MS: LVLS-LSVN015
SỐ TRANG: 210
TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
NGÀNH: LỊCH SỬ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM
NĂM: 2008
MỤC LỤC trang
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA VÙNG ĐẤT BẾN TRE .9
1.1. Vị trí địa lý .9
1.2. Quá trình kiến tạo, bồi đắp vùng đất Bến Tre 10
1.3. Địa hình 11
1.4. Thổ nhưỡng 14
1.5. Khí hậu .1 7
1.6. Sông ngòi .19
1.7. Thủy văn 21
1.8. Thực vật .23
1.9. Động vật .27
Chương 2. DIỆN MẠO VĂN HÓA – XÃ HỘI CỦA VÙNG ĐẤT BẾN TRE TRONG CÁC THẾ KỶ XVII – XX
2.1. Đời sống xã hội 33
2.2. Đời sống vật chất .45
2.2.1. Sinh hoạt kinh tế .45
2.2.2. Cách ăn uống, trang phục, nhà ở, đường sá và phương tiện đi lại .66
2.3. Đời sống tinh thần .86
2. 3.1. Phong tục tập quán 86
2.3.2. Tín ngưỡng – Tôn giáo .94
2.3.3. Giáo dục .113
2.3.4. Văn học .121
Chương 3. CON NGƯỜI BẾN TRE .138
3.1. Con người Bến Tre trong đấu tranh với thiên nhiên 138
3.2. Đấu tranh với xã hội .147
3.3. Đặc điểm tính cách của con người Bến Tre .168
KẾT LUẬN 176
TÀI LIỆU THAM KHẢO 18 8
PHỤ LỤC .195
210 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1923 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Diện mạo văn hóa - Xã hội của vùng đất Bến Tre trong các thế kỉ XVII- XX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tâm cao.
Một trong những đặc tính khá nổi bật của người Bến Tre đó là tinh thần tự
lực tự cường. Đất Bến Tre là vùng đất cù lao, ba bề sông biển bao bọc, trông chờ
dựa dẫm vào người khác rất khó. Vì vậy, khi có vấn đề nảy sinh, suy nghĩ đầu tiên
của con người xứ cù lao là phải dựa vào sức mình là chính, phải tự mình giải quyết
khó khăn, tự mở đường mà tiến, không thể ỷ lại, trông chờ.
Tinh thần tự lực tự cường được in dấu khá rõ nét trong kỹ thuật đào mương
lên liếp, biến vùng đất thường xuyên bị ngập nước ven sông rạch thành đất vườn.
Từ đó, một nghề mới trong nông nghiệp xuất hiện, đó là nghề làm vườn, lợi nhuận
thu về cao gấp nhiều lần so với canh tác lúa. Nếu cho rằng “đào mương lên liếp” là
phát kiến riêng của người Bến Tre thì chưa thoả đáng, song không thể không ghi
nhận đóng góp có giá trị của cư dân Bến Tre trong kỹ thuật cải tạo đất bằng cách
đào mương lên liếp, tạo ra hệ thống tưới tiêu tự chảy, hình thành và phát triển ngành
kinh tế vườn ở Nam Bộ.
Tinh thần tự lực còn thể hiện trong việc chinh phục vùng đất nhiễm phèn,
nhiễm mặn. Vùng đất Bến Tre không phải là nơi có nhiều thuận lợi cho việc trồng
lúa. Trở ngại lớn nhất đối với việc trồng lúa ở đây là hiện tượng xâm nhập mặn. Để
có thể thâm canh tăng vụ, việc xây dựng hệ thống thủy lợi có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng.
Với bản lĩnh và quyết tâm cao, nông dân Bến Tre đã biết xây dựng hệ thống
thủy lợi (đắp đập ngăn sông - đập Ba Lai, đắp đê ven sông Hàm Luông) để ngăn
mặn, đào nhiều kênh mương để phục vụ tưới tiêu cho những vùng bị nhiễm mặn,
đưa nước ngọt vào đồng ruộng, tạo điều kiện cho việc thâm canh tăng vụ, biến một
vùng đất vốn không thích hợp đối với cây lúa trở thành nơi chẳng những giải quyết
tương đối ổn nhu cầu lương thực của địa phương mà còn thừa cho xuất khẩu.
Để có thể tự lực vươn lên đòi hỏi người dân nơi đây phải nỗ lực học tập. Một
đặc điểm đáng lưu ý khác của người Bến Tre đó là tinh thần hiếu học. Do hiểu
được cái giá của thất học, lập làng xong, cư dân liền tìm thầy để dạy chữ cho con.
Bến Tre cách xa Gia Định, đi lại khó khăn, nhưng việc học ở đây phát triển khá
sớm. Năm 1867, khi xâm lược Bến Tre, thực dân Pháp thừa nhận, trên 2 cù lao Bảo
và Minh có 70 trường dạy chữ Hán. Đất Bến Tre là nơi sản sinh những con người
hiếu học, thông minh, có trình độ học vấn uyên thâm như Phan Thanh Giản, Trương
Vĩnh Ký.
Những thế hệ con cháu của các bậc tiền nhân quê dừa cũng đã sớm thấy vai
trò của khoa học, tìm đến với khoa học, rất cần mẫn, thông minh trong việc tiếp thu
và ứng dụng khoa học vào cây trồng. Người ta rất say sưa tìm tòi những bí ẩn sinh
học của cây trồng để bồi dưỡng, thuần hoá và cải tạo nó. Việc du nhập và kỹ thuật
lai tạo, ghép cây, chiết cành, tạo ra những giống mới, có năng suất cao cũng nảy
sinh từ đất Vĩnh Thành (Chợ Lách, Bến Tre) từ cuối thế kỷ XVIII đến nay. Từ thuở
xa xưa chỉ có cây dừa, cây cau, cây chuối, dây trầu là những loại cây trồng phổ
biến, ngày nay, chủng loại cây trồng trên đất Bến Tre rất phong phú. Mỗi loại cây
qua sự thuần dưỡng của con người đều có sự phát triển, đổi mới, hơn hẳn về số
lượng và chất lượng so với nguồn gốc cũ. Bến Tre đang dẫn đầu phong trào tạo ra
lúa cao sản, dừa cao sản, mía cao sản, đưa cây hồ tiêu và cây ca cao vào đất vườn,
biết khai thác ba tầng sinh thái trong đất vườn. Đời nọ qua đời kia, tinh thần ham
học hỏi, nhạy bén và sáng tạo trong đời sống đã nối tiếp thành truyền thống.
Địa thế đất cù lao, bị cách bức với các vùng lân cận, điều kiện giao lưu bị
hạn chế chắc chắn có ảnh hưởng nhất định đến sự hình thành, phát triển tính cách,
tâm lý của con người. Nói đến vùng đất bị cách bức với các vùng lân cận như đất
đảo hay đất cù lao của Bến Tre, người ta thường nhấn mạnh đến tính chất bảo thủ,
trì trệ, chậm thay đổi. Bến Tre cũng khó thoát khỏi những hạn chế chung đó. Tuy
vậy, thiên nhiên cách trở cũng tạo ra cho người Bến Tre tư thế sẵn sàng đón nhận
tinh hoa văn hóa từ nơi khác. Bởi lẽ, nếu đóng cửa, chối từ đồng nghĩa với việc tự
đào sâu ranh giới ngăn cách, tự làm cho mình thụt lùi so với các địa phương khác.
Tuy bị cách bức, nhưng Bến Tre không phải là vùng đất heo hút. Nhờ hệ thống sông
lớn và biển bao bọc, Bến Tre có điều kiện thuận lợi về giao thông thuỷ. Tận dụng,
khai thác lợi thế này, từ rất sớm, người Bến Tre đã mở rộng giao lưu buôn bán với
bên ngoài. Từ Bến Tre, ghe thuyền có thể ra tận miền Bắc, miền Trung, đến Sài
Gòn và sang cả vịnh Thái Lan. Qua giao lưu buôn bán, đến được nhiều nơi, tiếp xúc
với người của nhiều địa phương, người Bến Tre đã biết học tập, tiếp thu những cái
hay, cái tốt của những nơi khác để làm giàu thêm kiến thức của mình trong phát
triển kinh tế và văn hoá.
