổ phần hoá, tỷ lệ bán cổ phần cho người trong và ngoài doanh nghiệp: "Thực hiện từng bước vững chắc cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn. Tuỳ tính chất, loại hình doanh nghiệp để tạo động lực bên trong trực tiếp thúc đẩy phát triển và bán cổ phần cho các tổ chức hay cá nhân ngoài doanh nghiệp để thu hút thêm vốn, mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh".
- Trong kết luận của Bộ Chính trị (văn bản số 301 - BBK/BCT, ngày 12/09/1995) về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000 đã bổ sung thêm mục tiêu giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và phân loại doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá.
- Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của đảng (tháng 6/1996) đã chỉ rõ: "Tổng kết kinh nghiệm, hoàn chỉnh khuôn khổ pháp luật để triển khai tích cực, vững chắc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm huy động thêm vốn, tạo động lực mới thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm tài sản Nhà nước ngày một tăng lên, là sự kết hợp kinh tế nhà nước với kinh tế nhân dân để phát triển đất nước chứ không phải để tư nhân hoá. Bên cạnh những doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, sẽ có nhiều doanh nghiệp mà Nhà nước nắm cổ phần chi phối. Gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp, cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp tuỳ trường hợp cụ thế; vốn thu phải được dùng để đầu tư sản xuất, kinh doanh".
- Trên cơ sở đánh giá tiến trình cổ phần hoá, ngày 4/4/1997 Bộ Chính trị ra thông báo số 63/TB - TW yêu cầu các cấp uỷ Đảng và chính quyền phải quán triệt và tuyên truyền, giải thích trong nhân dân chủ trương, chính sách của Đảng về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, có chính sách khuyến khích người lao động tại doanh nghiệp cổ phần hoá mua cổ phần, hỗ trợ công nhân nghèo mua cổ phần nhằm góp phần xoá đói giảm nghèo; cấp cho người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá một số cổ phần tuỳ theo thời gian cống hiến của mỗi người; có cơ chế để hàng năm gọi thêm cổ phần. Đồng thời, yêu cầu phải tăng cường vai trò của các tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng tại các doanh nghiệp cổ phần hoá; tiến hành phân loại doanh nghiệp nhà nước để lựa chọn doanh nghiệp cổ phần hoá; áp dụng các hình thức cổ phần hoá đa dạng, phù hợp với từng điều kiện cụ thể; hoàn chỉnh các chính sách về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
- Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (thánh 12/1997) nêu rõ giải pháp cổ phần hoá như sau: "Phân loại doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp kinh doanh, xác định danh mục loại doanh nghiệp cần giữ 100% vốn nhà nước, loại doanh nghiệp nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối, loại doanh nghiệp nhà nước chỉ cần nắm giữ cổ phần ở mức thấp" và "Đối với doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần nắm 100% vốn cần lập kế hoạch cổ phần hoá để tạo động lực phát triển, thúc đẩy làm ăn có hiệu quả".
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX nêu rõ định hướng cổ phần hoá đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh là: "Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh trong các ngành và lĩnh vực: bán buôn lương thực, bán buôn xăng dầu, sản xuất điện, khai thác khoáng sản quan trọng, sản xuất một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin, sản xuất kim loại đen, kim loại màu, sản xuất hoá chất cơ bản, phân hoá học, thuốc bảo vệ thực vật, sản xuất xi măng, công nghiệp xây dựng, sản xuất một số hàng tiêu dùng và công nghiệp thực phẩm quan trọng, sản xuất hoá dược, thuốc chữa bệnh, vân tải hàng không, đường sắt, viễn dương, kinh doanh tiền tệ, bảo hiểm, xổ số kiến thiết, dịch vụ viễn thông cơ bản; chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô lớn, có đóng góp lớn cho ngân sách, đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô". Đồng thời "chuyển các doanh nghiệp mà Nhà nước giữ 100% vốn sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là nhà nước hoặc công ty cổ phần gồm các cổ đông là các doanh nghiệp nhà nước".
Với doanh nghiệp hoạt động công ích, Nghị quyết này chỉ rõ định hướng cổ phần hoá là: "Nhà nước giữ 100% vốn hoặc cổ phần chi phối đối với những doanh nghiệp hoạt động công ích đang hoạt động trong các lĩnh vực: kiểm định kỹ thuật phương tiện giao thông cơ giới; xuất bản sách giáo khoa; sách báo chính trị; phim thời sự và tài liệu; quản lý và bảo trì hệ thống đường sắt quốc gia, sân bay; quản lý thuỷ nông đầu nguồn; trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn; thoát nước ở đô thị lớn; ánh sáng đường phố; quản lý, bảo vệ hệ thống đường bộ, bến xe, đường thuỷ quan trọng; sản xuất sản phẩm và cung ứng các dịch vụ khác theo quy định của Chính phủ".
Như vậy, chủ trương của Đảng về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là nhất quán và ngày càng được cụ thế hoá về mục tiêu, phương thức, đối tượng và giải pháp cổ phần hoá.
Căn cứ vào các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ đã từng bước có các văn bản chỉ đạo tổ chức thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, cụ thể như sau:
Ngày 8/6/1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 202/CT về việc tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Trong đó nêu rõ: chọn 7 doanh nghiệp, đồng thời giao nhiệm vụ cho mỗi Bộ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chọn từ 1 đến 2 doanh nghiệp để tổ chức thí điểm chuyển thành công ty cổ phần.
Ngày 4/3/1993 Thủ tướng Chính phủ có chỉ thị số 84/TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước.
Qua một thời gian thực hiện thí điểm, trên cơ sở đánh giá các ưu điểm và vướng mắc của quá trình cổ phần hoá, ngày 7/5/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP về việc chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Sau đó, ngày 26/3/1997 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 25/CP về việc sửa đổi một số điều của Nghị quyết số 28/CP để giải quyết một số vướng mắc nảy sinh trong quá trình cổ phần hoá.
Để đẩy nhanh hơn nữa quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/CP về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, thay thế cho Nghị định số 28/CP và 25/CP nêu trên.
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là công tác hoàn toàn mới mẻ đối với nước ta, không những chỉ nhằm nâng cao hiệu quả và thay đổi cơ cấu doanh nghiệp mà còn phải đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ chức năng nghiên cứu ban hành nhiều văn bản hướng dẫn phục vụ yêu câù thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và từng bước bổ sung, hoàn thiện các cơ chế chính sách đáp ứng yêu cầu nhiều mặt của quá trình cổ phần hoá.
