Luận văn Đổi mới mô hình tổ chức giải quyết khiếu kiện hành chính ở nước ta hiện nay

MỞ ĐẦU Nhà nước XHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân, quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân được Nhà nước bảo đảm. Công dân , tổ chức có quyền khiếu nại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có căn cứ để cho rằng có QĐHC, HVHC của cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Do vai trò , vị trí quan trọng của quyền khiếu nại trong đời sống chính trị, xã hội ngay từ khi ra đời, Đảng và Nhà nước ta đã chú ý đặc biệt đến công tác giải quyết khiếu nại của công dân, cơ quan, tổ chức, nên hoạt động giải quyết khiếu nại cuûa Nhà nước ta ngày càng được đổi mới và hoàn thiện. Điều này được phản ánh trước hết thông qua tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước. Trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, cùng với các cơ quan trong bộ máy nhà nước, hệ thống thanh tra nhà nước đã góp phần đáng kể trong việc giải quyết các khiếu nại hành chính. Bên cạnh đó, chúng ta vẫn phải thừa nhận một thực tế là trong nhiều lĩnh vực thuộc đời sống xã hội vẫn còn tình trạng thiếu dân chủ, kỷ cương lỏng lẻo, bộ máy nhà nước của chúng ta vẫn còn kồng kềnh gây lãng phí ngân quỹ nhà nước, việc giải quyết khiếu nại còn chậm, chồng chéo, trùng lắp, hiệu quả chưa cao. Nhằm đổi mới tổ chức, hoạt động giải quyết khiếu nại hành chính, cùng với việc tiếp tục trao quyền giải quyết các khiếu nại hành chính cho các cơ quan hành chính nhà nước, từ ngày 01/7/1996 hệ thống Tòa án nhân dân cũng được củng cố và trao thêm thẩm quyền giải quyết một số KKHC. 1. Lý do chọn đề tài Qua giải quyết các KKHC, Tòa án đã góp phần tích cực vào việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện, tăng cường pháp chế XHCN và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Tuy nhiên, việc thiết lập hệ thống các cơ quan nhà nước để giải quyết các KKHC cũng đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần nghiên cứu như: - Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động giải quyết KKHC. Việc tổ chức hoạt động giải quyết KKHC cuả chúng ta có phù hợp với cơ sở lý luận này hay không? - Các nước khác tổ chức hoạt động giải quyết KKHC ra sao, những ưu điểm và hạn chế của các mô hình này? - Pháp luật của nhà nước ta quy định thế nào về mô hình giải quyết KKHC; Thực tế hoạt động giải quyết KKHC của chúng ta? - Tại sao hoạt động giải quyết KKHC của Tòa án đã trải qua hơn 10 năm nhưng số lượng đơn khởi kiện vẫn ít, tỷ lệ các phán quyết hành chính được thi hành còn thấp. Trong khi đó số lượng đơn khiếu nại gửi đến các cơ quan hành chính vẫn còn nhiều. Đâu là nguyên nhân của tình trạng trên? Chúng ta phải làm gì để khắc phục ? - Việc duy trì hai hệ thống giải quyết các tranh chấp hành chính như hiện nay có còn phù hợp hay không. Nếu còn phù hợp thì cần hoàn thiện như thế nào để các cơ quan này hoạt động có hiệu quả hơn? Nếu việc tổ chức mô hình giải quyết như hiện nay không còn phù hợp thì nên đổi mới như thế nào. Cơ sở lý luận và thực tiễn để đề ra mô hình mới? Là người trực tiếp tham gia giải quyết các KKHC ngay từ khi Toà hành chính- Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh được thành lập, trên cơ sở các kiến thức tiếp thu được trong quá trình theo học khoá đào tạo cao học luật, tôi chọn đề tài “Đổi mới mô hình tổ chức giải quyết khiếu kiện hành chính ở nước ta hiện nay.” làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu KKHC là một thực tế khách quan phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước của mọi quốc gia, không phân biệt đó là chính thể hoặc chế độ chính trị nào. Ngay từ khi giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến vấn đề giải quyết KKHC [65, Tr 30]. Nhiều công trình nghiên cứu về tổ chức và hoạt động giải quyết KKHC (bao gồm giải quyết khiếu nại hành chính và khởi kiện vụ án hành chính) đã được thực hiện như: Coâng trình “Thiết lập tài phán hành chính ở nước ta” cuûa Học viện Hành chính quốc gia do GS. TSKH Nguyễn Duy Gia chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội-1995; “Tìm hiểu về tài phán hành chính ở Việt Nam” cuûa PTS Phạm Hòang Thái và PTS Đinh Văn Mậu, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh -1996; “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền” cuûa PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Nhà xuất bản Tư pháp- 2004, trong đó có nghiên cứu về tổ chức Toà hành chính Ngoài ra, một số cơ sở đào tạo đại học luật, đại học hành chính như Đại học Luật Hà Nội, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Học viện hành chính quốc gia, cũng đã nghiên cứu và đưa vào giáo trình luật hành chính cuả mình những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động giải quyết KKHC. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nêu trên chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu ở những vấn đề chung nhất về lý luận và thực tiễn. Về phía các cơ quan hành chính nhà nước , ngày 19/11/2004 Thủ tướng Chính phủ có Văn bản số 6327/VPCP-CV giao Thanh tra Chính phủ chủ trì, soạn thảo Đề án thành lập cơ quan TPHC ở Việt Nam. Hiện nay công trình này đang trong giai đọan triển khai nên nhìn chung vấn đề tổ chức và hoạt động giải quyết các KKHC ở nước ta theo mô hình như thế nào là phù hợp, có hiệu quả nhất vẫn đang là một vấn đề có tính thời sự, cần được sự quan tâm nghiên cứu của các cơ quan chức năng và các nhà khoa học. 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài: -Hệ thống hoùa các lý luận về KKHC, mô hình tổ chức giải quyết KKHC ở một số quốc gia khác. -Làm rõ thưc trạng về tổ chức và hoạt động giải quyết các KKHC ở Việt Nam. -Đánh giá các mặt tích cực và hạn chế trong việc tổ chức và hoạt động giải quyết KKHC ở nước ta. -Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nghiên cưú, đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới, hoàn thiện pháp luật về Tòa chức hoạt động giải quyết các KKHC ở nước ta. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài là việc KKHC và mô hình tổ chức giải quyết KKHC. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật. Trên cơ sở phương pháp luận trên, đề tài này sử dụng các phương pháp nhận thức khoa học cụ thể như: - Phương pháp trừu tượng khoa học; - Phương pháp so sánh; - Phương pháp tổng hợp, thống kê; - Phương pháp phân tích đánh giá 5. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài Để nghiên cứu về khiếu kiện hành chính và tổ chức mô hình giải quyết KKHC không thể không vận dụng những quy tắc cơ bản, các phạm trù, khái niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng như các khái niệm chính trị học, hành chính học hiện đại. Chúng cho phép ta nhận thức và thấu hiểu bản chất cũng như đặc điểm riêng của KKHC và việc giải quyết KKHC, hiểu được mối quan hệ giữa chúng với nhau và giữa chúng với các vấn đề có liên quan khác. Về mặt cơ sở lý luận, đề tài này sử dụng những thành tựu lý luận của khoa học Luật hành chính thế giới, trước hết là của các nước XHCN. Hệ thống các khái niệm, phạm trù, quan điểm được sử dụng trong đề tài cũng bắt nguồn từ những kết luận khoa học của lý luận luật hành chính XHCN, ñồng thời còn tiếp thu những yếu tố khoa học, hợp lý liên quan đến các lý luận về KKHC và các mô hình tổ chức giải quyết KKHC của các nước có chế độ chính trị khác nhau. Nguồn tư liệu quan trọng của đề tài này là các nghị quyết của Đảng CSVN, đặc biệt là chủ trương đổi mới và tăng cường hiệu lực của bộ máy nhà nước, thực hiện cải cách bộ máy hành chính nhà nước và tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật của Đảng và Nhà Nước ta hiện nay. Ngoài ra, đề tài này còn tham khảo, sử dụng các giáo trình có liên quan , các công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước Cơ sở thực tiễn chủ yếu của luận văn là thực tiễn hoạt động giải quyết KKHC của của Tòa án nhân dân; hoạt động giải quyết khiếu nại hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước. Nguồn thông tin được sử dụng làm cơ sở nghiên cứu thực tiễn nêu trên là các văn bản quy phạm pháp luật, các báo cáo tổng kết hoạt động, các tham luận của các cơ quan nhà nước, các nhà khoa học có liên quan và các hiểu biết của tác giả trong hơn 10 năm trực tiếp tham gia vào hoạt động giải quyết KKHC tại Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Hy vọng các giải pháp đổi mới mô hình tổ chức giải quyết KKHC ở nước ta do đề tài này đề xuất sẽ góp phần hoàn thiện hơn nữa hệ thống lý luận khoa học luật hành chính và cung cấp được những thông tin có ý nghĩa cho các cơ quan chức năng trong việc đổi mới và hoàn thiện mô hình tổ chức giải quyết KKHC ở nước ta. 7. Về kết cấu của đề tài Nội dung đề tài được chia làm ba chương: - Chương 1: Cơ sở lý luận về KKHC, lịch sử và thực trạng KKHC ở nước ta. - Chương 2: Cơ sở lý luận về tài phán hành chính, thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về tài phán hành chính ở nước ta. - Chương 3: Vấn đề hoàn thiện mô hình tài phán hành chính ở nước ta.

doc106 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2124 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đổi mới mô hình tổ chức giải quyết khiếu kiện hành chính ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành chính. Như vậy, nhìn phiến diện quyền quyết định cuối cùng về tài phán hành chính tưởng như chỉ thuộc về cơ quan Tòa án nhưng thực chất chúng ta vẫn tồn tại song song hai hệ thống cơ quan nhà nước cùng có chức năng giải quyết các KKHC. Việc tồn tại song song hai hệ thống cơ quan TPHC làm cho bộ máy nhà nước cồng kềnh, trùng lắp, lãng phí nhân, tài lực, trong nhiều trường hợp còn tạo ra sự lẫn lộn, tranh chấp không cần thiết về thẩm quyền giải quyết giữa hai hệ thống cơ quan này. 2.2.3.2. Các hạn chế cuả mô hình Tòa hành chính hiện hành Việc pháp luật Việt Nam cho phép các cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án hành chính đối với các QĐHC, HVHC cuả cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước ra trước Toà án một bước phát triển đáng kể trong việc xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghiã, là bằng chứng cụ thể cuả một xã hội dân chủ, với mục tiêu xây dựng một nền tư pháp vững mạnh, không ngừng bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp cuả công dân. Mặc dù từ năm 1996 đến nay, nhà nước ta liên tục có các điều chỉnh về pháp luật để hoạt động giải quyết các vụ án hành chính cuả Toà án phát huy được vai trò cuả mình, nhưng mô hình tổ chức giải quyết các KHHCcuả Toà án hiện hành vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. Một là, pháp luật về khiếu nại không hạn chế quyền khởi kiện cuả các đương sự đối với QĐHC, HVHC nhưng pháp luật về tố tụng vụ án hành chính lại hạn chế quyền khởi kiện này cuả các đương sự. Điều này thể hiện sự không thống nhất giữa các văn bản pháp luật khác nhau về cùng một vấn đề có liên quan, thể hiện sự vi phạm nguyên tắc pháp chế trong lĩnh vực ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cuả Nhà nước. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả và hạn chế vai trò cuả Tòa án trong việc giải quyết KKHC. Hai là, tổ chức hệ thống Tòa án hiện hành, trong đó có Tòa hành chính, tương ứng với cấp hành chính đã bộc lộ nhiều điểm không phù hợp với thực tiễn, cụ thể: + Mặc dù cách tổ chức này đã tạo những điều kiện thuận lợi trong việc phối hợp công tác giữa cơ quan Tòa án với chính quyền điạ phương cùng cấp, nhưng khi phát sinh vụ án hành chính mà bị đơn là chính cơ quan nhà nước hoặc những người có thẩm quyền thì mối quan hệ nêu trên lại trở thành một áp lực có khả năng làm ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử cuả Tòa án. + Ngòai ra, khách thể cuả quản lý nhà nước là các hoạt động cuả các cá nhân, cơ quan, tổ chức, do vậy số lượng và tính chất cuả các vụ kiện ra Tòa hành chính phụ thuộc rất nhiều vào số lượng cơ quan, tổ chức, dân số cũng như tính chất cuả quan hệ hành chính bị khiếu kiện. Ở Việt Nam chúng ta hiện nay dù cùng đều là một đơn vị hành chính cấp tỉnh hoặc cấp huyện nhưng giữa tỉnh và thành phố hoặc giữa huyện với thị xã, quận, thậm chí giữa các quận, các thành phố trong cả nước cũng có sự chênh lệnh rất lớn về dân số, số lượng các cơ quan, tổ chức; tính chất, mức độ phức tạp cuả khách thể quản lý nhà nước cũng khác nhau nhưng tổ chức cấp Tòa án ở các đơn vị này như nhau. Hệ quả là cùng là Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc cấp huyện nhưng có Tòa án thì thụ lý, giải quyết rất nhiều vụ án nhưng có Tòa án thì rất ít. Nhiều Tòa án, nhất là Tòa án nhân dân cấp huyện các vùng nông thôn, miền núi, từ ngày có Tòa hành chính (1996) nhiều năm không hề thụ lý, giải quyết một vụ án hành chính nào[74-78]. Ba là, theo quy định cuả pháp luật hiện hành, ở các Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án cấp huyện không tổ chức bộ phận chuyên trách để giải quyết các khiếu kiện hành chính nên không phát huy được tính chuyên nghiệp, chuyên sâu cuả nghề nghiệp và công việc cuả đội ngũ thẩm phán Tòa án. Đặc biệt với thẩm quyền cuả các Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao là giải quyết phúc thẩm các vụ án mà các Tòa chuyên trách cuả các Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã xét xử thì mô hình tổ chức các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao như trên càng lộ rõ sự bất hợp lý cuả nó. * * * KKHC là một thực tại khách quan của mọi quốc gia, TPHC chính là cơ chế để giải quyết các khiếu kiện này. Tùy theo điều kiện chính trị, kinh tế và xã hội cụ thể, mỗi quốc gia có thể có hình thức tổ chức họat động TPHC khác nhau, cách thức của nước này có thể không phù hợp với nước khác. Ở nước ta, việc giải quyết KKHCđược pháp luật trao cho các cơ quan hành chính. Đối với một số khiếu kiện, pháp luật cho phép người dân được quyền lựa chọn hoặc khiếu nại theo thủ tục hành chính hoặc khởi kiện tại Tòa án. Với cơ chế này, thời gian qua chúng ta đã giải quyết được một phần lớn các khiếu kiện phát sinh. Tuy nhiên, trong việc giải quyết khiếu kiện của các cơ quan hành chính cũng như của Tòa án vẫn còn bộc lộ các hạn chế cần phải được tiếp tục nghiên cứu để đổi mới. Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HÒAN THIỆN MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA 3.1. Mô hình tài phán hành chính thuộc Chính phủ Để khắc phục một phần nào các hạn chế cuả cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính hieän haønh, thực hiện sự chỉ đạo cuả Thủ tướng Chính phủ, vưà qua Thanh tra Chính phủ đã có đề án đề nghị thành lập hệ thống TPHC thuộc Chính phủ tại Việt Nam[14] . Theo đề án này, một hệ thống cơ quan TPHC thuộc Chính phủ được tổ chức thành 3 cấp: TPHC trung ương- TPHC vùng- TPHC khu vực sẽ thay thế các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trong việc giải quyết các KKHC. Cơ quan TPHC trung ương đứng đầu là Thủ tướng Chính phủ, có thẩm quyền: - Giải quyết các khiếu kiện đối với QĐHC, HVHC cuả bộ trường, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, chủ tịch UBND cấp tỉnh. - Tư vấn cho Chính phủ về những vấn đề trong quản lý, chỉ đạo, điều hành, khắc phục sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. - Hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ xét xử cho cơ quan TPHC cấp dưới. Cơ quan TPHC vùng được thành lập ở 3 miền Bắc, Trung, Nam có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện đối với QĐHC, HVHC cuả giám đốc sở hoặc tương đương thuộc các tỉnh trong khu vực (TPHC miền Bắc còn có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện đối với QĐHC, HVHC cuả Thủ trưởng cơ quan thuộc bộ, thuộc cơ quan ngang bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ). Tư vấn cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý, điều hành đã được phát hiện qua hoạt động xét xử. Cơ quan TPHC khu vực (từ 3 đến 5 huyện thành lập một cơ quan tài phán) có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện đối với QĐHC, HVHC cuả chủ tịch UBND cấp huyện, trưởng phòng thuộc UBND cấp huyện, chủ tịch UBND cấp xã. Tư vấn cho các sở, ngành, UBND cấp huyện khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý, điều hành đã được phát hiện qua hoạt động xét xử. Để việc giải quyết KKHC được nhanh chóng, chính xác, kịp thời phù hợp với tính chất, đặc điểm, nội dung cuả từng loại khiếu kiện, trong cơ quan TPHC sẽ có những bộ phận chuyên biệt để giải quyết những khiếu kiện về thuế, sở hữu trí tuệ, đất đai… Trường hợp không đồng ý với phán quyết cuả cơ quan TPHC, các đương sự có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án để xem xét theo thủ tục giám đốc. Việc nghiên cứu, đề xuất mô hình TPHC như trên cuả Thanh tra Chính phủ thể hiện được sự cố gắng cuả cơ quan này trong việc tìm tòi, để đổi mới, hòan thiện mô hình giải quyết KKHC. Mô hình tổ chức này phù hợp với vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn cuả Chính phủ là tổ chức và lãnh đạo công tác giải quyết khiếu nại hành chính được Hiến pháp quy định, tạo ra được một cơ chế tài phán gắn liền với công tác quản lý, điều hành cuả Chính phủ cho phép duy trì và tăng cường kỷ cương hành chính, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt cuả hệ thống hành chính nhà nước. Do nằm trong hệ thống hành chính nên mô hình TPHC này không chỉ có quyền phán xét về tính hợp pháp cuả QĐHC, HVHC mà còn có điều kiện xem xét cả tính hợp lý cuả các QĐHC, HVHC bị khiếu kiện. Do nằm trong hệ thống hành chính nhà nước, TPHC sẽ có mối quan hệ mật thiết với các cơ quan hành chính nhà nước đặc biệt là với Thủ tướng Chính phủ và quyền lực cuả Thủ tướng Chính phủ là điều kiện thuận lợi bảo đảm cho việc thực hiện các phán quyết cuả TPHC. Là một bộ phận cuả hệ thống hành chính nên ngoài việc xét xử các KKHC, TPHC còn có thể tham mưu, tư vấn cho thủ trưởng các cơ quan hành chính những vấn đề trong quản lý, chỉ đạo, điều hành, khắc phục sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý, góp phần nêng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, theo chúng tôi việc tổ chức mô hình TPHC như trên vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế: Một là việc thành lập thêm hệ thống các cơ quan TPHC làm bộ máy hành chính nhà nước thêm cồng kềnh. Hai là cơ quan TPHC được thành lập nhưng lại không thay thế việc GQKN cuả người có thẩm quyền GQKN lần đầu, cũng không thay thế việc giải quyết vụ án hành chính cuả Tòa án mà là thêm một khâu mới trong quy trình giải quyết KKHC. Điều này làm quy trình giải quyết KKHC thêm phức tạp và do đó thời gian giải quyết khiếu kiện bị kéo dài thêm. Ba là tại đề án ban sọan thảo chưa nêu ra được trường hợp quyết định giải quyết của TPHC bị Tòa án hủy bỏ thì KKHC được tiếp tục giải quyết ra sao? Theo chúng tôi chỉ có thể có hai cách giải quyết hoặc là đưa về TPHC giải quyết lại hoặc là người khiếu kiện có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án trực tiếp giải quyết lại khiếu kiện ( Tương tự như quy định việc giải quyết lại tranh chấp kinh doanh thương mại sau khi có Bản án của Tòa án hủy bỏ quyết định trọng tài -Khỏan 6 Điều 53 Pháp lệnh Trọng tài thương mại ngày 25/02/2003) và cho dù chọn cách nào trong hai cách nêu trên thì vụ việc cũng bị kéo dài, tốn rất nhiều thời gian, chi phí của nhà nước và các bên đương sự. Bốn là quyền hành pháp và quyền tư pháp cuả Thủ tướng Chính phủ dễ bị lẫn lộn hoặc bị lạm dụng. Đặc biệt dưới quyền lực cao nhất thuộc về Thủ tướng Chính phủ, nguyên tắc độc lập xét xử cuả TPHC khó có khả năng thực hiện. 3.2. Vấn đề hòan thiện mô hình tài phán hành chính ở nước ta Để khắc phục các hạn chế cuả mô hình TPHC hiện hành ở nước ta, trên cơ sở lý luận và thực tiễn tổ chức và hoạt động TPHC, đặc biệt là việc nghiên cứu về mục đích, yêu cầu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động cuả TPHC với chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cuả Bộ chính trị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm hòan thiện mô hình tổ chức và hoạt động giải quyết các KKHC ở nước ta. 3.2.1 Các quan điểm cần quán triệt Cải cách mô hình tổ chức toà án để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đó có các KKHC là một nội dung quan trọng trong chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ chính trị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ ra một số phương hướng sau: - Sẽ mở rộng thẩm quyền xét xử cuả Tòa án đối với các KKHC. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục tố tụng hành chính; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án. - Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án cuả Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết cuả Tòa án phải nghiêm chỉnh chấp hành . - Tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Việc thành lập Toà chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử cuả từng cấp Tòa án, từng khu vực… Theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo thì phương hướng cải cách tư pháp được xác định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW là căn cứ quan trọng hàng đầu để nghiên cứu và tìm ra các giải pháp nhằm hòan thiện mô hình tổ chức và hoạt động TPHC ở nước ta. Dưới góc độ phát triển, đổi mới mô hình tổ chức TPHC là xu hướng, là đòi hỏi tất yếu của một xã hội dân chủ, một nhà nước văn minh nhưng đổi mới không đơn giản là tổ chức một mô hình TPHC khác mà đổi mới cần phải được hiểu cả về nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp, cả về hình thức lẫn nội dung, cả về số lượng và chất lượng. Đổi mới không có nghiã là bỏ cũ thay mới mà đổi mới phải được thực hiện trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các yếu tố còn phù hợp của mô hình cũ. Đổi mới phải bảo đảm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động chủ yếu cuả tài phán hành chính ở nước ta, đặc biệt là nguyên tắc độc lập xét xử, nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả; phát huy được vai trò cuả tài phán hành chính đối với nền hành chính quốc gia trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách hành chính, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Bởi lẽ, các nguyên tắc trên là các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh tổ chức và họat động của TPHC ở nước ta. Tùy theo quan điểm về TPHC cũng như các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể các quốc gia trên thế giới đã lựa chọn cho mình một hình thức tổ chức TPHC phù hợp. Mỗi một hình thức tài phán ( thuộc chính phủ, thuộc Tòa án tư pháp hoặc độc lập) đều chứa đựng trong nó những yếu tố tích cực cùng các hạn chế. Đổi mới mô hình TPHC phải đứng trên quan điểm khai thác triệt để ưu điểm cuả các mô hình TPHC của các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt là các ưu điểm về mô hình tổ chức cuả các nước phát triển (Mỹ, Pháp, Đức…) và các nước có các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá tương đối tương đồng với chúng ta (Trung quốc, Thái Lan….)