Những lớp lưu dân đầu tiên đến với vùng đất Bến Tre hầu hết là nông dân,
lính tráng, tội đồ. Vốn chữ nghĩa của họ không có hoặc rất ít ỏi. Vào vùng đất mới,
mọi công sức đều dồn vào việc giành giật miếng cơm, manh áo. Bọn phong kiến,
thực dân lại không bao giờ nghĩ đến việc mở mang trường học, truyền bá văn hoá
cho nhân dân. Cho nên, không phải chỉ có họ mà cả những thế hệ về sau của họ vẫn
là những người nông dân chất phác, thật thà, thẳng thắn, bộc trực, ít văn chương
rào đón trong cư xử, giao tiếp. Đặc điểm này trải qua bao thế hệ vẫn được bảo tồn.
Đó là một nét đẹp trong tính cách của con người nơi đây.
Do lâm vào cảnh bế tắc, phải rời bỏ quê hương ra đi vì không còn đất sống,
họ là những người mang trong mình đầu óc mạo hiểm, bị buộc phải liều. Cùng
chung cảnh khổ, phải ra đi tìm cái sống trong muôn ngàn cái chết, phải đoàn kết
nhau để vượt qua những trở ngại của thiên nhiên, do vậy, người ta rất chuộng nghĩa
khí, quý trọng bè bạn, tình huynh đệ giang hồ, lòng nghĩa hiệp, coi tiền tài như cỏ
rác, sẵn sàng xả thân vì nghĩa. Tiêu chuẩn đạo lý làm người là “Kiến nghĩa bất vi vô
dũng giả” đã trở thành phương châm ứng xử của nhiều người.
Làm việc nghĩa là bênh vực những người yếu đuối, sa cơ thất thế, chống lại
cường quyền hoặc bạo lực phi nghĩa, như trường hợp Vân Tiên cứu Nguyệt Nga.
Tuy nhiên, nếu vì nghĩa được mở rộng đến mức không phân biệt cái tốt, cái xấu, cái
đáng bênh vực và cái không đáng bênh vực thì dễ dẫn đến những hành động liều
lĩnh, có hại.
Trong Gia Định Thành thông chí, Trịnh Hoài Đức viết: “Ở Gia Định, khách
đến thì mời ăn trầu trước, thết nước chè rồi đến ăn cơm ăn bánh, cốt phải phong
hậu. Không kể người thân hay sơ, lạ hay quen, tung tích thế nào, đã đến tất phải tiếp
nhận thết đãi…” [18, tr.146]. Phải chăng do thiên nhiên hào phóng nên con người
hào phóng. Có lẽ vì cùng chung cảnh khổ với nhau, người ta rất dễ cảm thông, chia
sẻ lẫn nhau. Đó chính là nguồn gốc nảy sinh tinh thần nhường cơm sẻ áo, hiếu
khách, hào phóng, một trong những đức tính đáng quý của người Bến Tre, bất kể là
người giàu hay người nghèo. Tinh thần hào phóng, hiếu khách, lấy tình nghĩa làm
trọng còn bảo lưu khá tốt ở Bến Tre. Tinh thần này được thể hiện ở sự tiếp đãi ân
cần, cách bày biện, nấu nướng, thái độ hòa nhã, lịch sự. Các món đặc sản của địa
phương thường được mang ra đãi khách, tặng, biếu lúc khách ra về.
Vì nghĩa lớn và tinh thần hào phóng, khi có quốc gia đại sự, người dân Bến
Tre sẵn lòng quyên góp tiền tài, vật chất ủng hộ kháng chiến, nuôi giấu cán bộ.
Những câu chuyện về việc nhân dân Bến Tre tự nguyện góp 700 lạng vàng trong
“Tuần lễ vàng” để lập quỹ Độc lập xây dựng đất nước và mua sắm vũ khí trang bị
cho quân đội, chuyện Đức giáo tông Nguyễn Ngọc Tương – Phái Cao Đài Ban
Chỉnh Đạo tự nguyện hiến cho Chính phủ kháng chiến 130 mẫu rừng lá ở Giồng
Bãi – Thạnh Phú, rất nhiều người dân sẵn sàng hiến đất của mình để xây dựng các
công trình công cộng… là những minh chứng cho tinh thần hào phóng, nghĩa hiệp
của người dân Bến Tre.
Trước những trở ngại của thiên nhiên người ta xem nhẹ tính mạng, sống liều
lĩnh, ngang tàng, dũng cảm, không lùi bước, do vậy họ cũng sẽ không bao giờ chấp
nhận những bất công của xã hội, quyết tâm, kiên trì bảo vệ lẽ phải đến cùng.
“Trời xanh cây cứng lá dai
Gió lay mặc gió chiều ai không chiều”
Tinh thần đấu tranh vì lẽ phải được thể hiện qua việc các cụ già ở Ba Tri
bằng sức của đôi chân đã vượt đường sá xa xôi, nguy hiểm, đến tận kinh thành Huế
kiện việc bất bình. Không chỉ có “ông già”, cả “bà già” cũng có tinh thần, ý chí,
quyết tâm, kiên trì bảo vệ lẽ phải đến cùng như trường hợp của bà Phan Thị Tỏ –
chủ hãng kẹo dừa Thanh Long, bị giả mạo nhãn hiệu sản phẩm, đã sang tận Trung
Quốc để đấu tranh đòi lẽ công bằng.
Kiên trì bảo vệ lẽ phải đến cùng là một đức tính đáng yêu của cư dân Bến
Tre. Thế nhưng, nếu không xác định được thế nào là lẽ phải, chỉ lo cho lợi ích của
bản thân, đấu tranh bất chấp kỷ cương, phép nước như các trường hợp cố chấp
khiếu nại đòi đất vào tập đoàn sản xuất, khiếu nại vượt cấp, tụ tập đông người gây
rối trật tự công cộng thì lẽ phải trở thành điều phi lý.
Từ mảnh đất hoang sơ biến thành ruộng vườn tươi tốt, đó là cả một quá trình
mà con người nơi đây đã bỏ ra không biết bao nhiêu công sức. Chính vì vậy, người
ta vô cùng quý trọng thành quả lao động. Họ yêu ruộng, yêu vườn, từ đó mà phát
triển thành tình yêu quê hương, đất nước.
Yêu nước là đặc tính cơ bản của mọi người Việt Nam, được hun đúc nên
trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Nói về đồng bào Nam Bộ, trong đó
có Bến Tre, không ít ý kiến đã bình phẩm, ngợi ca tinh thần yêu nước, bất khuất
của họ với những biểu hiện đặc biệt so với các vùng đất khác.
Ngay từ buổi đầu chống Pháp, Nguyễn Ngọc Thăng – người con của xứ dừa
đã có mặt trên tuyến đầu ở đại đồn Kỳ Hoà. Sau khi ba tỉnh miền Đông rơi vào tay
giặc, Bến Tre trở thành một trong những vùng “tị địa” của những sĩ phu và nghĩa
dân yêu nước, bất hợp tác với giặc. Khi ấy, người Bến Tre cũng có mặt và chiến đấu
dũng cảm trong các đơn vị quân đội của triều đình như Lê Quang Quan (Tán Kế),
trong những đội quân ứng nghĩa của Trương Định như Trịnh Viết Bàng, Huỳnh Văn
Thiệu. Chủ tướng mất, những người này vẫn giữ vững ý chí, lui về quê nhà, chiêu
mộ nghĩa quân, tiếp tục tổ chức chiến đấu đến cùng.
Khi ba tỉnh miền Tây tiếp tục rơi vào tay giặc, nhân dân Bến Tre đã giáng
những đòn phủ đầu ngay từ khi bọn Pháp xâm lược mới đặt chân lên vùng đất cù
lao, tại những nơi như Hương Điểm (Giồng Trôm), Giồng Gạch, Bảo Thạnh (Ba
Tri). Tiếp theo là những cuộc khởi nghĩa, tự động nổi dậy của nhân dân ở cả ba dãy
cù lao với những tên tuổi như Phan Tòng, Phan Tôn, Phan Liêm, Lê Văn Nghiêm,
Nhiêu Đẩu, Nhiêu Gương… Không chỉ đánh địch ở quê nhà, nhân dân xứ cù lao
còn tham gia khởi nghĩa của Thủ khoa Huân ở bên kia sông Tiền. Vì thế, trong tổng
số 47 làng bị Thống đốc Nam Kỳ ký lệnh phạt, Bến Tre chiếm đến 11 làng.