Thực hiện định hướng sắp xếp, phát triển doanh nghiệp nhà nước và thực hiện chủ trương đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước mà Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương (khoá IX) đưa ra, ngày 19/6/2002 chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/2002/NĐ-CP về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, thay thế Nghị định số 44/1998/NĐ-CP. Đây là một bước tiến nữa nhằm tạo ra khung pháp lý thuận lợi hơn cho cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
2.2- Quá trình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
Từ khi có chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Chính phủ đến nay, quá trình cổ phần hoá có thể phân chia làm 3 giai đoạn: giai đoạn thí điểm cổ phần hoá, giai đoạn mở rộng cổ phần hoá và giai đoạn thúc đẩy cổ phần hoá.
2.2.1- Giai đoạn thí điểm (6/1992 - 5/1996)
Ngày 8/6/1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 202/CP, chỉ đạo tiếp tục khai triển việc tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Đây có thể coi là điểm mốc Việt Nam bước vào giai đoạn thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Thực hiện Quyết định này, trong chỉ thị 84/TTg ngày 4/3/1993 Chính phủ đã chọn 7 doanh nghiệp làm thí điểm chuyển thành công ty cổ phần và 19 doanh nghiệp nhà nước để các Bộ và địa phương trực tiếp tiến hành cổ phần hoá. Sau một thời gian tiến hành làm thử, cả 7 doanh nghiệp nhà nước được Chính phủ chọn làm thí điểm đều xin rút. Trong số 19 doanh nghiệp nhà nước do Bộ và địa phương chỉ đạo cổ phần hoá, chỉ có 5 doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Như vậy, đến tháng 5/1996 cả nước chỉ có 5 doanh nghiệp được chuyển thành công ty cổ phần, trong đó 3 thuộc Bộ và 2 doanh nghiệp nhà nước thuộc địa phương được cổ phần hoá. Các doanh nghiệp thí điểm cổ phần hoá đều là những doanh nghiệp mới được thành lập, có quy mô vừa và nhỏ, chủ yếu sản xuất hàng hoá và dịch vụ trong lĩnh vực không quan trọng.
Tóm lại, việc triển khai thí điểm cổ phần hoá còn quá chậm, không đạt yêu cầu mong muốn. Đây là giai đoạn đầy khó khăn vì cơ chế vận hành của công ty cổ phần và cổ phần hoá là vấn đề rất mới ở Việt Nam.
2.2.2- Giai đoạn mở rộng cổ phần hoá (5/1996 - 6/1998)
Rút kinh nghiệm giai đoạn thí điểm, từ tổng kết thực tiễn, chính phủ đã ban hành Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 về việc chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần thay thế Quyết định 202/CP.
Theo Nghị định 28/CP, Nhà nước ta chủ trương mở rộng cổ phần hoá đến tất cả các doanh nghiệp nhà nước mà xét thấy không cần nắm giữ 100% vốn, tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tất cả các ngành và các địa phương. Hình thức cổ phần hoá được bổ sung thêm, phương thức định giá đã xây dựng cụ thể hơn, các ưu đãi cho doanh nghiệp sau cổ phần hoá và cho người lao động cũng được quy định cụ thể hơn.
Sau hai năm thực hiện, vẫn tồn tại tình hình là số doanh nghiệp đăng ký thì nhiều (có trên 200 doanh nghiệp đăng ký cổ phần hoá, chiểm 3% số doanh nghiệp hiện có), nhưng trong quá trình thực hiện có gần 88% số doanh nghiệp đã đăng ký lại xin rút không thực hiện cổ phần hoá. Kết quả chỉ có 25 doanh nghiệp nhà nước tiến hành hoàn chỉnh cổ phần hoá; trong đó có 12 doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp và xây dựng, 3 doanh nghiệp thuộc ngành giao thông vận tải, 3 doanh nghiệp thuộc ngành chế biến nông lâm thuỷ sản và 7 doanh nghiệp thuộc ngành dịch vụ. Tổng số vốn điều lệ của 25 doanh nghiệp khoảng 244 tỷ đồng, trong đó bình quân chung Nhà nước sở hữu 36%, người lao động 42% và cổ đông ngoài doanh nghiệp 22%. Về quy mô: 1 doanh nghiệp có vốn 120 tỷ đồng, 5 doanh nghiệp có vốn hơn 10 tỷ đồng. Trong số 25 doanh nghiệp này có 1 doanh nghiệp Nhà nước không nắm giữ cổ phần là Công ty đầu tư sản xuất và thương mại Hà Nội.
Sau khi cổ phần hoá, các doanh nghiệp đều hoạt động có hiệu quả cao hơn trước: vốn điều lệ (kể cả vốn nhà nước) tăng bình quân 19,05%/năm, doanh thu tăng bình quân 46%/năm, lợi nhuận tăng bình quân 44%/năm, các khoản nộp ngân sách tăng 82%/năm, thu nhập người lao động tăng 14,3%/năm. Thành tựu cổ phần hoá đã tác động mạnh mẽ đến người lao động, khuyến khích nhiệt tình của người lao động. Tuy nhiên, quá trình cổ phần hoá còn chậm và gặp phải những khó khăn, vướng mắc về pháp lý, chẳng hạn quy định xác định giá trị doanh nghiệp như Nghị định 28/CP là chưa phù hợp với nguyên tắc thị trường, hoặc quy định không được chuyển nhượng cổ phiếu cho không là quá cứng nhắc. Thực tế đó đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới chính sách cổ phần hoá theo hướng thông thoáng, tích cực hơn nữa.
2.2.3- Giai đoạn thúc đẩy cổ phần hoá từ 6/1998 đến nay.
Mốc khởi đầu giai đoạn này là sự ra đời Nghị định số 44/CP (29/6/1998) thay thế cho Nghị định 28/CP. Nhìn chung Nghị định số 44/CP đưa ra nhiều ưu đãi hơn cho doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, thay đổi cách bán cổ phiếu ưu đãi cho người lao động cũng như bổ sung một số điều kiện cụ thể cho cách định giá doanh nghiệp. Cùng với Nghị định 44/CP là việc Chính phủ ban hành danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước, theo đó có hơn 60% số doanh nghiệp nhà nước hiện có thuộc diện chuyển đổi sở hữu, đa số trong số doanh nghiệp này thuộc diện cổ phần hoá. Chính sách về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước phù hợp hơn với thực tế nước ta, nên trong 6 tháng cuối năm 1998 và cả năm 1999, tốc độ cổ phần hoá được đẩy nhanh. Tính đến cuối năm 1999 đã cổ phần hoá được 370 doanh nghiệp với tổng số vốn điều lệ là 2.067 tỷ đồng, trong đó vốn nhà nước là 635 tỷ đồng (30,7%), vốn của người lao động và cổ đông người doanh nghiệp là 1.432 tỷ đồng (69,3%).
