- Trong lộ trình thực hiện CEPT, khả năng đẩy nhanh tiến trình thực hiện CEPT của Việt Nam trong những năm tới không nhiều do những vấn đề cần giải quyết ở phạm vi của nền kinh tế và phạm vi khu vực doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế là khá lớn. Để nâng cao hiệu quả tham gia vào AFTA đối với các DNVN, Nhà nước cần tập trung giải quyết các vấn đề cơ bản: i) Thực hiện CEPT trên cơ sở xử lý nhanh những vấn đề của nền kinh tế chuyển đổi; ii) Tạo điều kiện hỗ trợ và nâng cao lợi thế so sánh quốc gia; iii) Hỗ trợ cho các doanh nghiệp tăng cường khả năng khai thác các nguồn lực bên ngoài để phát triển; iv) Thực hiện tiến trình AFTA kết hợp với đẩy nhanh tự do hoá thương mại ở phạm vi rộng lớn hơn. Đồng thời, các DNVN cũng phải tập trung giải quyết những vấn đề như: nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp; nâng cao chất lượng xây dựng chiến lược doanh nghiệp; đổi mới và hiện đại hoá công nghệ với chi phí thấp; nâng cao chất lượng lao động và quản lý lao động.
107 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 691 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đẳng trong cạnh tranh giữa sản phẩm sản xuất trong nước với các sản phẩm nhập khẩu. Đồng thời còn có sự đối xử bất công giữa các thành phần kinh tế trong nước. Có ý kiến cho rằng, xuất phát từ lợi ích cạnh tranh để phát triển, Việt Nam cần phải nhanh chóng tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng giữa các thành phần kinh tế, giữa các sản phẩm sản xuất trong nước và các sản phẩm nhập khẩu. Tuy nhiên, do Việt Nam mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, lại tiến hành hội nhập nhanh chóng, cắt giảm sự bảo hộ nên dường như chưa đủ thời gian để cho các doanh nghiệp trong nước đủ trưởng thành để cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Để giải quyết mâu thuẫn này, Chính phủ cần có các biện pháp hỗ trợ phát triển các nguồn lực mang lại lợi thế so sánh của đất nước (tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, nguồn nhân lực) và qua đó giúp các doanh nghiệp nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường trong nước và ngoài nước.
1.3. Trong tiến trình thực hiện CEPT cần phải có các chính sách khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam tích cực đổi mới công nghệ, thiết bị và khai thác có hiệu quả các yếu tố đầu vào nhập khẩu
Lý thuyết về thương mại quốc tế chỉ ra rằng, thương mại giữa các nước phát triển dựa trên lợi thế so sánh. Hơn nữa, lợi thế so sánh cũng đang thay đổi nhanh chóng, từ lợi thế so sánh tĩnh sang lợi thế so sánh động, từ lợi thế so sánh cấp thấp sang lợi thế so sánh cấp cao, từ khai thác lợi thế so sánh chủ yếu là các nguồn lực sẵn có trong nước sang khai thác nhiều hơn các yếu nnnntố có thể di chuyển được, có thể nhập khẩu. Đối với Việt Nam cũng vậy, nếu không có những chính sách khuyến khích đối với các doanh nghiệp nhập khẩu thiết bị, công nghệ tiên tiến, hay tìm kiếm và khai thác có hiệu quả các nguồn đầu vào trung gian nhập khẩu rẻ hơn, có thể sẽ làm cho các doanh nghiệp rơi vào tình trạng thiếu sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu.
1.4. Trong tiến trình thực hiện CEPT cần phải kết hợp đồng thời việc đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại với các nước và khu vực khác trên thế giới
Như nhiều nghiên cứu đã cho rằng AFTA là khu vực mậu dịch tự do hướng ngoại, lợi ích của nó đối với tăng trưởng thương mại và đầu tư nội khu vực là khá nhỏ bé, nhưng có thể hy vọng lợi ích lớn hơn đối với ngoài khu vực. Thực tế cũng cho thấy, mỗi nước thành viên của AFTA đều có xu thế hướng ngoại với phần còn lại của thế giới để mưu cầu sự tăng trưởng về thương mại và đầu tư tốt hơn. Hơn nữa, trong xu hướng tự do hoá thương mại toàn cầu ngày càng phát triển nhanh hơn, để tránh tình trạng chuyển hướng mậu dịch, việc thực hiện AFTA sẽ có hiệu quả hơn nếu đồng thời đẩy nhanh tự do hoá thương mại ở phạm vi APEC và WTO. Vì vậy, bên cạnh việc cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ các hàng rào phi quan thuế theo tiến trình thực hiện CEPT, chế độ thương mại của Việt Nam cũng cần phải tự do hơn với phần còn lại của thế giới.
Tóm lại, trong lộ trình hội nhập AFTA, xuất phát từ những vấn đề của nền kinh tế và khu vực doanh nghiệp hiện nay, Việt Nam cần phải tăng cường hơn nữa các chính sách và biện pháp theo hướng nâng cao hiệu quả của hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Các quan điểm trên cũng được nhìn nhận theo hướng đó. Từ những quan điểm này, chúng tôi sẽ đề xuất một số kiến nghị và giải pháp để thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam phát triển nhanh hơn trong tiến trình thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA. Các giải pháp này bao gồm cả từ hai phía. Một phía là Nhà nước với vai trò là người chỉ đạo, điều hành thực hiện các cam kết và cũng là người bảo trợ cho các DNVN trước những ảnh hưởng không có lợi do AFTA tạo nên. Phía còn lại là các doanh nghiệp Việt Nam với vai trò là lực lượng xung kích của quá trình hội nhập và cần phát triển mạnh mẽ và vững chắc trong quá trình hội nhập đó.
2. Những giải pháp chủ yếu từ phía Nhà nước
2.1. Những giải pháp từ việc chỉ đạo, điều hành thực hiện các cam kết theo CEPT đồng thời với việc đẩy mạnh tự do hoá thương mại trên phạm vi rộng hơn
2.1.1. Những giải pháp từ việc chỉ đạo, điều hành thực hiện các cam kết theo CETP
Thực hiện cắt giảm thuế quan đối với nhóm IL và chuyển TEL sang Il theo đúng lộ trình đã cam kết.
- Trong những năm tới, cần chú trọng vào việc xây dựng các hàng rào phi thuế phù hợp với yêu cầu kỹ thuật, môi trường của từng mặt hàng theo chuẩn mực quốc tế. Xem đây là khía cạnh để Việt Nam thể hiện nỗ lực nhằm đẩy nhanh tiến trình thực hiện CEPT.
- Duy trì bảo hộ có chọn lọc, có thời hạn hợp lý bằng cả chính sách thuế và phi thuế đối với những lĩnh vực sản xuất, kinh doanh không phải theo hướng thay thế NK mà theo hướng tạo ra năng lực XK cho các doanh nghiệp có đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài khu vực ASEAN.
- Công khai hoá và phát hành miễn phí đến các doanh nghiệp lộ trình chung và lộ trình thực hiện hàng năm về cắt giảm thuế quan và khả năng áp dụng hàng rào phi thuế.
- Lộ trình cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế của các mặt hàng theo CEPT cần được xác định khác nhau với những mặt hàng có sức cạnh tranh khác nhau và có vị trí quan trọng trong nền kinh tế khác nhau.
- Cùng với việc cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ các hàng rào phi thuế, Nhà nước cần có chính sách xử lý lợi ích cho các doanh nghiệp ở những lĩnh vực sản xuất có mức độ tổn thất cao vào thời điểm theo lộ trình thực hiện CEPT. Nhà nước cần có chính sách tăng thu từ các doanh nghiệp kinh doanh NK hay nhà phân phối nước ngoài để hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước đang sản xuất cùng sản phẩm đó bằng các chính sách giảm thu hay khuyến khích khác.