Trong cuộc chiến bảo vệ quê hương, không chỉ có nông dân tham gia chiến
đấu, mà có cả những trí thức Nho giáo cũng có mặt trên tuyến đầu chống giặc.
Người thì chiến đấu bằng ngòi bút như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, có người
thì cầm gươm xông pha vào trận mạc như thầy giáo Phan Tòng – người chỉ huy trận
Giồng Gạch, cử nhân Âu Dương Lân – người đã cùng Nguyễn Hữu Huân lãnh đạo
cuộc khởi nghĩa ở Định Tường…
Truyền thống yêu nước bất khuất của người Bến Tre đã được các thế hệ nối
tiếp nhau kế thừa một cách xuất sắc, từ buổi đầu chống xâm lược, qua thời xây
dựng Đảng rồi đến kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ sau này.
Chiến tranh xảy ra, người dân đã biến ngôi nhà, mảnh vườn của mình thành
nơi nuôi giấu cán bộ, bộ đội, thành căn cứ địa cách mạng vây hãm quân thù. Giặc
phá vườn, cào nhà, gom dân, người dân nơi đây đã dũng cảm bám ruộng vườn, đánh
trả quân thù bằng tất cả bản lĩnh, tài năng và trí sáng tạo của họ. Nhân dân Giồng
Trôm sử dụng bè cây kết bằng hàng trăm cây dừa phá sập cầu Bình Chánh, Nguyễn
Văn Tư đánh giặc bằng ong vò vẽ, Lê Chính làm giàn thun để bắn lựu đạn vào đồn
giặc, Hoàng Lam mang thuốc nổ lội sông đánh tàu giặc… Mỹ dùng chất độc hoá
học huỷ diệt cây vườn, người dân Bến Tre đã phát triển nghề trồng mía để phủ xanh
địa hình, giữ vững thế chiến tranh du kích. Mía xen dừa, vườn Bến Tre thêm thế
mạnh mới về kinh tế, phát triển nghề làm đường, bảo đảm cuộc sống bộ đội và nhân
dân trong thời kỳ chiến tranh và mở rộng giao lưu kinh tế sau này. Có thể xem đó là
những điển hình đánh giặc với kiểu cách độc đáo của người dân Bến Tre.
Trong điều kiện bị cách bức, khó khăn trong liên lạc và nhận sự chi viện từ
các vùng xung quanh, Bến Tre không thể ngồi im trông chờ mà phải tự suy nghĩ,
tìm cách khắc phục những vấn đề nan giải.
Trong kháng chiến chống Pháp lần hai và kháng chiến chống Mỹ, để tăng
cường khả năng chiến đấu cho địa phương, Tỉnh uỷ Bến Tre đã mạnh dạn tổ chức
những chuyến vượt biển, ra thủ đô Hà Nội để xin chi viện. Không phải ngẩu nhiên
mà người ta gọi Bến Tre là “Quê hương Đồng khởi”. Theo Đại tướng Hoàng Văn
Thái, trong bài phát biểu ở Hội nghị tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
của nhân dân Bến Tre, ngày 17.7.1982: “Phong trào Đồng khởi ở Bến Tre đã mở
đầu cho cuộc tấn công và nổi dậy lần thứ nhất của cách mạng miền Nam, mở đầu
cho cuộc khủng hoảng triền miên của chính quyền Mỹ, Diệm. Rõ ràng, phong trào
Đồng khởi ở Bến Tre đã đi vào lịch sử như một ngọn cờ đầu, nó đã có một vị trí
xứng đáng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam và xứng đáng
được gọi là quê hương Đồng khởi với tất cả nội dung và tính chất của nó” [66,
tr.1091]. Từ phong trào Đồng khởi, “đội quân tóc dài” đã ra đời và phát triển rộng
khắp toàn miền Nam, đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng
ở miền Nam. Đặc công thuỷ ở Bến Tre, một loại binh chủng đặc biệt, với quân số
chưa đến 100 người nhưng chiến công của họ thì lẫy lừng, diệt hàng trăm tàu địch,
hàng ngàn tên giặc bị nhấn chìm xuống đáy sông Hàm Luông.
Xin được nêu vài con số minh chứng cho tinh thần yêu nước của người Bến
Tre. Trong thời chống Pháp và chống Mỹ, Bến Tre có 7 vạn thanh viên lên đường
cầm súng cứu nước. Không những chỉ chiến đấu trên quê hương mình, con em xứ
dừa còn ra đi chiến đấu trên khắp các chiến trường Nam Bộ và cả ở nước bạn
Campuchia. Kết thúc chiến tranh, toàn tỉnh có hơn 34.715 liệt sĩ (hy sinh gần 50%),
15.132 thương binh, 43 anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 90 đơn vị anh hùng
tập thể, 14 người được phong quân hàm cấp tướng.
Trải qua ba thế kỷ khai phá, xây dựng và bảo vệ quê hương, các thế hệ người
dân Bến Tre đã dày công hun đúc, tôi luyện nên những truyền thống tính cách đáng
quý. Đó là tinh thần yêu nước, bất khuất, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần hiếu học,
sự chất phác, thật thà, chuộng nghĩa khí, hào hiệp, mến khách…Truyền thống tính
cách mà các thế hệ cha anh đã để lại là hành trang quý giá để các thế hệ con em Bến
Tre học hỏi, phát huy, tiếp tục xây dựng quê hương Bến Tre thêm giàu đẹp.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu diện mạo văn hoá – xã hội của Bến Tre trong các thế kỉ
XVII – XX, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
1. Khi xem xét diện mạo văn hoá của vùng đất Bến Tre cần xem xét những
đặc điểm về điều kiện tự nhiên và xã hội của vùng đất này.
Văn hoá là một mảng của đời sống xã hội, là sản phẩm của hoạt động đấu
tranh với tự nhiên và đấu tranh xã hội, gắn bó hữu cơ với tổ chức cuộc sống của
cộng đồng dân cư. Văn hoá là sản phẩm của một cộng đồng dân cư sáng tạo ra trong
điều kiện tự nhiên và xã hội cụ thể. Đặc điểm của cộng đồng dân cư, môi trường tự
nhiên và xã hội là những nhân tố tác động đến sự hình thành diện mạo văn hoá.
Bến Tre là vùng đất cù lao cửa sông, giáp biển. Bến Tre nằm trong vùng khí
hậu nhiệt đới với hai mùa mưa nắng rõ rệt. Thời tiết nhìn chung thuận lợi, ít chịu
ảnh hưởng của bão. Nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm thuận lợi cho sự phát triển của nhiều
loại cây trồng, vật nuôi, song gần một nửa diện tích đất bị nhiễm phèn, mặn, gây
nhiều trở ngại cho sự phát triển của nông nghiệp.
Sông ngòi, kênh rạch chằng chịt đã chia cắt địa hình Bến Tre, gây trở ngại
cho giao thông đường bộ nhưng là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển giao thông
thuỷ, góp phần thúc đẩy giao lưu kinh tế và văn hoá. Sông mang phù sa về cho vùng
đất, cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt và nông nghiệp, cung cấp tôm cá cho bữa ăn
của người dân. Sông rạch góp phần làm đẹp cảnh quang, điều hoà khí hậu.
Từ thế kỉ VI đến thế kỉ XVI, người Khơme là cư dân chủ yếu ở Nam Bộ nói
chung, Bến Tre nói riêng. Do số lượng cư dân ít ỏi, trình độ kỹ thuật còn hạn chế
nên thành quả khai phá chưa nhiều. Đầu thế kỉ XVII, Bến Tre vẫn còn là vùng đất
hoang nhàn với rừng rậm, thú dữ, phần lớn diện tích đất chưa được khai phá. Từ thế
kỉ XVII, diện mạo vùng đất Bến Tre có sự thay đổi với sự xuất hiện của những lưu
dân đến đây khai phá.