[4,Tr12]. Như đã trình bày ở chương trước, các mô hình tổ chức TPHC ở nước ta hiện nay vẫn chứa đựng trong nó nhiều yếu tố chưa phù hợp. Do vậy đổi mới mô hình TPHC ở nước ta phải khắc phục được hoặc hạn chế đến mức thấp nhất các nhược điểm đã gặp cuả mô hình TPHC hiện hành. 3.2.2. Mô hình tài phán hành chính được đề xuất 3.2.2.1. Mô hình tổ chức Nhằm tăng cường tính chất chuyên môn hóa của họat động TPHC, trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức và họat động của TPHC, các quan điểm về đổi mới và sự tiếp thu có chọn lọc về mô hình TPHC của một số quốc gia tiêu biểu trên thế giới, chúng tôi đề nghị nên giao tòan bộ quyền TPHC cho ngành tòa án nhân dân đảm trách. Giao toàn bộ quyền TPHC cho Toà án vừa là biểu hiện cuả sự phát triển đúng quy luật về phân công lao động và chuyên môn hoá hoạt động xét xử; vừa khắc phục được các hạn chế cuả cơ chế giải quyết khiếu nại hiện hành cũng như các hạn chế cuả cơ chế TPHC thuộc Chính phủ[3] , như: - Bảo đảm các tranh chấp phát sinh trong việc thực hiện các quan hệ pháp luật đều được giải quyết bởi cơ quan xét xử chuyên nghiệp cuả Nhà nước ( Tòa án); - Bảo đảm sự tách bạch, rõ ràng về chức năng giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước (Quốc hội: Lập pháp, Chính phủ: Hành pháp, Toà án: Tư pháp); - Không làm tăng thêm số lượng các cơ quan hành chính nhà nước; - Hạn chế sự lẫn lộn, lạm dụng quyền hành pháp cuả Thủ tướng chính phủ trong việc thực hiện quyền TPHC; - Tạo điều kiện cho cơ quan hành chính nhà nước có thời gian tập trung làm tốt chức năng quản lý, điều hành. Một trong những vấn đề làm cho nhiều người lo ngại khi trao toàn bộ quyền giải quyết KKHC cho Toà án đó là trong các khiếu kiện có những khiếu kiện có nội dung liên quan đến bí mật quốc gia hoặc bí mật về an ninh quốc phòng việc xét xử công khai cuả Toà án có thể không bảo đảm được các bí mật này. Theo chúng tôi vấn đề lo lắng trên có thể giải quyết được bằng cách đưa vào thủ tục tố tụng hành chính quy định như: Việc tổ chức các phiên toà không công khai, việc giữ bí mật cuả những người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng khi toà án giải quyết các KKHC liên quan đến các thông tin thuộc về bí mật theo quy định cuả pháp luật. Một vấn đề nưã cũng được đặt ra là: Liệu ngành Toà án có bảo đảm đủ các điều kiện về vật chất cũng như con người để đảm nhận giải quyết được toàn bộ các tranh chấp hành chính phát sinh khi cơ quan hành chính nhà nước không còn thẩm quyền nhận và giải quyết các khiếu kiện này. Đặc biệt là việc tổ chức mô hình giải quyết KKHC cuả Toà án như thế nào để bảo đảm sự khách quan, vô tư cuả Toà án. Theo chúng tôi được biết, ngay từ khi được trao thẩm quyền giải quyết một số loại KKHC (1/7/1996) ngành Toà án nhân dân đã chuẩn bị khá đầy đủ nguồn nhân lực cũng như cơ sở vật chất để tiếp nhận công việc mới này, ví dụ: Về nhân sự Toà hành chính Toà án nhân dân thành phố hiện nay có 10 thẩm phán và 12 thư ký nghiệp vụ, các thẩm phán và thư ký này đều có trình độ cử nhân luật và đều có kinh nghiệm về chuyên môn, nhưng trung bình mỗi năm Toà hành chính – TAND.TPHCM chỉ giải quyết khoảng 100 vụ án hành chính các loại, số còn lại là các loại án khác ( khoảng 800 vụ). Với đội ngũ cán bộ, công chức hiện có cộng với số cán bộ mới được điều động từ bộ phận giải quyết khiếu nại các cơ quan hành chính chuyển qua (sau khi đã được đào tạo, bồi dưỡng và bố trí công việc theo các tiêu chuẩn chức danh cuả ngành toà án), theo chúng tôi lực lượng cán bộ cuả Toà án sẽ đủ sức đảm đương các nhiệm vụ được giao. Về trụ sở và các phương tiện làm việc cuả Toà án, chúng ta cũng có thể xắp xếp được trên cơ sở tận dụng cơ sở vật chất hiện có cuả ngành Toà án và cuả các cơ quan hành chính nhà nước khác sau khi bố trí lại chức năng, nhiệm vụ phù hợp. Theo chiến lược cải cách tư pháp từ nay đến năm 2020 cuả Bộ chính trị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, trong thời gian sắp tới nếu chúng ta xắp xếp lại các Toà án cấp huyện để thành lập các Toà án sơ thẩm khu vực trên cơ sở dự tính lượng án sẽ thụ lý cuả mỗi điạ phương, với số lượng trụ sở dư ra sau khi thành lập các Toà án khu vực thì việc bố trí trụ sở làm việc cho các Toà hành chính là một vấn đề không quá khó khăn. Về mô hình tổ chức: Như chúng ta đã biết, việc tổ chức giải quyết KKHC hiện nay cuả ngành Toà án có nhiều điểm hạn chế như đã phân tích ở phần trên. Để khắc phục các hạn chế đó, chúng ta cần thay đổi mô hình hiện nay bằng việc thành lập hệ thống Tòa hành chính độc lập thuộc Tòa án nhân dân, bao gồm: Tòa hành chính tối cao; Tòa hành chính vùng, miền và Toà hành chính khu vực để giải quyết các KKHC., cuï theå: + Tòa hành chính tối cao: Là một Tòa chuyên trách thuộc TANDTC có thẩm quyền xem xét lại các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật cuả Toà hành chính vùng và Toà hành chính khu vực theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Pháp luật cuả hầu hết các quốc gia đều trao quyền giám đốc thẩm, tái thẩm cho TANDTC. Tuy nhiên, ở nước ta thẩm quyền này cuả TANDTC đã được trao cho các Toà chuyên trách (Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà hành chính, Toà lao động) cuả TANDTC thực hiện. Do đó, cùng với việc tổ chức lại hệ thống Toà hành chính cần phải bỏ quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm cuả Hội đồng thẩm phán TANDTC để Hội đồng thẩm phán tập trung vào việc hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật. + Tòa hành chính vùng: Vị trí điạ lý, điều kiện tự nhiên, phong tục, tập quán sinh hoạt cuả vùng, miền, đặc biệt là lịch sử phát triển cuả đất nước đã tạo ra trên đất nước ta 3 vùng miền với nhiều yếu tố mang nét đặc trưng riêng trong một đại gia đình Việt Nam, tương ứng với 3 vị trí cụ thể trên bản đồ quốc gia: Miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Tại 3 vùng này, Toà án nhân dân tối cao đã thành lập tại mỗi vùng 1 Toà phúc thẩm để xét xử phúc thẩm toàn bộ các vụ án sơ thẩm cuả các Toà án nhân dân cấp tỉnh trong vùng bị kháng cáo, kháng nghị. Căn cứ vào vị trí, điều kiện điạ lý, dân số và số lượng các cơ quan hành chính trong các vùng, miền này, căn cứ thực tế tổ chức các Toà phúc thẩm cuả Toà án nhân dân tối cao, theo chúng tôi, tại mỗi vùng, miền trên, chúng ta cũng tổ chức một Toà hành chính vùng, miền (Toà hành chính miền Bắc, Toà hành chính miền Trung, Toà hành chính miền Nam). Toà hành chính vùng, miền là toà chuyên trách độc lập có thẩm quyền giải quyết phúc thẩm những vụ án hành chính mà bản án, quyết định sơ thẩm cuả các Toà hành chính khu vực thuộc vùng, miền đã giải quyết chưa có hiệu lực pháp luật, bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục tố tụng. + Tòa hành chính khu vực: tuỳ thuộc vị trí điạ lý cuả các địa bàn cấp huyện; tùy thuộc số lượng quận, huyện, thành phố, thị xã, phường, xã, thị trấn; tùy theo dân số trong khu vực và số lượng, quy mô các cơ quan, tổ chức trong khu vực, có thể từ 8 đến 10 quận, huyện hoặc từ 10 đến 15 huyện thì thành lập một Tòa hành chính khu vực. Để để hạn chế sự phụ thuộc cuả thẩm phán và Toà hành chính khu vực vào các cơ quan hành chính nhà nước, bảo đảm sự khách quan vô tư cho cơ quan Toà án, việc thành lập Toà hành chính khu vực phải bảo đảm nguyên tắc không có trường hợp lãnh thổ thuộc phạm vi thẩm quyền xét xử cuả Tòa hành chính khu vực trùng hòan tòan với lãnh thổ cuả một đơn vị hành chính cấp tỉnh. Toà hành chính khu vực là toà chuyên trách độc lập có thẩm quyền: - Giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các khiếu kiện hành chính đối với các QĐHC, HVHC cuả cơ quan, cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước cấp xã và cấp huyện thuộc khu vực. - Giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các khiếu kiện hành chính đối với các QĐHC, HVHC cuả cơ quan, cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước cấp trung ương hoặc cấp tỉnh, thành phố nơi mà người khởi kiện có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi làm việc cùng lãnh thổ với Tòa hành chính khu vực đó. Toà hành chính các cấp có con dấu riêng, được Nhà nước cấp kinh phí hoạt động, trụ sở, trang thiết bị làm việc. Bộ máy nhân sự cuả Toà gồm chánh toà, các phó chánh toà, thẩm phán, thư ký và các nhân viên khác. Chaùnh Tòa, các phó chánh Tòa, thẩm phán Tòa hành chính các cấp do Chaùnh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm. Phiên toà hành chính sơ thẩm cuả Toà hành chính khu vực được tiến hành tại trụ sở cuả toà. Để tạo thuận lợi cho các đương sự khi tham dự phiên tòa có thể đi về trong cùng một ngày, nên quy định phiên Tòa hành chính phúc thẩm được tiến hành tại trụ sở cuả Toà hành chính vùng, miền, nếu khoảng cách từ tỉnh lỵ nơi người khởi kiện có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi làm việc đến tỉnh lỵ nơi đặt trụ sở cuả Toà hành chính vùng, miền thuộc phạm vi bán kính l00km (đây là khoảng cách tối đa đủ để các đương sự có thể tham dự phiên toà và đi về trong cùng một ngày). Trường hợp khoảng cách lớn hơn, thì phiên Tòa hành chính phúc thẩm được tiến hành tại trụ sở cuả Toà hành chính khu vực nơi người khởi kiện có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi làm việc. 3.2.2.2. Các giải pháp đồng bộ Những nội dung dưới đây của mục này nằm ngòai phạm vi đề tài, nhưng là cần thiết vì việc thực hiện nó sẽ làm rõ các cơ sở pháp lý và tạo thêm các điều kiện vật chất bổ trợ cho họat động của mô hình TPHC được đề xuất. Do đó, ở đây chúng tôi chỉ nêu các giải pháp mà không đi sâu phân tích. 1) Về thủ tục tố tụng Mặc dù thủ tục tiền tố tụng có những ưu điểm như đã phân tích ở phần trên nhưng bản thân thủ tục này cũng hàm chứa các yếu tố hạn chế làm ảnh hưởng đến quyền khởi kiện vụ án hành chính cuả các đương sự. Do đó, theo chúng tôi, không nên quy định thủ tục tiền tố tụng là một điều kiện bắt buộc phải thực hiện trước khi khởi kiện, mà chỉ quy định nó với tư cách là một điều khoản tuỳ nghi, tức là nên quy định người khởi kiện có quyền thực hiện việc khiếu nại đến người, cơ quan có QĐHC, HVHC bị khiếu kiện trước khi khởi kiện hoặc khởi kiện thẳng đến cơ quan TPHC mà không cần phải qua thủ tục khiếu nại. Điều này còn có ý nghĩa mở rộng quyền tự do, dân chủ - một yêu cầu chủ yếu của nhà nước pháp quyền, phù hợp với tiền lệ ( Trước đây , vào năm 1997 Chính phủ cũng từng có Nghị định số 47-CP ngày 03/5/1997 về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, tại Điều 3 Nghị định này có quy định việc: Công dân có quyền lựa chọn hoặc khởi kiện trực tiếp đến Tòa án để đòi bồi thường hoặc khiếu nại đến cơ quan nhà nước, cơ quan đã tiến hành tố tụng để đòi bồi thường trước khi quyết định việc khởi kiện) và phù hợp thông lệ của một số quốc gia trong cùng khu vực (Trung Quốc [39,Tr123], Singapore [46,Tr37]…) . Thủ tục tố tụng cuả toà được thực hiện chủ yếu bằng hình thức văn bản (tố tụng viết), được tống đạt hoặc chuyển giao thông qua bưu điện, cơ quan thi hành án hoặc thưà phát lại (nếu có). Cần bỏ quy định về việc việc khởi tố vụ án hành chính và quy định về tham gia phiên toà hành chính cuả Viện kiểm sát, bởi lẽ việc quy định Viện kiểm sát nhân dân khởi tố vụ án hành chính, tham dự phiên toà hành chính là một hình thức can thiệp cuả Nhà nước trong hoạt động tố tụng. Trong điều kiện hiện nay, với trình độ dân trí đã tương đối phát triển, công dân có thể tự định đoạt được việc kiện và tham gia tố tụng cuả mình. Đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi thì người đại diện theo pháp luật cuả họ cũng có thể tự định đoạt được việc kiện và tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho người mà họ đại diện. Do đó, sự can thiệp cuả Nhà nước trong hoạt động tố tụng như trên là một việc không còn cần thiết. 2) Về cơ chế bảo đảm thực hiện phán quyết Theo quy định cuả pháp luật hiện hành thì việc tổ chức cưỡng chế thi hành bản án, quyết định cuả Toà án được trao cho nhiều cơ quan, như : phần dân sự tại bản án, quyết định cuả Toà án do Cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ tư pháp chiụ trách nhiệm tổ chức thi hành ; phần buộc chấp hành hình phạt tử hình tại bản án, quyết định cuả Toà án do Toà án đã xét xử sơ thẩm kết hợp với Viện kiểm sát, cơ quan công an tổ chức thi hành ; phần buộc chấp hành hình phạt tù không thời hạn, tù có thời hạn do cơ quan công an chịu trách nhiệm tổ chức thi hành …; phần quyết định buộc cơ quan, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước không được tiếp tục thực hiện các hành vi hành chính trái pháp luật hoặc phải thực hiện công vụ, nhiệm vụ cuả bản án hành chính do thủ trưởng cơ quan nhà nước cấp trên trực tiếp theo dõi giám sát việc thi hành . Theo chúng tôi, công tác tổ chức thi hành án cũng cần phải được chuyên nghiệp và chuyên môn môn hoá, tức là cần phải thành lập một hệ thống cơ quan thi hành án chung, có nhiệm vụ tổ chức thi hành thống nhất các bản án hình sự, dân sự, hành chính. Cơ quan thi hành án có quyền thực hiện các biện pháp cần thiết theo quy định cuả pháp luật nhằm thực hiện phần phán quyết về hành chính trong bản án hành chính đã có hiệu lực thi hành trong trường hợp các đương sự không tự nguyện thi hành. Trong thời gian chưa tổ chức được cơ quan thi hành án như trên thì tổ chức bộ phận thi hành án hành chính (phần phán quyết về hành chính trong bản án hành chính) thuộc Toà hành chính khu vực để theo dõi và tổ chức thực hiện việc thi hành bản án hành chính. Ngoài ra, cơ quan thi hành án còn có thể đảm nhiệm thêm các nhiệm vụ như tống đạt các văn bản cuả Toà án cho các đương sự và thi hành các quyết định khác cuả Toà án nếu có. Quản lý nhà nước là chức năng riêng có cuả bộ máy hành chính nhà nước. Toà án không có quyền làm thay các công việc này cuả bộ máy hành chính. Cho nên trường hợp các phán quyết hành chính cuả Toà án không được các các cơ quan, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thi hành thì phán quyết đó sẽ trở thành vô nghiã. Do đó, để bảo đảm bản án hành chính cuả Toà án phải được chấp hành nghiêm chỉnh, cần bổ sung quy định về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức trong trường hợp cố tình không thi hành các bản án hành chính