2.1.2 Những giải pháp đẩy mạnh quá trình tự do hoá ở phạm vi rộng hơn cùng với tiến trình thực hiện CEPT
- Nghiên cứu áp dụng các biện pháp mở cửa thị trường với các nước ngoài khu vực ASEAN theo hướng cho phép khai thác có hiệu quả tối đa các lợi thế so sánh của Việt Nam, mà lợi thế đó không được phát huy nếu chỉ bó hẹp trong phạm vi AFTA. Đồng thời, phải tăng cường khai thác các yếu tố nguồn lực có thể nhập khẩu từ các quốc gia bên ngoài phạm vi ASEAN để nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNVN với chính các doanh nghiệp của các nước thành viên ASEAN.
- Thiết lập một khuôn khổ pháp lý và tạo dựng môi trường giao lưu thực sự thuận lợi để các DNVN tìm kiếm và tiến hành khai thác có hiệu quả các cơ hội hợp tác sản xuất, kinh doanh với các doanh nghiệp trong và ngoài khu vực ASEAN.
- Tiếp tục mở rộng đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại song phương và đa phương với các nước và khu vực trên thế giới theo những nguyên tắc của WTO. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được điều đó, đòi hỏi Việt Nam cần phải nỗ lực hơn nữa để tập trung giải quyết được những vấn đề của nền kinh tế chuyển đổi, cũng như những ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế chuyển đổi do tự do hoá gây nên trước mắt.
- Nhà nước sớm tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ và chi tiết để các DNVN thực hiện đầu tư ra nước ngoài cả trong và ngoài phạm vi ASEAN.
- Cần sớm tạo dựng môi trường giao lưu quốc tế cho các DNVN. Về vấn đề này, Việt Nam cần chú trọng đến các hoạt động, như:
+ Tham gia các Hiệp hội ngành hàng đang hoạt động, hoặc sẽ được thành lập trên phạm vi thế giới và khu vực.
+ Nghiên cứu khả năng hợp tác, liên kết với các nước đang xuất khẩu các sản phẩm tương tự như Việt Nam và đang chiếm tỷ trọng khá lớn trong thương mại thế giới về sản phẩm đó ( như gạo, cà phê, điều nhân...) để có những thoả thuận có lợi chung cho các nước và xa hơn nữa là có thể tiến tới hình thành một tổ chức chung có cơ chế điều hành cụ thể.
+Xây dựng trang Web trên mạng Internet có thể đáp ứng được nhu cầu giao lưu của các DNVN với nhau và với các doanh nghiệp trong và ngoài khu vực ASEAN.
+ Xây dựng hệ thống lưu trữ, thẩm xét và tư vấn giúp các DNVN khi bắt tay hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài thực hiện kinh doanh trên thị trường trong hay ngoài nước.
+ Xây dựng diễn đàn thực sự cho các DNVN có thể thường xuyên tham gia giao lưu với nhau và với doanh nghiệp nước ngoài theo mô hình "chợ thông tin".
+ Cải tiến các nội dung thông tin trên báo "Diễn đàn doanh nghiệp" để nó thực sự là diễn đàn giúp các doanh nghiệp nắm bắt được các cơ hội kinh doanh và hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp khác.
2.2. Những giải pháp nhằm xử lý nhanh những vấn đề của nền kinh tế chuyển đổi để tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng hơn, thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam
- Tiếp tục cải thiện nhanh hơn môi trường kinh doanh trên cơ sơ xử lý nhanh hơn các vấn đề của nền kinh tế chuyển đổi nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường.
- Phát triển các nguồn lực trong nước và tạo ra lợi thế so sánh quốc gia, qua đó giúp cho các doanh nghiệp phát triển lợi thế cạnh tranh của mình trong giai đoạn 2001-2005.
- Theo dõi thường xuyên hành vi phản ứng của doanh nghiệp với môi trường kinh doanh để điều chỉnh kịp thời các cơ chế, chính sách không có tác động theo hướng giúp các doanh nghiệp giảm chi phí, tăng lợi nhuận mà chỉ tạo ra tư tưởng dựa vào bảo hộ để tăng lợi nhuận.
Các giải pháp cụ thể:
2.2.1. Về hệ thống pháp lý
Nhà nước phải tạo hành lang pháp lý ổn định, bình đẳng giữa các doanh nghiệp, mọi lĩnh vực hoạt động đều xuất phát theo Luật (Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh) ngoài ra không còn ràng buộc gì nữa. Với mục tiêu như vậy, cần nhanh chóng xây dựng bộ máy làm Luật một cách chuyên nghiệp, tránh tình trạng Luật quy định chung chung, kéo theo quy trình hướng dẫn luật: Nghị định hướng dẫn, Thông tư hướng dẫn, Thông tư liên bộ, xuống địa phương lại có văn bản hướng dẫn, sở ban ngành lại hướng dẫn. Thực hiện điều này sẽ nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế, đồng thời, tạo sự minh bạch, công khai trong hoạt động kinh doanh và thúc đẩy nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNVN.
2.2.2. Về cải cách hành chính
Luật pháp cần đơn giản rõ ràng hơn: Mọi luật và qui định nên hoàn toàn "tự thực thi" càng nhiều càng tốt. Điều này có nghĩa là cần giảm số lượng phê duyệt của Chính phủ và nếu có thể thay thế yêu cầu phê duyệt cho mọi doanh nghiệp bằng hệ thống chế tài phạt đối với bộ phận thiểu số không tuân thủ pháp luật. Khi có giấy phép, chúng nên được tập trung ở cấp Trung ương càng nhiều càng tốt để tránh thủ tục trùng lặp. Việc cấp giấy phép nên dựa trên cơ sở những tiêu chí khách quan và rõ ràng theo qui định được áp dụng nhất quán và thống nhất chứ không phải theo ý kiến chủ quan của các cán bộ thi hành luật.
Chuyên nghiệp hoá bộ máy công chức: Các cán bộ chịu trách nhiệm thực hiện quản lý Nhà nước cần được đào tạo và có thu nhập thoả đáng phù hợp với kỹ năng và trách nhiệm của những vị trí tương tự trong khu vực tư nhân.
Thực thi pháp luật: Luật chống quan liêu, tham nhũng và hối lộ cần được thực hiện triệt để hơn nữa. Cần có một cơ quan độc lập với đủ quyền hạn để chống lại tham nhũng nhằm đảm bảo chương trình cải cách hành chính có hiệu quả.
Minh bạch: Tất cả các luật và qui định cần phải được thông báo cho doanh nghiệp liên quan trước khi có hiệu lực và có đủ thời gian để chuẩn bị cho việc thực thi, đặc biệt trong lĩnh vực thuế.
Quyền kháng nghị: Những người phải xin phê duyệt, giấy phép phải có quyền kháng nghị để bảo vệ quyền lợi của mình trước sự lạm dụng quyền lực bừa bãi của các cơ quan công quyền có thể làm tổn hại đến doanh nghiệp.
2.2.3. Về chính sách thuế
- Chính phủ cần thiết lập hệ thống các biện pháp phi quan thuế cho phép xử dụng linh hoạt và hài hoà với mục tiêu bảo hộ nhưng có kỳ hạn. Trong đó cần nghiên cứu áp dụng các biện pháp phi quan thuế phổ dụng trên thế giới như qui định về kiểm tra hàng hóa xuất nhập khẩu, thuế quan hạn ngạch...