Lưu dân đến khai phá vùng đất Bến Tre từ nhiều nguồn khác nhau. Đa số lưu
dân là người Việt, có nguồn gốc từ miền Ngũ Quảng. Phần đông là những nông dân
bần cùng, không thể sống được ở quê cũ. Bên cạnh đó còn có những tội đồ, lính
tráng bị nhà Nguyễn lưu đày. Một ít trong số đó là những người giàu có, muốn tìm
cơ hội làm giàu ở vùng đất mới. Trong số lưu dân đến khai phá vùng đất này còn có
một bộ phận người Hoa, do bất mãn triều Thanh đã xin chúa Nguyễn vào Nam khai
phá. Song, tộc người chiếm số đông, giữ vai trò quyết định sự phát triển của vùng
đất là người Việt.
Hành trang mà lưu dân mang theo không chỉ có tư liệu sản xuất mà còn có cả
những vốn văn hoá đã được tích luỹ từ quê cũ. Đến vùng đất Bến Tre, vốn văn hoá
mang theo được bộc lộ trong điều kiện tự nhiên mới, được gặp gỡ văn hoá của các
tộc người khác, đã phát triển thành văn hoá Bến Tre.
Một trong những nét đáng lưu ý đối với môi trường xã hội của cư dân nơi
đây là làng Việt mang những nét riêng so với làng Việt Bắc Bộ. Làng ở đây là làng
khai phá, có tuổi đời còn non trẻ hơn nhiều so với làng Việt Bắc Bộ. Làng ở Bến
Tre không là đơn vị biệt lập, khép kín với luỹ tre bao bọc như làng ở Bắc Bộ mà
kéo dài trên diện rộng, ven hai bờ sông rạch hoặc trục lộ giao thông. Dân cư đa số là
những người mới đến khai phá, do vậy tính cố kết trong quan hệ dòng họ không
chặt chẽ.
Về tiến trình lịch sử, công cuộc khai phá của cư dân nơi đây, từ thế kỉ XVII
đến 1867 vẫn đang tiến hành, chưa thật sự ổn định thì bị thực dân Pháp xâm lược.
So với cả nước, Nam Bộ, trong đó có Bến Tre trở thành nơi đầu tiên chịu sự thống
trị của thực dân Pháp cho đến 1945. Trong hoàn cảnh đó, văn hoá của cư dân nơi
đây đã được tiếp xúc với văn hoá phương Tây. Từ năm 1945 đến 1954, nhân dân
Bến Tre cùng với nhân dân Nam Bộ và nhân dân cả nước tiến hành kháng chiến
chống Pháp. Năm 1954, miền Bắc được giải phóng, nhưng nhân dân Bến Tre cùng
với nhân dân miền Nam còn phải tiếp tục kháng chiến chống Mĩ. Bến Tre trở thành
một trong những trọng điểm bình định của kẻ thù. Đến năm 1975, Bến Tre mới
được giải phóng. Cùng với Nam Bộ, Bến Tre đã phải “đi trước” nhưng lại “về sau”.
Chịu sự tác động, chi phối bởi những đặc điểm về điều kiện tự nhiên, lịch sử,
xã hội của vùng đất Bến Tre, diện mạo văn hoá nơi đây chắc chắn sẽ mang những
đặc điểm riêng.
2. Văn hoá Bến Tre là sản phẩm của quá trình kế thừa và phát triển
những di sản văn hoá truyền thống Việt Nam trong điều kiện môi trường tự
nhiên, xã hội và giao tiếp văn hoá tộc người trên vùng đất Bến Tre.
Đến với vùng đất Bến Tre, tài sản mà lưu dân mang theo chủ yếu chỉ là
những giá trị văn hoá truyền thống. Đó là năng lực thích ứng với thiên nhiên, sự
siêng năng, lòng dũng cảm, ý chí bất khuất, kiên cường… Những vốn liếng quý giá
này là động lực, sức mạnh để lưu dân đối đầu, vượt qua những khó khăn, trắc trở
của điều kiện tự nhiên, biến vùng đất cù lao hoang nhàn thành đồng ruộng, vườn
cây trái xanh tốt. Trên vùng đất mới, các giá trị văn hoá truyền thống đã được thử
thách bản lĩnh, chẳng những được giữ gìn mà còn được vun đắp thêm, làm cho bức
tranh văn hoá Việt Nam có thêm những sắc màu mới.
Bức tranh văn hoá Bến Tre mang đậm dấu ấn của thiên nhiên vùng đất cù
lao, đặc biệt là môi trường sinh thái sông nước.
Môi trường thiên nhiên sông nước Bến Tre tác động và ghi dấu khá rõ nét
trên bức tranh sinh hoạt vật chất và tinh thần của người dân Bến Tre.
Sông rạch như những mạch máu len lỏi khắp cơ thể của vùng đất Bến Tre,
mang chất dinh dưỡng về cho đất nuôi cây trồng, mang nguồn thực phẩm tôm cá về
cho con người, giúp con người đi lại, giao lưu kinh tế, văn hoá.
Văn hoá Bến Tre là sản phẩm của cuộc đấu tranh của cư dân nơi đây đối với
thiên nhiên sông nước, là quá trình cư dân Bến Tre thích nghi, tận dụng, khai thác,
chinh phục các dòng sông. Cuộc sống của người dân nơi đây gắn liền với sông
nước. Quá trình ấy đã để lại nhiều sản phẩm văn hoá.
Trong sinh hoạt kinh tế, tận dụng dòng chảy của các con sông theo chế độ
thuỷ triều cư dân Bến Tre đã nạo vét hệ thống kênh mương để thau chua, rửa mặn
cho đồng ruộng. Người ta đã sáng tạo ra cách “đào mương lên liếp” để khắc phục
tình trạng đất ngập nước, đưa phù sa vào mương vườn để bồi đắp cho cây. Từ đó,
một ngành kinh tế mới đã xuất hiện đó là nghề làm vườn. Nghề làm vườn phát triển
đã kéo theo sự ra đời của nghề sản xuất cây giống phục vụ cho nó.
Để khai thác nguồn tôm cá dồi dào mà sông nước Bến Tre mang lại, cư dân
nơi đây có nghề khai thác cá đồng, bưng, rạch, nghề đánh bắt cá biển. Nghề đóng
ghe cũng đã ra đời để cung cấp phương tiện đi lại, đánh bắt cá của cư dân.
Việc ăn ở, đi lại của người dân cũng gắn liền với sông nước.
Cơ cấu bữa ăn vẫn theo công thức cổ truyền “cơm – rau – cá”, song bữa ăn
của người dân Bến Tre mang đậm dấu ấn của thiên nhiên sông nước với khá nhiều
tôm cá và trái cây miệt vườn. Dừa có mặt ở nhiều món ăn và là loại nước uống đặc
trưng của vùng đất Bến Tre.
Nhà cửa được dựng lên dọc các bờ sông, các tuyến kênh, thuận tiện cho việc
đi lại, làm ăn và có thể đón gió mát từ sông, kênh. Sông rạch là môi trường sống của
một bộ phận khá đông dân cư. Buôn bán trên sông, sống lênh đênh trên sông, chợ
được họp theo con nước.
Thiên nhiên của vùng sông nước Bến Tre là nguồn cảm hứng, tạo nên những
nét đặc trưng cho những sáng tác văn học dân gian. Các sáng tác dân gian Bến Tre
đã bổ sung cho bức tranh thiên nhiên Việt Nam những hình ảnh của vùng đồng bằng
với những dòng sông cuộn chảy, những con rạch đôi bờ xanh ngát, những rừng dừa
nước, rừng bần, cây trái miệt vườn… Cũng từ các sáng tác ấy, hiện lên phẩm chất
và bản lĩnh của con người Bến Tre với những đức tính của người miền Nam như
cương trực, nghĩa khí, phóng khoáng, chân chất, ngang tàng.
