Đề tài: ĐỐI CHIẾU CÁC PHƯƠNG TIỆN DÙNG ĐỂ XƯNG HÔ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN HUY THIỆP VÀ TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ
Luận văn dài 128 trang
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 8
1.1. Giao tiếp và hoạt động giao tiếp 8
1.1.1. Nhân vật giao tiếp . 8
1.1.2. Hoàn cảnh giao tiếp .12
1.2. Lý thuyết về hội thoại .15
1.2.1. Khái niệm hội thoại .15
1.2.2. Quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân – phép lịch sự .17
1.3. Phạm trù xưng hô .19
1.3.1. Khái niệm xưng hô 19
1.3.2. Các phương tiện dùng để xưng hô .21
1.4. Tiểu kết chương 1 .26
Chương 2: CÁC PHƯƠNG TIỆN DÙNG ĐỂ XƯNG HÔ TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN HUY THIỆP VÀ TRUYỆN NGẮN
CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ 28
2.1. Các phương tiện dùng để xưng hô trong truyện ngắn của Nguyễn
Huy Thiệp .28
2.1.1. Các yếu tố xưng hô bằng lời (dạng hiển ngôn) .29
2.1.2. Các yếu tố xưng hô phi lời (dạng hàm ngôn) .45
2.2. Các phương tiện dùng để xưng hô trong truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư 48
2.2.1. Các yếu tố xưng hô bằng lời (dạng hiển ngôn) .48
2.2.2. Các yếu tố xưng hô phi lời (dạng hàm ngôn) .60
2.3. Tiểu kết chương 2 .61
Chương 3. SỰ ĐỒNG NHẤT VÀ KHÁC BIỆT GIỮA CÁC PHƯƠNG
TIỆN DÙNG ĐỂ XƯNG HÔ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN
HUY THIỆP VÀ TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ .63
3.1. Sự đồng nhất 63
3.2. Sự khác biệt 66
3.3. Xu hướng “gia đình hoá” trong xưng hô ngoài xã hội ở truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp và truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư .71
3.4. Những đặc sắc trong sử dụng các phương tiện xưng hô trong truyện
ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư 74
3.4.1. Các yếu tố xưng hô phi lời (dạng hàm ngôn) .74
3.4.2. Các yếu tố xưng hô bằng lời (dạng hiển ngôn) .77
3.5. Phong cách nhà văn 92
3.6. Tiểu kết chương 3 .94
128 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2308 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đối chiếu các phương tiện dùng để xưng hô trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiết,
Kiếm sắc, Giọt máu, Chút thoáng Xuân Hương.
Ví dụ: (Đặng Phú Lân theo hầu Nguyễn Ánh và rất được trọng dụng.
Một lần, thuyền Ánh qua cửa Tiền Giang, có 4 người theo hầu, chợt có con cá
sấu rất to bơi theo, thấy cần phải có người làm mồi cho cá sấu thì mới thoát).
Ánh hỏi: “Ai vì nước Việt mà chết?”. Ba người kia tình nguyện chết, chỉ có
Lân ngồi im. Ánh trừng mắt hỏi Lân: “Trượng phu quý mạng sống thế à?”.
Lân chắp tay: “Chúa công đừng giận. Nước Việt thì không ai hại được. Còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 81
thoát hàm cá sấu thì cần gì phí một mạng người”. Nói rồi nhặt hòn đá ở mạn
thuyền ném con vịt giời bay qua. Vịt giời rơi xuống nước, cá sấu thấy vậy, vội
bỏ thuyền, lao đến chỗ vịt giời. Ánh cười ha hả bảo rằng: “Thế này thì nghiệp
ta thế nào trời cũng cho thành”. [27, 141]
Cuộc đối thoại giữa Nguyễn Ánh và Đặng Phú Lân cung cấp cho chúng
ta những thông tin sau:
- Chủ đề cuộc thoại: việc làm mồi cho cá sấu giúp Nguyễn Ánh thoát hiểm.
- Nhân vật giao tiếp: Nguyễn Ánh/Đặng Phú Lân.
- Quan hệ giao tiếp: vua/tôi.
- Hoàn cảnh giao tiếp: quy thức.
- Chức vị: Nguyễn Ánh - vua, Đặng Phú Lân - tướng theo hầu.
- Phương tiện xưng hô: đại từ nhân xưng.
- Cặp từ xưng hô: ?/trượng phu, ?/chúa công.
Hoàn cảnh giao tiếp mang tính quy thức và sự quy định trong quan hệ
vua/tôi đã chi phối cách sử dụng các phương tiện xưng hô trong đoạn thoại này.
Ngôi thứ nhất đều được lược bỏ trong đoạn thoại này, vì: Nguyễn Ánh
là vua nên việc sử dụng từ xưng hô không bắt buộc, còn Đặng Phú Lân, trong
hoàn cảnh giao tiếp này, vì là tướng võ và để nói ra lẽ hơn thiệt nên câu thức
không rườm rà mà ngắn gọn, súc tích. Các đại từ xưng hô: chúa công, trượng
phu đã thể hiện đúng vai trò, vị trí của các nhân vật trong triều đại phong kiến
khi tham gia vào cuộc giao tiếp này. Việc sử dụng ít các phương tiện xưng hô
(đặc biệt là các đại từ nhân xưng) trong quan hệ vua/tôi sẽ làm tăng sự thân
mật, gần gũi giữa chủ/tớ, là chiêu thức “dùng người” và “lựa lòng người” của
Nguyễn Ánh và Đặng Phú Lân.
Ngoài ra, các phương tiện xưng hô dùng trong triều đình phong kiến
còn xuất hiện trong một số truyện ngắn hiện đại, như: Những người thợ xẻ
(công tử bột, công chúa), Không có vua (ái khanh, chư vị, chư tướng), chiếm
số lượng 5/186 các phương tiện xưng hô. Các phương tiện xưng hô này mặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 82
dù vẫn giữ nguyên hình thức nhưng ít nhiều đã mang sắc thái biểu cảm khác.
Chẳng hạn trong đoạn thoại sau:
Ăn lòng lợn hơn chục hôm liền, Sinh phát sợ, bảo chồng: “Mai chú
Khiêm mang lòng lợn về thì tôi đưa ra chợ để đổi thứ khác đấy”. Cấn cười,
mắt ve vuốt thân hình mềm mại của vợ, bảo rằng: “Tuỳ ái khanh”. [27, 44]
Cuộc nói chuyện giữa vợ chồng Cấn cho chúng ta các thông tin sau:
- Chủ đề cuộc thoại: việc ăn uống.
- Nhân vật giao tiếp: Cấn/ Sinh.
- Quan hệ: vợ/chồng.
- Hoàn cảnh giao tiếp: không quy thức (thân mật, suồng sã).
- Nghề nghiệp: Cấn - thương binh, cắt tóc. Sinh - nội trợ.
- Phương tiện xưng hô: đại từ nhân xưng.
- Cặp từ xưng hô: tôi/?, ?/ ái khanh.
Quan hệ vợ chồng thân mật, gần gũi là cơ sở cho việc sử dụng các từ
xưng hô trong đoạn thoại này. Bằng chứng là các nhân vật giao tiếp thường
lược bớt từ xưng hô, loại bỏ sự câu thức rườm rà, còn gọi là cách “xưng hô
khuyết”: tôi/?, ?/ái khanh. Cách hô “ái khanh” là điểm đặc biệt trong đoạn
thoại này. Thực chất, cách xưng hô này được sử dụng nhiều trong triều đình
phong kiến, là lời của bậc vua chúa đối với các cung tần mĩ nữ, thể hiện uy
quyền của bậc đế vương. Do đó, Cấn - một anh thương binh, thợ cắt tóc - sử
dụng đại từ này là không phù hợp với ngữ cảnh. Tuy nhiên, việc sử dụng đại
từ “ái khanh” đã thể hiện chiến lược giao tiếp của nhân vật và chuyển đại từ
này sang sắc thái biểu cảm mới: “nịnh đầm”.
* Hệ thống các phương tiện xưng hô sử dụng trong các truyện ngắn về
đề tài dân tộc, miền núi
Trong 15 truyện ngắn trong tập “Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp” của
Nguyễn Huy Thiệp mà chúng tôi khảo sát thì mảng đề tài về dân tộc, miền núi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83
chiếm 3/15 truyện, bao gồm: Những ngọn gió Hua Tát, Truyện tình kể trong
đêm mưa, Muối của rừng.
Những tháng năm dạy học ở vùng Tây Bắc tổ quốc đã cho ông những
kinh nghiệm quý báu, trau dồi vốn từ để thành công trong những trang văn
viết về đề tài dân tộc, miền núi. Đặc biệt, xâu chuyện nằm trong “Những ngọn
gió Hua Tát” của Nguyễn Huy Thiệp còn được coi là những câu chuyện dân
gian có giá trị văn hoá lớn mà ông đã lưu giữ lại cho đồng bào vùng cao.