có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định có hiệu lực thi hành cuả Toà hành chính các cấp, trong đó bao gồm cả hình thức cách chức hoặc buộc thôi việc. Trong một chừng mực nhất định nào đó như: Việc cấp giấy phép, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… có thể quy định trong thời gian chờ cơ quan nhà nước giải quyết cấp các lọai giấy tờ trên theo bản án của Tòa án, người yêu cầu có quyền sử dụng bản án của Tòa án làm chứng thư thay thế. 3) Về công tác cán bộ Để bảo đảm nâng yêu cầu về chuyên môn đủ để giải quyết các khiếu kiện hành chính có liên quan, phải xây dựng tiêu chuẩn bổ nhiệm thẩm phán Tòa hành chính các cấp theo hướng: - Thẩm phán Toà hành chính ngoài các tiêu chuẩn như tiêu chuẩn thẩm phán hiện hành còn phải có bằng cử nhân hành chính. Trường hợp không có bằng cử nhân hành chính thì phải có giấy chứng nhận đã hòan thành chương trình đào tạo, bồi dưỡng về quản lý nhà nước cho chuyên viên (đối với thẩm phán Toà hành chính khu vực), chuyên viên chính (đối với thẩm phán Toà hành chính vùng, miền), chuyên viên cao cấp (đối với thẩm phán Toà hành chính tối cao). Thẩm phán không đơn thuần là một chức danh công vụ mà còn là một nghề nghiệp chuyên môn, nên thẩm phán Tòa án nói chung và thẩm phán Tòa hành chính nói riêng cần phải được bổ nhiệm vô thời hạn. Khi xét xử thẩm phán có quyền ban hành bản án nhân danh Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghiã Việt Nam. Để bảo đảm sự tôn nghiêm và trân trọng cuả xã hội đối với thẩm phán, cần phải có sự bảo hộ pháp lý cuả Nhà nước đối với thẩm phán bằng cách đưa vào luật quy định: Việc bắt giữ thẩm phán phải được sự phê chuẩn cuả Chành án Tòa án nhân dân tối cao, trừ trường hợp thẩm phán bị bắt giữ do phạm tội quả tang. Hiện nay, việc đào tạo thẩm phán được Nhà nước giao cho Học viện tư pháp đảm nhiệm. Trong thời gian qua, Học viện tư pháp đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán. Tuy nhiên, để đáp ứng các yêu cầu chuyên môn cho đội ngũ thẩm phán cần phải củng cố, hòan thiện thêm chương trình đào tạo thẩm phán cuả Học viện tư pháp theo hướng đào tạo chung và đào tạo chuyên sâu theo từng loại thẩm phán chuyên trách. Định kỳ có những khoá bồi dưỡng nhằm cập nhật kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và các kiến thức có liên quan khác cho thẩm phán hành chính[11,Tr23]. Bảng lương hiện hành của cán bộ ngành Tòa án còn nhiều nhiều bất cập, ví dụ: Cử nhân luật về công tác tại Tòa án nhân dân các cấp với chức danh Thư ký Tòa án được hưởng lương Thư ký Tòa án với bảng lương giống như bảng lương chuyên viên (bảng lương cuả các đối tượng đã tốt nghiệp đại học). Sau 5 năm công tác trong ngành Tòa án, sau khi đã tốt nghiệp khoá đào tạo thẩm phán (1 năm) tại Học viện tư pháp (Tổng cộng tối thiểu là 6 năm kể từ khi tốt nghiệp đại học), thư ký Tòa án có thể được bổ nhiệm làm thẩm phán Tòa án cấp huyện với mức lương và ngạch lương không thay đổi (lương cuả thẩm phán cấp huyện bằng bảng lương cuả Thư ký Tòa án và chung bảng lương với chuyên viên). Trước mắt, để bảo đảm nguyên tắc về tiền lương, cần phải xây dựng lại khung bảng lương cho thẩm phán và thư ký Tòa án theo hướng: - Lương thư ký Tòa án có bằng cử nhân luật bằng bảng lương ngạch chuyên viên. - Lương thẩm phán cấp huyện phải cao hơn bảng lương Thư ký Tòa án. - Lương thẩm phán cấp tỉnh phải cao hơn lương ngạch chuyên viên chính. - Lương thẩm phán tối cao phải cao hơn lương ngạch chuyên viên cao cấp. Về nguyên tắc, thu nhập cuả thẩm phán tối thiểu phải bảo đảm đạt mức trung bình khá so với mặt bằng thu nhập chung cuả dân cư. 4) Về chế độ trách nhiệm Do tính chất đặc thù của công việc, thẩm phán hành chính được pháp luật trao quyền nhân danh nhà nước để giải quyết các tranh chấp hành chính. Phán quyết của Tòa án do thẩm phán công bố có giá trị pháp lý cuối cùng, bắt buộc mọi người phải thực hiện nghiêm chỉnh. Do vậy, cần phải có các quy định cụ thể về quy chế công vụ và chế độ trách nhiệm cá nhân của thẩm phán, tạo các hành lang pháp lý cho thẩm phán thực hiện công vụ và nâng cao được tinh thần trách nhiệm của thẩm phán đối với công vụ đó. Quy chế công vụ và chế độ trách nhiệm cuả thẩm phán khi thi hành công vụ neân theo hướng: - Khi thi hành công vụ thẩm phán chỉ được quyền làm những gì mà pháp luật có quy định. - Thẩm phán có thể bị miễn nhiệm, cách chức nếu vi phạm kỷ luật, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp không bảo đảm. - Tuỳ tính tính chất và mức độ vi phạm pháp luật, thẩm phán phải chiụ trách nhiệm theo quy định cuả Pháp lệnh cán bộ công chức, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định cuả pháp luật. - Thẩm phán phải bồi hoàn cho nhà nước các thiệt hại gây ra do lỗi công vụ theo quy định cuả pháp luật. 5) Về cơ chế giám sát Để bảo đảm có thể kiểm sóat được sinh hoạt và bảo đảm sự an toàn, an tâm công tác cho thẩm phán cần xây dựng nhà ở công vụ hoặc quy hoạch các khu vực nhà ở dân cư theo hướng thẩm phán Tòa án được ở trong khu vực nhà ở tập trung (có thể ở riêng hoặc ở cùng gia đình). Phải trang bị đồng phục cho cán bộ, công chức Toà hành chính theo hướng: Thể hiện được sự tôn nghiêm của nghề nghiệp, màu sắc, kiểu dáng, phù hiệu phải đặc trưng , không nhầm lẫn với các ngành khác, đối tượng khác. Ngoài ra, để Toà án làm tốt hơn nưã vai trò tài phán hành chính theo chúng tôi cần phải tăng cường hơn nữa pháp chế XHCN, bảo đảm pháp luật phải được hiểu và áp dụng thống nhất trong toàn quốc, đặc biệt là giữa cơ quan hành chính với cơ quan Tòa án, giữa Tòa án cấp sơ thẩm với Tòa án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tránh trường hợp cùng một quy định nhưng mỗi cơ quan hiểu theo một hướng khác nhau. Cần sưả đổi các quy định cuả luật theo hướng điều chỉnh trực tiếp các hành vi cụ thể, hạn chế trường hợp các bộ luật, luật hoặc nghị quyết cuả Quốc hội chưa thể thi hành được vì thiếu văn bản hướng dẫn. Tăng cường hoạt động giải thích pháp luật cuả Uỷ ban thường vụ Quốc hội và hoạt động hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật cuả Hội đồng thẩm phán TANDTC. Sưả đổi Hiến pháp năm 1992 theo hướng tách hoạt động lập hiến cuả Quốc hội ra khỏi hoạt động cuả Quốc hội hiện hành (bầu cử Quốc hội lập hiến để sưả đổi Hiến pháp trong trường hợp cần thiết) làm cơ sở cho việc thành lập Toà bảo hiến để xét xử các văn bản quy phạm pháp luật vi hiến. Có quy định về chế độ trách nhiệm và chế tài đối với các trường hợp lạm dụng quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Cần sớm nghiên cứu và ban hành các quy định để giải quyết các mối quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết khiếu kiện hành chính cuả Tòa án như: Quan hệ giữa lãnh đạo các cấp Đảng, chính quyền với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, cũng như các quy định nhằm bảo đảm các nguyên tắc như: Đảng lãnh đạo; Tập trung dân chủ; Trong xét xử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, mối quan hệ giữa các nguyên tắc và xử lý các tình huống để không phát sinh mâu thuẫn giữa các nguyên tắc này. Khôi phục mô hình thưà phát lại (Một tổ chức bổ trợ tư pháp tư đã từng được tổ chức tại miền Nam Việt Nam trước tháng 4/1975) để thực hiện các hoạt động bổ trợ tư pháp như: Hỗ trợ việc thi hành án; Chuyển giao các văn bản, tài liệu qua lại giữa Tòa án và các đương sự; Xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu cuả các đương sự . Thành lập lực lượng cảnh sát tư