Bức tranh văn hoá – xã hội Bến Tre phản ánh cách thức tổ chức cuộc sống
của cộng đồng cư dân Bến Tre trong môi trường thiên nhiên sông nước. Văn hoá
Bến Tre mang sắc thái của một vùng văn hoá sông nước. Nhìn từ trên cao, bức
tranh văn hoá Bến Tre hiện ra những vườn cây trái, nhà cửa, chợ búa ven sông, ven
rạch; theo con nước lớn ròng, ghe thuyền đi lại, chở đầy ắp cây trái miệt vườn, thóc
lúa, vật liệu, buôn bán tấp nập trên sông; có cầu khỉ bắt qua mương; có những
đoàn thuyền đánh cá nối đuôi nhau ra khơi; có mái chèo khua nhẹ đưa thuyền trôi
lững lờ theo dòng nước dưới ánh trăng, xa xa văng vẳng mấy câu hò…
Đất Bến Tre là vùng đất cù lao ba bề sông biển, bị cách bức với các vùng lân
cận. Nói đến vùng đất cù lao, người ta thường nhấn mạnh đến tính chất bảo thủ, trì
trệ, chậm thay đổi. Song, chính vì sống ở vùng đất cù lao nên con người nơi đây
không thể ỷ lại, trông chờ mà phải luôn có tâm thế phải tự lực vươn lên. Tự lực tự
cường là một trong những đặc tính nổi bật của con người Bến Tre. Bên cạnh tinh
thần tự lực, con người nơi đây cũng luôn có ý thức học hỏi, tiếp thu những kinh
nghiệm từ nơi khác để làm giàu cho quê hương mình, bởi lẽ nếu đóng cửa, không
giao lưu học hỏi cũng đồng nghĩa với việc đào sâu ranh giới ngăn cách.
Ý thức được giá trị của việc học, sau một khoảng thời gian ổn định cuộc
sống, lưu dân đã quan tâm đến việc giáo dục cho con em mình. Bến Tre cách xa Gia
Định, đi lại khó khăn, nhưng việc học ở đây phát triển khá sớm. Đến khi thực dân
Pháp xâm lược, trên 2 cù lao Bảo và Minh, trong số 152 thôn có đến 70 trường dạy
chữ Hán. Đất Bến Tre là nơi sản sinh những con người hiếu học, thông minh, có
trình độ học vấn uyên thâm như Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký. Qua các thời
kỳ, sự nghiệp giáo dục ở Bến Tre đã đào tạo được nhiều lớp nhân tài, là những cán
bộ lãnh đạo, những chiến sĩ cách mạng, đã cống hiến sức mình cho sự nghiệp cách
mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng quê hương, đất nước.
Bức tranh văn hoá Bến Tre ghi dấu khá rõ nét đặc điểm của cộng đồng
dân cư và hiện thực xã hội trên vùng đất này.
Chủ nhân của văn hoá Bến Tre là những con người Việt Nam từ nhiều nơi
hội tụ về vùng đất Bến Tre, mang trong mình dòng máu Việt Nam và những giá trị
văn hoá truyền thống Việt Nam. Đến vùng đất mới, không gian sống có thay đổi
song họ vẫn là cư dân nông nghiệp, vẫn với những nghề nghiệp quen thuộc. Điều
kiện sống, sinh hoạt kinh tế vẫn mang những nét giống với quê cũ. Do vậy, hầu hết
phong tục tập quán, tín ngưỡng cổ truyền đều được duy trì.
Đời sống tâm linh của người dân gắn với loại hình sinh hoạt kinh tế và vẫn
mang những nét chung với cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ. Với cư dân
nông nghiệp tâm linh của họ gửi gắm vào vị thần ngự trị ở đình làng; sinh hoạt văn
hoá tiêu biểu tập trung ở lễ hội kỳ yên. Cư dân miệt biển tin tưởng và cầu mong sự
phò trợ của vị thần ở ngoài khơi xa; sinh hoạt văn hoá tiêu biểu của họ tập trung ở lễ
hội Nghinh Ông.
Mặt khác, văn hoá là sản phẩm của một cộng đồng dân cư, nên những đặc
điểm của cộng đồng dân cư chi phối rất lớn đến diện mạo văn hoá. Cộng đồng dân
cư ở vùng đất Bến Tre có một số đặc điểm riêng, không giống với cộng động dân cư
vùng đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ, nên diện mạo văn hoá ở Bến Tre cũng có những
nét đặc trưng.
Cộng đồng dân cư ở Bến Tre ngoài người Việt chiếm đa số còn có người
Hoa và người Khơme bản địa. Quá trình cộng cư giữa các tộc người này đã tạo ra
sự giao tiếp văn hoá trên nhiều lĩnh vực.
Trong hoạt động nông nghiệp, người Việt đã học hỏi kỹ thuật làm nông của
người Khơme trong việc dùng chiếc phảng để phát cỏ, chọn giống, dùng nọc cấy,
dùng vòng hái để thu hoạch. Để khai thác có hiệu quả nguồn lợi thuỷ sản phong phú
do sông nước Bến Tre mang lại, bên cạnh các dụng cụ đánh bắt truyền thống như
chài, lưới, đóng đáy, người Việt còn học cách đánh bắt của người Khơme trong việc
sử dụng cái lọp, cây xà búp, cách xom rắn, bắt lươn… Người Khơme dùng đơn vị
đo diện tích đất là công (bằng một mẫu của người việt), người Việt cũng tiếp thu
cách gọi này. Nóp dùng để ngủ, cà ràn để nấu nướng vốn là của người Khơme,
người Việt cũng đã tiếp thu, sử dụng cho nhu cầu của mình.
Trong ăn uống, nhiều món ăn vốn có nguồn gốc từ người Khơme, người
Hoa, người Ấn Độ… đã trở thành món ăn phổ biến của các tộc người trên đất Bến
Tre. Tập quán sử dụng nước cốt dừa trong chế biến các món ăn vốn xuất phát từ
người Khơme đã trở thành tập quán chung của cả người Việt và người Hoa. Trầu
cau của người Việt được xem là lễ vật không thể thiếu trong lễ cưới của cả người
Hoa và người Khơme.
Về trang phục, bộ quần áo bà ba, chiếc nón lá không chỉ là trang phục hàng
ngày của người Việt mà cả người Khơme và người Hoa cũng sử dụng phổ biến.
Khăn rằn, vốn là khăn “krama” của người Khơme, đã được người Việt,
người Hoa sử dụng rất phổ biến.
Về nhà ở, cả người Việt, người Hoa, người Khơme đều sử dụng lá dừa nước
để lợp nhà, làm vách nhà. Kỹ thuật chằm lá có nguồn gốc từ người Khơme đã được
người Việt và người Hoa tiếp thu.
Trong đời sống tâm linh, cả người Việt, người Hoa, người Khơme đều có tín
ngưỡng thờ mẫu. Trong quá trình cộng cư, các tộc người đã tiếp nhận tín ngưỡng,
đối tượng thờ cúng của nhau trên cơ sở niềm tin “hữu cấu tất ứng”. Tục thờ bà
Thiên Y Ana (Chúa Ngọc) hay bà Chúa Xứ vốn xuất phát từ người Chăm, tục thờ
bà Thiên Hậu của người Hoa đã trở thành tín ngưỡng chung của các tộc người ở
Bến Tre.
Cộng đồng dân cư ở Bến Tre có tuổi đời còn khá trẻ. Thời gian định cư của
các dòng họ ở vùng đất này chỉ trên dưới mười thế hệ. Quan hệ dòng họ không chặt
chẽ như cộng đồng dân cư ở Bắc Bộ, Trung Bộ.
Với người Bến Tre, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên vẫn được bảo tồn và phát
huy, song trong thờ cúng tổ tiên, ở Bến Tre không có các dạng thức như nhà thờ tổ,
giỗ tổ như ở miền Bắc. Làng ở Bến Tre là làng khai phá, có tuổi đời còn non trẻ. Do
vậy, huyền thoại, lý lịch của vị thành hoàng bổn cảnh được thờ ở đình làng chưa
được dày dặn như các vị thành hoàng của các làng ở miền Bắc.
Mối quan hệ gắn bó giữa người với người trong cùng một làng không bị
quan hệ dòng họ chi phối mà chỉ dựa trên cơ sở nghĩa tình của những người đồng
cảnh khổ. Rời quê cũ đến với vùng đất mới, sự chi phối của lễ giáo phong kiến đối
với người dân không còn nặng nề như nơi quê cũ. Tính dân chủ, bình đẳng trong
quan hệ xã hội rất được coi trọng. Tinh thần bình đẳng còn thể hiện cả trong đời
sống tâm linh. Đình làng không chỉ thờ cúng thành hoàng mà còn là nơi thờ nhiều
vị thần gắn bó với đời sống tâm linh của người dân.
Lưu dân đến vùng đất Bến Tre đa số là những người nông dân nghèo khổ,
lâm vào cảnh đường cùng, buộc phải rời bỏ quê hương bản quán ra đi tìm đất sống.
