Các quốc gia Châu Âu đang tiến dần tới một hệ thống thị trường thống nhất. Để thành công, các nhà xuất khẩu cần phải xây dựng các mối quan hệ đối tác tại thị trường này nhưng cũng phải thận trọng khi lựa chọn đối tác là các nhà nhập khẩu, đại lý và cỏc nhà phõn phối vỡ họ sẽ là người đại diện của doanh nghiệp tại thị trường này. Ngoài ra, mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt do chính sách hạ giá các nhà xuất khẩu và do các rào cản vào thị trường càng ngày càng được giảm bớt.
Lựa chọn nhà phân pối hay đại lý hi nhà xuất khẩu muốn đưa sản phẩm của mỡnh thõm nhập thị trường EU, một mối quan tâm thường xuyên đó là nên lựa chọn nhà phân phối hay đại lý làm đối tác của mỡnh tại thị trường này.
Có những điểm khác nhau sau cần phải lưu ý:
+ Nhà phân phối: Là người có quyền quyết định về chính sách giá và cách thức bán hàng.
+ Đại lý: Là người chịu sự chi phối của nhà xuất khẩu trong việc định giánvà hỡnh thức bỏn hàng.
Vấn đề ở đây là lựa chọn ai? Thông thường, lựa chọn một nhà phân phối là hợp lý hơn đối với các các nhà xuất khẩu mới tiếp cận thị trường hoặc đang tỡm cỏch thõm nhập sõu hơn vào thị trường, lựa chọn đối tác là đại lý thường được áp dụng đối với các nhà sản xuất đó thõm nhập được thị trường.
115 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1688 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Định hướng và giải pháp tăng cường xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHIẾN LƯỢC XUẤT KHẨU SANG THỊ TRƯỜNG EU TỪ NAY ĐẾN 2010 VÀ TẦM NHÌN 2020
Hoạt động xuất khẩu từ nay đến 2010, tầm nhìn đến 2020 cần phục vụ cho các mục tiêu chung đã được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ IX với nội dung cơ bản: "Nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ; về nhập khẩu chú trọng thiết bị và nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất nhất là công nghệ tiên tiến..."
Quan điểm chỉ đạo của chiến lược xuất khẩu từ nay đến 2010 là:
Một là tiếp tục kiên trì chủ trương dảnh ưu tiên cao cho xuất khẩu để thúc đẩy tăng trưởng GDP, phát triển sản xuất, thu hút lao động có thêm ngoại tệ;
Hai là chủ động hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, với kế hoạch tổng thể và lộ trình cũng như các bước đi hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước và quy định của các tổ chức Quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Ba là phát huy nội lực, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý; hoàn chỉnh hệ thống luật pháp; nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế làm khâu then chốt, có ý nghĩa quyết định đối với việc mở rộng kinh doanh xuất nhập khẩu, hội nhập Quốc tế;
Bốn là gắn kết thị trường trong nước với thị trường ngoài nước, vừa chú trọng thị trường trong nước, vừa ra sức mở rộng và đa dạng hóa thị trường ngoài.
Năm là kiên trì chủ trương đa dạng hóa các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
3.3 ĐỊNH HƯỚNG CHO HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU GIAI ĐOẠN TỪ NAY ĐẾN 2010, TẦM NHÌN 2020
Việc định hướng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang EU cần căn cứ vào Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2006 - 2010 để xác định đúng cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, cơ cấu thị trường xuất khẩu nội khối. Bên cạnh đó, nghiên cứu các quy định trong chính sách nhập khẩu của EU đối với hàng hóa là hết sức cần thiết cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Để tận dụng triệt để cơ hội mở rộng EU, hoạt động xuất khẩu sang thị trường EU cần hướng vào:
Thứ nhất, thị trường EU rất đa dạng và ngày càng trở lên đa dạng hơn. Mặc dù về thể chế EU là một thị trường chung, nhưng trên thực tế nó là tập hợp của nhiều thị trường Quốc gia và khu vực với các điều kiện, đặc điểm khác nhau. Cho nên, về mặt nhận thức phải coi trọng thị trường EU là thị trường chiến lược quan trọng, đầy tiềm năng mà chúng ta chưa khai thác hết. Trong trao đổi thương mại với EU15, cần đẩy mạnh hơn nữa mức xuất khẩu các loại hàng hóa bởi vì mặt hàng xuất khẩu của chúng ta cón nhiều lợi thế như chất lượng hàng hóa được gia tăng. Vấn đề nhập khẩu công nghệ cao từ EU còn hạn chế trong khi đó chúng ta lại đang rất cần các công nghệ hiện đại, phù hợp với yêu cầu của EU để sản xuất hàng xuất khẩu. Các quốc gia thành viên mới của EU lại rất quen thuộc với Việt Nam. EU25 sẽ đem lại cho các Quốc gia này sức mạnh và sự hấp dẫn mới. Việt Nam có nhiều cơ hội để nâng cao kim ngạch thương mại. Tuy nhiên phải chú ý rằng đây không còn là thị trường "dễ tính" mà cũng đồi hỏi đáp ứng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của Châu Âu.
Thứ hai, hệ thống pháp luật đặc biệt là chính sách sản phẩm nhập khẩu của EU vốn rất phức tạp, EU mở rộng lại càng đa dạng phức tạp hơn. Do vậy việc nghiên cứu đầy đủ về thị trường EU để tìm ra con đường thâm nhập phù hợp là rất cần thiết. Bên cạnh đó, EU là thị trường cạnh tranh gay gắt, buộc các doanh nghiệp phải coi trọng người tiêu dùng hơn. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến sản phẩm nhanh hơn, cung cấp sản phẩm với giá cả thấp và dịch vụ ngày càng hoàn hảo hơn. Nhà xuất khẩu ở các nước đang phát triển và các nước trong giai đoạn chuyển đổi không thể chỉ dựa vào chi phí nhân công rẻ để cạnh tranh. Chất lượng cao, liên tục cải tiến sản phẩm, tạo hình ảnh doanh nghiệp và chất lượng dịch vụ tốt là những đòi hỏi có tầm quan trọng không kém mức giá cạnh tranh.
Những yêu cầu của EU được thể hiện bằng văn bản pháp luật hoặc thông qua đòi hỏi ngày càng cao của thị trường. Như vậy, các nhà xuất khẩu Việt Nam cần tuân thủ các quy định pháp lý và yêu cầu của thị trường EU. Về điều kiện an toàn của sản phẩm, việc phải ghi ký hiệu CE lên sản phẩm đã trở thành đòi hỏi bắt buộc. Việc quản lý chất lượng thông qua áp dụng Hệ thống phân tích rủi ro bằng kiểm soát tới hạn (HACCP) là cần thiết. Các đòi hỏi khác liên quan đến môi trường xã hội mặc dù không bắt buộc nhưng thường buộc các doanh nghiệp sản xuất phải áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng Quốc tế, có chứng chỉ và nhãn mác sản phẩm. Việc tuân thủ Tiêu chhuẩn Trách nhiệm xã hội 8000 (Social Act 8000) sẽ ngày càng trở nên quan trọng trong những năm tới đây.
Thứ ba, việc đòi hỏi phải quan tâm đến khách hàng, sức khỏe và sự an toàn cho người lao động cũng như đến môi trường buộc các nhà sản xuất phải nhanh chóng áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế, có nhãn mác riêng và phải có chứng chỉ về quản lý chất lượng sản phẩm.
Thứ tư, khai thác triệt để thị trường các nước Trung và Đông Âu trong điều kiện mới, mở rộng hơn nữa quan hệ thương mại và đầu tư ở khu vực này. Đặc biệt có chính sách hỗ trợ có hiệu quả và vai trò cộng đồng người Việt Nam tại Đông Âu.