- Tiếp tục tính toán và phân bố lại các mức thuế suất NK theo các nhóm hàng hoá để giảm độ phân tán của các mức thuế suất, chuyển dần các biện pháp phi quan thuế thành thuế suất tương đương có thể duy trì mức độ bảo hộ hợp lý cho các lĩnh vực sản xuất quan trọng trong nền kinh tế.
- Ngành tài chính, hải quan cần rà soát lại các quy định về thuế, phí. Mạnh dạn xoá bỏ, sửa đổi những gì bất hợp lý còn tồn tại nhằm tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho các doanh nghiệp, giảm và xoá bỏ các loại phí không đáng có để hạ giá thành sản phẩm, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh của DNVN
- Giảm thuế suất cho doanh nghiệp trong nước, bỏ phụ thu để tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư chuẩn bị hội nhập.
- Cho phép doanh nghiệp trong nước miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho lợi nhuận tái đầu tư như doanh nghiệp FDI.
- Về thuế thu nhập cá nhân: hạ thấp thuế suất để khuyến khích mọi người làm việc với đúng năng lực và đóng thuế - tăng số người nộp.
2.2.4. Về cải cách hệ thống ngân hàng
- Cải cách thủ tục thẩm định tín dụng, áp dụng các tiêu chuẩn kế toán được quốc tế thừa nhận, đưa ra các khuyến khích nhằm tăng khả năng sinh lời của vốn tín dụng.
- Đảm bảo hoạt động ngân hàng thận trọng và an toàn bằng khuôn khổ pháp luật, qui định và giám sát.
- Ban hành các qui chế tạo lòng tin cho khách hàng, hỗ trợ kỹ thuật để cải tiến các dịch vụ, nâng cao chất lượng phục vụ doanh nghiệp của các ngân hàng thương mại.
2.2.5. Về phát triển cơ sơ hạ tầng
- Kiểm soát chặt, chống lãng phí, tham nhũng đối với các dự án phát triển cơ sở hạ tầng bằng cách: (1) Công khai hoá quy hoạch, kế hoạch phát triển các vùng, các ngành, sản phẩm và cơ sở hạ tầng; (2) áp dụng chế độ kiểm soát đầu tư xây dựng cơ bản theo pháp luật (Luật đấu thầu, kiểm toán); (3) có qui định về trách nhiệm của cơ quan ra quyết định đầu tư, chủ đầu tư, tư vấn và những người có liên quan.
- Có chính sách thích hợp để khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân (cả Việt kiều) tham gia đầu tư vốn, tri thức để phát triển cơ sở hạ tầng và quản lý, khai thác có hiệu quả các giá trị gia tăng của các CSHT đã có như IT, viễn thông, điện, nước, đường sắt
- Giảm chi phí đầu vào về điện, nước, lưu thông hàng hoá là những sản phẩm do Nhà nước độc quyền. Đấu thầu khai thác, quản lý có hiệu quả các CSHT để chống thất thoát, lãng phí (VD: thất thoát điện là 20%, nước là 40%).
2.2.6. Về bảo hộ sở hữu trí tuệ
- Nghiên cứu và ban hành các quy định chi tiết hoặc sách hướng dẫn thực hiện luật, tránh tình trạng luật chỉ quy định chung chung nên doanh nghiệp không biết cách thực thi cụ thể.
- Tăng cường tính cưỡng chế thi hành luật. Cần thiết phải có hệ thống toà án hiệu quả cho việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Bên cạnh đó, cần tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan thi hành pháp luật.
2.2.7. Về đào tạo nguồn nhân lực
- Cần khắc phục tình trạng "thừa thầy thiếu thợ" bằng cách có chính sách phân luồng trong hệ thống giáo dục một cách hợp lý để tạo được một đội ngũ đông đảo người lao động chịu vào học tại các trung tâm dạy nghề. Thực hiện xã hội hoá mạnh mẽ công tác đào tạo nghề.
- Tiếp tục đổi mới chương trình giảng dạy đại học phù hợp với yêu cầu thực tế và theo xu hướng chung trên thế giới nhằm tạo ra đội ngũ trí thức có chất lượng cao, đáp ứng được đòi hỏi của các doanh nghiệp.
2.2.8. Về chiến lược khoa học công nghệ
Nhà nước cần quy hoạch chi tiết chiến lược khoa học công nghệ quốc gia. Trên cơ sở đó ban hành những qui định cụ thể khuyến khích hay hạn chế, nên nhập khẩu hay tự nghiên cứu sản xuất. Căn cứ vào đó, các doanh nghiệp cũng có thể quyết định phương hướng sử dụng, phát triển công nghệ của mình ra sao.
2.3. Những giải pháp nhằm định hướng, hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế
- Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế: Trong những năm tới, chúng ta cần phát triển mạnh những ngành nghề đang có khả năng cạnh tranh mạnh, có lợi thế so sánh trên thị trường quốc tế, tận dụng được nguồn nguyên liệu trong nước và lao động rẻ (dệt may, da giày, điện tử, các sản phẩm nông nghiệp). Đồng thời, sử dụng nguồn lực có thể nhập khẩu từ nước ngoài nhằm bổ sung thúc đẩy sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong nước, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và ngành sản xuất. Nhà nước cần xây dựng chiến lược cạnh tranh tích cực bằng cách vừa tổ chức cơ cấu lại ngành kinh tế, đồng thời thực hiện bảo hộ tạm thời và có chọn lọc những ngành đang hoặc sẽ có khả năng cạnh tranh trong tương lai. Cần ưu tiên phát triển nông nghiệp, phát triển vùng nông nghiệp chuyên canh song song với công nghiệp chế biến, đẩy mạnh và tăng cường công nghệ sau thu hoạch.
- Nhà nước cần khuyến khích và hướng dẫn các doanh nghiệp xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp với chiến lược chuyển dịch cơ cấu ở tầm trung hạn và dài hạn.
- Nhà nước hỗ trợ vốn đầu tư bằng việc đảm bảo cung cấp đầy đủ kết cấu hạ tầng, miễn giảm tiền thuê đất, hỗ trợ chi phí giải phóng mặt bằng để hạ thấp chi phí đầu tư cho doanh nghiệp. Mở rộng các nguồn vốn cho vay, cho vay với những cơ chế ưu đãi theo sản phẩm, công nghệ sản xuất, tỷ lệ xuất khẩu Đơn giản hoá các thủ tục cho vay, giảm bớt lượng tài sản thế chấp, thay vào đó là áp dụng hình thức bảo hiểm tín dụng thích hợp.
- Hỗ trợ về mặt bằng sản xuất kinh doanh bằng cách quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất với nhiều ưu đãi, đa dạng về chủng loại. Bên cạnh đó, Nhà nước cần giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc giải phóng mặt bằng bằng việc sử dụng quyền cưỡng chế thực thi pháp luật của mình.
- Nhà nước cần thúc đẩy việc thiết lập mạng thông tin kinh tế để phổ biến và cung cấp rộng rãi thông tin về chính sách kinh tế, về thị trường trong nước và quốc tế, về tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp có thể thu thập và xử lý thông tin bình đẳng, nhanh chóng, chính xác với chi phí thấp.
- Xây dựng Quỹ bình ổn giá, Quỹ tín dụng xuất khẩu, Quỹ thưởng xuất khẩu để tạo điều hiện giúp đỡ các doanh nghiệp xuất khẩu vào những thị trường mới, mặt hàng mới, những lúc giá cả thị trường biến động.