Đến vùng đất mới, người nông dân đã hao tốn không biết bao nhiêu mồ hôi, công
sức để biến vùng đất hoang sơ thành ruộng vườn tươi tốt. Tuy nhiên, thành quả khai
phá của họ dần dần lại bị bọn địa chủ, cường hào chiếm đoạt. Cuộc sống của họ
càng cơ cực hơn khi thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ đến xâm lược. Ba thế kỉ khai
phá, đời sống của người nông dân luôn trong cảnh bấp bênh, luôn phải ưu tiên hàng
đầu cho cái ăn, cái mặc. Sống ngày nay nhưng chưa biết cuộc sống ngày mai như
thế nào.
Thực tế cuộc sống bấp bênh, còn đầy rẫy những khó khăn đã tác động đến
tâm lý, lối sống của người dân. Nhà cửa của họ vì thế được xây cất rất giản đơn,
kiểu “nhà đạp”, “nhà đá”. Không sống nổi nơi này thì phá bỏ nhà đi nơi khác. Sự
giản đơn còn thể hiện trong trang phục. Người ta không chú ý lắm đến việc ăn mặc
sang trọng. Khi đi ra đồng, lúc ở nhà hoặc đi đám tiệc, nông dân vẫn quen dùng bộ
trang phục quần áo bà ba giản đơn.
Cuộc sống khó khăn, vốn chữ nghĩa ít, không quan tâm nhiều đến lễ giáo
phong kiến, do vậy tập tục, nghi lễ thường được tổ chức giản đơn. Trong giao tiếp,
người dân Bến Tre rất thẳng thắn, bộc trực, ít văn chương rào đón.
Sự bấp bênh, bế tắc trong cuộc sống, chán nản trong tư tưởng, trong đấu
tranh cũng chính là nguyên nhân đưa đến tình trạng dân cư nặng đầu óc mê tín dị
đoan. Đó chính là cơ sở cho sự ra đời và tồn tại nhiều tôn giáo trên địa bàn Bến Tre.
Ngoài các tôn giáo có từ lâu đời, theo bước chân của những người đi mở đất như
đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành, còn có sự hiện diện của các tôn giáo mới
nảy sinh trên đất Nam Bộ đầu thế kỉ XX như đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo, đạo Dừa.
Để có thể biến vùng đất hoang sơ thành ruộng vườn xanh tốt, cư dân đã phải
đổ không biết bao nhiêu mồ hôi, công sức. Do vậy người ta rất quý trọng thành quả
lao động của mình. Con Bến Tre đã từng không ngại gian lao, không hề lùi bước
trước những trở ngại của thiên nhiên, cho nên họ cũng không bao giờ chịu khuất
phục trước cảnh áp bức, bất công trong xã hội. Ký ức của người dân nơi đây còn lưu
lại khá nhiều câu chuyện về những nông dân dám dùng dao chém chết địa chủ vì
không chịu nổi cảnh bị áp bức, đè nén. Đối với giặc ngoại xâm, chí căm thù, lòng
yêu nước càng thể hiện cao độ.
Chiến tranh gây ra không biết bao nhiêu đau thương, tang tóc, tàn phá nặng
nề vùng đất Bến Tre, song nó cũng đã thử thách và chứng minh bản lĩnh của những
con người vùng đất cù lao. Bến Tre đã mở đường Hồ Chí Minh trên biển, làm đầu
cầu tiếp nhận vũ khí từ Bắc vào Nam, gần như tay không nổi lên “Đồng khởi”, đấu
tranh chính trị bằng “đội quân tóc dài”… Có thể nói, truyền thống yêu nước, bất
khuất là một trong những đặc tính nổi bật của con người Bến Tre. Mảnh đất Bến
Tre giàu truyền thống yêu nước đã cống hiến cho đất nước 14 vị tướng, trong đó có
vị nữ tướng nổi tiếng Nguyễn Thị Định.
Tinh thần đấu tranh bất khuất trước kẻ thù, truyền thống yêu nước của những
con người trên vùng đất này đã ươm mầm và là nguồn cảm hứng cho sự ra đời của
những áng thơ bất hủ của những nhà thơ yêu nước nổi tiếng như Nguyễn Đình
Chiểu, Phan Văn Trị.
Truyền thống yêu nước của con người nơi đây còn tác động đến cả thái độ
của các tôn giáo. Đại đa số tín đồ các tôn giáo ở Bến Tre đều gắn bó mật thiết với
cách mạng. Thánh thất, nhà thờ, chùa chiền từng là nơi che chở cho các chiến sĩ
cách mạng. Khi Tổ quốc cần, chức sắc tôn giáo sẵn sàng cống hiến ruộng đất, tài
sản và cả những người con yêu quý của mình cho cách mạng.
3. Những vấn đề đặt ra đối với việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá
truyền thống ở Bến Tre
Văn hoá vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, là tiền đề
cho sự đi lên con đường giàu mạnh của xứ dừa. Bảo tồn và phát huy những giá trị
văn hoá truyền thống của Bến Tre là nhiệm vụ bức thiết của lãnh đạo và mỗi người
dân Bến Tre.
Lịch sử ba trăm năm khai phá vùng đất đã hun đúc những giá trị truyền thống
tốt đẹp của con người Bến Tre. Đó là truyền thống yêu nước, tinh thần tự lực tự
cường, lòng hào hiệp, mến khách, trọng nghĩa trọng tình, tinh thần cộng đồng,
tương thân tương ái… Nhờ những giá trị tinh thần đó, cư dân Bến Tre đã chiến
thắng biết bao thử thách khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và xã hội để xây dựng
và phát triển quê hương Bến Tre. Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền
thống, trước hết là bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá đó.
Mặt trái của cơ chế thị trường đã tác động lớn đến đời sống của người dân,
dẫn đến những hiện tượng suy thoái đạo đức, lối sống ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân,
thực dụng. Một bộ phận dân cư Bến Tre, trong đó có lớp trẻ, thiếu hiểu biết về lịch
sử, truyền thống của địa phương, không phân biệt tốt xấu, mang tâm lý sùng ngoại
một cách mù quáng. Thực tế ấy dễ dẫn đến tình trạng xói mòn những nền tảng văn
hoá, tạo điều kiện cho sự xâm nhập của những sản phẩm văn hoá độc hại, ngoại lai.
Do tác động của điều kiện tự nhiên, xã hội nên đại bộ phận dân cư đã đơn
giản hoá trong sinh hoạt vật chất. Sự đơn giản, xuề xoà trong sinh hoạt đã trở thành
tâm lý khá phổ biến của một bộ phận dân cư. Nhà ở của người dân nhìn chung đa số
còn thô sơ, dễ bị sập khi có bão. Quần áo tuy phù hợp với hoạt động sản xuất nông
nghiệp nhưng nhìn chung còn đơn điệu. Cuộc sống bấp bênh, sinh hoạt văn hoá ở
nông thôn chưa đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ văn hoá của người dân, lúc nông
nhàn một bộ phận nông dân thường tìm thú vui với rượu chè, cờ bạc… Đó là những
vấn đề cần lưu ý giải quyết nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống của người dân trong
công cuộc xây dựng và phát triển nông thôn.
Văn hoá là một bộ phận của đời sống xã hội, phản ánh và chịu sự tác động
của những điều kiện xã hội. Hiện thực xã hội nào sẽ sinh ra sản phẩm văn hoá ấy.
Sức sống của các hiện tượng văn hoá có cơ sở tồn tại từ hiện thực xã hội. Xây dựng
và phát triển văn hoá phải đi liền với cải tạo điều kiện xã hội. Trong bảo tồn và phát
triển văn hoá, cần tôn trọng quy luật khách quan trong sự vận động và phát triển của
văn hoá, không nên dùng biện pháp cưỡng bức.
Giữ gìn và phát huy không có nghĩa là phục cổ. Truyền thống được hình
thành từ lâu đời và có tính chất trường tồn, song văn hoá lại luôn được bổ sung,
phát triển trong những điều kiện mới. Do vậy, việc kế thừa các giá trị văn hoá
truyền thống phải đi liền với sự điều chỉnh, thích nghi với thực tế cuộc sống.