Ví dụ: (Trưởng bản Hà Văn Nó muốn chọn một chàng trai xứng đáng
với con gái yêu Hà Thị E xinh đẹp, đức hạnh của mình. Các chàng trai đua
nhau đến thể hiện đức tính quý nhất và khó kiếm nhất để làm chồng E. Nhiều
người đã đến và đã ra về. Cuối cùng, Hặc - người thợ săn xuất sắc nhất bản đã
đến cầu hôn).
Hặc nói với mọi người:
- Trung thực là đức tính đáng quý và khó kiếm nhất.
(…)
- Ai tin mày! Ai bảo mày có đức tính trung thực? - Trưởng bản hỏi.
- Then biết! Hặc trả lời.
- Cả con cũng biết! - E nói nghiêm trang .
- Điên rồ! - Trưởng bản gầm lên. Ông nhìn sang các bô lão cầu cứu. Ông
biết, người già bao giờ cũng tìm ra được lối thoát cho mọi rắc rối trên đời.
- Hãy cầu Then đi! - Một bô lão bảo Hặc - Trời đang hạn hán, tất cả
mó nước đều đã cạn khô. Nếu con trung thực, con hãy cầu Then mưa
xuống! [27, 207]
Đoạn thoại trên bao gồm những thông tin sau:
- Chủ đề cuộc thoại: việc lấy chồng của Hà Thị E.
- Nhân vật giao tiếp: Hặc, trưởng bản, E, các bô lão,
- Quan hệ giao tiếp: gia đình, xã hội
- Hoàn cảnh giao tiếp: quy thức.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84
- Chức vị: Hà Văn Nó - trưởng bản, Hặc - người thợ săn nghèo, Hà Thị E –
con gái trưởng bản, các bô lão - những người tham gia cố vấn.
- Phương tiện xưng hô: danh từ thân tộc, đại từ nhân xưng.
- Cặp từ xưng hô: ?/mày, con/?, ?/con.
Sự quy định trong quan hệ và những nét văn hoá của người miền núi đã
chi phối cách lựa chọn và sử dụng các phương tiện dùng để xưng hô trong
đoạn thoại trên.
Danh từ thân tộc “con” được áp dụng trong cả mối quan hệ gia đình
(con gái nói với cha) và quan hệ xã hội (các bô lão nói với Hặc). Trong văn
hoá vùng đồng bào dân tộc, các bô lão được coi như cây cổ thụ, người cha già
che chở cho bản làng. Do đó, việc dùng danh từ thân tộc “con” vừa tạo sự gần
gũi, vừa giúp tạo hiệu lực trong lời nói đối với bề dưới mình.
Đại từ nhân xưng “mày” được trưởng bản dùng trong lời thoại với Hặc,
nó thể hiện uy quyền của con người đứng đầu một cộng đồng. Đại từ “mày”
trong phát ngôn trên không mang ý nghĩa biểu cảm đậm nét với sắc thái thân
mật, thô tục như trong giao tiếp của người Kinh mà nó thường dùng với sắc
thái trung hoà chỉ ngôi thứ hai trong lối nói của người dân tộc.
Các cặp từ xưng hô trên đều được lược bỏ ngôi xưng hô, nó thể hiện lối
nói của đồng bào dân tộc không ưa sự câu thức, rườm rà.
Việc sử dụng cả danh từ thân tộc và đại từ nhân xưng, cách lược bỏ từ
xưng hô trong đoạn thoại trên mang dấu ấn văn hoá đậm nét trong cách xưng
hô của người dân tộc, miền núi.
Ngoài hệ thống những từ xưng hô phong phú phục vụ hai mảng đề tài :
lịch sử và miền núi, thì trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp còn có nét
đặc sắc riêng trong việc sử dụng hệ thống các cụm từ tự do. Cụ thể:
* Tiếng chửi tục, chửi thề
Tiểu loại này chiếm 9/186 phương tiện xưng hô. Những từ xưng hô này
giúp mang lại sắc thái, giọng điệu riêng trong văn Nguyễn Huy Thiệp. Với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85
cách xưng hô này, Nguyễn Huy Thiệp để cho nhân vật thoải mái bộc lộ chính
cảm xúc thực của chính họ. Có ý kiến cho rằng, với những tiếng chửi tục,
chửi thề này, văn của ông “vừa thật, vừa thô tục, nhưng nó gần với con người
hơn, giống với con người hơn” .
Ví dụ: (Chiểu lập mưu lấy ni cô Huệ Liên - tên thật là Đỗ Thị Ninh - về
làm vợ lẽ. Trong ngày tiệc làng, Chiểu đi ra đình lễ, về nhà thấy người gây
gây sốt. Bà Diêu sai Ninh đi hái lá về xông nhưng Chiểu không nghe. Sẵn
nước nóng, Ninh mang đi tắm).
Nửa đêm, thấy vợ ba thơm tho, Chiểu nổi máu phong tình. Sau cuộc
mây mưa, người Chiểu cứ lịm đi, đến sáng thì mất. Cô Ninh sợ quá, khóc ầm
lên. Bà Diêu giận lắm, mắng rằng:
- Đồ con đĩ, tu không trót, bây giờ lại giết chồng. [27, 253]
Cuộc thoại giữa bà Diêu và cô Ninh diễn ra sau cái chết của chồng.
Chúng ta có thể xác định được:
- Chủ đề cuộc thoại: sự tức giận của bà Diêu xoay quanh (nguyên nhân) cái
chết của chồng.
- Quan hệ giao tiếp: gia đình.
- Hoàn cảnh giao tiếp: phi quy thức.
- Hình thức giao tiếp: thoại trực tiếp.
- Nhân vật giao tiếp: bà cả/ bà ba.
- Phương tiện xưng hô: cụm từ tự do.
- Biểu thức: chửi, mắng.
Đoạn thoại trên chỉ gồm một lượt lời và chủ đề cuộc thoại là yếu tố
chính chi phối việc lựa chọn và sử dụng các pương tiện xưng hô.
Cách gọi “đồ con đĩ” của bà Diêu trong ví dụ trên đã thể hiện được: vai
trò của người bậc trên (bà cả) và sự coi thường, không tôn trọng đối tượng
giao tiếp. Cách hô này thường xuất hiện trong lối nói dung tục, khẩu ngữ
thường ngày và thường do những người có trình độ văn hoá thấp phát ngôn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86
Nhưng, bà Diêu vốn từng là bạn học của Chiểu và được xem là một người
hiểu biết, chu đáo, khéo cư xử... Lời nói của bà Diêu có thể lí giải do: sự
không hoà thuận của các bà vợ trong gia đình phong kiến “năm thê bảy thiếp”
thời xưa và sự kì thị với quá khứ của cô Ninh („tu không trót”).
* Ngoài các tiếng chửi tục, chửi thề như đã nêu trên, trong 15 truyện
ngắn trong tập “Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp” của Nguyễn Huy Thiệp còn
sử dụng một số cụm từ tự do khác lâm thời làm phương tiện xưng hô, với các
cách kết hợp như:
(1)- Danh từ thân tộc + đại từ nhân xưng. Ví dụ: chị em chúng mày, chị
em chúng tôi, mẹ con mình, con gái ta, chú mày, chị tôi.
(2)- Danh từ thân tộc + danh từ chỉ tên riêng. Ví dụ: con lão Ba Đình,
vợ chồng thằng Cấn.
(3)- Danh từ chung + danh từ thân tộc. Ví dụ: người Kinh các ông, gia
đình em.
Nhóm 1 và nhóm 2 đóng vai trò làm phương tiện xưng hô mang tính
chỉ định và hướng tới đối tượng cụ thể hơn. Trong khi đó, ở nhóm 3, mặc dù
đã có các danh từ thân tộc để hạn định đối tượng nhưng do cách kết hợp với
danh từ chung nên mang tính khái quát cao hơn.
Ví dụ 1:
Một giờ sáng lão Kiền với Cấn về. Một lúc sau, Đoài với Khảm cũng
về. Cả nhà ngồi ăn uống đến ba giờ, chợp mắt được nửa tiếng, lại lục đục dậy
làm cỗ, khấn vái qua loa, lại ăn uống. Đến tám giờ, lão Kiền bảo: “Tao đi
chúc tết hàng xóm, vợ chồng thằng Cấn đi theo tao. Khiêm ơi, mày cho bố ít
tiền để đi mừng tuổi”. [27, 54]
Đoạn văn trên giúp chúng ta biết về không khí ngày Tết trong gia đình
lão Kiền. Với ý định đi chúc Tết hàng xóm, phát ngôn trên của lão Kiền
hướng tới hai nhóm đối tượng với hai mục đích cụ thể: xin tiền Khiêm và đi
chúc tết cùng vợ chồng thằng Cấn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87
Ví dụ 2: (Phong và ông Tân Dân góp vốn bán muối cho Cầm Vĩnh An.