Năm 2000, tốc độ cổ phần hoá có chững lại nhưng cả năm cũng cổ phần hoá được 250 doanh nghiệp, đưa số doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá lên 620 doanh nghiệp, phân bố gần đều khắp các ngành, địa phương và tổng công ty, trong số 620 doanh nghiệp đã cổ phần hoá tính đến 31/12/2000, số doanh nghiệp có vốn điều lệ lớn hơn 10 tỷ đồng chiếm 13%, từ 5 - 10 tỷ đồng chiếm 20%, còn lại (67%) là doanh nghiệp nhỏ có vốn dưới 5 tỷ đồng. Quy mô vốn của các doanh nghiệp cổ phần hoá rất khác nhau. Có những doanh nghiệp khá lớn như Công ty cổ phần đường Lam Sơn vốn điều lệ 150 tỷ đồng, Công ty cổ phần cáp và vật liệu bưu chính viễn thông: 120 tỷ đồng, nhưng cũng có nhiều công ty vốn chỉ vài trăm triệu đồng, thậm chí vài chục triệu đồng, như Công ty cổ phần vật liệu xây dựng Quảng Xương: 75 triệu đồng, Công ty cổ phần cá Sông Thao: 95 triệu đồng,...
Đến tháng 5/2001, cả nước đã cổ phần hoá được 631 doanh nghiệp nhà nước (529 doanh nghiệp và 102 bộ phận doanh nghiệp), bằng 11% tổng số doanh nghiệp nhà nước hiện có; với số vốn chiếm 1,97% tổng số vốn nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước; đã thu hút thêm 1.736 tỷ đồng vốn của người lao động và ngoài xã hội.
Tính đến tháng 6/2002, số doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá trên cả nước đạt gần 890, chiếm trên 14% tổng số doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động, nhưng số vốn cũng chỉ chiếm khoảng 2% tổng số vốn nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước; số lao động được tuyển dụng vào các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá tăng từ 10 đến 20%. Số doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng chiếm đa số. Trong số gần 890 doanh nghiệp đã cổ phần hoá, có: 120 doanh nghiệp được cổ phần hoá trước năm 1999, 250 doanh nghiệp được cổ phần hoá năm 2000 và từ đầu năm 2001 đến nay có gần 270 doanh nghiệp được cổ phần hoá.
2.2.4- Một số kết quả của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thực hiện trong khoảng thời gian 10 năm vừa qua đã mang lại những kết quả có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Điều đó được thể hiện trên một số lĩnh vực sau:
2.2.4.1- Về sản xuất, kinh doanh.
Nhìn chung các doanh nghiệp nhà nước từ sau khi cổ phần hoá đều làm ăn có hiệu quả. Doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, tích luỹ vốn đều tăng. Theo điều tra của Bộ Tài chính ở 247 doanh nghiệp nhà nước, sau hơn 1 năm cổ phần hoá bình quân doanh thu tăng gấp 1,5 lần so với trước khi cổ phần hoá. Đặc biệt Công ty cơ điện lạnh Thành phố Hồ Chí Minh đã phát triển vượt bậc, trong năm 1999, doanh thu đạt 178 tỷ đồng, gấp 4 lần so với trước cổ phần hoá (46 tỷ đồng) và chỉ sau 7 năm cổ phần hoá, vốn điều lệ tăng từ 16 tỷ đồng lên mức 150 tỷ đồng; Công ty đã phát hành một đợt trái phiếu chuyển đổi giá trị 5 triệu USD. Ngoài ra còn một số doanh nghiệp khác cũng phát triển tốt như: Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết, năm 1999 doanh thu đath 86 tỷ đồng, gấp 1,5 lần so với trước khi cổ phần (55 tỷ đồng).
2.2.4.2- Về việc làm và thu nhập của người lao động
Đây là những vấn đề người lao động rất lo lắng khi doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Họ sợ bị sa thải, bị ngược đãi, việc làm không ổn định dẫn đến thu nhập bấp bênh và không có một đoàn thể nào bảo vệ quyền lợi cho mình. Thực tế cho thấy, từ khi thực hiện cổ phần hoá đến nay, chưa có công ty cô phần nào ngược đãi, sa thải vô lý người lao động; thu nhập và việc làm của người lao động được đảm bảo và ổn định hơn trước.
Theo điều tra của Bộ Tài chính ở 247 doanh nghiệp đã cổ phần hoá, số lao động của các doanh nghiệp này tăng từ 10 - 20%. Nhiều đơn vị đã thu hút được số lượng lao động đáng kể, như công ty chế biến hàng xuất khẩu Long An tăng từ 900 lên 1.280 người, Công ty cổ phần cơ điện lạnh Thành phố Hồ Chí Minh tăng từ 344 lên 731 người.
Thu nhập của người lao động làm việc tại các công ty cổ phần cũng tăng từ 1,4 đến 2 lần. Chẳng hạn, mức thu nhập của người lao động ở Công ty cổ phần cơ điện lạnh Thành phố Hồ Chí Minh tăng từ 932.000 đồng lên 1.477.000 đồng/người/tháng.
2.2.4.3- Về huy động vốn
Kết quả điều tra của Bộ Tài Chính ở 247 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá cho thấy, sau hơn 1 năm, vốn kinh doanh của doanh nghiệp đã tăng gần 2 lần so với trước khi cổ phần hoá.
Phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần hoá khi xác định lại, nhìn chung đều tăng tà 10 - 20% so với giá trị ghi trên sổ sách. Như vậy, khi thực hiện cổ phần hoá, vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp không mất đi mà lại tăng thêm, đồng thời thu hút thêm nguồn vốn nhà rỗi đáng kể trong nhân dân.
Tuy nhiên, so với số doanh nghiệp nhà nước dự kiến cổ phần hoá thì số lượng gần 890 doanh nghiệp nhà nước (tính đến tháng 6/2002) được cổ phần hoá còn quá ít (14% tổng số doanh nghiệp nhà nước hiện có); số vốn nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần hoá chỉ chiếm khoảng 2% so với tổng số vốn tại các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Điều này cho thấy, số lượng doanh nghiệp và số vốn doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá còn quá nhỏ, chưa có tác động đáng kể đến việc cơ cấu lại vốn cũng như cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước.
2.2.4.4- Góp phần thúc đẩy việc hình thành thị trường chứng khoán
Trên thị trường chứng khoán, về cơ bản có 5 chủ thể lớn. đó là: người mua, người bán, người môi giới, người điều hoà thị trường chứng khoán và người tổ chức hoạt động mua - bán chứng khoán. Trong 5 chủ thể trên, chủ thể người mua và người bán mang tính quyết định bởi lẽ nó là nhân tố ban đầu tạo ra thị trường chứng khoán. Nguồn cung cấp cho thị trường chứng khoán gồm: Chính phủ, các cơ quan Chính phủ, các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp nhà nước, nhưng nguồn quan trọng nhất tạo nên sự chú ý của người mua chứng khoán vẫn là cổ phiếu của các công ty cổ phần. Do vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chính là một yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán hình thành và phát triển.