Cho đến nay, các công trình nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến diện
mạo văn hoá – xã hội Bến Tre còn quá ít. Để có cái nhìn sâu sắc và toàn diện, để có
thể chọn lọc, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của Bến Tre,
thiết nghĩ, trước tiên cần phải quan tâm đến việc tìm hiểu, nghiên cứu mảng đề tài
này.
Trên cơ sở những thành quả nghiên cứu, cần xác định cụ thể những giá trị
tích cực cần phát huy, những hạn chế cần khắc phục; đẩy mạnh công tác giáo dục
truyền thống văn hoá địa phương cho mọi tầng lớp nhân dân.
Thời gian đã và đang tàn phá nhiều giá trị văn hoá. Các di tích lịch sử, văn
hoá cần phải được quan tâm bảo quản, tôn tạo đúng mức để đáp ứng nhu cầu tìm
hiểu, góp phần giáo dục truyền thống văn hoá của địa phương cho nhân dân.
Con đường phát triển đi lên của Bến Tre còn không ít chông gai, trở lực. Bến
Tre bị ngăn cách với các vùng lân cận bởi những con sông lớn, địa hình bị chia cắt
bởi sông rạch chằng chịt, giao lưu đường bộ gặp nhiều khó khăn. Cơ sở hạ tầng của
tỉnh còn rất yếu kém. Đó là những nguyên nhân làm cho nhà đầu tư ngán ngại.
Tuy nhiên, thực tế lịch sử cho thấy, nguồn gốc của sự giàu có không chỉ có
tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, vốn, kỹ thuật mà còn có nhân tố không kém
phần quan trọng và quyết định đó là nguồn nhân lực, là tiềm năng sáng tạo của con
người. Tiềm năng này nằm trong văn hoá, trong trí tuệ, đạo đức, lối sống, ý chí,
nghị lực của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Để có nguồn nhân lực phục vụ cho sự
nghiệp xây dựng và phát triển quê hương, lãnh đạo địa phương cần quan tâm đến
công tác đào tạo, bồi dưỡng, đồng thời cũng cần có chính sách đãi ngộ, thu hút nhân
tài.
Đi đôi với tranh thủ sự hỗ trợ của trung ương đầu tư kinh phí, cơ sở hạ tầng,
cần phát huy tinh thần tự lực, khai thác tối đa các tiềm năng sẵn có của địa phương.
Cần động viên các tầng lớp nhân dân mang tinh thần “Đồng khởi” năm xưa
vào sự nghiệp phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, phát triển văn hoá, cải thiện và nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Xưa kia, yêu nước là tham gia chống
giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước. Ngày nay, yêu nước là ý chí đưa quê hương, đất
nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đối diện với thiên nhiên đầy hiểm nguy, gian khó ở buổi đầu khai phá, người
dân Bến Tre chẳng những không chùng bước, mà còn tỏ rõ bản lĩnh, nghị lực, khả
năng thích nghi, tinh thần tự lực tự cường. Trong đấu tranh chống áp bức bất công,
chống giặc ngoại xâm, người Bến Tre cũng tỏ ra gan góc, anh dũng, bất khuất.
Trước muôn ngàn khó khăn, người Bến Tre vẫn bám trụ, thể hiện bản lĩnh và sức
sống trên vùng đất này. Những truyền thống mà các bậc tiền nhân gầy dựng chắc
chắn sẽ là hành trang quý giá, là động lực giúp thế hệ những người đang sống trên
mảnh đất này vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa xứ dừa ngày càng phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2003), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
2. Toan Ánh (2003), Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua nếp cũ gia đình, Nxb Văn
Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Toan Ánh (2005), Nếp cũ – Con người Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí
Minh.
4. Toan Ánh (2005), Tín ngưỡng Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Toan Ánh (2005), Phong tục thờ cúng trong gia đình, nơi công cộng Việt Nam,
Nxb Thanh Niên, Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Toan Ánh (1998), Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua tết lễ hội hè, Nxb Văn
Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Ban chấp hành Đảng Bộ tỉnh Bến Tre (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bến Tre
1930 – 2000 (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Bến Tre.
8. Nguyễn Chí Bền (1996), Tuyển tập văn học chữ viết Bến Tre, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
9. Nguyễn Chí Bền (1997), Tìm hiểu một số hiện tượng văn hóa dân gian Bến Tre,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hóa và cư dân
Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Phan Kế Bính (2004), Việt Nam phong tục, Nxb TP. Hồ Chí Minh, Thành phố
Hồ Chí Minh.
12. Lư Xuân Chí (2005), Bến Tre bảo tồn và phát triển di sản văn hóa, Bảo tàng
tỉnh Bến Tre.
13. Cục thống kê Bến Tre (2004), Niên giám thống kê 2003, Bến Tre.
14. PGS. PTS. Nguyễn Đăng Dung (1997), Tổ chức chính quyền nhà nước ở địa
phương (lịch sử và hiện tại), Nxb Đồng Nai.
15. Lê Anh Dũng (1996), Lịch sử Đạo Cao đài thời kỳ tiềm ẩn 1920 – 1926, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
16. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Vĩnh Long – Bến
Tre – Trà Vinh), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
17. Nguyễn Đình Đầu (1994), Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục Tỉnh, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
18. Nguyễn Đình Đầu (1999), Việt Nam quốc hiệu và cương vực qua các thời đại,
Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
19. Nguyễn Đình Đầu(1999), Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn quan
lập ấp ở Nam Kỳ Lục Tỉnh, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
20. Trần Bạch Đằng(1986), Đồng bằng sông Cửu Long 40 năm, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
21. Lê Quý Đôn (1977), Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí, Đỗ Mộng Khương, Nguyễn
Ngọc Tỉnh dịch, Nxb Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh.
23. Phan Lữ Hoàng Hà (2002), Bên vườn xưa lặng lẽ (Tập Phóng sự và Bút ký), Hội
Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu Bến Tre, Bến Tre.
24. Bùi Thị Thu Hà (2002), “Đồng bằng sông Cửu Long thế kỷ XVII – XIX với sự
ra đời các tôn giáo địa phương vào thế kỷ XIX”, in trong Kỷ yếu hội thảo
Nam bộ và Nam Trung bộ - Những vấn đề lịch sử, Trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 249-254.
25. Trần Thị Mỹ Hạnh (2002) “Công cuộc khai phá vùng đất vĩnh long các thế kỷ
XVII, XVIII, XIX và bản sắc văn hóa Vĩnh Long nói riêng, Đồng bằng
sông Cửu Long nói chung”, in trong Kỷ yếu hội thảo Nam bộ và Nam
Trung bộ - Những vấn đề lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh, tr. 91-102.
26. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam Bộ, Nxb Trẻ, Thành
phố Hồ Chí Minh.
27. Phong Hiền (1984), Chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ ở miền Nam Việt Nam
(khía cạnh văn hóa và tư tưởng) 1954 – 1975, Nxb Thông tin lý luận, Hà
Nội.
28. Nguyễn Phi Hoanh (1984), Mỹ thuật Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh.
29. Phan Văn Hoàng (2001), Cao Triều Phát – Nghĩa khí Nam Bộ, Nxb Trẻ, Thành
phố Hồ Chí Minh..
30. Học viện hành chính quốc gia (2005), Lịch sử hành chính nhà nước Việt Nam,
Nxb Giáo dục.
31. Lư Văn Hội (2002), Tang lễ người già, Sở Văn hóa thông tin tỉnh Bến Tre, Bến
Tre.
32. Hội thánh dưới quyền ủng hộ của Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương (1958),
Tiểu sử Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương (1881 – 1951), Bến Tre.
33. Hội thánh Cao đài Ban chỉnh đạo (2005), Kỷ yếu 80 năm khai đạo Cao đài, Bến
Tre.
34. Hội văn nghệ dân gian Việt Nam (2002), Xóm nghề và nghề thủ công truyền
thống Nam Bộ, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
35. Trầm Hương (2002), Đêm trắng của Đức Giáo tông, Nxb Công an nhân dân,
Thành phố Hồ Chí Minh.
36. Huy Khanh (2003), Đất cù lao, Hội Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu
Bến Tre, Bến Tre.
37. Phan Khoang (1996), Việt sử xứ Đàng Trong, Nxb Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí
Minh.