- Nhà nước có thể phát huy vai trò hỗ trợ trong việc giúp đỡ doanh nghiệp thâm nhập và mở rộng thị trường ngoài nước bằng cách: ký kết các Hiệp định Chính phủ; các đại diện ngoại giao, thương mại ở nước ngoài hỗ trợ, giúp đỡ doanh nghiệp trong việc xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại.
- Tổ chức tuyên truyền rộng hơn nữa, chi tiết hơn nữa những thông tin về hội nhập cho các doanh nghiệp bằng phương tiện thông tin đại chúng, thông qua chính quyền địa phương, các hiệp hội ngành nghề hoặc phát hành miễn phí đến các doanh nghiệp.
- Thúc đẩy và tạo điều kiện thành lập các hiệp hội ngành nghề. Hiệp hội doanh nghiệp còn là cầu nối giữa doanh nghiệp với Nhà nước, là nơi phản ánh kiến nghị, nguyện vọng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp.
- Trợ giúp để đổi mới kỹ thuật, công nghệ và quản lý chất lượng: hình thành các quỹ hỗ trợ về đổi mới công nghệ, xử lý môi trường.
- Trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực: Thành lập các trung tâm dịch vụ và trung tâm đào tạo cho các doanh nghiệp ở các địa phương theo hướng Nhà nước tạo thuận lợi, khuyến khích phát triển và giúp đỡ nâng cao chất lượng các cơ sở dạy nghề dân doanh. Giao đất, hỗ trợ về vốn đối với các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ sở đào tạo, dạy nghề đạt tiêu chuẩn quốc tế, phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp.
2.4. Một số giải pháp cho từng loại hình doanh nghiệp
Xuất phát từ đặc điểm và thực trạng phát triển khác nhau của từng loại hình doanh nghiệp, đồng thời mong muốn có những giải pháp đặc thù cụ thể hơn đối với từng loại hình đó, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp riêng cho từng loại hình.
2.4.1. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước
- Đối với các Tổng công ty cần tiếp tục cải tổ, điều chỉnh mô hình Tổng công ty về: cơ cấu lại vốn của Tổng công ty, phần vốn Nhà nước tại Tổng công ty nên cơ cấu lại thành vốn cổ phần nhà nước giao cho Hội đồng quản trị đại diện chủ sở hữu. Cơ cấu lại nợ bằng hình thức chuyển nợ thành vốn của tổng công ty (đối với các công ty đang thiêú vốn), khuyến khích các chủ nợ chuyển nợ thành vốn cổ phần tại tổng công ty, giải quyết dứt điểm nợ nần dây dưa. Bên cạnh đó, cần tạo chất keo dính giữa tổng công ty đối với đơn vị thành viên về: vốn, tài sản, công nghệ, đầu tư trên cơ sở gắn liền quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích.
- Đối với các xí nghiệp, công ty làm ăn thường xuyên thua lỗ thì cần nhanh chóng chuyển sang hình thức sở hữu hay thành lập công ty cổ phần hoặc kiên quyết giải thể, tránh gây tổn hại cho nền kinh tế.
- Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đầy đủ và có hiệu quả để hỗ trợ giải quyết số lao động dôi dư trong các DNNN.
- Tách biệt các DNNN hoạt động kinh doanh và công ích, nhằm thực hiện các chính sách quản lý khác nhau đối với hai loại hình doanh nghiệp này.
- Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế đối với DNNN. Cơ quan quản lý nhà nước không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc quản lý điều hành sản xuất kinh doanh là nhiệm vụ của doanh nghiệp.
- Tập trung các nguồn lực, đầu tư một cách có hiệu quả vào những ngành (lĩnh vực) trọng điểm, có lợi thế so sánh, ngành kỹ thuật mũi nhọn có lợi thế cho quốc kế dân sinh và có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trong các nguồn lực cần chú trọng nguồn vốn cho các DNNN.
- Đẩy nhanh việc thực hiện đề án sắp xếp lại các DNNN cho phù hợp với công cuộc đổi mới nền kinh tế, vận động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phận DNNN, đa dạng hoá các hình thức sở hữu và cải tổ, hợp nhất, sáp nhập vào các doanh nghiệp khác, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và giảm thâm hụt ngân sách Nhà nước. Tập trung vào những lĩnh vực then chốt, đòi hỏi hàm lượng vốn và kỹ thuật - công nghệ cao có tính chất dẫn dắt, mở đường cho nền kinh tế phát triển. Lành mạnh hoá tài chính DNNN, tăng cường công tác kiểm toán.
- Nâng cao nhận thức của các DNNN thấy được quá trình hội nhập khu vực và quốc tế là tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế phát triển, là cơ hội lớn tạo điều kiện thuận lợi cho các Tổng công ty và các doanh nghiệp thâm nhập thị trường quốc tế, tiếp cận dần các tập đoàn kinh doanh lớn và từ đó học hỏi, tiếp thu kỹ năng quản lý, tiếp thị, vốn, thị trường, công nghệ nước ngoài.
2.4.2. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
- Cải thiện quan niệm chung về khu vực tư nhân bằng các hình thức, như khuyến khích các nhà kinh doanh trẻ tài năng, phản ánh kịp thời các doanh nghiệp tư nhân kinh doanh thành đạt, tăng cường quan hệ giữa các doanh nghiệp tư nhân và các cơ quan quản lý Nhà nước... Chính phủ cũng cần có những giải pháp mạnh để giải quyết tình trạng nhũng nhiễu, gây khó dễ cho doanh nghiệp ở địa phương.
- Xây dựng khung pháp lý, cần chú trọng đến: (1) Tiếp tục đánh giá mức độ thuận lợi, khó khăn của Luật Đầu tư trong nước, Luật doanh nghiệp mới đối với các doanh nghiệp để cải thiện và tạo điều kiện thuận lợi hơn; (2) Tạo môi trường thuận lợi đê khu vực doanh nghiệp này có thể phát triển liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài, trước hết là với các nhà đầu tư trong khu vực ASEAN đê được hưởng ưu đãi ngay theo Hiệp định về hợp tác đầu tư; (3) Mở rộng phạm vi tham gia, nhưng ở mức độ hạn chế của khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh vào các lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng.
- Xây dựng cơ chế cho giao dịch tư nhân về quyền sử dụng đất để làm tài sản thế chấp khi tiếp cận với vốn và tín dụng. Ngoài ra, Nhà nước cũng cho phép doanh nghiệp được thế chấp bằng chính công trình, tín chấp cho các phương án sản xuất và đầu tư mở rộng có tiềm năng.
- Hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp qua hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần; hỗ trợ đào tạo kiến thức tài chính cho doanh nghiệp.
- Giải quyết vấn đề thiếu thông tin về những nguồn vốn tín dụng cho doanh nghiệp cũng như hỗ trợ kỹ thuật cho ngân hàng để nâng cao chất lượng dịch vụ cho khách hàng doanh nghiệp.
- Nhà nước cần tạo điều kiện hỗ trợ mặt bằng sản xuất kinh doanh cho các DNNQD như: đơn giản hoá thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giúp đỡ thành lập các khu công nghiệp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cụm công nghiệp làng nghề
- Nhà nước nên cho phép các DNNQD được sản xuất kinh doanh những ngành nghề mà luật pháp không cấm, thể hiện đúng tinh thần của Luật Doanh nghiệp. Tiến hành đơn giản hoá thủ tục hướng dẫn cách xác nhận vốn pháp định và hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghề.
- Rà soát và điều chỉnh một số chính sách thuế áp dụng cho khu vực tư nhân còn chưa hợp lý, như giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp đạt mức xuất khẩu cao nhằm khuyến khích khu vực này đẩy mạnh xuất khẩu.