2.2.4.5- Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong khu vực và thế giới, thúc đẩy quá trình chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Không thể có nền kinh tế thị trường thực sự nếu trong nền kinh tế không có các công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sẽ đẩy nhanh quá trình chuyển đổi chung của nền kinh tế, đồng thời trực tiếp góp phần làm "năng động hoá", nâng cao sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng. Đó chính là tiền đề quyết định để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong khu vực và thế giới. Cổ phần hoá góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, qua đó vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ngày càng được củng cố. Những yếu tố này tạo điều kiện thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.2.5- Những tồn tại, hạn chế trong cổ phần hoá doanh ngiệp nhà nước và nguyên nhân.
2.2.5.1- Những hạn chế trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Mặc dù đạt được kết quả ban đầu nói trên, song so với yêu cầu đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước thì việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong những năm qua vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, nhiều mục tiêu chưa đạt được, đó là:
- Tốc độ tiến hành cổ phần hoá còn chậm, số doanh nghiệp nhà nước hoàn thành cổ phần hoá còn ít. Theo dự kiến, đến hết năm 1999 cổ phần hoá xong 400 doanh nghiệp nhà nước, đến hết năm 2000 sẽ chuyển khoảng 1.200 doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, nhưng thực tế đến tháng 6/2002 cả nước mới cổ phần hoá được 890 doanh nghiệp.
Trong quá trình tiến hành cổ phần hoá, đã nảy sinh những vấn đề phức tạp chưa giải quyết được, trong khi chỉ đạo không kịp thời, nên nhiều mục tiêu cổ phần hoá chưa đạt được:
+ Về mục tiêu huy động vốn của toàn xã hội vào đầu tư phát triển: chưa thu hút được đông đảo các nhà đầu tư.
Trong số doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá đến tháng 5/2001, có: gần 30% doanh nghiệp không có cổ đông là người ngoài doanh nghiệp; trên 6,8% số doanh nghiệp có tỷ lệ vốn do cổ đông ngoài doanh nghiệp tham gia chiếm trên 50% tổng vốn điều lệ của doanh nghiệp. Năm 1999, trong số 195 doanh nghiệp cổ phần hoá có cổ đông ngoài tham gia thì 21 doanh nghiệp có tỷ lệ góp vốn của cổ đông ngoài doanh nghiệp tham gia ở mức dưới 10% tổng vốn điều lệ. Việc bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài còn rất hạn chế. Như vậy, vốn thu hút ngoài xã hội không nhiều, việc huy động vốn cần thiết để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất như mục tiêu đề ra còn đang gặp khó khăn.
+ Về mục tiêu: người lao động các doanh nghiệp cổ phần hoá có cổ phần, được mua cổ phiếu với giá ưu đãi.
Trong vấn đề này nảy sinh nhiều sự không công bằng. Chẳng hạn, quy định mức thu nhập dưới 300.000đ/người/tháng là tiêu chí chung xác định "người lao động nghèo", áp dụng cho tất cả các địa phương là không hợp lý.
- Tài sản của nhà nước bị thất thoát nhiều trong quá trình cổ phần hoá.
Theo Nghị định 44/CP, việc xác định giá trị của doanh nghiệp đã được cải tiến hơn như tính đến lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về vị trí địa lý, uy tín mặt hàng và tính toán hợp lý chi phí cho cổ phần hoá. Tuy nhiên, việc định giá doanh nghiệp vẫn chủ yếu dựa vào số liệu so sánh mà theo đánh giá của các chuyên gia đến nay là quá lạc hậu so với giá thị trường. Hơn nữa khi định giá chủ yếu dựa trên phương án của doanh nghiệp đưa ra, đề nghị và Hội đồng thẩm định giá điều chỉnh lại. Do đó, nhiều doanh nghiệp được định giá quá thấp so với giá trị thực nên gây bất bình trong xã hội và làm thất thoát tài sản của Nhà nước.
Tổ chức Đảng trong công ty cổ phần (DNNN CPH) chưa được đổi mới về chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động nên lúng túng trong sinh hoạt, chưa phát huy vài trò lãnh đạo của mình.
2.2.5.2- Nguyên nhân của những hạn chế trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Nguyên nhân khách quan:
- Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp.
Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta có cơ sở vật chất - kỹ thuật ở trình độ thấp, công nghệ lạc hậu, máy móc cũ. Bộ phận lao động thủ công vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong xã hội.
Trình độ phân công lao động xã hội còn thấp, hơn 70% lao động, hơn 80% dân số hoạt động trên lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.
Nước ta là nước nghèo trên thế giới: thu nhậo bình quân đầu người (GDP) đến năm 2000 mới đạt ở mức 400 USD, trong khi số hộ đói nghèo còn chiểm tỷ lệ không nhỏ nên khả năng đầu tư vốn vào công ty cổ phần bị hạn chế.
Tình trạng đó làm hạn chế, thậm chí gây trở ngại đối với việc hình thành và phát triển hình thức tổ chức kinh tế mang tính xã hội cao như công ty cổ phần.
- Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn đang trong quá trình hình thành.
Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường với điểm xuất phát thấp và chịu ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp. Các hình thức tổ chức kinh tế thị trường đang bắt đầu hình thành, nhưng phát triển chưa đồng bộ; chủ yếu mới có thị trường tiêu dùng, dịch vụ; thị trường tư liệu sản xuất và các yếu tố sản xuất khác, như: sức lao động, vốn, chứng khoán, bất động sản... còn ở trình độ sơ khai.
- Trình độ dân trí thấp (cả nước còn 45% lao động chưa học hết phổ thông cơ sở; 80% thanh niên ở tuổi lao động chưa được đào tạo nghề); đa số người lao động còn mang nặng tâm lý sản xuất nhỏ, chưa quen với loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh còn mới mẻ như công ty cổ phần. Người lao động vẫn muốn dựa vào nhà nước. Nhiều lao động trong doanh nghiệp rất lúng túng trong việc quyết định mua hay không mua cổ phiếu; một số không có tiền mua cổ phiếu của chính doanh nghiệp nơi mình đang làm việc.
Bên cạnh đó, những hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ép buộc doạ nạt người lao động bán cổ phiếu,... đã xảy ra, trong khi môi trường pháp lý chưa hoàn thiện nên đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý đầu tư vào cổ phiếu của người dân.