Ông Tân Dân lên trước, Phong thồ muối lên sau).
An hỏi: “Có bao nhiêu muối?” Phong bảo: “Tám tấn”. Ông Tân Dân
giãy nảy: “Chết, ta thoả thuận với nhau những hai mươi tấn cơ mà?” An
bảo: “Người Kinh các ông hay nói một đằng làm một nẻo”. (…) [27, 259]
Cụm từ “người Kinh các ông” hướng tới hai nhóm đối tượng: cụ thể
(Phong, ông Tân Dân), không cụ thể (người Kinh nói chung). Việc sử dụng
cụm từ này có tiền giả định là: Cầm Vĩnh An đã từng làm việc (buôn bán) với
những người Kinh khác và bị thất hẹn nên trong tư tưởng đã hình thành suy
nghĩ không thiện cảm về những người Kinh. Do đó, cụm từ “người Kinh các
ông” mang tính bao quát chung.
3.4.2.2. Những đặc sắc riêng trong việc sử dụng các phương tiện xưng hô
trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
Khác với Nguyễn Huy Thiệp, đề tài duy nhất trong sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tư là nông thôn nên nét đặc sắc trong việc sử dụng các phương
tiện xưng hô trong tác phẩm của tác giả này tập trung các đặc điểm ngôn ngữ
xưng hô vùng đồng bằng sông Cửu Long.
* Tác giả sử dụng một hệ thống đông đảo các phương tiện xưng hô của
đồng bào Nam Bộ.
Trong tác phẩm này, Nguyễn Ngọc Tư sử dụng một cách dày đặc các từ
xưng hô mang đậm phong cách Nam Bộ như: tía, tui, ba, qua, mầy, chế, mậy,
bây, cha nội,…
Ví dụ 1: (Trước khi tiếp tục lên đường tìm kiếm người vợ của mình chỉ
để nói câu xin lỗi, ông già sáu Đèo nhờ Phi chăm sóc con bìm bịp).
“Cha, để coi, chỗ nào chưa đi thì đi, còn sống thì còn tìm. Qua nhờ chú
em một chuyện, chú em nuôi giùm qua con quỷ sứ nầy. Qua yếu rồi, sợ có lúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88
giữa đường lăn ra chết, để con “trời vật” nầy lại không ai lo. Qua tin tưởng
chú em nhiều, đừng phụ lòng qua nghen”. [29, 109]
Ví dụ 2: (Quách Phú Thàn định đưa nhỏ Diễm Thương về ra mắt gia đình).
Thằng Thàn nói:
- Con không đành lòng để tía ở lại một mình.
- Vậy bây nỡ nào nhìn con nhỏ khổ hoài sao? [29, 12]
* Từ xưng hô chỉ trật tự, vị trí trong gia đình
Đây là cách xưng hô đặc trưng của đồng bào Nam Bộ. Trong gia đình,
thay vì gọi tên như trong phương ngữ Bắc thì người ta sử dụng thứ tự được
sinh ra để gọi tên con cái trong gia đình. Do đó, đứa trẻ đầu tiên sẽ được gọi
là “Hai” (tương ứng với vai “Cả” trong phương ngữ Bắc). Cách gọi tên này
dễ nhớ và cũng giúp người ngoài nhìn vào thứ tự để xưng hô cho đúng. Từ
cách sử dụng xưng hô trong gia đình, từ chỉ trật tự, vị trí được sử dụng rộng
rãi trong các mối quan hệ xã hội. Theo đó, căn cứ vào tuổi tác hay sự tôn
trọng đối tượng mà người ta gọi: anh (chị) Hai, anh (chị) Ba, cô Tư,…
Ví dụ: Điền xót xa khi thấy tôi trổ mã con gái, “Đẹp làm chi dữ vậy,
Hai? Ở cái xó quê nầy, có đẹp mai mốt cũng phải lấy chồng, đẻ một bầy con
nheo nhóc, cũng ra vườn ra ruộng làm lụng đến hết đời, xẹp lép như xác ve.
Đẹp, mắc công giữ…”. [29, 205]
Trong 14 truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư mà chúng tôi khảo sát thì
từ chỉ trật tự, vị trí “Hai” chỉ xuất hiện duy nhất trong truyện ngắn “Cánh
đồng Bất Tận” nhưng được sử dụng tới 6 lần.
Đoạn thoại trên bao gồm các thông tin sau:
- Chủ đề cuộc thoại: sự xinh đẹp của nhân vật “Hai”.
- Quan hệ giao tiếp: gia đình.
- Hoàn cảnh giao tiếp: phi quy thức.
- Hình thức giao tiếp: đối thoại trực tiếp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89
- Nhân vật giao tiếp: chị gái/em trai
- Nghề nghiệp: những đứa trẻ nghèo với nghề nuôi vịt chạy đồng.
- Phương tiện xưng hô: từ chỉ trật tự, vị trí.
- Cặp từ xưng hô: ?/Hai.
Đoạn thoại trên chỉ gồm một lượt lời và yếu tố chi phối cách lựa chọn
và sử dụng từ xưng hô trong đoạn thoại trên là quan hệ gia đình, chủ đề và
yếu tố văn hoá vùng đồng bằng sông nước Cửu Long.
Trong tác phẩm này, nhân vật “Hai”còn có tên là Nương. Việc Điền -
em trai - trong phát ngôn này, lược bớt từ xưng và thay bằng việc gọi tên đối
tượng giao tiếp lại gọi theo thứ tự trong gia đình ngoài việc tạo sự thân mật,
quan tâm, gần gũi còn thể hiện lối nói dân dã, mộc mạc của cư dân Nam Bộ
với sắc thái biểu cảm yêu thương, trìu mến.
Từ chỉ trật tự, vị trí thường được kết hợp với danh từ thân tộc hoặc đi
kèm với từ chỉ biệt danh hay đặc điểm của nhân vật.
Ví dụ: (Người đàn ông làm nghề nuôi vịt chạy đồng trong buổi chiều
muộn đã cho người phụ nữ muộn tàu đi nhờ ghe về. Vì chồng đã bỏ nhà đi
trốn nợ nên giờ chị bơ vơ không biết đi đâu. Thương tình ông cho ở lại nhà.
Người phụ nữ chăm chỉ giúp ông chăm sóc nhà cửa).
Ông cằn nhằn:
- Cô làm gì như người ở đợ cho tôi vậy?
- Có gì đâu, anh Hai, được ở lại đây là em mừng rồi. [29, 55]
Quan hệ xã hội giữa các nhân vật giao tiếp đã chi phối cách lụa chọn và
sử dụng phương tiện xưng hô trong đoạn thoại trên.
Cách sử dụng đại từ “tôi” và danh từ thân tộc “cô” trong phát ngôn của
người đàn ông đã xác lập quan hệ “người dưng” giữa hai nhân vật. Trong khi
đó, cách xưng hô em/anh Hai của người đàn bà vừa thể hiện sự tôn trọng về
tuổi tác (anh Hai) đối với người đàn ông còn thể hiện chiến lược giao tiếp
mềm mỏng của người đàn bà: cảm ơn và muốn duy trì việc ở nhờ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90
* Tính từ chuyển hoá thành phương tiện xưng hô
Các tính từ chuyển hoá thành phương tiện xưng hô trong truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư mang nghĩa biểu cảm sâu sắc và có tác dụng rất lớn
trong giao tiếp.
Tiểu loại này chiếm số lượng 15/87 phương tiện xưng hô trong 14
truyện mà chúng tôi khảo sát, và chỉ xuất hiện duy nhất trong truyện ngắn
“Cánh đồng Bất Tận”. Bao gồm các tính từ như: cưng (5 lượt sử dụng), mấy
cưng (9 lượt sử dụng), nhỏ cưng (1 lượt sử dụng).
Ví dụ: (Người đàn bà là gái “ăn sương” bị đánh ghen tơi tả được hai
đứa trẻ cứu sống. Chị “tâm sự” về “nghề” của mình.):
- Ăn trên mồ hôi nước mắt của người ta nên lâu lâu bị đánh cũng đáng
đời, hen mấy cưng?
Chị nói và ngả ngiêng cười, dường như chị thấy mình trả giá vậy cũng vừa.
- Mà hên nghen, nhờ vậy mà gặp được mấy cưng, được ở chung vầy,
vui thiệt vui… [29, 161]
Dựa vào đoạn thoại trên, chúng ta xác định được:
- Chủ đề cuộc thoại: những “tâm sự” của người đàn bà “ăn sương”.
- Quan hệ giao tiếp: xã hội.
- Hoàn cảnh giao tiếp: phi quy thức.
- Hình thức giao tiếp: đối thoại trực tiếp.
- Nhân vật giao tiếp: người đàn bà / hai chị em nhân vật “tôi”.
- Nghề nghiệp: người đàn bà - “làm đĩ”, hai đứa trẻ nghèo - nuôi vịt chạy
đồng.