- Giảm bớt thủ tục phiền hà, tốn kém để các DNNQD có thể tiếp cận được với những chính sách ưu đãi của Nhà nước ban hành.
2.4.3. Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
- Nhà nước cần tập trung tháo gỡ các vướng mắc cho các dự án đang triển khai và các dự án đang tạm dừng triển khai.
- Cần thống nhất quan điểm xử lý đối với trường hợp các dự án mở rộng đầu tư, sáp nhập, chuyển đổi hình thức đầu tư
- Cần có định hướng thu hút vốn FDI đi đôi với thu hút công nghệ để chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng tiến bộ hơn. Trước mắt cần tạo ra động lực thực sự để công nghiệp hoá nông thôn, để từ đó tạo ra nguyên liệu tại chỗ cho những mặt hàng xuất khẩu phải sử dụng nhiều nguyên liệu nhập khẩu (dệt may, da giày). Đây là một quá trình đòi hỏi không chỉ vốn, kỹ thuật mà cả thời gian.
- Sớm có chính sách kết hợp việc lợi dụng lợi thế so sánh của Việt Nam như lao động rẻ, thông minh, tài nguyên dồi dàovà việc tạo dựng môi trường kinh doanh cởi mở để thu hút dòng vốn FDI đang ngày càng sa sút ở nước ta. Đặc biệt là phải đơn giản hoá hơn nữa thủ tục cấp giấy phép đầu tư, tăng cường chính sách một cửa, một dấu. Đẩy nhanh việc xoá bỏ cơ chế hai giá trong quảng cáo, điện và vé máy bay. Bên cạnh đó là một chính sách thuế xuất nhập khẩu minh bạch và ổn định.
- Nghiên cứu và đưa vào áp dụng thêm nhiều hình thức đầu tư mới linh hoạt hơn để tăng cường thu hút vốn nước ngoài như: cho phép các nhà đầu tư nước ngoài thành lập công ty cổ phần, được phép mua cổ phần với tỷ lệ nhất định (khoảng 40%) của các công ty trong nước niêm yết trên thị trường chứng khoán, tiến hành niêm yết các công ty có vốn nước ngoài trên thị trường chứng khoán để thu hút thêm vốn.
- Khuyến khích các nhà đầu tư liên doanh với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trong nước bằng các chính sách cụ thể. Điều này vừa tạo ra mô hình đầu tư mới vừa tạo ra khả năng tự chống đỡ cho các doanh nghiệp trong nước cải thiện được hiệu quả kinh doanh với chi phí thấp nhất.
- Hiện nay, việc khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài chỉ dừng ở mức góp vốn trên 5 triệu USD vào vốn pháp định trong liên doanh, đây là mức đầu tư ở quy mô lớn. Nhà nước nên có chính sách khuyến khích tương tự với các nhà đầu tư ở quy mô nhỏ hơn vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam vốn kinh doanh có hiệu quả cao, có tỷ lệ xuất khẩu lớn và chiếm phần lớn trong tổng số các doanh nghiệp trong nước.
- Nhà nước cần thành lập mô hình khu chế xuất nông sản và có những khuyến khích mạnh hơn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư cao các khu chế biến nông sản xuất khẩu như các khu chế xuất rau quả, khu chế xuất cà phê, khu chế xuất nông sản tổng hợp.
3. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp
3.1. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Một doanh nghiệp muốn đạt được hiệu quả hoạt động không chỉ dựa vào ưu thế về công nghệ mà phải dựa vào ưu thế tổng hợp hơn. Bởi vì, thiết bị hiện đại có hiệu quả chủ yếu trên góc độ kỹ thuật, nhưng để có hiệu quả hơn trên góc độ kinh tế thì cần phải có kỹ năng trong việc tìm kiếm phương thức quản lý hoạt động mới và tốt hơn. Xuất phát từ thực trạng hoạt động của DNVN hiện nay, để đạt được ưu thế tổng hợp, các doanh nghiệp cần phải chú trọng đến các khía cạnh sau:
- Khai thác có hiệu quả hơn các lợi thế so sánh quốc gia trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm tạo ra các sản phẩm thoả mãn tốt nhu cầu trong nước và quốc tế cả về chất lượng và giá cả.
- Chú trọng đến khâu nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, hiện đại hoá khâu thiết kế sản phẩm, gia tăng giá trị sử dụng của sản phẩm dựa vào đổi mới thiết kế chứ không phụ thuộc vào công nghệ sản xuất, đặc biệt đối với các lĩnh vực sản xuất như dệt may, giầy dép, đồ chơi điện tử...
- Tìm kiếm các nguồn nhập khẩu các yếu tố đầu vào trung gian để sản xuất sản phẩm có chi phí thấp nhất hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Nghiên cứu và triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng hiện đại trong hoạt động của doanh nghiệp.
- Thông qua các cơ quan Chính phủ và các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp để tìm kiếm thông tin hoặc liên kết thực hiện những nghiên cứu về thị trường, tiếp thị và phân phối sản phẩm.
- Chú trọng đến việc nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống phân phối, kể cả dịch vụ phục vụ trước, trong và sau khi bán hàng phù hợp với đặc điểm văn hoá, tiêu dùng ở những thị trường tiêu thụ khác nhau.
- Chú trọng đến những sáng kiến cải tiến của người lao động ở các khâu khác nhau trong hoạt động của doanh nghiệp.
- Lựa chọn các khâu quan trọng trong dây truyền sản xuất có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng và giá thành sản phẩm để hiện đại hoá sớm.
- Xây dựng năng lực nắm bắt và phản ứng nhanh của doanh nghiệp trước những thay đổi của đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
3.2. Tập trung xây dựng chiến lược doanh nghiệp để phát triển hữu hiệu nhất trong dài hạn
Việc xây dựng chiến lược doanh nghiệp sẽ tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp cụ thể. Do đó, trong phần này không thể đưa ra những giải pháp cụ thể mà chỉ là những vấn đề chung nhất đối với hoàn cảnh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Khi xây dựng chiến lược, doanh nghiệp cần chú trọng các vấn đề sau:
Một là, lựa chọn hướng để xây dựng chiến lược
+ Hướng chiến lược doanh nghiệp nhằm tạo ra ưu thế về chi phí và giá trị cho khách hàng.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam hoạt động dựa trên cơ sở mức lương thấp, nhưng sử dụng các phương pháp không hiệu quả. Các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu thường lệ thuộc nhiều vào đối tác nước ngoài về mẫu mã thiết kế, linh kiện, qui trình công nghệ, các kênh phân phối và tiếp thị. Đó không phải là hướng chiến lược phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hướng đến mục tiêu lợi nhuận. Vì các doanh nghiệp dường như vẫn chỉ quen với chức năng sản xuất và chưa chú trọng đến khách hàng và tạo ra chất lượng để đạt được ưu thế về giá trị cho khách hàng. Điều quan trọng của hướng chiến lược này là doanh nghiệp phải đặt ra mục tiêu cạnh tranh bằng việc chuyển hoá lợi thế về giá lao động rẻ hay tài nguyên dồi dào để cung cấp những sản phẩm có ưu thế về chi phí và giá trị cho khách hàng.
+ Hướng chiến lược nhằm tạo ra ưu thế về giá trị sử dụng của sản phẩm.
Trên thực tế, hầu hết các DNVN còn rất non kém trong khâu nghiên cứu, thiết kế sản phẩm mới và đổi mới công nghệ nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao hay có sự khác biệt với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Do đó, điều quan trọng của hướng chiến lược này là doanh nghiệp phải cố gắng để đầu tư cải tiến kỹ thuật, công nghệ và nâng cao năng lực nghiên cứu thiết kế sản phẩm mới.