Nguyên nhân chủ quan:
- Nhận thức về vai trò doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường chưa thống nhất. Còn không ít ý kiến cho rằng, phải duy trì nhiều doanh nghiệp nhà nước, nhất là ở các địa phương.
- Chưa làm tốt công tác tuyên truyền sâu rộng về chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Do công tác tuyên truyền chưa được quan tâm đúng mức, nội dung và hình thức tuyên truyền con nghèo nàn, mặt khác còn chưa phù hợp, nên nhiều người hiểu rất sai lệch về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Họ cho rằng cổ phần hoá chẳng khác gì tư nhân hoá, sợ chệch hướng Chủ nghĩa Xã hội, chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chưa được các cấp, các ngành, địa phương hưởng ứng tích cực.
- Việc điều hành triển khai thực hiện cổ phần hoá còn chậm và lúng túng; một số chính sách, cơ chế còn chưa thông thoáng, thiếu tính thực tế, thủ tục còn phiền hà, nhất là trong định giá trị doanh nghiệp.
Điều này thể hiện ở chỗ một số nội dung trong các văn bản chỉ đạo, tổ chức triển khai chưa rõ ràng và thiếu tính hệ thống. Chẳng hạn: cổ phần hoá là tự nguyện hay bắt buộc đối với doanh nghiệp nhà nước? Giá trị đất đai có tính vào tài sản doanh nghiệp để cổ phần hoá hay không? Nếu có thì tính thế nào? Mãi đến tháng 6/2002, theo Nghị định 64 của Chính phủ giá trị quyền sử dụng đất là một cắn cứ xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp. Trách nhiệm của Bộ, Ngành và địa phương trong triển khai cổ phần hoá như thế nào?...
Sự chậm trễ và lúng túng trong triển khai cổ phần hoá còn thể hiện ở chỗ cho đến nay Chính phủ vẫn chưa có chương trình cổ phần hoá tổng thể cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân để làm căn cứ cho việc định hướng, xác định tiến độ, bước đi cho cổ phần hoá. Trong khi đó việc giải quyết các thủ tục về nhà xưởng, đất đai,... nhất là khâu xác định giá trị doanh nghiệp và xử lý nợ của các doanh nghiệp cổ phần hoá còn nhiêù vướng mắc, phiền hà và lúng túng.
- Chế độ, chính sách đối với các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá và người lao động của các doanh nghiệp này chậm được ban hành, chưa đủ hấp dẫn và không ít nội dung chưa được thực thi.
Theo nghị định 44/1998/NĐ - CP, các doanh nghiệp cổ phần hoá được hưởng một số ưu đãi, tuy nhiên vẫn chưa được bình đẳng so với các doanh nghiệp nhà nước. Chẳng hạn, hiện nay các doanh nghiệp nhà nước được hưởng ưu đãi hơn về mức vay, khoanh nợ, xoá nợ, giãn nợ... so với doanh nghiệp cổ phần hoá.
Chính sách đối với người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hoá đến nay còn nhiều vấn đề cần tháo gỡ. Chẳng hạn, Nghị định 44/CP có quy định khống chế tổng giá trị cổ phần ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá không vượt qua 20% giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, đã dẫn đến hiện tượng không công bằng giữa các doanh nghiệp cổ phần hoá: ở doanh nghiệp ít vốn nhưng lại nhiều lao động thì người lao động ít được mua cổ phần ưu đãi; ngược lại, với doanh nghiệp vốn lớn, có ít lao động thì người lao động mua đủ số cổ phiếu ưu đãi cho một năm làm việc tại doanh nghiệp mà doanh nghiệp vẫn không sử dụng hết 20% giá trị phần vốn nhà nước. Hạn chế này được tháo gỡ ở Nghị định 64/2002/NĐ - CP của Chính phủ mới ban hành ngày 19/6/2002. Hy vọng rằng, điều này sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong thời gian tới.
Về tiền lương, hiện nay có tình trạng là: cơ quan thuế yêu cầu doanh nghiệp cổ phần hoá xây dựng đơn giá tiền lương như doanh nghiệp nhà nước theo Nghị định 28/CP (năm 1997) và Nghị định 03/CP (năm 2001). Điều này có nghĩa là Sở Lao đông - Thương binh xã hội tỉnh, thành phố phải duyệt đơn giá tiền lương thì cơ quan thuế mới có cơ sở xác định đơn giá tiền lương hợp lý để tính thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp cổ phần hoá. Vướng mắc này đến nay vẫn chưa được giải quyết vì Sở Lao đông - Thương binh xã hội từ chối thực hiện nhiệm vụ duyệt đơn giá tiền lương đối với doanh nghiệp cổ phần hoá vì lý do chưa có hướng dẫn của cơ quan chức năng thuộc Chính phủ.
Theo khoản 2, Điều 13, Pháp lệnh chống tham nhũng, cán bộ lãnh đạo quản lý doanh nghiệp, vợ hoặc chồng, con của họ làm việc tại doanh nghiệp chỉ được mua cổ phần không vượt quá mức bình quân trong doanh nghiệp cổ phần hoá. Quy định như vậy không những chỉ hạn chế sức mua của các đối tượng này mà còn làm nản lòng các cổ đông khác vì thực tế cho thấy, doanh nghiệp nào có cán bộ lãnh đạo mua nhiều cổ phiếu thì cán bộ, công nhân viên và cổ đông ngoài doanh nghiệp mới tin tưởng mua theo.
- Cùng với việc chưa có chương trình tổng thể về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, đến nay phần lớn các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa được phân loại, sắp xếp theo thứ tự ưu tiên cổ phần hoá. Hiện nay chủ yếu vẫn là do các doanh nghiệp tự đăng ký cổ phần hoá. Do vậy, dẫn đến có nhiều doanh nghiệp đăng ký cổ phần hoá song khi làm cụ thể thì không cổ phần hoá được. Ngược lại, có đơn vị rất thuận lợi để cổ phần hoá nhưng lại không đăng ký.
Để thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, rõ ràng một vấn đề đặt ra là cần phải có hệ thống đồng bộ các giải pháp, biện pháp hữu hiệu và tích cực nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại trên.
Phần thứ ba
một số giải pháp nhằm đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam.