3.4 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU MỞ RỘNG
Một là, trong thời gian tới, để có thể mở rộng khả năng xâm nhập thị trường EU, tranh thủ công nghệ nguồn, vật tư, nguyên liệu, thiết bị, máy móc phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp ở tầm vĩ mô và vi mô. Đặc biệt cần xây dựng một chính sách thị trường thích hợp cho khu vực EU nhằm mở rộng đẩy mạnh xuất nhập khẩu của Việt Nam với EU, chủ động tiếp cận, thâm nhập thị trường, kết hợp giữa việc thu hút đầu tư của EU vào Việt Nam với việc phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu và của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động thương mại trên thị trường này.
Hai là, ngoài các sản phẩm chủ lực như: may mặc, giầy dép, cà phê, thủy sản chiếm khoảng 2/3 tổng giá trị hàng xuất vào thị trường EU cần chú trọng mở rộng các mặt hàng khác như: sản phẩm gỗ, nhựa gia dụng, thực phẩm chế biến, sản phẩm điện tử, linh kiện vi tính, phần mềm. Về lâu dài, dựa trên đánh giá lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế, cần nghiên cứu đầu tư xây dựng các xí nghiệp sản xuất nguyên liệu (nhất là cho ngành dệt may và giầy dép...) nhằm hạ tỷ lệ hàng gia công, tăng tỷ lệ hàng xuất khẩu trực tiếp, tập trung đầu tư vào các ngành sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
Ba là, đối với các doanh nghiệp, Nhà nước cần hỗ trợ đẩy mạnh xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin thị trường, giới thiệu luật lệ kinh doanh của EU và của từng nước trong khối như: Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc thu thập và xử lý thông tin về thị trường trong và ngoài nước, xây dựng và thiết kế trang Web, giới thiệu các sản phẩm của công ty để đa nên mạng giao dịch quốc tế, từng bước thực hiện việc thanh toán qua mạng (e-commerce).
Tiếp tục cải tiến, hoàn thiện các thủ tục, cơ chế chính sách về xuất nhập khẩu nhất là thủ tục hải quan, các loại thuế nhất là VAT theo hướng minh bạch đơn giản, phù hợp với thông lệ quốc tế. Mặt khác, Nhà nước cần thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu với thị trường EU (quỹ khuyến khích xuất khẩu, thưởng xuất khẩu, thành lập các trung tâm thương mại tại các thị trường trọng điểm...) nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện xâm nhập, đứng vững và phát triển tại thị trường này.
Bốn là, để tranh thủ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn ODA của các nước EU, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, Việt Nam cần cải thiện nhanh môi trường đầu tư tập trung vào 3 nội dung chính là:
- Cải cách nhanh thủ tục hành chính, xây dựng chính sách chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, cho các loại hình doanh nghiệp (nhà nước, tư nhân và doanh nghiệp FDI)
- Giảm chi phí đầu tư nhất là giá điện, cước viễn thông, giá đất, giá vận chuyển... hạn chế tình trạng độc quyền của một số doanh nghiệp nhà nước trong một số lĩnh vực, thực thi Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền.
- Mở rộng lĩnh vực và phạm vi đầu tư phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế để tăng tính cạnh tranh đối với các nước trong khu vực, nhất là Trung Quốc trong việc thu hút nguồn vốn FDI.
Năm là, các Bộ ngành và doanh nghiệp cần có kế hoạch tích cực chuẩn bị để tranh thủ những điều kiện thuận lợi và khắc phục những khó khăn, thách thức mới về thương mại, đầu tư khi EU mở rộng. Do vậy chúng ta phải có những phương án chuẩn bị hiệu quả, phù hợp với những thay đổi trong thời gian tới của EU.
3.5 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU ĐẾN NĂM 2010 VÀ TẦM NHÌN 2020
3.5.1 Giải pháp tổng thể
3.5.1.1 Giải pháp từ phía Nhà nước
Một là, cần tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường Châu Âu
Trong cạnh tranh, môi trường pháp lý có ý nghĩa rất quan trọng. Tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu trên thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng thuộc chức năng của Nhà nước. Môi trường pháp lý thuận lợi cho cạnh tranh trong kinh doanh xuất khẩu gắn bó chặt chẽ với môi trường pháp lý về kinh tế nói chung, kinh doanh hàng xuất khẩu nói riêng.
Tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi co kinh doanh đòi hỏi phải xây dựng hệ thống pháp luật kinh doanh hoàn chỉnh, thông thoáng.
Sự cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh hàng xuất khẩu diễn ra trên thị trường châu Âu, do đó cần phải nghiên cứu thị trường xuất khẩu châu Âu của các sản phẩm Việt Nam. Vì vậy, để tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu nước ta cạnh tranh ở thị trường nước ngoài, cần có sự thoả thuận , cam kết của Chính phủ các nước EU và SNG thông qua các điều ước song phương hoặc đa phương. Việc này hoàn toàn thuộc chức năng, trách nhiệm của Nhà nước, của chính phủ.
Như vậy, việc hoàn chỉnh, hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật kinh doanh, ký kết các hiệp định thương mại song phương và đa phương, tham gia WTO là điều kiện cần thiết cho việc tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cạnh tranh trên thị trường thế giới nói chung và châu Âu nói riêng.
Hai là hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý xuất khẩu sang Châu Âu.
+ Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Liên minh châu Âu và Cộng đồng các quốc gia độc lập.
- Hoàn thiện chính sách thị trường xuất khẩu theo hướng nâng cao vai trò chủ động của doanh nghiệp và trách nhiệm của Chính phủ, các cơ quan Bộ, ngành (trước hết là Bộ Thương mại) trong việc tổ chức và hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm, thâm nhập thị trường các nước EU và SNG, bảo vệ và mở rộng thị phần hiện có, phát triển theo chiều sâu.
Hoàn thiện chính sách mặt hàng xuất khẩu theo hai hướng cơ bản: Cần phân loại các nhóm mặt hàng theo tiêu thức có khả năng cạnh tranh để định hướng cho các doanh nghiệp lựa chọn mặt hàng kinh doanh xuất khẩu phù hợp với năng lực cạnh tranh của mình và có giải pháp hỗ trợ cho từng nhóm doanh nghiệp.
- Hoàn thiện chính sách hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu sang thị trường Châu Âu của Nhà nước thông qua sử dụng các công cụ, biện pháp kinh tế.
Gồm 3 bộ phận cơ bản: Hỗ trợ và khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu có giá trị tăng cao; hỗ trợ các doanh nghiệp về thông tin thị trường, về tiếp cận thị trường và đào tạo nhân lực; hỗ trợ khuyến khích về tài chính - tín dụng thông qua sử dụng các công cụ, biện pháp kinh tế như thuế xuất khẩu, quỹ bảo hiểm xuất khẩu, quỹ hỗ trợ xúc tiến thương mại.
+ Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý, điều hành hoạt động xuất khẩu sang thị trường liên minh châu Âu và Cộng đồng các quốc gia độc lập.
Tiếp tục tách chức năng quản lý kinh doanh xuất khẩu ra khỏi chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý Nhà nước về xuất khẩu nhằm tiến tới xoá bỏ hẳn cơ chế chủ quản, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự do hành nghề xuất khẩu theo giấy phép và giấy đăng ký kinh doanh.
Để tạo điều kiện và căn cứ cho các doanh nghiệp xuất khẩu xây dựng được tốt chiến lược và kế hoạch xây dựng kinh doanh xuất khẩu dài hạn sang thị trường EU và SNG.