+ Hướng chiến lược nhằm tạo ra ưu thế về tiếp thị và tổ chức tiêu thụ.
Nếu không kiểm soát được các kênh phân phối và tiếp cận trực tiếp với khách hàng, các doanh nghiệp sẽ khó nắm bắt được các xu hướng thị trường và giành được lợi nhuận tốt nhất khi phải thông qua các trung gian buôn bán. Vì vậy, điều quan trọng của chiến lược này là các DNVN, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu là làm thế nào để tạo dựng được thương hiệu của riêng mình.
Hai là, quyết định để lựa chọn hướng chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, công việc này không hẳn là phải theo nhận định chủ quan của doanh nghiệp mà phải dựa trên cơ sở đánh giá các khả năng bên trong và bên ngoài, doanh nghiệp cần chú trọng đến các vấn đề, như:
+ Phân tích lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong tương quan với các doanh nghiệp cùng ngành, đối tác cạnh tranh.
+ Nghiên cứu, dự báo tình hình và sự cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và thế giới trong bối cảnh Việt Nam hội nhập vào các tổ chức quốc tế và khu vực như AFTA, APEC, WTO.
3.3. Đổi mới và hiện đại hoá công nghệ với chi phí thấp
Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay có trình độ công nghệ lạc hậu khoảng từ 15-20 năm so với mức trung bình của thế giới. Giải pháp ở đây là các doanh nghiệp phải nỗ lực của mình để hiện đại hoá với chi phí thấp nhất, theo các hướng:
- Nhập các thiết bị nước ngoài, học tập nguyên tác thiết kế, tự thiết kế lại, cải tiến cho phù hợp với điều kiện sản xuất và chế tạo tại Việt Nam. Những chi tiết Việt Nam chưa đủ sức chế tạo thì nhập khẩu của nước ngoài.
- Mua thiết bị có công nghệ tương đối hiện đại, nhưng mức tự động hoá còn thấp, sau đó tự nâng cấp trình độ tự động hoá bằng thiết kế của người Việt Nam, sử dụng linh kiện cả ở trong và ngoài nước sản xuất.
- Đối với các công nghệ hoặc thiết bị khó nhập khẩu hoặc nhập khẩu quá đắt, các doanh nghiệp cần hợp tác với các cơ quan nghiên cứu khoa học, kỹ thuật của Nhà nước cùng đầu tư nghiên cứu để thiết kế và chế tạo.
- Các doanh nghiệp cần khai thác các thông tin qua mạng để tham khảo các hướng công nghệ mới và tìm kiếm sự trợ giúp kỹ thuật từ bên ngoài doanh nghiệp.
- Đầu tư nghiên cứu, đổi mới công nghệ và thiết bị theo hướng tập trung ở một vài khâu then chốt có ảnh hưởng quyết định nhất.
- Tận dụng khả năng đóng góp của các chuyên gia kỹ thuật, công nghệ người Việt Nam ở nước ngoài.
- Doanh nghiệp cần có định hướng bồi dưỡng, đào tạo tài năng trẻ và gửi đi đào tạo ở các nước phát triển bằng nguồn tài chính của doanh nghiệp.
- Dựa vào sự hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước, các trường đại học, viện nghiên cứu để hiện đại hoá công nghệ của mình.
- Tìm kiếm cơ hội liên doanh với các công ty nước ngoài có khả năng công nghệ hiện đại.
- Doanh nghiệp cần coi việc hiện đại hoá là một quá trình tích tụ phát triển từ thấp đến cao, trong đó xác định mức công nghệ mà doanh nghiệp cần có để tạo ra được các sản phẩm có ưu thế cạnh tranh tổng hợp. Từ đó, lựa chon công nghệ để hiện đại hoá dần dần từng bước.
3.4. Nâng cao chất lượng lao động và quản lý lao động trong doanh nghiệp
Cho đến nay, lao động có trình độ giáo dục cao và giá rẻ vẫn được xem là lợi thế so sánh lớn của Việt Nam so với nhiều nước đang phát triển khác trên thế giới nói chung và so với một số nước trong khu vực ASEAN nói riêng. Tuy nhiên, để khai thác được lợi thế này, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có các chính sách thực tế hơn trong việc quản lý lực lượng lao động của mình, như:
- Tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp bằng các chính sách như: sẵn sàng đầu tư cho các hoạt động đào tạo đội ngũ lao động của doanh nghiệp; đảm bảo công ăn việc làm ổn định, lâu dài cho người lao động kể cả khi có những biến động làm giảm nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp; xây dựng chế độ tiền lương và thưởng theo hướng khuyến khích người lao động có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp.
- Đa dạng hoá các kỹ năng cho người lao động và đảm bảo khả năng thích ứng của người lao động với các khâu hoạt động của doanh nghiệp khi cần có sự điều chỉnh lao động trong nội bộ doanh nghiệp. Biện pháp này sẽ giúp các doanh nghiệp có thể dễ điều chỉnh lao động khi có những biến động làm ảnh hưởng đến cơ cấu lao động của doanh nghiệp, giảm được chi phí phát sinh do tuyển dụng hay thuyên chuyển lao động từ ngoài doanh nghiệp, nâng cao được tinh thần tập thể của người lao động nhờ sự hiểu biết đó của họ.
- Nghiên cứu áp dụng chế độ đề bạt và nâng lương cho người lao động có tác dụng khuyến khích họ đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển của doanh nghiệp.
- Tổ chức tốt các hoạt động đào tạo lao động tại chỗ, qua đó nâng cao khả năng thích ứng của lao động với tính chuyên biệt về công nghệ của doanh nghiệp, đồng thời giảm được khâu tuyển dụng và thử tay nghề của lao động từ nơi khác đến.
- Nâng cao vai trò của tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp trong việc tìm hiểu, đáp ứng nguyện vọng của người lao động, cũng như phát huy được khả năng sáng tạo của người lao động.
3.5. Một số giải pháp cho từng loại hình doanh nghiệp
Xuất phát từ đặc điểm và tình hình phát triển của từng loại hình, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp riêng cho từng loại hình doanh nghiệp.
3.5.1. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước
- Chú trọng xây dựng, đào tạo, bố trí nguồn nhân lực giỏi về sản xuất kinh doanh, vững vàng bản lĩnh chính trị. Cần có chương trình đào tạo tổng thể xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý giỏi, năng động, công nhân tay nghề cao đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Đồng thời cần có chính sách đãi ngộ phù hợp và thích đáng với chất lượng, trình độ lãnh đạo của cán bộ, công nhân viên có thành tích và có chính sách ràng buộc chặt chẽ giữa lợi ích và trách nhiệm tạo lực đẩy thôi thúc họ phấn đấu đi lên. Xử lý kịp thời nghiêm minh với những cán bộ quản lý làm thất thoát tài sản của doanh nghiệp.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, không chỉ đơn thuần về mặt kinh tế, mà trên tất cả các khía cạn khác như: khả năng tiếp cận thị trường, khả năng hoạt động kinh doanh quốc tế, khả năng tiếp thị, quản lý, tìm kiếm bạn hàng, các chính sách đào tạo, nghiên cứu mở rộng thị trường.
- Đẩy mạnh quan hệ cạnh tranh và hợp tác, các DNNN cần nâng cao sức cạnh tranh của mình bằng cách tăng lợi nhuận và giảm giá thành sản phẩm, muốn vậy các Tổng công ty và các doanh nghiệp cần xây dựng cho mình chiến lược cạnh tranh thích hợp với môi trường kinh doanh quốc tế, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của mình. Chú trọng đến vấn đề tạo dựng một thương hiệu uy tín cho riêng mình, coi đó là một vũ khí để cạnh tranh.