38. Phan Thị Minh Lễ – Chương Thâu (2005), Thơ văn Phan Thanh Giản, Nxb Hội
nhà văn.
39. Huỳnh Lứa (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
40. Huỳnh Lứa (2000), Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII,
XIX, Nxb Khoa học xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.
41. Trần Thị Thu Lương (1994), Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam Bộ
nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
42. Đỗ Vạn Lý (1989), Tìm hiểu Đạo Cao đài, Q1, California – USA.
43. Huỳnh Minh (2001), Kiến Hòa (Bến Tre) xưa, Nxb Thanh niên, Bến Tre.
44. Huỳnh Minh (2001), Định Tường (Mỹ Tho) xưa, Nxb Thanh niên, Bến Tre.
45. Huỳnh Minh (2002), Vĩnh Long xưa, Nxb Thanh niên, Bến Tre.
46. Monographie de la province de Ben Tre 1930, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng
Bến Tre dịch, 1978.
47. Sơn Nam (2005), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí
Minh.
48. Sơn Nam (2004), Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam, Nxb Trẻ, Thành phố
Hồ Chí Minh.
49. Sơn Nam (2005), Đồng bằng sông Cửu Long – Nét sinh hoạt xưa và Văn minh
miệt vườn, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
50. Sơn Nam (2005), Nói về miền Nam - Cá tính miền Nam – Thuần phong mỹ tục
Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
51. Đào Thị Nhan (2005), Vùng đất Bến Tre trong các thế kỉ XVII – XIX (Luận văn
thạc sĩ), Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
52. Nhiều tác giả (1975), Về văn hóa văn nghệ, Nxb Tiền phong, Thành phố Hồ Chí
Minh.
53. Nhiều tác giả (1984), Ba Tri đất và người, Ban chấp hành Đảng bộ Ba Tri xuất
bản, Bến Tre.
54. Nhiều tác giả (1998), Đại cương lịch sử Việt Nam, 3 tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
55. Nhiều tác giả (1984), Mấy đặc điểm văn hóa Đồng bằng sông Cửu Long, Viện
Văn hóa.
56. Nhiều tác giả (2002), Thế kỉ XXI nhìn về Trương Vĩnh Ký, Tạp chí Xưa và nay –
Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
57. Nhiều tác giả (2003), Nam bộ đất và người, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
58. Nhiều tác giả (2003), Nam bộ xưa và nay, Nxb Thành phố HCM - Tạp chí xưa
và nay.
59. Nhiều tác giả (2005), Tuyển tập thơ Bến Tre (1945 – 2005), Hội Văn học Nghệ
thuật Nguyễn Đình Chiểu Bến Tre, Bến Tre.
60. Nhiều tác giả (1996), Tuyển tập văn học chữ viết Bến Tre, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
61. Nhiều tác giả (1994), Làm đẹp cuộc đời – Huỳnh Tấn Phát con người và sự
nghiệp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
62. Nguyễn Duy Oanh (1971), Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam từ năm 1957
đến 1945, Tủ sách Sử học Phủ quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa xuất bản,
Sài Gòn.
63. Nguyễn Duy Oanh (1994), Quân dân Nam kỳ chống pháp trên mặt trận quân sự
và văn chương (1859 –1885), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố
Hồ Chí Minh.
64. Ngô Minh Oanh (2002), “Bối cảnh của quá trình mở đất về phía Nam của người
Việt thế kỷ XVII, XVIII”, in trong Kỷ yếu hội thảo Nam bộ và Nam Trung
bộ - Những vấn đề lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh, tr. 165-168.
65. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh (1992), Văn hóa dân
gian người Việt ở Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
66. Thạch Phương, Đoàn Tứ (chủ biên) (2001), Địa chí Bến Tre, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
67. Châu Đạt Quan (1973), Chân Lạp phong thổ ký, Lê Hương dịch, Nxb Kỷ
nguyên mới, Sài Gòn.
68. Nguyễn Phan Quang (2002), Vịêt Nam thế kỷ XIX (1802 –1884), Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
69. Ngô Huy Quỳnh (1986), Kiến trúc Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
70. Trần Thị Thanh Thanh (2002), “Nhìn lại việc khai phá của người Vịêt trên đất
Gia Định thế kỷ XVII –XIX” in trong Kỷ yếu hội thảo Nam bộ và Nam
Trung bộ - Những vấn đề lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh, tr. 135-139.
71. Nguyễn Phương Thảo, Hoàng Thị Bạch Liên (1988), Văn học dân gian Bến
Tre, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
72. Nguyễn Phương Thảo (1994), Văn hóa dân gian Nam Bộ những phác thảo, Nxb
Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh.
73. Hồ Bá Thâm (2003), Văn hóa Nam Bộ vấn đề và phát triển, NXB Văn hóa
Thông tin, Thành phố Hồ Chí Minh.
74. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Thành Phố
Hồ Chí Minh.
75. Đặng Thu (1994), Di dân của người Việt từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIX, Phụ
san Nghiên cứu lịch sử , Hà Nội.
76. Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân (1986), Phan Văn Trị cuộc đời và
tác phẩm, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, Thành Phố Hồ Chí Minh.
77. Huỳnh Ngọc Trảng (1992), Hát sắc bùa Phú Lễ (Ba Tri – Bến Tre), Nxb Thành
Phố Hồ Chí Minh, Thành Phố Hồ Chí Minh.
78. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần, người và đất Việt, Nxb Văn hóa thông tin.
79. Tsai Maw Kuey (1968), Người Hoa ở miền Nam Việt Nam, Thư viện quốc gia,
Pari.
80. Nguyễn Thị Thanh Xuân (chủ biên) (1987), Sài Gòn – Gia Định qua thơ văn
xưa, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
81. Nguyễn Thanh Xuân (2003), “Tìm hiểu các cuộc vận động thống nhất Đạo Cao
đài trước năm 1975”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử (số 2), tr. 48-56.
82. Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo.
83. Ủy ban nhân dân huyện Bình Đại (1987), Bình Đại địa chí, Bến Tre.
84. GS. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên) (1995), Bước đầu tìm hiểu Đạo Cao Đài, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
85. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
86. Viện sử học (1978), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử tập II, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
87. Lư Nhất Vũ – Lê Giang (1983), Tìm hiểu Dân ca Nam Bộ, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
88. Lư Nhất Vũ, Lê Giang (1981), Dân ca Bến Tre, Ty Văn hóa Thông tin Bến Tre
xuất bản, Bến Tre.
PHỤ LỤC
Tổng Tân An năm 1779. Nguồn: [62, tr.76]
Huyện Tân An năm 1808. Nguồn: [62, tr.78]
N
G
U
ỒN
: [
62
, t
r.1
44
]
N
G
U
ỒN
: [
66
, t
r.5
1]
N
G
U
ỒN
: [
62
, t
r.1
44
]
N
G
U
ỒN
: [
66
, t
r.2
5]
Sản xuất bánh tráng Mỹ Lồng - Ảnh: Lư Hội
Sản xuất bánh phồng Sơn Đốc - Ảnh: Thanh Vũ
Nhà cổ Đại Điền (Thạnh Phú) - Ảnh: Ngô Văn Đức
Chùa Tuyên Linh (Mỏ Cày) - Ảnh: Ngô Văn Đức
Tòa Thánh Cao Đài Ban Chỉnh (Thị xã Bến Tre) - Ảnh: Ngô Văn Đức
Tòa Thánh Cao Đài Tiên Thiên (Châu Thành) - Ảnh: Ngô Văn Đức
Khu di tích Đồng khởi (Mỏ Cày) - Ảnh: Ngô Văn Đức
Mộ và Đền thờ Võ Trường Toản (Ba Tri) - Ảnh: Ngô Văn Đức
Mộ và Đền thờ Phan Thanh Giản (Ba Tri) - Ảnh: Ngô Văn Đức
Lăng Nguyễn Đình Chiểu (Ba Tri) - Ảnh: Ngô Văn Đức
Đền thờ Nguyễn Ngọc Thăng (Giồng Trôm) - Ảnh: Ngô Văn Đức
Đình Phú Lễ (Ba Tri) - Ảnh: Lư Hội
Lễ hội Nghinh Ông (Xã Bình Thắng - Huyện Bình Đại) - Ảnh: Lư Hội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVLSLSVN015.pdf