Các bộ, ngành sớm hoàn thành quy hoạc 10 năm, 20 năm về phát triển sản xuất kinh doanh các ngành hàng, mặt hàng xuất khẩu mà ta có lợi thế và nhu cầu của EU, SNG; xây dựng cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cho từng năm, 5 năm và thời kỳ tới 2010.
Bộ thương mại cần công bố định hướng xuất khẩu hàng hoá sang thị trường EU, SNG để các doanh nghiệp chủ động xây dựng trước các chương trình kế hoạch kinh doanh gắn với chuẩn bị nguồn lực của doanh nghiệp để thực hiện các chiến lược kinh doanh cạnh tranh dài hạn, trung hạn. Mặt khác phải năng động, nhạy bén với tình hình thực tế thị trường châu Âu và từng nước EU, SNG để kịp thời điều chỉnh, bổ sung cơ chế điều hành xuất khẩu theo từng quý, từng năm khi tình hình biến động
+ Ttiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách, biện pháp tài chính- tiền tệ nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, xuất khẩu sang thị trường Liên minh châu Âu và cộng đồng các quốc gia độc lập.
Các hình thức hỗ trợ về tài chính tín dụng của Nhà nước chủ yếu là:
- Xây dựng thuế suất xuất khẩu với mức ưu đãi (nhiều mặt hàng thuế suất 0%) ; miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp... nhằm bổ sung vốn phát triển sản xuất hàng xuất khẩu và xuất khẩu cho các doanh nghiệp.
- Xây dựng thuế suất giá trị gia tăng ưu đãi đối với sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu.
- Ưu tiên vay vốn với lãi suất và thời gian ưu đãi.
- Giãn nợ, cho vay vốn tạm trữ, bỏ thu chênh lệch giá khi cần thiết.
- Thành lập và triền khai có hiệu quả các quỹ như: Quỹ bảo hiểm xuất khẩu, ngân hàng xuất nhập khẩ, quỹ thưởng xuất khẩu, quỹ hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu...
Ba là phát triển các ngành hàng xuất khẩu chủ lực sang thị trường EU
Nhà nước cần có chính sách cụ thể để phát triển các ngành hàng xuất khẩu chủ lực sang thị trường EU.
Đối với hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực là giày dép và dệt may, do có đặc thù riêng trong sản xuất và xuất khẩu; Việt Nam chủ yếu làm gia công cho nước ngoài nên hiệu quả thực tế thu được từ xuất khẩu là rất thấp (25-30% doanh thu). Bởi vậy, Nhà nước cần có chính sách cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất (không phải gia công) làm ăn có hiệu quả hoặc các doanh nghiệp sản xuất đã xuất khẩu trực tiếp sản phẩm sang EU thuộc hai ngành công nghiệp này tiếp tục đầu tư vốn và đổi mới công nghệ trong quá trình sản xuất để cải tiến sản phẩm phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng EU, nâng cao chất lượng, tăng cường xuất khẩu theo phương thức mua nguyên liệu và bán thành phẩm, giảm dần phương thức gia công xuất khẩu đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp sản phẩm có tỷ lệ nội địa hóa cao, và tiến tới xuất khẩu sản phẩm 100% nguyên liệu trong nước.
Đối với các mặt hàng đang được ưa chuộng trên thị trường EU như hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ gia dụng, đồ phục vụ du lịch, đồ chơi trẻ em, hàng điện tử và hàng thủy hải sản, Nhà nước cần có chính sách cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vốn và công nghệ hiện đại để mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa và nâng cao trình độ tiếp thị sản phẩm nhằm mục đích tăng khối lượng và nâng cao hiệu quả xuất khẩu những mặt hàng này sang EU.
Bốn là gắn nhập khẩu công nghệ nguồn với xuất khẩu
Hiện nay trong buôn bán với EU Việt Nam xuất siêu khá lớn, nếu Việt Nam tăng cường nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU sẽ làm cân bằng cán cân thanh toán, phía EU sẽ không tìm cách cản trở xuất khẩu Việt Nam, đồng thời nhập khẩu được công nghệ hiện đại phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu giúp thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu nói chung và sang thị trường EU nói riêng. Đây là phuơng pháp hữu hiệu hỗ trợ và đẩy mạnh xuất khẩu sang EU.
Nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU có thể thực hiện bằng hai biện pháp sau: (1) đầu tư của chính phủ và (2) thu hút các nhà đầu tư EU tham gia và quá trình sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam. Để thực hiện, Nhà nước Việt Nam cần có những chính sách ưu đãi riêng cho các nhà đầu tư EU ngoài những ưu đãi và quyền lợi họ sẽ được hưởng theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
Năm là nhà nước cần hỗ trợ về xây dựng lực lượng lao động và đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng hoá sang thị trường châu Âu.
Vấn đề hỗ trợ của Nhà nước về nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng gồm hai nội dung chính, hai giải pháp chính - giải pháp về lao động và giải pháp về giáo dục đào tạo.
+ Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu xây dựng lực lượng cán bộ, nhân viên giỏi nghiệp vụ xuất nhập khẩu và có trình độ quản lý cao nhằm đáp ứng được nghiên cứu xâm nhập thị trường Liên minh châu Âu và Cộng đồng các quốc gia độc lập.
+ Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp về đào tạo nguồn nhân lực đủ sức duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu tại thị trường các nước Liên minh châu Âu và Cộng đồng quốc gia độc lập.
3.5.1.2 Các giải pháp từ phía doanh nghiệp
Một là lựa chọn phương thức thích hợp để chủ động thâm nhập vào kênh phân phối trên thị trường EU.
Như đã trình bày trong phần trên, trong thời gian tới cần đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp là con đường chính thâm nhập thị trường EU của các doanh nghiệp Việt Nam. Con đường thứ hai là liên doanh, có thể dưới hình thức sử dụng giấy phép nhãn hiệu hàng hóa là biện pháp tối ưu để các nhà sản xuất Việt Nam thâm nhập vào thị trường EU. Con đường thứ ba là trong tương lai, khi các doanh nghiệp Việt Nam đã đủ mạnh có thể lựa chọn thâm nhập thị trường bằng hình thức đầu tư trực tiếp. Dù lựa chọn phương thức thâm nhập thị trường nào thì Việt Nam cũng phải nghiên cứu kỹ các yếu tố sau: dung lượng thị trường, thị hiếu tiêu dùng, kênh phân phối, đối thủ cạnh tranh, giá cả… và cần nắm vững 4 nguyên tắc khi thâm nhập thị trường này:
- Nắm bắt được thị hiếu người tiêu dùng
- Hạ giá thành sản phẩm
- Đảm bảo thời gian giao hàng
- Duy trì chất lượng sản phẩm
Hai là tăng cường đầu tư và hoàn thiện quản lý để tạo nguồn hàng thích hợp với thị trường EU.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần tận dụng mọi cơ hội nghiên cứu thị trường và khách hàng để nắm được đặc điểm của thị trường, nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng và kênh phân phối trên thị trường EU, từ đó đưa ra các biện pháp phù hợp để cải tiến và đa dạng hóa sản phẩm, tạo nguồn hàng thích hợp với thị trường EU.
Muốn tạo ra nguồn hàng thích hợp, các doanh nghiệp Việt Nam phải tăng cường đầu tư và hoàn thiện quản lý chỉ trên cơ sở đầu tư vào công nghệ hiện đại mới cho phép sản xuất ra sản phẩm với chất lượng cao, đáp ứng các yêu cầu khắt khe của thị trường EU. Cần tăng cường áp dụng các hệ thống quản lý ISO 9000, ISO 14000 và HACCP. Điều này giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thể tạo ra được nguồn hàng xuất khẩu ổn định và thích hợp sang thị trường EU.