- Chú trọng đầu tư một cách thoả đáng, có hiệu quả cho công tác nghiên cứu và phát triển. Có tầm nhìn chiến lược lâu dài, nhận thức "đi tắt" và "đón đầu" trước xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng được sự thay đổi của thị trường khu vực và thế giới.
3.5.2. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
- Các doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược phát triển dài hạn của mình, dựa trên tôn chỉ, mục đích của doanh nghiệp, khả năng phát triển của doanh nghiệp, khả năng của thị trường, các chính sách pháp luậtChỉ có chiến lược phát triển bền vững, các doanh nghiệp mới có thể trụ vững trong cuộc cạnh tranh.
- Các doanh nghiệp cần tiến hành tuyển các giám đốc được đào tạo bài bản, có trình độ chuyên môn vững chắc. Một người giám đốc cần có: tố chất kinh doanh và năng lực quản lý. Các giám đốc của các doanh nghiệp này cần phải tự đào tạo thường xuyên để có những kiến thức kinh doanh, pháp luật cập nhật nhất.
- Các doanh nghiệp cần bồi dưỡng khả năng kinh doanh quốc tế của các cán bộ quản lý, nâng cao khả năng làm việc và giao dịch quốc tế, tăng cường hiểu biết các tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế.
- Các doanh nghiệp cần nhận thức vai trò to lớn của các hiệp hội chuyên ngành, các câu lạc bộ trong việc giao lưu, xúc tiến thương mại, trao đổi thông tin và hỗ trợ phát triển chuyên môn. Ngoài ra, tham gia các hiệp hội cũng đảm bảo cho các doanh nghiệp có tiếng nói có trọng lượng khi tham gia đàm phán hay tố tụng.
3.5.3. Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
- Các doanh nghiệp FDI cần tích cực tìm kiếm nguồn nguyên vật liệu trong nước để hạ giá thành sản phẩm bằng cách tìm kiếm các đối tác trong nước thích hợp rồi chuyển giao công nghệ cho họ để trở thành nhà cung cấp nguyên vật liệu với giá rẻ, chất lượng tốt. Đối với các doanh nghiệp lắp ráp thì nên chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp trong nước để sản xuất cung cấp phụ tùng, thay thế phần nào hàng nhập khẩu.
- Các doanh nghiệp FDI, đặc biệt là các doanh nghiệp có cơ cấu hàng xuất khẩu cao nên chú trọng đến việc đưa công nghệ hiện đại vào Việt Nam bởi xét về lâu dài, sản phẩm của họ sản xuất ra sẽ có chất lượng cao hơn, năng suất hơn và cũng được hưởng nhiều ưu đãi từ phía Chính phủ hơn.
Kết luận
Trong thập kỷ 90, xu hướng tự do hoá thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ. Các nền kinh tế quốc gia và khu vực trên thế giới đã và đang ngày càng tích cực tham gia vào xu thế này. Trong bối cảnh đó, đối với nền kinh tế nước ta, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế". Trên cơ sở đó, đề tài này được nghiên cứu với hy vọng góp phần nhỏ bé nhằm thúc đẩy quá trình phát triển của các DNVN trong tiến trình hội nhập AFTA. Trong đó, một số vấn đề cần lưu tâm là:
- Cùng với những thành tựu phát triển kinh tế, thương mại đạt được trong thập kỷ vừa qua, các DNVN cũng được phát triển mạnh mẽ hơn cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, trong giai đoạn vừa qua, sức phát triển của mỗi khu vực doanh nghiệp theo thành phần kinh tế khác nhau đạt được cũng khác nhau. Điều đó không chỉ phản ánh khả năng thực tế và triển vọng phát triển khác nhau của mỗi khu vực doanh nghiệp trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, mà còn phán ánh những vấn đề tồn tại trong quá trình phát triển của mỗi khu vực doanh nghiệp này, nhất là về qui mô phát triển của khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh và về vấn đề cải cách khu vực DNNN.
- Sự phát triển của các DNVN trong giai đoạn vừa qua đã được hỗ trợ thông qua việc cải thiện môi trường kinh doanh trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước từ đầu những năm 90 theo hướng mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, mức độ cải thiện chung về môi trường kinh doanh đối với các DNVN hiện nay vẫn chưa thực sự thuận lợi cho sự phát triển của các khu vực doanh nghiệp và cần được tiếp tục cải thiện trên các phương diện như chính sách tín dụng, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu công nghiệp, cải cách hành chính...
- Tiến trình thực hiện cắt giảm thuế quan theo CEPT trong những năm vừa qua, đối với các DNVN, chưa gây nên những tác động lớn do: (1) Mức độ thực hiện cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ các hàng rào phi thuế còn thấp; (2) Các mặt hàng XK của Việt Nam sang các nước ASEAN chủ yếu là hàng nông sản nguyên liệu mà các nước thành viên khác đưa vào nhóm SL hay TEL; (3) Các mặt hàng NK của Việt Nam từ các nước ASEAN chủ yếu là vật tư, nguyên liệu, linh kiện cho sản xuất trong nước được hưởng mức thuế NK thấp; (4) Tăng trưởng thương mại của Việt Nam với các nước ASEAN chậm hơn so với ngoài khu vực. Điều đó đang đặt các DNVN vào tình thế khó khăn hơn khi mà trong những năm tới mức độ cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ các hàng rào phi thuế của Việt Nam được thực hiện ở mức độ cao hơn theo lộ trình đã cam kết. Trong đó, thách thức lớn nhất đặt ra là khả năng cạnh tranh yếu của các DNVN, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp đang sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường trong nước trước các đối thủ là doanh nghiệp của các nước ASEAN-6.
- Trong lộ trình thực hiện CEPT, khả năng đẩy nhanh tiến trình thực hiện CEPT của Việt Nam trong những năm tới không nhiều do những vấn đề cần giải quyết ở phạm vi của nền kinh tế và phạm vi khu vực doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế là khá lớn. Để nâng cao hiệu quả tham gia vào AFTA đối với các DNVN, Nhà nước cần tập trung giải quyết các vấn đề cơ bản: i) Thực hiện CEPT trên cơ sở xử lý nhanh những vấn đề của nền kinh tế chuyển đổi; ii) Tạo điều kiện hỗ trợ và nâng cao lợi thế so sánh quốc gia; iii) Hỗ trợ cho các doanh nghiệp tăng cường khả năng khai thác các nguồn lực bên ngoài để phát triển; iv) Thực hiện tiến trình AFTA kết hợp với đẩy nhanh tự do hoá thương mại ở phạm vi rộng lớn hơn. Đồng thời, các DNVN cũng phải tập trung giải quyết những vấn đề như: nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp; nâng cao chất lượng xây dựng chiến lược doanh nghiệp; đổi mới và hiện đại hoá công nghệ với chi phí thấp; nâng cao chất lượng lao động và quản lý lao động.