Kinh nghiệm của các nước cho chúng ta cả những bài học thành công và không thành công, cả những vấn đề vướng mắc chưa giải quyết được. Những bài học rút ra ở đây là: sự quyết tâm thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước (CPH DNNN) của Chính phủ; phải nhận thức đúng vai trò và sự cần thiết của CPH DNNN để có sự thống nhất trong tổ chức thực hiện; phải xác định mục tiêu, phương pháp, bước đi trong tiến hành CPH; xây dựng năng lực thể chế của cơ quan Chính phủ chịu trách nhiệm các hoạt động liên quan đến CPH; đặc biệt coi trọng chính sách xã hội, nhất là chính sách đối với người lao động tại DNNN CPH. Nước ta tiến hành CPH DNNN, với định hướng chính trị là xây dựng CNXH, vì vậy, kinh nghiệm CPH DNNN ở Trung Quốc rất bổ ích, chúng ta cần quan tâm.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, thuận lợi, khó khăn, nguyên nhân trong CPH DNNN thời gian qua, những kinh nghiệm và quan điểm mang tính chỉ đạo, chúng tôi đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy tiến trình CPH DNNN, bao gồm:
3.1- Phát triển, hoàn thiện các yếu tố của kinh tế thị trường.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về vai trò của DNNN và kinh tế nhà nước (KTNN) trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, tiến hành các bước sau:
Một là, phát triển các thành phần kinh tế: Cùng với việc đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, xây dựng HTX kiểu mới, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể phát triển; khuyến khích các hình thức liên kết, liên doanh với nhà nước; nhà nước bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của họ; tạo điều kiện hỗ trợ, cung cấp tri thức, kinh nghiệm, kỹ thuật, giải quyết thị trường,... để các thành phần khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước và thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ nước ngoài, cùng tham gia vào các công ty cổ phần được CPH từ DNNN.
Hai là, tạo lập đồng bộ các loại thị trường. Cùng với việc phát triển mạnh thị trường tư liệu sản xuất, thị trường hàng tiêu dùng cần coi trọng việc phát triển mạnh mẽ thị trường các loại dịch vụ cho sản xuất; thị trường công nghệ, thông tin, tư vấn pháp lý, tư vấn tiếp thị, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, v..v, xây dựng và phát triển thị trường tiền tệ. Đặc biệt, phát triển thị trường chứng khoán. Nhà nước cần tạo mọi điều kiện để hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán ngày càng phát triển thuận lợi. Đồng thời, trong tiến trình CPH DNNN cần có biện pháp thúc đẩy CPH những doanh nghiệp có quy mô đủ lớn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này hoạt động tốt để có thể tham gia có hiệu quả vào TTCK.
Ba là, hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô. Điểm mấu chốt là tăng tiềm lực và lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, hoàn thiện chính sách tài chính - tiền tệ và hoạt động ngân hàng, ổn định tiền tệ, kiềm chế cả lạm phát và thiểu phát, nâng cao năng lực quản lý kinh tế thị trường của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương.
Bốn là, điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh tế thị trường, đồng thời phải hướng dẫn, kiểm tra nhằm bảo đảm thực hiện nghiêm túc các Luật đã ban hành. Sớm ban hành một số luật hoặc pháp lệnh quan trọng khác, như luật hoặc pháp lệnh về chống độc quyền của doanh nghiệp lớn, ngăn cấm việc áp dụng các thủ pháp đầu cơ, bán phá giá, lừa đảo, đồng thời khuyến khích cạnh tranh lành mạnh nâng cao chất lượng, hạ giá bán sản phẩm. Ban hành luật hoặc pháp lệnh về CPH DNNN để nâng cao tính pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho CPH. Tạo hành lang pháp lý cần thiết, đảm bảo để cơ chế thị trường vận hành theo đúng định hướng của nhà nước.
3.2- Sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách, tạo thuận lợi cho CPH DNNN.
- Sửa đổi, bổ sung Nghị định 44/1998/NĐ-CP và các văn bản liên quan.
Một là, có thể bãi bỏ hoặc mở rộng các quy định hạn chế mua cổ phiếu của Giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp.
Hai là, về việc bán cổ phiếu giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp CPH, chỉ khống chế thời gian công tác và số cổ phiếu của mỗi năm công tác, không khống chế tổng giá trị cổ phiếu giá ưu đãi theo phần vốn nhà nước.
Ba là, điều chỉnh tỷ lệ ưu đãi đối với phần vốn tự tích luỹ của doanh nghiệp khi CPH. Kiến nghị dành 50% vốn tự tích luỹ của doanh nghiệp để lại cho người lao động trong doanh nghiệp mua cổ phiếu nhằm động viên doanh nghiệp đã có tích luỹ cao, mặt khác, có tác dụng khuyến khích các DNNN chưa CPH tích luỹ vốn, vừa có lợi cho nhà nước, vừa có lợi cho DN khi CPH.
Bốn là, quy định mức khởi điểm tối thiểu được mua cổ phiếu ưu đãi để khuyến khích, thu hút và tạo điều kiện cho người lao động trẻ, nhất là những người đã qua đào tạo (lực lượng quan trọng của doanh nghiệp), có cơ hội được hưởng chế độ ưu đãi. Nên cho người lao động trẻ, đã qua đào tạo, đủ điều kiện làm việc tại DNNN CPH, được hưởng cổ phần ưu đãi ở mức độ nhất định. Nguồn chi này lấy từ quỹ hỗ trợ và sắp xếp doanh nghiệp nhà nước.
Năm là, không khống chế pháp nhân, cá nhân mua cổ phiếu ở loại doanh nghiệp mà nhà nước không nắm cổ phần chi phối và cổ phần đặc biệt. Trong trường hợp người lao động trong doanh nghiệp không có khả năng mua hết tổng số cổ phiếu bán ra, không nên khống chế mức mua cổ phiếu lần đầu của cá nhân, pháp nhân ngoài doanh nghiệp để huy động vốn thêm ngoài xã hội, góp phần rút ngắn thời gian CPH.
Sáu là, cụ thể hoá một bước các luật pháp, chính sách về CPH bằng các văn bản hướng dẫn mang tính đồng bộ, thống nhất; tháo gỡ kịp thời những vướng mắc phát sinh trong quá trình CPH nhằm góp phần đẩy nhanh CPH DNNN. Cần chú ý 2 nội dung sau:
+ Ban hành quy chế xác lập người đại diện sở hữu vốn nhà nước tại CTCP cùng với sự phân định rõ ràng quyền hạn, trách nhiệm của người đại diện này.
+ Điều chỉnh quy định về chi phí CPH đồng thời có hướng dẫn thực hiện cụ thể. Chi phí CPH nên tính trên phần vốn của nhà nước đưa ra CPH, nếu thiếu thì xem xét tăng thêm với tỷ lệ hợp lý.
- Nghiên cứu sửa đổi Luật thuế thu nhập.