3.5.1.3. Giải pháp khác
Một là đẩy mạnh công tác xúc tiến xuất khẩu sang EU
Hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang EU là công việc chính của doanh nghiệp nhưng sự hỗ trợ của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay là rất quan trọng. Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp và hàng hóa Việt Nam thâm nhập dễ dàng và có chỗ đứng vững chắc trên thị trường EU, Nhà nước nên thực hiện một số hoạt động trợ giúp sau đây.
- Đẩy mạnh xây dựng chiến lược phát triển trên thị trường EU thông qua việc đàm phán, ký kết các hiệp định, thỏa thuận thương mại song phương và đa phương nhằm tạo ra các tiền đề, hành lang pháp lý thuận lợi để đẩy mạnh xuất khẩu.
- Thảo luận ở cấp Chính phủ về mở cửa thị trường trước hết đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
- Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ việc làm hoặc hội thảo chuyên đề thị trường giúp các doanh nghiệp tiếp cận trự ctiếp thị trường, trực tiếp tìm hiểu nhu cầu thị trường và trực tiếp giao dịch với các nhà nhập khẩu chính của thị trường EU.
- Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc xúc tiến và tiếp cận thị trường.
- Đẩy mạnh công tác trợ cấp xuất khẩu dưới hình thức thưởng xuất khẩu.
* Hoạt động xúc tiến xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường EU.
- Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần nâng cao năng lực tiếp thị tích cực thực hiện các hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang thị trường EU.
- Chủ động tìm kiếm đối tác chào hàng thông qua việc tham gia hội chợ, triển lãm và hội thảo chuyên đề tổ chức tại Việt Nam hoặc EU, qua tham tán thương mại các nước thành viên EU và qua văn phòng EU tại Việt Nam.
- Tìm hiểu và nghiên cứu thị trường EU trực tiếp hoặc thông qua phòng thương mại EU tại Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Cục Xúc tiến thương mại Bộ Thương mại, tham tán thương mại Việt Nam tại các nước EU, Trung tâm thông tin thương mại Bộ Thương mại…
- Các doanh nghiệp cần nghiên cứu ứng dụng các nghiệp vụ marketing để phát hiện nhiều mặt hàng mới có khả năng tiêu thụ tại thị trường EU. Tổ chức các hoạt động dịch vụ trước và sau bán hàng để duy trì củng cố uy tín của hàng hóa Việt Nam đối với người tiêu dùng EU.
Hai là phát triển nguồn nhân lực cho đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.
Con người là yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao và đáp ứng tốt nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Ngoài việc đầu tư trang bị máy móc thiết bị hiện đại phải có những cán bộ kỹ thuật giỏi và công nhân lành nghề. Hiện nay, nước ta nói chung và doanh nghiệp nói riêng, rất thiếu cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Do đó khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng hóa rất thấp. Bởi vậy để khắc phục tình trạng này Nhà nước và doanh nghiệp cần tổ chức nhiều chương trình đào tạo chuyên sâu cho các cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật thuộc các lĩnh vực để tạo ra đội ngũ công nhân lành nghề trong các ngành chế tạo, sản xuất chế biến. Đồng thời nên phối hợp với các nước để gửi cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật trẻ, có triển vọng ra đào tạo ở nước ngoài. Ngoài vấn đề chú trọng đào tạo cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật, Chính phủ và doanh nghiệp cần phải quan tâm, phối kết hợp đào tạo để có đội ngũ cán bộ thương mại giỏi thì mới có thể đưa sản phẩm có chất lượng cao tới được thị trường EU.
3.5.2 Giải pháp cho hàng giày dép
3.5.2.1 Giải pháp từ phía Nhà nước
Thứ nhất, Nhà nước cần giải quyết khó khăn vốn lưu động và vốn đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị; đảm bảo bình đẳng thực sự trong quan hệ tín dụng trên cơ sở pháp luật giữa các thành viên kinh tế; mở rộng khả năng tiếp cận nguồn vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ...thực hiện lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất kinh doanh có hiệu quả, sản xuất được các sản phẩm mới. Phải coi công nghệ là mục tiêu số một để đưa sản phẩm giày dép thành một trong những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào EU; thực hiện hiện đại hoá từng bước về công nghiệp và trang thiết bị trong ngành công nghiệp da giày, hạn chế tối đa việc nhập các thiết bị đã cũ kỹ và lạc hậu; tiếp tục cải tiến công nghệ và trang thiết bị trong đầu tư chiều sâu, mở rộng và phát triển các cơ sở hiện có đối với những sản phẩm giày vải, giày thể thao, giày nữ và các loại hài ...Xây dựng một số công trình mới cần thiết đáp ứng cho nhu cầu phát triển các năm sau như giày da, giày bảo hộ lao động có chất lượng cao, là những sản phẩm có chất lượng và giá trị hàm lượng chế biến cao, đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho công nghiệp giày dép.
Thứ hai, khuyến cáo các doanh nghiệp xuất khẩu phải hợp tác chặt chẽ với các nhà nhập khẩu để nắm bắt được kích cỡ, đòi hỏi về môi trường, kỹ thuật, thiết kế và phát triển thị trường, trong đó nên hợp tác chặt chẽ dưới dạng liên doanh và hợp đồng gia công với các đối tác có thương hiệu và nhãn hiệu nổi tiếng.
Thứ ba, khuyến cáo các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu lưu ý đến xu hướng thời trang hiện nay đang chuyển từ hình thức sang sự tiện dụng. Cần chú ý đến nhu cầu của giới trẻ hiện nay đòi hỏi thời trang thể hiện được phong cách cá nhân, nhất là trong lĩnh vực giày thể thao.
Thứ tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chuyển sang phương thức xuất khẩu trực tiếp, giảm dần phương thức gia công, khuyến khích sử dụng nguyên liệu trong nước nhằm tăng hiệu quả kinh tế đồng thời tạo thêm việc làm. Hiện nay, có rất nhiều cơ sở sản xuất được mũi, đế giày có chất lượng tốt không kém nhập ngoại. Chú trọng sản xuất sản phẩm có giá trị cao và lưu ý hiệu quả sản xuất thay vì chạy theo số lượng. Biết kết hợp giữa giá cả, chất lượng với uy tín sản phẩm và thời gian giao hàng ổn định và mở rộng kênh tiêu thụ sản phẩm.
Thứ năm, khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường và mở rộng quan hệ trực tiếp với các đối tác nhập khẩu giày dép tại khu vực thị trường CEEC, tạo chỗ dựa mở rộng thị phần, giảm dần xuất khẩu giày dép qua khâu trung gian. Tiếp tục củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, ổn định đầu ra cho sản phẩm giày dép trên thị trường EU, giữ tỷ lệ giày dép xuất khẩu của Việt Nam dưới 25% để tránh khả năng bị áp dụng hạn ngạch. Xây dựng các trung tâm xúc tiến thương mại của nhà nước làm cầu nối cho doanh nghiệp ký kết hợp đồng sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm sang thị trường EU.
Hộp 10: Đề xuất của tác giả về biện pháp cho ngành da-giày
Một là mở rộng thị trường xuất khẩu không chỉ trong EU15 hay EU25 mà cả những nước ngoài EU: Việc tìm kiếm và mở rộng thị trường là nhiệm vụ khó khăn và phức tạp, do đó đòi hỏi các doanh nghiệp phát huy mọi khả năng và ngành da giày phải định hướng từng bước tổ chức sản xuất, đầu tư hợp lý; Hiệp hội Da-Giày cần tăng cường quan hệ với các tổ chức của EU nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong ngànhđể có thể xuất khẩu trực tiếp, giành khâu trung gian với mục tiêu đạt hiệu quả kinh doanh tối đa; Bên cạnh đó, phối hợp tổ chức tham gia các hội trợ triển lãm chuyên ngành do Hiệp hội giầy châu Á tổ chức.