pháp để bảo vệ, giữ trật tự phiên toà và thi hành các quyết định có liên quan cuả Tòa án. Củng cố tổ chức giám định tư pháp, luật sư, công chứng, thi hành án dân sự… Quy định cụ thể các hành vi vi phạm hành chính, mức phạt và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến hoạt động tố tụng cuả Tòa án. KẾT LUẬN Trong nhà nước pháp quyền, mối quan hệ giữa nhà nước và công dân là bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, quyền tự do, dân chủ được mở rộng. Đổi mới mô hình tổ chức giải quyết KKHC là một việc làm cần thiết nhằm đáp ứng các đòi hỏi cuả công cuộc cải cách hành chính và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, là đòi hỏi cuả nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. TPHC là phương thức hữu hiệu nhằm bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong nền hành chính quốc gia, là phương thức bảo vệ quyền, tự do, lợi ích hợp pháp cuả các cá nhân, cơ quan, tổ chức trước sự xâm hại từ phía các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Trong sự nghiệp đổi mới cuả chúng ta hiện nay cải cách tư pháp là vấn đề hết sức bức xúc được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng. Cùng với sự thay đổi to lớn cuả đất nước trong những năm qua, chúng ta đã tiến hành cải cách tư pháp, bước đầu đã đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, pháp luật về TPHC và việc thực hiện pháp luật về TPHC ở nước ta hiện nay vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, thẩm quyền chưa rõ ràng, quyền hành pháp và tư pháp còn lẫn lộn, chưa phát huy được tính chuyên môn, chuyên nghiệp cuả nghề “thẩm phán”, chưa phát huy được hết vai trò cuả Toà án trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cuả công dân. Vấn đề độc lập xét xử cuả Toà án chưa thực sự được bảo đảm; các quy định về mối quan hệ giữa cơ quan Đảng, cơ quan hành chính nhà nước với sự độc lập xét xử cuả toà án còn chưa được cụ thể… nên cần phải được tiếp tục cải cách, đổi mới. Nhưng đổi mới không có nghĩa là phủ định tòan bộ những gì đang có mà đổi mới phải bảo đảm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động chủ yếu cuả TPHC, phải bảo đảm khai thác triệt để ưu điểm cuả các mô hình TPHC của các quốc gia trên thế giới và phải khắc phục được hoặc hạn chế đến mức thấp nhất các nhược điểm đã gặp cuả mô hình TPHC. Giao toàn bộ quyền TPHC cho Toà án sẽ khắc phục được các hạn chế cuả cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính hiện hành cũng như các hạn chế cuả cơ chế TPHC thuộc Chính phủ. Tuy nhiên, mô hình tổ chức giải quyết KKHC hiện nay cuả ngành Toà án có nhiều điểm hạn chế. Để khắc phục các hạn chế đó, chúng ta cần thay đổi mô hình hiện nay bằng việc thành lập hệ thống Tòa hành chính độc lập thuộc Tòa án nhân dân. Song song với nó, cần phải thực hiện đồng bộ với các giải pháp khác như: Cải tiến thủ tục tố tụng; Củng cố công tác thi hành án; Xây dựng tiêu chuẩn thẩm phán Tòa hành chính, quy chế công vụ, chế độ trách nhiệm, cơ chế giám sát, bảo hộ pháp lý và chế độ đãi ngộ cho thẩm phán; Củng cố, hoàn thiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán hành chính… Xã hội lòai người luôn vận động và phát triển, có những cái hôm qua còn phù hợp nhưng hôm nay đã trở thành lạc hậu. Do vậy, nghiên cứu KKHC và mô hình tổ chức giải quyết KKHC phải được đặt dưới góc độ “liên tục phát triển” để tổ chức TPHC cuả Nhà nước ta luôn theo kịp và đáp ứng được các đòi hỏi của xã hội, thực sự là một tổ chức nhà nước cuả dân, do dân và vì dân. Bảng 1.1 Tổng hợp số liệu án hành chính thụ lý tại Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trong 5 năm 2002-2006 [Nguồn báo cáo tổng kết họat động của TAND tp.HCM, 79-83]: Thời gian Loại khiếu kiện 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng cộng Số lượng Tỷ lệ Tổng số đơn kiện thụ lý 57 105 110 96 103 471 100% Xử phạtVPHÚC và buộc tháo dỡ công trình xây dựng 15 34 19 73 51 192 40,76 Quản lý đất đai: .Cấp GCNQSDĐ .Giải quyết tranh chấp đất đai .Đền bù, giải toả 38 2 33 3 68 7 43 18 81 6 46 29 16 4 7 5 44 8 2 34 247 27 131 89 52,44 Cấp, thu hồi giấy phép 1 1 3 5 1,06 Trưng dụng, trưng mua, tịch thu 1 4 1 6 1,27 Thu thuế, truy thu thuế 2 3 3 5 13 2,76 Thu phí, lệ phí 2 3 5 1,06 Buộc thôi việc 3 3 0,65 Bảng 2.1 Tổng hợp số liệu đơn khiếu nại và giải quyết khiếu nại hành chính tại thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1999 – 2005[82] Nội dung Số liệu Tổng số đơn khiếu nại nhận được 108.426 Tổng số đơn thuộc thẩm quyền 74.527 Tổng số đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền đã giải quyết, trong đó: -Khiếu nại đúng toàn bộ: -Khiếu nại đúng một phần: -Khiếu nại sai hòan toàn: 66.507 đơn, đạt tỷ lệ 89,2% 10.892 đơn, chiếm tỷ lệ 16,4% 9.589 đơn, chiếm tỷ lệ 14,4% 46.026 đơn, chiếm tỷ lệ 69,2% Bảng 2.2 Tổng hợp số lượng các vụ án hành chính mà ngành Tòa án nhân dân đã thụ lý, giải quyết từ năm 2002 đến 2006[73-77] Năm Số lượng 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng cộng Thụ lý 1.064 1.458 1.746 1.361 1.437 7.066 Giải quyết 770 1.247 1.524 1.201 1.269 6.011 Tỷ lệ giải quyết 72,37% 85,53% 87,29% 88,24% 88,31% 85,07% Bảng 2.3 Tổng hợp số lượng khiếu kiện hành chính mà Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý, giải quyết từ năm 2002- 2006 [79-83] Năm Số lượng 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng cộng Thụ lý 57 105 110 96 103 471 Giải quyết 53 88 99 84 100 6.011 Tỷ lệ giải quyết 92,99% 83,81% 90% 87,5% 97,9% 85,07% Số đơn kiện được Tòa án chấp nhận yêu cầu 3 6 8 5 7 29 Tỷ lệ yêu cầu được chấp nhận 5,26% 5,71% 7,27% 5,21% 6,8% 6,16% TÀI LIỆU THAM KHẢO I. SÁCH BÁO LÝ LUẬN: Star Vietnam: “Báo cáo và khuyến nghị về việc thành lập cơ quan tài phán hành chính”, Văn bản gửi Thanh tra Chính phủ, Uỷ ban pháp luật Quốc hội, Ban Nội chính Trung ương, tháng 3/2006; Star Vietnam: “Báo cáo và khuyến nghị về việc thành lập cơ quan tài phán hành chính”, Văn bản gửi Thanh tra Chính phủ, Uỷ ban pháp luật Quốc hội, Ban Nội chính Trung ương, tháng 9/2006; Thanh tra Chính phủ: “Báo cáo đề dẫn Hội thảo khoa học về việc thành lập cơ quan tài phán hành chính ở Việt Nam”, Tài liệu tại Hội thảo về tài phán hành chính tại Việt Nam, TP Hồ Chí Minh, 3/2006; Lê Cảm: “Các nguyên tắc cơ bản cuả cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 1, tháng1/2006; Lê Cảm: “Những vấn đề chủ yếu cuả công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3, tháng 3/2006; Học viện Hành chính quốc gia: “Cải cách nền hành chính quốc gia ở nước ta”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội- 1995; Học viện hành chính quốc gia: “Chính trị học”, NXB Đại học quốc gia Hà Nội- 2001; Đặng Văn Doãn: “Một số suy nghĩ và kiến nghị nhằm đổi mới, nâng cao một bước công tác xét xử cuả các Tòa án nhân dân”, Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 3/1996; Nguyễn Đăng Dung: “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền”, NXB Tư pháp, Hà Nội- 2004; Lưu Tiến Dũng: “Tuyên bố Bắc Kinh về nguyên tắc độc lập tư pháp”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 8, tháng 4/2006; Lưu tiến Dũng: “Việc đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán trên thế giới”, Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 2/1996; Đặng Xuân Đào: “Một số vấn đề về vai trò của Tòa hành chính trong việc giám sát thực hiện quyền lực nhà nước”, tài liệu tại Hội thảo về tài phán hành chính tại Việt