- Phương tiện xưng hô: tính từ chuyển hoá.
- Cặp từ xưng hô: ?/mấy cưng.
Nghề nghiệp là yếu tố chi phối cách lựa chọn và sử dụng phương tiện
xưng hô trong đoạn thoại trên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91
“Cưng” thực chất là một tính từ dùng để chỉ đồi tượng được chủ thể
yêu mến, chiều chuộng hết mức. Trong đoạn thoại trước: Tôi hỏi chị làm gì để
bị đánh. Chị cười, “Làm đĩ”. [29, 160]. Người đàn bà đã thản nhiên “giới
thiệu” về nghề nghiệp của mình một cách ngắn gọn. Cụm từ “mấy cưng” thể
hiện giọng điệu ngọt ngào của người đàn bà vốn đã quen với việc chiều
chuộng, làm vừa lòng người khác để kiếm tiền nuôi thân. Đồng thời cách
xưng hô này cũng toát lên sự yêu mến thực sự của người đàn bà trước những
“ân nhân” cứu mạng và dụng ý muốn được tiếp tục cuộc sống chung này.
* Danh từ chỉ tên riêng
Trong tổng số 14 truyện ngắn trong tập “Cánh đồng Bất Tận” của
Nguyễn Ngọc Tư, danh từ chỉ tên riêng “Cộc” chiếm số lượng nhiều nhất
9/186. “Cộc” là tên riêng này của một con vịt xiêm, xuất hiện trong truyện
ngắn “Cái nhìn khắc khoải”. “Cộc” trong tác phẩm hiện lên như một người
bạn tâm tình của ông già cô đơn.
Ví dụ: Ông vừa mài cây búa vừa nói nhỏ với con Cộc:
- Mình đàn ông gì cũng được, bây giờ có thêm người… - Ông ngừng
lại, vuốt cánh con Cộc - vậy hen Cộc?
Cộc không trả lời, kêu cóc cóc, há mỏ đớp vô cá chân ông. Thì vậy chớ
còn sao nữa, ý nó muốn nói vậy. [29, 55]
Đoạn thoại trên là lời phân bua của ông chủ với con vịt đầu đàn trước
những biến đổi mới trong gia đình: có người đàn bà đến ở nhờ. Với cách gọi
tên riêng một cách trìu mến này, nhân vật đã đưa con vịt lên vị trí ngang hàng,
làm người bạn thân thiết với mình. Nghề phổ biến của vùng đồng bằng sông
nước Cửu Long là nuôi vịt chạy đồng, do đó, sự gắn bó với nghề đã tạo ra sự
yêu mến đối với những con vật tưởng như vô tri vô giác này. Nó cũng thể
hiện lối sống gần gũi, hoà đồng với thiên nhiên của con người Nam Bộ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92
3.5. Phong cách nhà văn
Trong những truyện ngắn của mình, Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn
Ngọc Tư đã sử dụng một loạt các cách xưng hô mới, khác biệt nhau tạo thành
một đặc điểm riêng, một phong cách sáng tác riêng cho mỗi tác giả.
Trong quá trình khảo sát, nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, các yếu tố
chính chi phối việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện xưng hô là: chủ đề
cuộc thoại, nhân vật giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, trình độ văn hoá . Các
nhân tố này biểu hiện rõ nét trong 15 truyện ngắn trong tập “Truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp” (của Nguyễn Huy Thiệp) hơn trong 14 truyện ngắn trong
tập “Cánh đồng Bất Tận” của Nguyễn Ngọc Tư.
Đối với mỗi đề tài, chủ đề Nguyễn Huy Thiệp lại sử dụng một hệ thống
từ xưng hô tương ứng. Đề tài lịch sử chính là một bước đột phá trong sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp. Xưa nay, các nhà văn viết về các danh nhân trong
lịch sử không ít, nhưng họ tập trung chủ yếu ở việc khắc hoạ hình ảnh “con
người xã hội” với áo mũ cân đai, lời nói nặng như trịch, coi cái chết nhẹ tựa
lông hồng… thì cái mới của Nguyễn Huy Thiệp lại ở việc khắc hoạ những
“con người thời đại” ấy ở khía cạnh đời thường với những trăn trở, lo âu về lẽ
sống, về tình yêu ... Có lẽ trong văn học hiếm có hình ảnh: “Nhà vua (Quang
Trung) đang đêm xoã tóc, đi chân đất, vừa đi vừa vấp, chạy vào báo cho Vinh
Hoa biết việc Khải mất”. [27, 161]. Hoặc trong đoạn thoại giữa vua Gia Long
và Ngô Thị Vinh Hoa: “…nhà vua bảo nàng: “Ta muốn sở hữu nàng như
nuôi con gà, con vịt trong nhà”. Vinh Hoa tâu: “Bệ hạ muốn là vua gà, vua
vịt hay sao?”. Nhà vua thở dài: “Sứ mệnh đế vương thật là sứ mệnh khốn
nạn, chỉ được quyền cao cả, không được quyền đê tiện”. Vinh Hoa tâu: “Ai
cũng phải thế”. Nói rồi nàng ôm đàn hát”. [27, 164]. Chưa bao giờ những
ông vua lại hiện lên một cách giản dị, chân thực và đời thường đến thế.
Mảng đề tài miền núi cũng là một thành công trong sáng tác của
Nguyễn Huy Thiệp. Trong những câu chuyện này, hình ảnh con người, thiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93
nhiên của đồng bào vùng cao hiện lên thật chân thực, sống động, đặc biệt là
trong ngôn ngữ xưng hô. Cách nói của họ mang những nét riêng biệt so với
người Kinh và còn ẩn chứa cả nét văn hoá của vùng dân tộc, mang cái “tôi” cá
nhân rất sâu sắc.
Để phục vụ cho chủ đề, Nguyễn Huy Thiệp đã tạo dựng lên những
hoàn cảnh giao tiếp và hệ thống nhân vật đông đảo. Nếu tất cả mọi hoàn cảnh
giao tiếp trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư (chiếm 100%) là phi quy
thức và nhân vật chỉ thuộc lớp người dân quê lao động, thì hoàn cảnh giao
tiếp mang tính quy thức trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp lên tới gần
20% và nhân vật giao tiếp gồm đủ tầng lớp trong xã hội.
Phạm vi sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp bao gồm cả quá khứ và cuộc
sống đương đại. Trong khi đó, phạm vi sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư chỉ là
cuộc sống nông thôn thời kì công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đối với truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, do tập trung viết về người nông dân với những
tình cảm yêu mến, gắn bó nên danh từ thân tộc làm phương tiện xưng hô
chiếm số lượng vượt trội 42/87 trong tổng số các phương tiện xưng hô. Trong
khi đó số lượng các phương tiện xưng hô của Nguyễn Huy Thiệp khá cân
bằng nhau (danh từ chỉ tên riêng: 64/186, danh từ thân tộc: 56/186, …).
Trong truyện ngắn của NguyễnNgọc Tư, nhân vật giao tiếp không chỉ
là con người mà còn là những con vật gắn bó thân thiết với cuộc sống của
những người dân quê nơi đây. Dưới ngòi bút của chị, những con vật này trở
lên có linh hồn, có tư duy và giọng điệu mang phong cách của lối giao tiếp
vùng đồng bằng sông nước Cửu Long.
Ví dụ: (Đoạn thoại sau là lời của bầy vịt trước sự thay đổi giọng hát của
nhân vật “tôi”).
“Ủa, phải con người hôm trước hôm trước không ta?”. Một con vịt đui
khịt mũi, cười, “Nó chớ ai, giọng có khác nhưng rõ ràng là tiếng trái tim nó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94
Quen lắm. Chập chờn, thút thít, đòng đưa như sắp rụng...”. “Có nổ hôn đó,
cha nội?”. “Sao không, mấy người thử đi rồi biết”. [29,196]
Ngôn ngữ trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp khá cầu kỳ, gọt
rũa, chuẩn mực. Ngôn ngữ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư giản dị, tự
nhiên gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của bà con Nam Bộ. Theo chúng tôi,
điều làm lên sự khác biệt trong ngôn ngữ của hai tác giả là: Nguyễn Huy
Thiệp viết bằng trí tuệ, còn Nguyễn Ngọc Tư viết bằng chính bản năng con
người mình.
3.6. Tiểu kết chƣơng 3
Trong phạm vi nghiên cứu của chương 3, ngoài việc chỉ ra sự đồng
nhất và khác biệt trong cách thức sử dụng các phương tiện xưng hô của hai
tác giả Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi còn thấy được
những nét đặc sắc trong truyện ngắn của hai tác giả này. Cụ thể:
- Hệ thống các phương tiện xưng hô dùng trong triều đình phong kiến,
trong mảng đề tài dân tộc - miền núi, tiếng chửi tục - chửi thề, hệ thống các
cụm từ tự do với những cách cấu tạo đặc biệt … đã tạo nên nét đặc sắc riêng
trong 15 truyện ngắn trong tập “Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp” của tác giả
Nguyễn Huy Thiệp.
- Đối với 14 truyện ngắn trong tập “Cánh đồng Bất Tận” của Nguyễn
Ngọc Tư, việc sử dụng: hệ thống từ xưng hô mang đậm phương ngữ Nam Bộ,
danh từ chỉ tên riêng, từ chỉ trật tự - vị trí trong gia đình, tính từ chuyển hoá…
đã làm nên nét đặc sắc trong sáng tác của nữ văn sĩ này.
Nét riêng biệt trong sử dụng các đơn vị từ vựng làm phương tiện xưng
hô không chỉ làm phong phú thêm hệ thống từ xưng hô trong tiếng Việt mà
còn góp phần thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của từng nhà văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu các phương tiện dùng để xưng hô
trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi
xin đưa ra những kết luận như sau:
1. Xưng hô là một hành vi ngôn ngữ được thực hiện trong giao tiếp.
Điều kiện đầu tiên để thực hiện hành vi xưng hô là nó phải diễn ra trong hội
thoại và do các nhân vật hội thoại thực hiện. Do đó, nghiên cứu các phương
tiện dùng để xưng hô trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư chính là nghiên cứu ngôn ngữ trong trạng thái
“động”, trạng thái hành chức.
2. Khảo sát các phương tiện dùng để xưng hô trong truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp và truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy
có những sự đồng nhất sau: về số lượng các yếu tố xưng hô bằng lời (dạng
hiển ngôn) và các yếu tố xưng hô phi lời (dạng hàm ngôn); về tần số sử dụng
của các phương tiện dùng để xưng hô; về cấu tạo, một số nhóm làm phương
tiện dùng để xưng hô trong truyện ngắn của hai tác giả tương đối trùng nhau,
đặc biệt là nhóm danh từ thân tộc; các danh từ chỉ nghề nghiệp - chức vụ
chiếm vị trí thấp nhất trong tổng số các phương tiện dùng để xưng hô; việc sử
dụng danh từ thân tộc chứng tỏ xu thế xưng hô “gia đình hoá” trong xã hội
hiện nay; Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Ngọc Tư đều sử dụng các từ xưng
hô vay mượn.
3. Sự khác biệt trong việc sử dụng các phương tiện dùng để xưng hô
trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
Tư thể hiện ở: số lượng các cuộc thoại; số lượng các phương tiện dùng để
xưng hô; đặc điểm sử dụng (cách cấu tạo) các phương tiện dùng để xưng hô
trong sáng tác của hai tác giả cũng tương đối khác nhau; tính quy thức/phi
quy thức của hoàn cảnh giao tiếp trong truyện ngắn của mỗi tác giả khác
nhau; mảng đề tài trong sáng tác của hai tác giả,…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96
4. Sự khác biệt trong cách thức sử dụng các phương tiện xưng hô trong
truyện ngắn của hai tác giả bắt nguồn từ các nguyên nhân như: nhân vật giao
tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, chủ đề cuộc thoại và trình độ văn hoá.
Sự khác biệt này thể hiện trước hết ở việc lựa chọn đề tài sáng tác của
các tác giả. 15 truyện ngắn trong “Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp” (của
Nguyễn Huy Thiệp) mà chúng tôi khảo sát, được chia thành bốn mảng đề tài:
lịch sử, thành thị, nông thôn, miền núi. Với mảng đề tài phong phú, tác giả đã
xây dựng lên một hệ thống nhân vật đông đảo với nghề nghiệp và trình độ văn
hoá khác nhau (như: vua chúa, quan lại, tri thức, nông dân, già làng, trưởng
bản,…) đặt trong những hoàn cảnh giao tiếp tương ứng (chẳng hạn, trong
mảng đề tài: lịch sử và miền núi - hoàn cảnh giao tiếp thường mang tính quy
thức; ngược lại, trong mảng đề tài viết về nông thôn và thành thị - hoàn cảnh
giao tiếp là phi quy thức.
Trong khi đó, đề tài nông thôn xuyên suốt 14 truyện ngắn trong tập
“Cánh đồng Bất Tận” của Nguyễn Ngọc Tư. Do đó, các nhân vật giao tiếp chỉ
là những người dân quê “tay lấm chân bùn” và được đặt trong những hoàn
cảnh giao tiếp phi quy thức.
Sự khác biệt trong việc sử dụng các phương tiện xưng hô đã làm lên nét
đặc sắc trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Ngọc Tư. Mỗi
tác giả một thế mạnh trong sáng tác tạo thành một phong cách nghệ thuật
riêng. Với Nguyễn Huy Thiệp, sự đa dạng trong đề tài đã làm nên sự phong
phú trong cách thức sử dụng các phương tiện xưng hô, chứng tỏ năng lực sáng
tạo của cây bút lão luyện.
Với tập truyện “Cánh đồng Bất Tận”, Nguyễn Ngọc Tư đã thành công
xuất sắc khi viết về những con người đồng bằng sông nước Cửu Long: giản dị
mà ân tình, đằm thắm với tấm lòng yêu mến, trân trọng của người con đối với
quê hương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97
5. Việc danh từ thân tộc đứng đầu về số lượng xuất hiện cũng như tần
số sử dụng trong truyện ngắn của hai tác giả đã chứng tỏ xu thế “gia đình
hoá” trong xưng hô của người Việt hiện nay.
Thực hiện luận văn “Đối chiếu các phương tiện dùng để xưng hô trong
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư” là
một bước thử nghiệm mới trong nghiên cứu từ xưng hô dưới góc độ ngữ dụng
học, từ đó nhằm khẳng định tài năng và phong cách nghệ thuật của hai tác giả
Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Ngọc Tư. Chúng tôi hi vọng rằng, kết quả
nghiên cứu trên đây sẽ gợi mở những hướng đi mới trong nghiên cứu về tác
phẩm văn chương dưới cái nhìn của ngữ dụng học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diệp Quang Ban (2002), Ngữ pháp tiếng Việt, tập 1, Nxb GD, Hà Nội.
2. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt (tiếng - từ ghép - đoản ngữ),
NXB ĐH & THCN, Hà Nội.
3. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb ĐH
& THCN, Hà Nội.
4. Đỗ Hữu Châu (1986), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb KHXH,
Hà Nội.
5. Đỗ Hữu Châu (1987), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb ĐH&THCN, Hà
Nội.
6. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb GD, Hà Nội.
7. Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2, Nxb GD, Hà Nội.
8. Hoàng Thị Châu (1986), Tiếng Việt trên các miền đất nước, Nxb KHXH, Hà
Nội.
9. Hoàng Thị Châu (1995), Vài đề nghị về chuẩn hoá cách xưng hô trong xã
giao, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 3.
10. Nguyễn Văn Chiến (1993), Từ xưng hô trong tiếng Việt. Việt Nam những
vấn đề ngôn ngữ và văn hoá, Hội ngôn ngữ học Việt Nam, Trường ĐHNN,
Hà Nội.
11. Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng học tiếng Việt, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
12. Lương Thị Hiền (2006), Các phương tiện ngôn ngữ biểu thị quyền lực
trong hội thoại gia đình người Việt (qua một số tác phẩm văn học 1930 –
1945), Luận văn thạc sĩ, Trường ĐHSP Hà Nội.
13. Lương Văn Hy (2000), Ngôn từ, giới và nhóm xã hội từ thực tiễn tiếng
Việt, Nxb KHXH, Hà Nội.
14. Nguyễn Văn Khang (chủ biên, 1998), Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp
gia đình người Việt, Nxb VHTT, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99
15. Lê Thanh Kim (2000), Từ xưng hô và cách xưng hô trong các phương
ngữ tiếng Việt từ góc nhìn của lý thuyết xã hội ngôn ngữ học, Luận án tiến
sĩ, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
16. Hồ Thị Lân (1989), Tìm hiểu vai trò của từ xưng hô trong giao tiếp và các
nhân tố tác động đến từ xưng hô, Luận văn sau đại học, Trường ĐHSP Hà
Nội.
17. Trần Thị Kim Loan (2008), Tìm hiểu về từ láy trong một số truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư, Khoá luận tốt nghiệp đại học, Đại học An Giang.
18. Nguyễn Thị Trà My (2007), Ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, Khoá luận tốt nghiệp đại học, Đại học Thái Nguyên.
19. Hoàng Phê (chủ biên, 2000), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb
Đà Nẵng.
20. Nguyễn Phú Phong (1996), Đại danh từ nhân xưng tiếng Việt, Tạp chí Ngôn
ngữ.
21. Hữu Quỳnh (1996), Ngữ pháp tiếng Việt hiện đại, Nxb GD, Hà Nội.
22. N.V.Stankêvich (1993), Cần tìm hiểu thêm về cách xưng hô trong tiếng
Việt, Việt Nam những vấn đề ngôn ngữ và văn hoá, Hội ngôn ngữ học
Việt Nam, Trường ĐHNN Hà Nội.