Hai là chuyển từng bước gia công sang xuất khẩu trực tiếp: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành da giày đến 2010. Tổng công ty Da-Giày lên kế hoạch hình thành trung tâm mẫu mốt giầy dép; Coi việc đào tạo, tuyển dụng, bố trí sử dụng lực lượng cán bộ, công nhân kỹ thuật, thiết kế sáng tác và triển khai mẫu mốt; Tổ chức tiếp cận thị trường thông qua các hội trợ triển lãm trong nước và quốc tế, chú trọng khâu quảng cáo tiếp thị.
Ba là đào tạo kỹ sư công nghệ ngành da giày: Để nhằm giải quyết những bất cập trong sử dụng lao động trong 2 khâu chính là thiết kế và công nghệ.
Bốn là tích cực cổ phẩn hóa các doanh nghiệp da giày: nhằm tăng cường vốn đầu tư để cải tiến công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
3.5.2.2 Giải pháp từ phía doanh nghiệp
Một là,các doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp nhằm tăng nguồn hàng xuất khẩu trực tiếp. Một trong những giải pháp hữu hiệu cho việc tăng nguồn hàng trực tiếp hiện nay là các doanh nghiệp giầy nên liên kết lại với nhau để đáp ứng những đơn đặt hàng của EU, cũng như hỗ trợ nhau nâng cao chất lượng, mẫu mã, giảm giá thành.
Năm 2004 có một đơn đặt hàng xuất khẩu 1 triệu đôi giầy trực tiếp sang EU nhưng đã không thành vì không có doanh nghiệp nào trong nước đáp ứng nổi. Mặt khác để tăng nguồn hàng xuất khẩu trực tiếp của các nhà sản xuất Việt Nam nên thường xuyên quan hệ với các văn phòng đại diện của EU tại Việt Nam. Các văn phòng này có mạng lưới phân phối rộng ở EU và có thể mang lại nhiều đơn đặt hàng cho các nhà sản xuất khi sản phẩm đáp ứng đủ nhu cầu tìm nguồn hàng của họ.
Hộp 11: Đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp vào EU cho da giày
Trong buổi hội thảo “Đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp vào EU cho ngành da giày” được tổ chức tại Plaza Giày Việt đầu năm 2006, ông Vũ Văn Minh, Tổng giám đốc Vina Giày đưa ra giải pháp là các doanh nghiệp nên tăng cường xuất khẩu trực tiếp, nhất là vào thị trường EU, vì hiện trong gần 2,6 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu của ngành, chỉ có khoảng 10-15% là từ xuất khẩu trực tiếp. Để tăng kim ngạch tự xuất khẩu sang EU, ông Nguyễn Thanh Lâm, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Việt châu Âu, một công ty chuyên xuất khẩu nhiều mặt hàng Việt Nam sang EU cho rằng, các doanh nghiệp da giày nên liên kết lại với nhau để đáp ứng những đơn đặt hàng lớn của EU, cũng như hỗ trợ nhau nâng cao chất lượng, mẫu mã, giảm giá thành. Ông cho biết đã phải từ chối một đơn đặt hàng 1 triệu đôi giày xuất khẩu trực tiếp sang EU vì không doanh nghiệp nào trong nước đáp ứng nổi.
Nguồn: Hiệp hội Da – Giầy Việt Nam
Hai là, bên cạnh xuất khẩu trực tiếp, để tăng kim ngạch xuất khẩu giầy da Việt Nam sang EU, các doanh nghiệp cũng cần phải biết chọn cho mình một phân khúc thị trường hợp lý. Việc chọn phân khúc thị trường là để tránh đối đầu với những hàng sản xuất ồ ạt của Trung Quốc, tránh cạnh tranh với những sản phẩm có chất lượng cao của các nước nội khối EU. Phân khúc thị trường Việt Nam được xem là hiệu quả nhất và tránh được các đối thủ kể trên là những sản phẩm có chất lượng tốt nhưng phải mang tính độc đáo, phong cách và kiểu dáng riêng biệt. Có thể đó là những sản phẩm công nghệ cao kết hợp với những chi tiết phức tạp nhờ vào trình độ thủ công.
Ba là, để tăng kim ngạch xuất khẩu giầy vào EU thì khâu tìm hiểu và thăm dò thị trường là không thể thiếu. Do doanh nghiệp Việt Nam ít tham gia trưng bày sản phẩm tại các hội chợ về da giày tại EU, hoặc nếu có chỉ là tham quan, khảo sát thị trường. Hơn nữa, khi tham gia hội chợ, gian hàng trưng bày của Việt Nam thường nghèo nàn hình thức, rời rạc, nhỏ lẻ, mang tính cá nhân, không tập trung vào một khu vực để có thể làm nổi bật thương hiệu. Nhiều doanh nghiệp phải tham dự 2, 3 hội chợ mới ký được vài hợp đồng nhỏ rồi ngưng. Vì thế hiệu quả tham dự hội chợ về da giày ở EU của các doanh nghiệp Việt Nam thường không cao. Cách tốt nhất là các doanh nghiệp tham dự các hội chợ giầy dép tại EU, qua đó để thị trường biết được sản phẩm của mình và mình cũng có thể nhận biết thị hiếu chung của từng nước cụ thể, qua đó cải tiến chất lượng, mẫu mã, công nghệ. Trong một hội chợ triển lãm có hàng trăm ngàn đôi giầy, chỉ cần vài đôi có kiểu dáng độc đáo là có thể thu hút sự chú ý của các nhà thu mua hàng của các hãng nhập khẩu lớn ở EU.
Bốn là, khi có sản phẩm xuất khẩu trực tiếp sang EU, các doanh nghiệp nên lưu ý đến hệ thống phân phối và nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm làm từ da của từng quốc gia trong khối này. Xu hướng ở EU đang phát triển ngày càng nhiều các cửa hàng bán lẻ giày dép kèm thêm dịch vụ ăn uống, là nơi đọc báo, tạp chí, hoặc bán giày dép kèm quà tặng như bán giày trẻ em tặng thêm búp bê... Các doanh nghiệp cũng nên tranh thủ lượng người Việt đang sinh sống ở Đông Âu, vì họ sẽ vừa là khách hàng tiêu thụ, vừa là đối tác phân phối sản phẩm cho hàng Việt Nam. Theo thống kê của các chuyên gia về thị trường EU, người Việt ở Đông Âu giỏi buôn bán hơn người Việt sống ở Tây Âu.
Năm là, các doanh nghiệp nên tận dụng các trung tâm xúc tiến thương mại cần có một cứ điểm ở EU cho doanh nghiệp trong nước làm nơi trao đổi, bàn bạc và tiếp xúc với đối tác. Khi xúc tiến thương mại ở EU, bước đầu doanh nghiệp nên tập trung vào khuếch trương thương hiệu chung là hàng Việt Nam, sau đó mới xây dựng thương hiệu riêng cho doanh nghiệp. 200 doanh nghiệp trong lĩnh vực da giày trong nước nếu tập hợp lại sẽ là một đối thủ mạnh khi xây dựng được thương hiệu chung trên thị trường EU.
Sáu là, còn một nguồn nhận hàng xuất khẩu trực tiếp sang EU khác là các công ty thương mại EU có văn phòng đại diện tại Việt Nam. các nhà sản xuất nên thường xuyên liên hệ với các văn phòng đại diện này vì họ có mạng lưới phân phối rộng ở EU và có thể mang lại nhiều đơn hàng cho nhà sản xuất khi sản phẩm đáp ứng nhu cầu tìm nguồn hàng của họ.