Người đầu tư luôn mong muốn đầu tư vốn càng nhiều để có thu nhập càng cao. Nhưng mức tăng thuế suất của thuế thu nhập hiện hành theo phương pháp luỹ tiến quá lớn, không khuyến khích các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước đâù tư, trong đó đầu tư vào cổ phiếu - tác động xấu đến tiến trình CPH.
Kiến nghị sửa đổi như sau:
+ Mức thu nhập từ 3 triệu đến dưới 5 triệu, nộp thuế 10%.
+ Phần thu nhập từ triệu thứ 5 đến dưới 10 triệu, nộp thuế 20%.
+ Phần thu nhập từ triệu thứ 10 trở lên, nộp thuế 30%.
3.3- Tăng cường tuyên truyền, khắc phục tâm lý bảo thủ, trì trệ để đẩy mạnh CPH DNNN.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giải thích, vận động trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, từ Trung ương đến địa phương, trong các doanh nghiệp và toàn xã hội về CPH DNNN. Cụ thể:
+ Các bộ, ngành, địa phương, tổng công ty tiếp tục mở các khoá tập huấn đối với doanh nghiệp và cán bộ tham gia CHP, bảo đảm để các đối tượng trong phạm vi mình quản lý thông hiểu từ chủ trương đến cách thức tiến hành CPH.
+ Kịp thời nêu gương tốt của các doanh nghiệp, địa phương, bộ, ngành trong thực hiện CPH và những bài học kinh nghiệm về CPH.
+ Với hình thức tuyên truyền đa dạng và phù hợp; phát huy tốt vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong công tác tuyên truyền về CPH.
+ Khuyến khích các nhà khoa học và quản lý nghiên cứu, lý giải thật cặn kẽ về CPH nhằm giúp cho công tác tuyên truyền đạt được kết quả mong muốn.
+ Mặt khác, về lâu dài, đưa các kiến thức chủ yếu về kinh tế thị trường, về đầu tư, về CTCP, TTCK, CPH DNNN, ... vào các chương trình đào tạo chính thức của hệ thống giáo dục từ phổ thông đến đại học nhằm hình thành nhận thức và tâm lý về kinh tế thị trường cho các chủ nhân tương lai của đất nước.
3.4- Đổi mới các biện pháp mang tính kỹ thuật và kinh tế
Để rút ngắn thời gian CPH cần đổi mới hai vấn đề liên quan trực tiếp, đó là quy trình CPH và phương pháp định giá doanh nghiệp CPH.
+ Cải tiến quy trình CPH sao cho bớt hình thức nhưng vẫn giữ được vai trò kiểm soát của nhà nước. Trong việc cụ thể hoá từng công đoạn để tổ chức thực hiện cần căn cứ vào tình hình thực tế, không nhất thiết phải qua tất cả các công đoạn, nhưng phải đảm bảo tính chặt chẽ.
+ Đề nghị Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung, cải tiến phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp CPH theo hướng đảm bảo nhanh, gọn, bảo toàn được tài sản nhà nước, đồng thời nghiên cáu thực hiện việc bán đấu giá công khai DNNN khi chuyển đổi sở hữu nói chung. Nên tăng thẩm quyền ra quyết định CPH cho các cấp chủ quản, không phải dừng ở mức 10 tỷ đồng mà có thể cao hơn.
3.5- Làm tốt công tác tổ chức bộ máy chuyên trách CPH DNNN
+ Trước hết, xác lập đồng bộ, đồng thời đổi mới hoạt động của các cơ quan, các ban chuyên trách CPH DNNN từ Trung ương, Bộ, ngành đến địa phương và ở mỗi doanh nghiệp khi thực hiện CPH, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác CPH có đủ năng lực, phẩm chất và trách nhiệm.
+ Không buông lỏng sự chỉ đạo của các cấp đối với CPH; giải quyết kịp thời theo sự phân cấp những vướng mắc ở các doanh nghiệp CPH; xử lý thoả đáng những giám đốc doanh nghiệp, cán bộ quản lý không thực hiện, hoặc thực hiện CPH mang tính chất đối phó.
+ Sớm hình thành các cơ quan tư vấn với những chuyên gia giỏi về CPH ở cả Trung ương, các tỉnh và thành phố, ... để tư vấn giúp đỡ các doanh nghiệp thực hiện tốt tất cả các công đoạn trong tiến trình CPH DNNN.
3.6- Xây dựng chương trình tổng thể quốc gia về CPH.
Tiến hành CPH có trọng tâm, trọng điểm, tức là xác định đúng đối tượng và trình tự tiến hành CPH. Nội dung chương trình bao gồm:
+ Xác định số doanh nghiệp mà nhà nước cần giữ 100% vốn, số doanh nghiệp cần chuyển đổi sang hình thức sở hữu khác.
+ Xác định tổng số doanh nghiệp cần tiến hành CPH của cả nước, của từng địa phương, từng bộ, ngành, v..v., trong đó, số doanh nghiệp CPH mà nhà nước cần nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt.
+ Xây dựng lộ trình CPH cụ thể cho từng ngành, từng bộ, từng địa phương, từng doanh nghiệp trong một lộ trình tổng thể của cả nước.
3.7- Quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp cả trong và sau CPH
+ Hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo hành lang pháp lý thông thoáng, đồng thời có văn bản hướng dẫn thực hiện rõ ràng nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức tổ chức hoạt động bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.
+ Các cơ quan hữu trách cần quan tâm chỉ đạo sâu sát, cụ thể, nắm chắc tình hình các doanh nghiệp, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc của từng doanh nghiệp bằng các hình thức hỗ trợ cần thiết nhằm giúp các doanh nghiệp tiến hành CPH thuận lợi; ngăn chặn việc gây phiền hà, sách nhiễu, phân biệt đối xử với doanh nghiệp CPH; thực hiện đầy đủ những ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động được quy định tại Nghị định 44/1998/ND-CP.
+ Bộ Tài chính, Bộ lao động, thương binh và xã hội cần ra văn bản phối hợp hướng dẫn về thủ tục, nguồn để chi trả các khoản trợ cấp thôi việc cho người lao động trong thời gian làm việc tại DNNN trước khi CPH, và cho người lao động trong các công ty cổ phần nghỉ chế độ sau này.
+ Bộ Tài chính cần có quy định cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp CPH mua tờ cổ phiếu đáp ứng yêu cầu CPH của doanh nghiệp. Nên căn cứ vào tiến độ CPH để giao cổ phiếu cho các kho bạc sở tại; chấn chỉnh việc một số kho bạc đòi hỏi doanh nghiệp CPH nộp toàn bộ vốn điều lệ vào kho bạc, hoặc đòi hỏi phải quyết toán chi phí CPH mới cung cấp tờ cổ phiếu. Điều này không thể thực hiện được, bởi lẽ, thứ nhất, trong vốn điều lệ có cả phần vốn nhà nước góp dưới dạng hiện vật và phần người lao động cho doanh nghiệp vay trước khi CPH; thứ hai, quá trình CPH chỉ kết thúc khi bàn giao giữa lãnh đạo cũ của DNNN với HĐQT và giám đốc CTCP.