23. Trần Ngọc Sanh (2003), Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ chức vị trong
giao tiếp tiếng Việt, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐHSP Hà Nội.
24. Phạm Ngọc Thưởng (1994), Về đại từ nhân xưng ngôi thứ 3, Tạp chí
Nghiên cứu Giáo dục, số 10.
25. Phạm Ngọc Thưởng (1995), Xưng hô giữa vợ và chồng trong gia đình
người Tày - Nùng, Tạp chí Dân tộc học, số 1.
26. Phạm Ngọc Thưởng (1998), Cách xưng hô trong tiếng Nùng, Luận án tiến
sĩ, Trường ĐHSP Hà Nội.
27. Nguyễn Huy Thiệp (2005), Truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100
28. Phạm Văn Tình (1997), Nhân xem “Bảy sắc cầu vồng” Bàn thêm về cách
xưng hô trong nhà trường, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 9.
29. Nguyễn Ngọc Tư (2006), Cánh đồng Bất Tận, NXB Trẻ.
30. Như ý (1990), Vai xã hội và ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp, Tạp chí Ngôn
ngữ, số 3.
31. Bùi Minh Yến (1990), Xưng hô giữa vợ và chồng trong gia đình người
Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.
32. Bùi Minh Yến (1993), Xưng hô giữa anh chị và em trong gia đình người
Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.
33. Bùi Minh Yến (1994), Xưng hô giữa ông bà và cháu trong gia đình người
Việt, Tạp chí ngôn ngữ, số 2.
34. Bùi Minh Yến (2001), Từ xưng hô trong gia đình đến xưng hô ngoài xã
hội, Luận án tiến sĩ, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
PHỤ LỤC
Bảng 1.1: Hệ thống các phương tiện dùng để xưng hô trong 15 truyện ngắn
(trích tập “Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”) của Nguyễn Huy Thiệp
S
T
T
T
ừ
x
ư
n
g
h
ô
C
h
ảy
đ
i
sô
n
g
ơ
i
T
ư
ớ
n
g
v
ề
h
ư
u
M
u
ố
i
củ
a
rừ
n
g
P
h
ẩm
t
iế
t
T
h
ư
ơ
n
g
n
h
ớ
đ
ồ
n
g
q
u
ê
T
ru
y
ện
t
ìn
h
k
ể
tr
o
n
g
đ
êm
m
ư
a
C
o
n
g
ái
t
h
u
ỷ
t
h
ần
N
h
ữ
n
g
n
g
ư
ờ
i
th
ợ
x
ẻ
K
h
ô
n
g
c
ó
v
u
a
N
h
ữ
n
g
n
g
ọ
n
g
ió
H
u
a
T
át
K
iế
m
s
ắc
N
h
ữ
n
g
b
ài
h
ọ
c
n
ô
n
g
t
h
ô
n
H
u
y
ền
t
h
o
ại
p
h
ố
p
h
ư
ờ
n
g
G
iọ
t
m
áu
C
h
ú
t
th
o
án
g
X
u
ân
H
ư
ơ
n
g
T
ổ
n
g
s
ố
1 Tôi 5 15 12 17 79 56 36 8 48 10 53 43 382
2 ta 1 27 4 1 4 31 8 10 86
3 tao 22 9 3 6 4 15 20 5 4 1 89
4 tớ 2 2 4
5 mày 4 4 4 14 12 11 21 20 2 4 10 1 107
6 mình 4 3 1 2 2 4 3 19
7 nàng 3 3
8 (tiện) thiếp 2 1 2 5
9 anh 22 17 1 90 27 23 3 2 17 202
10 em 8 19 7 6 4 32 15 3 7 8 16 125
111111 ông 6 7 1 15 2 4 4 5 44 8 96
12 chị 5 10 2 9 5 6 1 27 65
13 cậu 1 6 2 6 8 5 6 34
14 chú 8 6 3 5 16 2 21 61
15 cô 4 1 3 1 3 17 29
16 bà 11 1 5 1 16 34
17 bác 3 1 1 1 35 2 1 5 1 50
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18 cháu 2 14 5 2 6 3 4 6 42
19 bố 2 1 6 2 1 12
20 mẹ 1 2 2 2 1 1 9
21 cụ 1 2 3
22 cha 1 13 4 1 18
23 con 15 5 6 8 3 7 2 7 8 3 64
24 mợ 1 1
25 u 3 1 4
26 chúng ta 1 1 3 4 9
27 chúng tao 1 1
28 chúng tôi 1 1 2 2 3 9
29 chúng mày 3 7 1 11
30 chúng mình 1 1
31 chúng con 1 3 4
32 chúng em 15 3 3 21
33 chúng ông 1 1 2
34 chúng cháu 3 3
35 đệ 32 32
36 quan bác 17 7 24
37 quan 1 1
38 quan lớn 1 1
39 thím 2 2
40 bà chị 7 2 9
41 bà lão 1 1
42 dì 1 1
43 các con 1 2 3
44 các cháu 1 1
45 các chú 1 1 2 4
46 các bác 12 12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47 các anh 3 1 3 7
48 các ông 2 1 3
49 các bố 1 1
50 các cụ 1 1
51 các bà 1 1
52 cậu mợ 1 1 2
53 ông anh 1 1 2
54 ông trẻ 1 1
55 ông trí thức con 1 1
56 ông mãnh 1 1
57 ông bà 2 2
58 anh chị 1 1
59 ông chú 2 2
60 bọn chú 1 1
61 chú mày 3 1 4
62 chú em 1 1
63 bọn này 1 1
64 bọn anh 2 2
65 bọn mình 2 2
66 bọn ngươi 1 1
67 thầy 3 3
68 thầy giáo 2 2
69 bác sĩ 1 1
70 em giai 1 1
71 công chúa 1 1
72 công tử bột 2 2
73 quận chúa 7 7
74 ông giáo 1 1
75 cô em 2 2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
76 bà chúa 1 1
77 mẹ đĩ 1 1
78 chú thím 2 2
79 đại nhân 3 3
80 tướng quân 2 2
81 mõ 1 1
82 chư tướng 1 1
83 chư vị 2 2
84 ái khanh 1 1
85 quan tri châu 4 4
86 trượng phu 1 1
87 chúa công 16 16
88 ngươi 12 12
89 đầy tớ 1 1
90 chủ 1 1
91 thần 1 1
92 con gái ta 1 1
93 bệ hạ 17 17
94 hai bác 3 3
95 hai vợ chồng 1 1
96 vợ chồng em 1 1
97 bố thợ xẻ 1 1
98 các bố thợ xẻ 1 1
99 thằng khỉ 1 1
100 con ranh con 1 1
101 đồ chó 1 1
102 khỉ 1 1
103 thằng khốn nạn 1 1
104 thằng mặt xanh 1 1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105 thằng đểu 1 1
106 hai cha con 2 2
107 đồ ruồi nhặng 1 1
108 vợ chồng thằng Cấn 1 1
109 nỉ 1 1
110 ngộ 1 1
111 chị tôi 1 1
112 gia đình em 1 1
113 chị em chúng tôi 1 1
114 ba bà cháu 1 1
115 mấy bà cháu 1 1
116 chị em chúng mày 1 1
117 người trời 1 1
118 con lão Ba Đình 1 1
119 mẹ con mình 1 1
120 một con đàn bà
khốn nạn
1 1
121 đồ con đĩ 1 1
122 người Kinh các ông 1 1
123 bọn Sâm 1 1
124 thằng Khải 1 1
125 Hoàn 1 1
126 anh Thuần 2 2
127 chị Lài 1 1
128 chị Thuỷ 1 1
129 anh Nhâm 1 1
130 Nhâm 7 7
131 Mị 1 1
132 bà Hùng 1 1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
133 Sinh 1 9 10
134 cháu Sinh 1 1
135 Chương 6 6
136 anh Chương 8 8
137 cậu Chương 1 1
138 Mẹ Cả 1 1
139 Phượng 1 1
140 Dĩnh 1 1
141 Biền 1 1
142 chú Biền 1 1
143 bác Bường 3 3
144 anh Bường 1 1
145 Ngọc 4 4
146 thằng Ngọc 3 3
147 anh Ngọc 1 1
148 em Quy 1 1
149 thằng Biên thằng Biền 2 2
150 Đặng Xuân Bường 1 1
151 chú Khiêm 3 3
152 anh Khiêm 1 1
153 Khiêm 1 1
154 anh Đoài 1 1
155 chú Đoài 3 3
156 thằng Đoài 1 1
157 Khảm 1 1
158 chú Khảm 2 2
159 anh Cấn 3 3
160 Tốn 1 1
161 chị Sinh 4 4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
162 Tôi Nguyễn Sĩ Kiền 1 1
163 Khó 1 1
164 Hếnh 1 1
165 Lân 3 3
166 Cầm 1 1
167 Tiến 2 2
168 Hiếu 12 12
169 anh Hiếu 1 1
170 thằng Lâm 1 1
171 cái Khanh 1 1
172 bác Ba Đình 1 1
173 ông Ba Đình 1 1
174 Hiên 1 1
175 chị Hiên 1 1
176 bà Hợp 1 1
177 cậu Phúc 1 1
178 Thoa 2 2
179 cô Duyên 1 1
180 Hạnh 1 1
181 ông Phong 3 3
182 thằng Điềm 1 1