Hộp 12: Những lời khuyên cho các nhà xuất khẩu giày dép sang EU
Xu hướng thời trang
Theo Trung tâm thông tin Thương mại châu Âu (EBIC), trên toàn Châu Âu, việc tiêu dùng giày dép gần đây đã chuyển biến mạnh từ hình thức sang sự tiện lợi. Giầy dép vải bạt và giày thể thao, giày chống nước và giày không thấm nước trở nên phổ biến với mọi lứa tuổi. Dép lê thường dùng trong nhà giờ bị thay thế một phần bởi giày sục, giày vải bạt hoặc giày thể thao.
Thời trang giày không do nhà thiết kế đề xuất nữa mà sẽ do nhu cầu tiện dụng và đặc tính cá nhân quyết định. "Thời trang chính là sự tiện dụng", xu hướng này sẽ tiếp tục suốt thế kỷ 21.
Khi lựa chọn, người ta chú trọng hơn vào nhãn hiệu, nhất là giới trẻ. Các chu kỳ thời trang ngắn hơn và thị trường của lớp trẻ đòi hỏi thời trang thể hiện được phong cách cá nhân, trong đó họ đặc biệt quan tâm tới giày thể thao.
Giày thể thao chuyên nghiệp sẽ do các nhãn hiệu nổi tiếng thống lĩnh như Adidas, Nike, Reebok... và Viễn Đông là khu vực sản xuất chủ yếu.
Mỗi thị trường, mỗi cơ hội
Dự đoán, nhu cầu giày dép tại EU sẽ tiếp tục tăng và lượng giày dép bình quân đầu người cũng tăng. Đáng chú ý là nhu cầu sẽ tập trung vào các loại giày dép thông thường và nhẹ nhàng.
ở Anh, giá cả giày dép đã giảm nhiều so với các thị trường EU khác.
Dự báo, thị trường giày dép Pháp sẽ tăng ở mức trung bình của EU, trong khi thị trường Italy sẽ tăng mạnh, đặc biệt trong mấy năm tới. Thị trường Hà Lan chậm chạp trong hai thập kỷ vừa qua, nhưng đã có dấu hiệu phục hồi trong mấy năm gần đây.
EBIC đưa ra những lời khuyên
Các nhà xuất khẩu Việt Nam nên tạo nhiều sản phẩm có chất lượng cao và "thân thiện" hơn với môi trường, thách thức này sẽ đơn giản hơn nếu doanh nghiệp có chiến lược đúng và chuẩn bị kỹ càng cho kế hoạch phát triển.
Thời gian giao dịch giữa các nhà nhập khẩu và các hãng bán buôn, bán lẻ cần ngắn lại, cũng nên am hiểu sự phát triển của các thị trường mục tiêu. Các chuyên gia khuyên rằng, những nước đang phát triển nên chú trọng sản xuất sản phẩm có giá trị cao thay vì nâng số lượng xuất khẩu, đồng thời vẫn lưu ý hiệu quả sản xuất.
Giai đoạn đầu, phương án ít rủi ro là cố gắng giành được các đơn hàng cố định cho các sản phẩm do khách hàng yêu cầu, giai đoạn sau là tìm hiểu và nắm bắt thị trường nội địa.
Bên cạnh đó, sự hợp tác chặt chẽ giữa các nhà xuất khẩu và nhập khẩu là rất cần thiết bởi doanh nghiệp xuất khẩu phải đối mặt với nhiều vấn đề như kích cỡ, đòi hỏi về môi trường, kỹ thuật, thiết kế và phát triển thị trường, trong đó nên hợp tác chặt chẽ dưới dạng liên doanh và các hợp đồng gia công.
Điều quan trọng nữa là phải biết kết hợp giữa giá cả, chất lượng sản phẩm với uy tín trong thời gian giao hàng. Ngoài ra, doanh nghiệp xuất khẩu da giày cần liên tục ứng dụng công nghệ mới và giảm chi phí sản xuất, đồng thời phát huy những thuận lợi khác của các nước đang phát triển là sự ổn định về kinh tế và chính trị.
3.5.3 Giải pháp cho hàng thủy sản
3.5.3.1 Giải pháp từ phía Nhà nước
Thuỷ sản Việt Nam đang được lên ngôi và chiếm được cảm tình của người tiêu dùng EU. Tuy nhiên từ năm 2000, EU đã cảnh báo rất nhiều lô tôm đông lạnh xuất khẩu của một số nước Đông Nam Á xuất khẩu vào EU có dư lượng kháng sinh cao trong đó có Việt Nam. Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu là do máy móc thiết bị của phần lớn các nhà máy chế biến thuỷ sản đã lạc hậu. Công nghệ chế biến đơn giản, lao động thủ công nhiều. Các yêu cầu vệ sinh thực phẩm cũng chưa được đảm bảo. Vệ sinh thực phẩm từ khâu nuôi trồng đến bàn ăn là yêu cầu trong sách trắng của EU đưa ra đối với thực phẩm chế biến nhập khẩu vào lãnh thổ EU. Nhiều người cho rằng yêu cầu dư lượng kháng sinh dưới 0,3ppb chính là hàng rào phi thuế quan mà EU dựng lên thay thế cho hàng rào quan thuế dần dần được rỡ bỏ. Việc xem xét có phải là hàng rào hay không chính là xem khả năng sản xuất trong Cộng đồng có đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong Cộng đồng hay chưa, yêu cầu về dư lượng kháng sinh đó có vượt quá những quy định trong luật EU và trong WTO hay không. Thực tế, EU chỉ đáp ứng được chưa đầy 40% nhu cầu, trên 60% phải nhập khẩu. Để đối phó với tình hình trên đây nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường EU mở rộng, Nhà nước cần phải thực hiện một số biện pháp sau đây:
Thứ nhất, là các Bộ, Ngành liên quan cần phối hợp với các nước trong khu vực có thuỷ sản xuất khẩu vào EU cùng đấu tranh với EU về tỷ trọng dư lượng kháng sinh trong thực phẩm nói chung và trong thuỷ sản nói riêng, với mức độ nào là an toàn cho người sử dụng, bằng các hình thức như hội thảo của các nhà khoa học, hội nghị quốc tế về y tế và an toàn thực phẩm, trong các diễn đàn ASEM, APEC… Tăng cường đàm phán thương mại cấp chính phủ giữa Việt Nam và liên minh Châu Âu để tạo khung pháp lý cho các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường thâm nhập vào thị trường EU. Việc đàm phán cần nhằm vào các mục tiêu: (1) Đảm bảo có sự thừa nhận lẫn nhau về các chứng chỉ văn bằng do các cơ quan có thẩm quyền của hai chính phủ cấp để dỡ bỏ các rào cản kỹ thuật đối với xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường EU; (2) Đảm bảo mức thuế quan ưu đãi cho hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang EU. Để đạt được kết quả này, Chính phủ phải có các biện pháp cải cách mạnh mẽ hơn nữa để xây dựng cơ chế kinh tế thị trường ở Việt Nam nhằm gây ấn tượng tốt cho các nhà hoạch định chính sách EU. Việc tham khảo và giới thiệu chính sách lẫn nhau giữa hai Chính phủ cũng cần được tăng cường. Đồng thời Chính phủ hai bên nên phối hợp chặt chẽ và tăng cường tổ chức các đoàn quan chức Chính phủ tham quan khảo sát thị trường của nhau để có căn cứ thực tế của sự hợp tác.
Thứ hai, là Bộ Thuỷ sản phối hợp chặt chẽ với Bộ Y Tế, Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn và Bộ Thương mại có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu, sản xuất, buôn bán và sử dụng 16 loại kháng sinh tương đương với EU cấm trong nông nghiệp và thuỷ sản. Yêu cầu ngành y tế quản lý chặt chẽ và chỉ sử dụng để chữa bệnh cho người khi chưa có giải pháp thay thế.