+ Bộ Tài chính nghiên cứu việc thành lập các tổ chức mua, bán nợ để giải quyết các khoản nợ, nhất là nợ khó đòi của các DNNN trong diện CPH nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này CPH và đi vào hoạt động thuận lợi.
+ Đề nghị Chính phủ xem xét việc hoãn thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với DNNN CPH trong 2 năm đầu và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo nhằm tạo điều kiện cho CTCP mới ra đời đi vào hoạt động thuận lợi, trả lợi tức cổ phiếu một cách thoả đáng để động viên các cổ đông và thu hút thêm các nhà đầu tư.
+ Bộ Nội vụ cần ra văn bản hướng dẫn việc giải quyết số cán bộ quản lý DNNN khi đơn vị chuyển sang CTCP; bố trí sắp xếp hoặc ưu tiên giải quyết chế độ khi họ không tiếp tục trong CTCP.
+ Chỉ đạo cụ thể về hoạt động của tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể trong CTCP nhằm duy trì và phát huy tốt vai trò của các tổ chức này trong hoạt động của CTCP.
Tóm lại, cả trên phương diện lý luận, thực tiễn và kinh nghiệm đều khẳng định chủ trương CPH DNNN của Đảng và nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn, hợp quy luật, có lập trường quan điểm rõ ràng, hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới. CPH DNNN là một trong những giải pháp tích cực nhằm nâng cao tính năng động và hiệu quả không chỉ của các DNNN mà còn của cả hệ thống các DN trong nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN ở Việt Nam.
CPH DNNN ở Việt Nam là vấn đề mới, phức tạp và rất nhạy cảm. Đây là việc không thể chần chừ, chậm chạp, và càng để lâu, gánh nặng càng lớn, càng thêm thiệt hại cho nền kinh tế. Việc tiếp tục đẩy mạnh tiến trình này đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ khá nhiều vấn đề, từ thống nhất về quan điểm, chủ trương cho đến các giải pháp kinh tế, kỹ thuật và sự nỗ lực, kiên định thực hiện đường lối đã vạch ra của không chỉ các ngành, các cấp trực tiếp thực hiện CPH DNNN, mà còn của cả các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước.
kết luận
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn, một giải pháp quan trọng nhằm đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, góp phần huy động vốn của toàn xã hội để đầu tư phát triển sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh, cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước, thay đổi phương thức quản lý và góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước, nâng cao đời sống người lao động. Mặc dù tiến trình cổ phần hoá diễn ra còn chậm, song quá trình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua đã thu được những kết quả nhất định với gần 890 doanh nghiệp hoàn thành cổ phần hoá. Kết quả đó khẳng định chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước mà Đảng và Nhà nước ta đề ra là đúng đắn.
Tuy nhiên, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là con đường gập ghềnh, phức tạp chứ không phải bằng phẳng, dễ đi. Nó đòi hỏi sự quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn dân và tập thể người lao động trong các doanh nghiệp. Trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, chúng ta cần phải vượt qua mọi tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại khó. Cổ phần hoá đụng chạm sâu sắc và toàn diện đến một thực thể hữu cơ là các doanh nghiệp nhà nước đã tồn tại và hoạt động "lâu" trong cơ chế kế hoạch tập trung, quan liêu, bao cấp. Tiến trình cổ phần hoá phải được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng và phải chú ý toàn diện tới các mặt kinh tế, tâm lý, pháp luật, xã hội... không được phép đơn giản hoá và nóng vội trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước bởi ngược lại sẽ gây hậu quả tiêu cực cả về kinh tế và chính trị - xã hội. Các Bộ, Ngành và địa phương phải coi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình đổi mới nền kinh tế nước ta và quyết tâm thực hiện hoàn thành mục tiêu cổ phần hoá đã định. Có làm được như vậy, chúng ta mới tiến hành thành công sự nghiệp cơ cấu lại nền kinh tế và góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đặt ra.
Luận văn đã cố gắng trình bày, phân tích một số vấn đề chung về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; nêu lên thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta thời gian hơn 10 năm vừa qua; trên cơ sở đó đưa ra kiến nghị một số giải pháp nhằm thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong thời gian tới.
Tuy nhiên trong thời gian có hạn, số liệu về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn chưa được cập nhật đầy đủ, nên luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Rất mong được sự đóng góp, bổ sung của những người quan tâm đến vấn đề này.
Hà Nội – 12 / 2003
tài liệu tham khảo
1- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991.
2- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc, gia Hà nội, 1996.
3- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2001.
4- Nghị quyết hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
5- Phạm Long: Một số vấn đề về tài chính trong tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, Tạp chí Tài chính, 4/2001.
6- Thu Thành: Về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - Thực trạng, vướng mắc và kiến nghị, Báo Nhân dân thứ Bảy, ngày 30/10/2000.
7- Nguyễn Thị Thơm: Tại sao cổ phần hoá chậm, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 32, 9-10/1999.
8- Trần Trung Tín: Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - Thực trạng và giải pháp, Tạp chí thông tin lý luận, số 12/2000.
9- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: Kinh tế nhà nước và quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Tổng quan khoa học Đề tài cấp bộ, 1999-2000, Hà Nội, 2001.
10- Trần Văn Chánh: Đẩy mạnh tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, Tạp Chí kinh tế và phát triển số 111, 01/2000.
11- PGS - TS Phạm Ngọc Côn: Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2001.
12- PGS - TS Ngô Quang Minh: Kinh tế nhà nước và quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Đề tài cấp Bộ năm 1999 - 2000.
13- Đỗ Thị Thoan: Cải cách hành chính nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Quản lý nhà nước, Hà Nội, 2001.
14- Luật doanh nghiệp nhà nước, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
15- Nghị định 28/NĐ-CP của Chính phủ về chuyển đổi một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
16- Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
17- Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
18- Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 của Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
19- Một số văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định 44/NĐ-CP, Nghị định 64/2002/NĐ-CP.
danh mục các chữ viết tắt
sử dụng trong tiểu luận
- CNH : Công nghiệp hoá.
- HĐH : Hiện đại hoá.
- CPH : Cổ phần hoá.
- DNNN : Doanh nghiệp nhà nước.
- TBCN : Tư bản chủ nghĩa.
- XHCN : Xã hội chủ nghĩa.
- CNXH : Chủ nghĩa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28732.doc