183 chú Huy 1 1
184 chú ấm Huy 1 1
185 chị Hương 1 1
186 Diểu 1 1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bảng 1.2: Hệ thống đại từ nhân xưng làm phương tiện xưng hô trong
15 truyện ngắn (trích tập “Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”)
của Nguyễn Huy Thiệp
STT Từ xưng hô
Số
lượng
Đại từ nhân xưng
Số
ít
Số
nhiều
Từ vay
mượn
gốc Hán
Ghi chú
1 tôi 382 +
2 ta 86 +
3 tao 89 +
4 tớ 4 +
5 mày 107 +
6 mình 19 +
7 nàng 3 + + biệt ngữ triều đình phong kiến
8 (tiện) thiếp 5 + + biệt ngữ triều đình phong kiến
9 chúng ta 9 +
10 chúng tao 1 +
11 chúng tôi 9 +
12 chúng mày 11 +
13 chúng mình 1 +
14 đệ 32 + + biệt ngữ triều đình phong kiến
15 bọn mình 2 +
16 đại nhân 3 + + biệt ngữ triều đình phong kiến
17 ái khanh 1 + + biệt ngữ triều đình phong kiến
18 ngươi 12 + + biệt ngữ triều đình phong kiến
19 thần 1 + + biệt ngữ triều đình phong kiến
20 nỉ 1 + + từ gốc Hán
21 ngộ 1 + + từ gốc Hán
22 trượng phu 1 + + biệt ngữ triều đình phong kiến
23 bọn ngươi 1 + + biệt ngữ triều đình phong kiến
Tổng số 781
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bảng 1.3: Hệ thống danh từ thân tộc làm phương tiện xưng hô trong
15 truyện ngắn (trích tập “Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”)
của Nguyễn Huy Thiệp
STT Từ xưng hô
Số
lượng
Danh từ thân tộc
1
hình
vị
≥ 2 hình vị
Kết hợp
với
danh từ
thân tộc
Kết hợp với
danh từ đơn
vị
Kết hợp
với số từ
Kết hợp
với yếu tố
chỉ đặc
điểm, tính
chất…
1 anh 202 +
2 em 125 +
3 ông 96 +
4 chị 65 +
5 cậu 34 +
6 chú 65 +
7 cô 29 +
8 bà 34 +
9 bác 50 +
10 cháu 42 +
11 bố 12 +
12 mẹ 9 +
13 cụ 3 +
14 cha 18 +
15 con 64 +
16 mợ 1 +
17 thím 2 +
18 u 4 +
19 dì 1 +
20 chúng con 4 +
21 chúng em 21 +
22 chúng ông 2 +
23 chúng cháu 3 +
24 bà chị 9 +
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25 bà lão 1 +
26 các con 3 +
27 các cháu 1 +
28 các chú 4 +
29 các bác 12 +
30 các anh 7 +
31 các ông 3 +
32 các bố 1 +
33 các cụ 1 +
34 các bà 1 +
35 cậu mợ 2 +
36 ông anh 2 +
37 ông trẻ 1 + +
38 ông mãnh 1 + +
39 ông bà 2 +
40 anh chị 1 +
41 cô chú 2 +
42 chú em 1 +
43 em giai 1
44 bọn chú 1 +
45 bọn anh 2 +
46 cô em 2 +
47 mẹ đĩ 1 +
48 bà chúa 1 +
49 chú thím 2 +
50 hai bác 3 +
51 hai vợ chồng 1 + +
52 hai cha con 2 + +
53 ba bà cháu 1 + +
54 mấy bà cháu 1 + +
55 vợ chồng em 1 +
56 thầy 3 +
Tổng số 969
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bảng 1.4: Hệ thống danh từ chỉ tên riêng làm phương tiện xưng hô trong
15 truyện ngắn (trích tập “Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”)
của Nguyễn Huy Thiệp
STT Từ xưng hô
Số
lượng
Danh từ chỉ tên riêng
Tên
riêng
Kết
hợp với
danh từ
thân
tộc
Kết
hợp
với đại
từ nhân
xưng
Kết
hợp với
danh từ
đơn vị
Họ và
tên riêng
(+ đại từ
nhân
xưng)
Biệt
danh
1 bọn Sâm 1 +
2 thằng Khải 1 +
3 Hoàn 1 +
4 anh Thuần 2 +
5 chị Lài 1 +
6 chị Thuỷ 1 +
7 anh Nhâm 1 +
8 Nhâm 7 +
9 Mị 1 +
10 bà Hùng 1 +
11 Sinh 10 +
12 cháu Sinh 1 +
13 Chương 6 +
14 anh Chương 8 +
15 cậu Chương 1 +
16 Mẹ Cả 1 +
17 Phượng 1 +
18 Dĩnh 1 +
19 Biền 1 +
20 chú Biền 1 +
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21 bác Bường 3 +
22 anh Bường 1 +
23 Ngọc 4 +
24 thằng Ngọc 3 +
25 anh Ng ọc 1 +
26 thằng Biên thằng
Biền
2 +
27 em Quy 1 +
28 Đặng Xuân Bường 1 +
29 chú Khiêm 3 +
30 anh Khiêm 1 +
31 anh Đoài 1 +
32 chú Đoài 3 +
33 thằng Đoài 1 +
34 chú Khảm 2 +
35 Khảm 1 +
36 anh Cấn 3 +
37 Tốn 1 +
38 chị Sinh 4 +
39 Tôi Nguyễn Sĩ Kiền 1 +
40 Khó 1 +
41 Hếnh 1 +
42 Lân 3 +
43 Cầm 1 +
44 Tiến 2 +
45 Hiếu 12 +
46 thằng Lâm 1 +
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47 cái Khanh 1 +
48 bác Ba Đình 1 +
49 ông Ba Đình 1 +
50 Hiên 1 +
51 chị Hiên 1 +
52 anh Hiếu 1 +
53 bà Hợp 1 +
54 cậu Phúc 1 +
55 Thoa 1 +
56 cô Duyên 1 +
57 Hạnh 1 +
58 ông Phong 3 +
59 thằng Điềm 1 +
60 Diểu 1 +
61 chú Huy 1 +
62 chú ấm Huy 1 (từ cũ)
63 chị Hương 1 +
64 Khiêm 1 +
Tổng số 126
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bảng 1.5: Hệ thống danh từ chỉ nghề nghiệp - chức vụ làm phương tiện xưng
hô trong 15 truyện ngắn (trích tập “Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”)
của Nguyễn Huy Thiệp
STT Từ xưng hô Số lượng
Danh từ chỉ nghề nghiệp- chức vụ
Danh từ
chỉ nghề
nghiệp
Danh từ
chỉ chức
vụ
Kết hợp các
yếu tố mang
sắc thái biểu
cảm
1 quan bác 24 + +
2 quan 1 +
3 quan lớn 1 + +
4 thầy giáo 2 +
5 bác sĩ 1 +
6 công chúa 1 +
7 quận chúa 7 +
8 ông giáo 1 + +
9 tướng quân 2 +
10 mõ 1 +
11 quan tri châu 4 +
12 chúa công 16 +
13 đầy tớ 1 +
14 chủ 1 +
15 bệ hạ 17 +
16 bố thợ xẻ 1 + +
17 các bố thợ xẻ 1 + +
18 ông trí thức con 1 + +
Tổng số 83
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bảng 1.6: Các kiểu xưng hô khác làm phương tiện xưng hô trong
15 truyện ngắn (trích tập “Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”)
của Nguyễn Huy Thiệp
S
T
T
Từ xưng hô
Số
lượng
Kiểu loại xưng hô khác
Tiếng
chửi
tục
(chửi
thề)
Danh
từ thân
tộc +
đại từ
nhân
xưng
Danh
từ chỉ
sự
vật
Danh
từ
chung
+ danh
từ thân
tộc
Danh
từ thân
tộc +
danh
từ
riêng
Kết
hợp
với
đại từ
chỉ thị
1 thằng khỉ 1 +
2 con ranh con 1 +
3 đồ chó 1 +
4 thằng khốn nạn 1 +
5 thằng mặt xanh 1 +
6 thằng đểu 1 +
7 đồ ruồi nhặng 1 +
8 đồ con đĩ 1 +
9 chị em chúng tôi 1 +
10 chị em chúngmày 1 +
11 mẹ con mình 1 +
12 con gái ta 1 +
13 khỉ 1 +
14 người Kinh các ông 1 +
15 con lão Ba Đình 1 +
16 vợ chồng thằng Cấn 1 +
17 gia đình em 1 +
18 bọn này 1 +
19 người trời 1
20 chư vị 2
21 chư tướng 1
22 công tử bột 2
23 một con đàn bà khốn nạn 1
24 chú mày 4 +
25 chị tôi 1 +
Tổng số 30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bảng 2.1: Thống kê các phương tiện dùng để xưng hô trong tập truyện ngắn
“Cánh đồng Bất Tận” của Nguyễn Ngọc Tư.