Thứ ba, là có chế độ thu mua nguyên liệu cũng như kiểm soát chặt chẽ quy trình bảo quản và chế biến thuỷ sản, thưởng phạt rõ ràng đối với những doanh nghiệp không thực hiện nghiêm túc yêu cầu này.
Thứ tư, là cần tổ chức tuyên truyền rộng rãi kiến thức về an toàn vệ sinh thực phẩm cho ngư dân, nông dân, tổ chức các khoá đào tạo kiểm tra, kiểm soát và đầu tư các thiết bị kiểm tra cho các cơ quan chuyên ngành. Chính phủ cần dành một khoản ngân sách thích đáng cho các cơ quan kiểm tra thực hiện các hoạt động tuyên truyền, huấn luyện và thực hành kiểm tra từ khâu nuôi trồng đến khâu bảo quản và chế biến xuất khẩu.
Thứ năm, là miễn giảm các loại thuế đối với sản xuất và xuất khẩu hàng thuỷ sản. Ngoài việc không đánh thuế xuất khẩu đối với hàng thuỷ sản thì Chính phủ cũng cần có những chính sách miễn giảm những loại thuế khác để khuyến khích sản xuất xuất khẩu hàng thuỷ sản như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp đề nghị nhà nước áp dụng mức thuế ưu đãi nhất cho các doanh nghiệp sản xuất hàng thuỷ sản. Việc áp dụng các chính sách thuế ưu đãi sẽ tác động tích cực tới khả năng cạnh tranh xuất khẩu của hàng thuỷ sản Việt Nam, khuyến khích mở rộng thị trường xuất khẩu và đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu.
Thứ sáu, là tăng cường hoạt động đầu tư, khoa học và công nghệ, nghiên cứu triển khai ở cả tầm vĩ mô và vi mô để phát triển sản phẩm mới cho xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường EU. Việc phát triển sản phẩm thuỷ sản mới phụ thuộc nhiều vào đầu vào của đầu tư và phát triển khoa học công nghệ, xu hướng tiêu thụ thuỷ sản của thế giới mà đặc biệt là các nước phát triển như EU đang hướng mạnh vào việc tiêu thụ các sản phẩm chế biến sâu để ăn liền và các sản phẩm còn sống, nếu Việt Nam phát triển được những sản phẩm loại này sẽ có khả năng đẩy mạnh xuất khẩu hơn nữa vào thị trường EU.
Thực hiện tốt các biện pháp trên đây chúng ta sẽ lấy lại được uy tín hàng thuỷ sản Việt Nam và đẩy mạnh được kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào khu vực thị trường EU trong thời gian tới.
3.5.3.2 Giải pháp từ phía doanh nghiệp
Để đứng vững và đảm bảo tăng trưởng bền vững trên thị trường này còn là điều rất khó, đòi hỏi các doanh nghiệp chế biến và các khâu hoạt động có liên quan phải không ngừng quan tâm, cảnh giác. Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU cần lưu ý một số vấn đề sau:
Một là các doanh nghiệp cũng phải chịu khó tìm hiểu về luật pháp của những nước nhập khẩu, tăng cường hiểu biết về các lực lượng kinh tế và thế lực khác tác động đến thị trường các nước nhập khẩu. Và quan trọng hơn, doanh nghiệp phải biết liên kết với nhau trong quá trình xử lý tranh chấp. Hàng thủy sản Việt Nam xuất sang thị trường thế giới thường gặp các rào cản pháp lý như chống bán phá giá. Song, rào cản về kỹ thuật - tức là những yêu cầu về vệ sinh - ngày càng được áp dụng một cách khắt khe hơn. Càng ngày, bản danh sách các chất kháng sinh bị cấm sử dụng càng dài. Cạnh tranh trên thị trường quốc tế cũng ngày một gay gắt, trong khi khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam còn thấp. Các chuyên gia cho rằng, sản xuất kinh doanh thủy sản đã đến lúc không thể chỉ trông chờ vào khai thác tự nhiên, mà cần có đầu tư đồng bộ mới có thể phát triển với tốc độ cao.
Hai là doanh nghiệp Việt Nam cần nắm vững các luật lệ về nhập khẩu, thuế chống phá giá, các quy định về kỹ thuật, về môi trường, về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm quốc tế và phải thường xuyên nghiên cứu thị trường để đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng.
Ba là các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam cần phải đầu tư cải tiến công nghệ sản xuất, áp dụng các quy trình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế HACCP - tiêu chuẩn của EU, mới mong các sản phẩm thủy sản của mình có chỗ đứng trên thị trường châu Âu. Ngoài ra, các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam cũng cần hợp tác với nhau, thông qua các hiệp hội thủy sản, nhờ sự hỗ trợ của Nhà nước để tăng cường xúc tiến thương mại.
Bốn là các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam nên chú ý là hiện nay cộng đồng người Việt sống ở các nước châu Âu cũng là một nguồn lực cạnh tranh đáng kể. Họ có thế mạnh về bản ngữ, thông thạo địa lý, hiểu được tâm lý tiêu dùng của dân bản xứ, biết rõ phong tục tập quán, am hiểu luật pháp các nước sở tại. Con số hơn 300.000 Việt kiều sống tại Pháp, 100.000 người Việt ở tại các nước Đông Âu, 100.000 tại Đức, khoảng trên 10.000 người sinh sống ở những nước khác tại châu Âu, cũng là một thị trường lớn khác trong khối châu Âu để các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản tranh thủ khai thác.
Năm là các doanh nghiệp tuyệt đối không sử dụng nguyên liệu thủy sản không rõ nguồn gốc vào chế biến các lô hàng xuất khẩu sang EU, Canada và những thị trường có yêu cầu tương đương. Từng lô nguyên liệu nhập vào nhà máy phải có phiếu kiểm tra hoá chất, kháng sinh. Trong trường hợp chưa có phiếu kiểm tra, phải được lấy mẫu kiểm tra để biết chắc lô nguyên liệu đó không chứa kháng sinh cấm (đặc biệt là Malachite Green).
Hộp 13: Chiến lược thâm nhập thị trường EU
Xây dựng quan hệ đối tác
Các quốc gia Châu Âu đang tiến dần tới một hệ thống thị trường thống nhất. Để thành công, các nhà xuất khẩu cần phải xây dựng các mối quan hệ đối tác tại thị trường này nhưng cũng phải thận trọng khi lựa chọn đối tác là các nhà nhập khẩu, đại lý và các nhà phân phối vì họ sẽ là người đại diện của doanh nghiệp tại thị trường này. Ngoài ra, mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt do chính sách hạ giá các nhà xuất khẩu và do các rào cản vào thị trường càng ngày càng được giảm bớt.
Lựa chọn nhà phân pối hay đại lý hi nhà xuất khẩu muốn đưa sản phẩm của mình thâm nhập thị trường EU, một mối quan tâm thường xuyên đó là nên lựa chọn nhà phân phối hay đại lý làm đối tác của mình tại thị trường này.
Có những điểm khác nhau sau cần phải lưu ý:
+ Nhà phân phối: Là người có quyền quyết định về chính sách giá và cách thức bán hàng.
+ Đại lý: Là người chịu sự chi phối của nhà xuất khẩu trong việc định giánvà hình thức bán hàng.
Vấn đề ở đây là lựa chọn ai? Thông thường, lựa chọn một nhà phân phối là hợp lý hơn đối với các các nhà xuất khẩu mới tiếp cận thị trường hoặc đang tìm cách thâm nhập sâu hơn vào thị trường, lựa chọn đối tác là đại lý thường được áp dụng đối với các nhà sản xuất đã thâm nhập được thị trường.