Tài liệu tham khảo
1. Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế, ĐH Kinh tế quốc dân: Giáo trình Kinh tế quốc tế, NXB Lao động- xã hội, 2002
2. Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế, ĐH Kinh tế quốc dân: Chính sách kinh tế đối ngoại, lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế, NXB Thống kê, 1998
3. Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế, ĐH Kinh tế quốc dân: Giáo trình Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn FDI, tập 1, NXB Thống kê, 2002
4. Bộ Ngoại giao, Vụ ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN), NXB Chính trị Quốc gia, 1998
5. Bộ Thương Mại, Viện Nghiên cứu thương mại: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế. Báo cáo tổng hợp, 2002
6. Bộ Thương mại, Viện Nghiên cứu thương mại: Doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình thực hiện AFTA và khả năng đẩy nhanh thực hiện các cam kết. Đề tài NCKH, 2002
7. Ban Vật giá Chính phủ: Những giải pháp phát huy có hiệu quả lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong tiến trình hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới. Đề tài NCKH, 2000
8. Tổng cục Thống Kê: Điều tra toàn bộ doanh nghiệp Việt Nam năm 2001, NXB Thống Kê, 2002
9. TS . Đinh Văn Phượng, Hoàng Bích Loan: Thực trạng về sức cạnh tranh của doanh nghiệp (chủ yếu DNNN) - Những vấn đề đặt ra. Kỷ yếu khoa học, Học viện chính trị quốc gia HCM, 2001
10. TS . Trần Đình Thiên: Lộ trình AFTA và những vấn đề đặt ra. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 269, 10/2000
11. Th.s. Nguyễn Như Hà: Thương mại Việt Nam trong lộ trình AFTA. Tạp chí Kinh tế châu á- TBD, số 3(32), 6/2001
12. Th.s. Nguyễn Như Hà: Cạnh tranh của Việt Nam trong quá trình hội nhập AFTA. Tạp chí Kinh tế châu á - TBD, số 3 (38), 6/2002
13. TS . Hoa Hữu Lân: Bài toán đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam tham gia AFTA. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, 1/2001
14. Đoàn Nhật Dũng: Nâng cao khả năng cạnh tranh - vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp Việt Nam tham gia AFTA. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 281, 10/2001
15. TS . Lê Khoa: Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Tạp chí Phát triển kinh tế, số 138, 4/2002
16. TS . Đan Đức Hiệp: Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Tạp chí Kinh tế và phát triển, 7/2002
17. Nguyễn Thị Hoài Lê: Để doanh nghiệp Việt Nam tăng khả năng cạnh tranh và hội nhập thành công. Tạp chí Tài chính, 7/2001
18. Phan Văn Hiến: ảnh hưởng của quá trình hội nhập kinh tế đối với các hoạt động FDI. Tạp chí Tài chính, 4/2001
19. Tấn Đức: Kinh tế tư nhân - Còn nhiều cản trở. Tạp chí Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ngày 31/1/2002
20. Kim Luân: Thu hút vốn nước ngoài giảm mạnh. Tạp chí Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ngày 4/7/2002
21. Nguyễn Thường Lạng: Cần có thêm các tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư nước ngoài. Tạp chí Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ngày 17/1/2002
22. Luật gia Nguyễn Ngọc Minh: Hỏi đáp về Luật DNNN, Hỏi đáp về Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Hỏi đáp về Luật Doanh nghiệp, NXB Tổng hợp Đồng Nai
23. Diễn đàn doanh nghiệp (VCCI): Nhóm tư vấn các nhà tài trợ năm 2002. Báo cáo tổng hợp, ngày 9/12/2002
24.VCCI: Điểm lại - Báo cáo cập nhật về cải cách kinh tế của Việt Nam: Những tiến bộ đã đạt được và hỗ trợ của nhà tài trợ. Báo cáo tổng hợp, 2002
25. World Bank: The Free Trade Area - In case of ASEAN. Sách tham khảo, 11/2001
26. Một số bài tham khảo được rút ra từ các báo: Đầu tư, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Thương mại, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Lao động,
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Tiếng Anh:
ASEAN: (Association of South East Asian Nations) - Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á
FTA: (Free Trade Area) - Khu vực mậu dịch tự do
AFTA: (the ASEAN Free Trade Area) - Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
CEPT: (the Common Effective Preferential Tariff) - Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
IL: (the Inclusion List) - Danh mục cắt giảm thuế quan ngay
TEL: (the Temporary Exclusion List) - Danh mục loại trừ tạm thời
SEL: (the Sensitive List) - Danh mục nhạy cảm
GEL: (the General Exceptions List) - Danh mục loại trừ hoàn toàn
AIA: (the ASEAN Investment Area) - Khu vực đầu tư ASEAN
AICO: (the ASEAN Industrial Cooperation) - Hợp tác công nghiệp ASEAN
WTO: (World Trade Organization) - Tổ chức thương mại thế giới
APEC: (Asian Pacific Economic Cooperation) - Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương
Tiếng Việt:
DNNN - Doanh nghiệp Nhà nước
DNNQD - Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
DNFDI - Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
DNVN - Doanh nghiệp Việt Nam
XNK - Xuất nhập khẩu
Danh mục bảng biểu
Hình 1: Phân loại doanh nghiệp Việt Nam theo hình thức sở hữu 1
Hình 2: Phân loại DNNN theo cấp quản lý 4
Hình 3: Phân loại DNNQD theo loại hình pháp lý 6
Hình 4: Phân loại DNFDI theo tỷ trọng vốn góp của Bên nước ngoài vào vốn pháp định 8
Bảng 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN 17
Bảng 2: Xếp hạng chỉ số phát triển các nước ASEAN và Trung Quốc 17
Bảng 3: Tác động của tự do hoá thương mại đối với các nền kinh tế ASEAN19
Bảng 4: Tác động chung đối với nền kinh tế Việt Nam 20
Bảng 5: Tác động của tự do hoá thương mại tới các ngành sản xuất của Việt Nam 21
Bảng 6: Số lượng sản phẩm cắt giảm thuế quan vào năm 2002 và những ngành công nghiệp có khả năng cạnh tranh nhất của các nước thành viên ASEAN 23
Bảng 7: Lịch trình giảm thuế của Việt Nam và đề xuất của ASEAN 26
Bảng 8: Quan hệ ngoại thương Việt Nam - ASEAN 29
Bảng 9: Vốn FDI của các nước ASEAN tại Việt Nam từ 1998 đến 2002 30
Bảng 10: Tổng số doanh nghiệp hoạt động sản xuất năm 2001 31
Bảng 11: Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế 32
Bảng 12: Thay đổi về tham gia thương mại 33
Biểu đồ 1: Cơ cấu DNNN được cổ phần hoá theo qui mô vốn 35
Bảng 13: Cơ cấu số doanh nghiệp theo qui mô vốn thời điểm 31/12/2000 35
Bảng 14: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện của các doanh nghiệp năm 2001 37
Bảng 15: Số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lãi, lỗ năm 2001 38
Biểu đồ 2: Cơ cấu nguồn vốn của các DNNN năm 2001 39
Biểu đồ 3: Số lượng DNNQD đăng ký mới giai đoạn 1991 - 2001 43
Bảng 16: Tỷ lệ tăng trưởng tổng sản lượng công nghiệp giai đoạn
1998-2002 42
Bảng 17: Cơ cấu các doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo lĩnh vực hoạt động44
Biểu đồ 4: Vốn đăng ký bình quân DNNQD hàng năm giai đoạn 1991 - 2001 45
Biểu đồ 5: Các DNNQD mới đăng ký theo vùng 46
Biểu đồ 6: Lượng vốn FDI từ năm 1991 - 2002 50
Bảng 18: So sánh chi phí liên quan đến đầu tư ở một số thành phố của châu á tháng 7/2002 59
Bảng 19: Hệ số lợi thế so sánh giữa các nước ASEAN 60
Bảng 20: Giá một số sản phẩm công nghiệp sản xuất trong nước so với giá nhập khẩu 59
Bảng 21: So sánh giá FOB gạo cùng phẩm cấp giữa Việt Nam và Thái Lan 61
Bảng 22: Kỳ vọng khả năng cạnh tranh của Việt Nam trong khu vực 66
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT1000.doc