S
T
T
T
ừ
x
ư
n
g
h
ô
C
ải
ơ
i
T
h
ư
ơ
n
g
q
u
á
ra
u
ră
m
H
iu
h
iu
g
ió
b
ấc
H
u
ệ
lấ
y
c
h
ồ
n
g
C
ái
n
h
ìn
k
h
ắc
k
h
o
ải
N
h
à
cổ
M
ố
i
tì
n
h
n
ăm
c
ũ
C
u
ố
i
m
ù
a
n
h
an
sắ
c
B
iể
n
n
g
ư
ờ
i
m
ên
h
m
ô
n
g
N
h
ớ
s
ô
n
g
D
ò
n
g
n
h
ớ
D
u
y
ên
p
h
ận
s
o
l
e
M
ộ
t
tr
ái
t
im
k
h
ô
C
án
h
đ
ồ
n
g
B
ất
T
ận
T
ổ
n
g
s
ố
1 tía 5 1 6
2 anh 1 5 2 2 1 1 2 1 7 1 1 24
3 ba 6 3 11 1 21
4 con 10 1 2 2 3 8 5 2 1 34
5 ông 1 1 1 3 6
6 em 3 1 2 3 1 7 8 6 4 7 42
7 má 1 6 1 5 3 3 19
8 cô 8 2 1 2 13
9 chú 1 2 3
10 chị 1 14 5 20
11 bà (= vợ) 1 1 2
12 mẹ 1 1
13 cha 3 3
14 ngoại 2 1 3
15 chế (= chị) 5 5
16 bác 2 2
17 cậu 1 1
18 mầy 1 2 8 6 2 1 1 2 23
19 mậy 1 1
20 mình 1 1 1 2 4 3 1 1 2 16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21 mày 2 1 3
22 bây 1 2 1 4 4 12
23 tui 2 1 3 1 3 2 1 4 16
24 tao 3 3 13 2 4 3 3 30
25 tôi 3 10 4 12 14 3 6 2 54
26 qua 30 30
27 bà con 1 1
28 cha nội 1 1 2
29 chú em 10 10
30 chú mầy 3 3
31 mấy chú 1 1
32 mấy ông 1 1
33 mấy anh 3 3
34 các anh 1 1
35 chúng mày 1 1
36 cha con tôi 1 1
37 má con tao 1 1
38 vợ chồng tôi 1 1
39 tụi bây 1 1 1 3
40 tụi em 1 1
41 tụi tôi 1 1 2
42 tụi tui 4 4
43 tụi mình 2 2
44 hai đứa 1 1
45 hai đứa bây 1 1
46 hai anh 1 1
47 tía Năm 1 1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48 cô Út 6 6
49 anh Hai 9 9
50 cô Ba 1 1
51 bác Sáu 1 1
52 Út Nhỏ 3 1
53 chú Út 1 1
54 con Út Nhỏ 1 1
55 anh Tám 1 1
56 anh Chín 2 2
57 chú Chín 1 1
58 thằng Mười 1 1
59 cô Hồng 2 2
60 con Nga 1 1
61 con Hai 3 3
62 cô Hai 1 3 4
63 con Thuỷ 1 1
64 cô Xuyến 2 2
65 cô Hậu 2 2
66 Hai 6 6
67 Xuyến 1 1
68 Nhâm 2 2
69 Cải 5 5
70 Hoài 3 3
71 Hảo 1 1
72 Thi 1 1
73 Điềm 1 1
74 Sương 1 1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
75 Thể 1 1
76 Hồng 2 2
77 Nương 2 2
79 Điền 4 4
80 Cộc (vịt) 9 9
80 nhà anh Năm 1 1
81 cưng 1 4 5
82 mấy cưng 9 9
83 nhỏ cưng 1 1
84 chú bác sĩ 1 1
85 thằng ma cà
bông
1 1
86 con nhỏ ngông
này
1 1
87 thằng Tứ Hải 1 1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bảng 2.2: Hệ thống đại từ nhân xưng làm phương tiện xưng hô trong tập
truyện ngắn “Cánh đồng Bất Tận” của Nguyễn Ngọc Tư
STT
Từ xưng
hô
Số lượng
Đại từ nhân xưng
Số ít
Số nhiều
1 hình vị
≥ 2 hình vị
Kết hợp
với số từ
Kết hợp
với danh
từ đơn vị
1 mầy 23 +
2 mậy 1 +
3 mình 16 +
4 mày 3 +
5 bây 12 +
6 tui 16 +
7 tao 30 +
8 tôi 54 +
9 qua 30 +
10 chúng mày 1 +
11 tụi bây 3 +
12 tụi tui 4 +
13 tụi tôi 2 +
14 tụi mình 2 +
15 hai đứa
mình
1 +
Tổng số 198
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bảng 2.3: Hệ thống danh từ thân tộc làm phương tiện xưng hô trong tập
truyện ngắn “Cánh đồng Bất Tận” của Nguyễn Ngọc Tư
STT Từ xưng hô
Số
lượng
Danh từ thân tộc
1
hình
vị
≥ 2 hình vị
Kết
hợp
với
danh
từ đơn
vị
Kết
hợp
với
số từ
Kết hợp
các
danh từ
thân tộc
Kết hợp
với các
yếu tố chỉ
đặc điểm,
tính
chất...
Kết
hợp
với
đại từ
nhân
xưng
1 anh 24 +
2 tía 6 +
3 ba 21 +
4 con 34 +
5 ông 6 +
6 em 42 +
7 má 19 +
8 cô 13 +
9 chú 3 +
10 chị 20 +
11 bà (= vợ) 2 +
12 mẹ 1 +
13 chế (= chị) 5 +
14 ngoại 3 +
15 cha 3 +
16 bác 2 +
17 cậu 1 +
18 bà con 1 +
19 cha nội 2 +
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20 chú em 10 +
21 mấy chú 1 +
22 mấy ông 1 +
23 mấy anh 3 +
24 các anh 1 +
25 tụi em 1 +
26 hai anh 1 +
27 tía Năm 1 +
28 cô Út 6 +
29 anh Hai 9 +
30 cô Ba 1 +
31 bác Sáu 1 +
32 chú Út 1 +
33 anh Tám 1 +
34 anh Chín 2 +
35 chú Chín 1 +
36 thằng Mười 1 +
37 con Hai 3 +
38 cô Hai 4 +
39 chú mầy 3 +
40 con Út nhỏ 1 +
41 Út nhỏ 1 +
42 anh Năm 1 +
Tổng số 263
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bảng 2.4: Hệ thống danh từ chỉ tên riêng làm phương tiện xưng hô trong tập
truyện ngắn “Cánh đồng Bất Tận” của Nguyễn Ngọc Tư.
STT Từ xưng hô Số lượng
Danh từ chỉ tên riêng
Tên
riêng
Kết hợp với
danh từ
thân tộc
Kết hợp
với danh
từ đơn vị
1 cô Hồng 2 +
2 Hồng 2 +
3 con Nga 1 +
4 con Thuỷ 1 +
5 cô Xuyến 2 +
6 cô Hậu 2 +
7 Xuyến 1 +
8 Nhâm 2 +
9 Cải 5 +
10 Hoài 3 +
11 Hảo 1 +
12 Thi 1 +
13 Điềm 1 +
14 Cộc (= vịt) 9 +
15 Nương 2 +
16 Điền 4 +
17 Sương 1 +
18 Thể 1 +
19 thằng Tứ hải 1 +
Tổng số 42
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bảng 2.5: Kiểu xưng hô khác làm phương tiện xưng hô trong tập truyện ngắn
“Cánh đồng Bất Tận” của Nguyễn Ngọc Tư.
STT
Từ xưng
hô
Số
lượng
Kiểu loại xưng hô khác
Kết hợp
danh từ
thân tộc
và đại từ
nhân
xưng
Số từ
+ danh
từ đơn
vị
Từ chỉ
trật tự,
vị trí
trong
gia
đình
Tính từ
chuyển
hoá
thành
danh từ
Danh
từ đơn
vị +
đặc
điểm
1 cha con tôi 1 +
2 má con tao 1 +
3 vợ chồng
tôi
1 +
4 hai đứa 1 +
5 Hai 6 +
6 cưng 5 +
7 mấy cưng 9 +
8 nhỏ cưng 1 +
9 thằng ma
cà bông
1 +
10 con nhỏ
ngông này
1 +
Tổng số 27
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ac.pdf