Riêng tại Đức, công ty nên thiếp lập hệ thống phân phối trực tiếp của mình do quy mô của thị trường và do tại đây phải chịu cạnh tranh ngay cả với các sảnphẩm đướcản xuất tại EU
Doanh nghiệp EU thường bỏ ra rất nhiều thời gian để xây dựng quan hệ và lòng tin trước khi tiến hành hợp tác lâu dài.Tại EU, nhà phân phối hoặc/và đại lý được coi là đối tác của nhà sản xuất, và luật pháp EU cũng phản ánh tầm quan trọng của quan hệ đối tác hơn chỉ là gây dựng mối quan hệ và điều đó được thể hiện:
+ Thời gian kết thúc hợp đồng thường kéo dài ít nhất là ba tháng cho tới vài năm tuỳ thuộc vào luật pháp của từng nước. Bởi vậy, việc chấm dứt một mối quan hệ đối tác đối khi cũng trở thành các vấn đề rất phức tạp, ngay cả khi nhà sản xuất nắm quyền kiểm soát đối với quá trình phân phối.
+ Luật pháp EU đòi hỏi phải bồi thường cho các đại lý ngay cả khi việc chấm dứt hợp đồng hợp tác theo đúng cam kết. (ví dụ như khi thời hạn hợp đồng đã hết hoặc phía đối tác không thực hiện hết nghĩa vụ của mình)
+ EU có rất nhiều các quy định ngặt nghèo trong quyền sử dụng cơ sở dữ liệu khách hàng.
Một vấn đề mà các nhà xuất khẩu cần cân nhắc khi lựa chọn đối tác của mình tại EU đó là làm sao doanh nghiệp có thể được thông báo về tất cả những biến động tại thị trường về các yêu cầu và các thông tin gắn liền với ngành hàng kinh doanh, hoặc doanh nghiệp đang dự định xuất khẩu mặt hàng.
Do vẫn còn ảnh hưởng bởi cơ chế thị trường truyền thống, các thị trường quy mô quốc gia và hệ thống phân phối truyền thống, những sự khác biệt về tập quán kinh doanh và hệ thống luật pháp quốc gia riêng vẫn còn tồn tại ở trong tiềm thức của các doanh nhân, lể lối kinh doanh cũ vẫn còn tồn tại trong một số doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần có sự tư vấn về luật pháp:
Minh bạch trong các vấn đề luật pháp liên quan tới quan hệ đối tác là một cách thức tốt nhất để bảo vệ lợi ích của nhà xuất khẩu trong kinh doanh tại thị trường EU. Cách thức tốt nhất là doanh nghiệp nên có quan hệ mật thiết với các công ty luật có kinh nghiệm về các vấn đề quy định của luật pháp EU, hiểu biết sâu sắc các quy định luật pháp của EU, về xu hướng áp dụng hệ thống luật chung tại từng quốc gia thành viên, nơi mà doanh nghiệp đang có kế hoạch thâm nhập.
Ngoài sự phức tạp trong suốt quá trình áp dụng và việc bồi thường cho đối tác khi kết thúc hợp đồng, các vấn đề về tránh cạnh tranh và các vấn đề về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tạo thành những nội dung chính yếu trong hợp đồng hợp tác với đại diện của doanh nghiệp tại thị trường EU.
Vấn đề về giao dịch với đối tác:
Nhà xuất khẩu cũng phải sẵn sàng đầu tư thời gian trong quá trình xem xét và lựa chọn đối tác phù hợp cho việc đưa sản phẩm của mình vào thị trường EU. Một khi mối quan hệ đối tác được thiết lập, duy trì việc tiếp xúc thường xuyên với đối tác của mình và việc đáp ứng các yêu cầu của đối tác sẽ giúp doanh nghiệp khắc phục được các bất lợi về khoảng cách. EU là một thị trường lớn hứa hẹn những cơ hội kinh doanh.
Chính vì vậy mà doanh nghiệp cần phải tính toán kỹ càng để bỏ ra những chi phí cần thiết để có thể tiếp cận và thâm nhập. Thêm vào đó, đồng tiền chung Euro sẽ là phương tiện thanh toán duy nhất trên thị trường và tất cả các khâu trong dây chuyền phân phối hàng hoá.
2. Chuẩn bị cho xuất khẩu sang EU
Các nhà xuất khẩu mong muốn thâm nhập thị trường EU sẽ không thể gặt hái được thành công nếu không có các bước chuẩn bị kỹ càng bởi vì EU là một thị truờng lớn và cũng hết sức đa dạng, năng động nhưng cũng đồng thời làmột thị trường có mức độ cạnh tranh gay gắt.
Vì vậy, doanh nghiệp muốn tiếp cận thị trường này cần thực hiện trước hết các bước đánh giá và nghiên cứu thị trường mục tiêu, nghiên cứu cấu trúc thương mại và hệ thống phân phối, đánh giá khả năng tận dụng tối đa các cơ hội, hạn chế các thách thức, xác định một chiến lược lựa chọn và chuẩn bị ứng phó trong một môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh cao. Các điểm được nêu dưới đây sẽ giúp doanh nghiệp trong việc hoạch định kế hoạch phát triển quan hệ kinh doanh và tiếp theo thực hiện thành công cácthương vụ với các đối tác nhập khẩu EU
+ Để có thể phát triển xuất khẩu sang EU một cách hợp lý: nhà xuất khẩu phải sẵn lòng đầu tư thời gian và tiền bạc cho công tác nghiên cứu thị trường và thiết lập các mối quan hệ hợp tác kinh doanh.
+ Lựa chọn thị trường tiềm năng dựa trên những đánh giá về thị trường đã đượcthực hiện.
+ Kết hợp giữa cơ hội và thách thức khi tiếp cận thị trường EU với các thế mạnh và điểm yếu của công ty, việc phân tích và đánh giá ma trận SWOT sẽ là cơ sở hoạch định chiến lược xuất khẩu của doanh nghiệp. Vấn đề quan trọng nhất là việc đánh giá các đặc tính của sản phẩm, điều kiện sản xuất, quá trình sản xuất, khả năng đáp ứng nhu cầu của sản phẩm hiện tại, tính thích ứng của sản phẩm, chất lượng sản phẩm, bao bì... đánh giá về nguồn lực nhân sự, hệ thống quản lý, tiêu chuẩn, khả năng tài chính và kinh nghiệm trong kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp.
+ Việc giao dịch với đối tác tại EU cũng là một vấn đề quan trọng vì họ chính là đại diện của doanh nghiệp tại thị trường EU, tất cả các giao dịch nên thực hiện bằng tiếng Anh. Xem xét khả năng đáp ứng các nhu cầu một cách nhanh chóng bởi vì doanh nghiệp nên tự ý thức rằng không phải chỉ có mình mình trên thị trường, ngoài ra còn có rất nhiều đối thủ cạnh tranh đang nhòm ngó vị trí của doanh nghiệp trên thị truờng. Có thể giao dịch bằng điện thoại, fax, và bằng thư điện tử là hình thức tiện lợi và tiết kiệm chi phí nhất.
Tuy nhiên cũng không nên quá lệ thuộc vào việc giao dịch qua email để thiết lập các mối quan hệ đối tác, vì không phải tất cả các email của bạn gửi đi đều sẽ được đọc và trả lời
+ Nếu chiến dịch gửi thư trực tiếp được tiến hành, nên tiếp tục bằng việc giao dịch qua điện thoại và thực hiện cả những chuyến viếng thăm đối tác tiềm năng của mình.
Việc chào giá, hình thức chào giá, đàm phán về phương thức thanh toán cũng cần hết sức lưu ý vì giá cả cũng là một điều kiện để đánh giá tính cạnh tranh tại thị trường EU.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32826.doc