Nam, TP Hồ Chí Minh, 3/2006; Star Vietnam: “Đánh giá tác động kinh tế của Hiệp định thương mại song phương”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội- 2003; Thanh tra Chính phủ: “Đề án thành lập cơ quan tài phán hành chính ở Việt Nam”, tài liệu tại Hội thảo khoa học về Đề án thành lập cơ quan tài phán hành chính ở Việt Nam- TP Hồ Chí Minh, ngày 06/4/2007; Bùi Xuân Đức: “Đổi mới và hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay”, NXB Tư pháp, Hà Nội- 2004; Bùi Xuân Đức: “Tư pháp hành chính và vấn đề tổ chức tư pháp hành chính ở nước ta”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1/1993; Đoàn Văn Khuy: “Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại trên điạ bàn thành phố”, Tạp chí Ssổ tay xây dựng Đảng, tháng 12/2004; Edwin L. Felter- Thẩm phán Tòa hành chính bang Colorado, Denver, Hoa kỳ: “Cơ chế và thủ tục hành chính nhằm giải quyết các tranh chấp”, tài liệu tập huấn về Hiệp định thương mại Việt Mỹ, 11/2003; Frederic Rodgers- Thẩm phán Tòa án bang Colorado, Hoa kỳ: “Xem xét lại theo thủ tục tư pháp các quyết định của cơ quan hành chính”, tài liệu tập huấn về Hiệp định thương mại Việt Mỹ 7/2002; Trường Đại học luật Hà Nội: “Giáo trình luật kinh tế”, lưu hành nội bộ, Hà Nội- 1994; Nguyễn Duy Gia: “Cải cách một bước bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội- 1995; Kattherine: “Tòa hành chính ở Pháp”, tài liệu tại Hội thảo về tài phán hành chính tại Việt Nam, TP Hồ Chí Minh, 3/2006; Nguyễn Lân “Từ điển từ và ngữ Việt Nam”, NXB TP. Hồ Chí Minh, 2000; Học viện Hành chính quốc gia- Khoa Khoa học hành chính: “Lịch sử hành chính nhà nước Việt Nam”, NXB Thống kê, 2003; Học viện Hành chính quốc gia- Khoa Nhà nước và Pháp luật”: Luật hành chính và tài phán hành chính Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội- 2001; Trường Đại học luật Hà Nội: “Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội- 1994 ; Học viện hành chính quốc gia: “Lý luận chung về nhà nước và pháp luật”, NXB Đại học quốc gia Hà Nội - 2001; Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán và các chức danh tư pháp khác: “Một số vấn đề cơ bản của luật hành chính v à xử lý vi phạm hành chính” (Lưu hành Nội bộ), Hà Nội- 1996; Đào Trí Úc: “Ý kiến về Đề án xây dựng cơ quan tài phán hành chính ở Việt Nam hiện nay”, tài liệu tại Hội thảo khoa học về Đề án thành lập cơ quan tài phán hành chính ở Việt Nam- TP Hồ Chí Minh, 06/4/2007; Học viện Hành chính quốc gia- Khoa Khoa học hành chính: “Quản lý và phát triển tổ chức hành chính nhà nước”, NXB Thống kê, Hà Nội - 2003; Học viện hành chính quốc gia- Khoa Quản lý nhà nước về kinh tế: “Quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế”, NXB Đại học quốc gia Hà Nội- 2002; Học viện hành chính quốc gia: “Quản lý học đại cương”, NXB Đại học quốc gia Hà Nội- 2001; Học viện Hành chính quốc gia- Khoa Văn bản và Công nghệ hành chính: “Thủ tục hành chính”, NXB Đại học quốc gia Hà Nội- 2002; Học viện Hành chính quốc gia: “Thiết lập tài phán hành chính ở nước ta”, NXB Giáo dục, Hà Nội- 1995; Đinh Văn Mậu: “Giải quyết tranh chấp hành chính trong việc thực hiện quyền hành pháp và vấn đề tài phán hành chính”, tài liệu tại Hội thảo về tài phán hành chính tại Việt Nam, TP Hồ Chí Minh, 3/2006; Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật: “Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nước CHXHCN Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội- 2001; Soren Haggroyh và một số tác giả: “Chính quyền địa phương Thụy Điển: truyền thống và cải cách”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội- 1997; Phan Đăng Thanh và một số tác giả: “Mấy vấn đề về quản lý nhà nước và củng cố pháp quyền trong lịch sử Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội- 1998; Phạm Hòang Thái, Đinh Văn Mậu: “Tài phán hành chính ở Việt Nam”, NXB TP Hồ Chí Minh- 1996; Phạm văn Tuấn”: Một số ý kiến về dự thảo đề án thành lập cơ quan tài phán hành chính ở Việt Nam”, tài liệu tại Hội thảo về tài phán hành chính tại Việt Nam, TP Hồ Chí Minh, 6/4/2007; Đào Trí Úc: “Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội- 1997; Nguyễn Cửu Việt, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội: “Giáo trình luật hành chính Việt Nam”, NXB Đại học quốc gia Hà Nội- 2005; Thanh tra TP Hồ Chí Minh: “Từ thực trạng thực hiện Luật khiếu nại, tố cáo tại TP Hồ Chí Minh đề xuất một số vấn đề về sửa đổi Luật khiếu nại, tố cáo và xây dựng cơ chế giải quyết khiếu nại theo tài phán hành chính”, tham luận tại Hội thảo về tài phán hành chính tại Việt Nam, TP Hồ Chí Minh, 3/2006; Tony Rodriguez: “Toà hành chính ở Đức”, tài liệu tại Hội thảo về tài phán hành chính tại Việt Nam, TP Hồ Chí Minh, 3/2006; Trần Văn Sơn: “Suy nghĩ về mô hình cơ quan tài phán hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam”, tài liệu tại Hội thảo về tài phán hành chính tại Việt Nam, TP Hồ Chí Minh, 3/2006; Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán và các chức danh tư pháp khác: “Tập bài giảng Luật tố tụng hành chính Việt Nam” (Lưu hành Nội bộ), Hà Nội- 1996; Nguyễn Văn Thuận: “Mấy vấn đề về Đề án thành lập cơ quan tài phán hành chính ở Việt Nam”, tài liệu tại Hội thảo khoa học về Đề án thành lập cơ quan tài phán hành chính ở Việt Nam- TP Hồ Chí Minh, ngày 06/4/2007; Vũ Thư: “Hai con đường giải quyết khiếu nại hành chính - Giải pháp lưạ chọn và triển vọng”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6, tháng 6/1998; II. VĂN KIỆN ĐẢNG VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT: Bộ luật tố tụng hình sự ngày 26/11/2003; Hiến pháp năm 1946; Hiến pháp năm 1959; Hiến pháp1980; Hiến pháp 1992; Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (Luật 1998); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo ban hành ngày 15/6/2004 (Luật 2004); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo ban hành ngày 29/11/2005 (Luật 2005); Luật tổ chức Tòa án nhân dân ban hành ngày 02/4/2002; Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ngày 02/4/2002; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV –“Văn kiện Đảng tòan tập” NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội- 2004; Nghị quyết của Quốc hội số 51 ngày 25/12/2001 sưả đổi, bổ sung một số điều cuả Hiến pháp 1992; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về cải cách tư pháp; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Nghị quyết số 04/2006/NQHĐTP ngày 04/8/2006 cuả Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; Nghị định số 47-CP ngày 03/5/1997 về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra; Pháp lệnh quy định xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo cuả công dân ngày 27/11/1981 (Pháp lệnh 1981); Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo ngày 02/5/1991; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 21/5/1996 (Pháp lệnh 1996); Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 28/12/1998 (Pháp lệnh 1998); Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ban hành ngày 05/4/2006 (Pháp lệnh 2006); Pháp lệnh về tổ chức Tòa án quân sự ban hành ngày 19/4/1993; Pháp lệnh thi hành án dân sự ngày 14/01/2004; Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 ban chấp hành trung ương khoá VII - Tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội- 1995; Văn kiện Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội- 2006; III. TƯ LIỆU THỰC TIỄN: Báo cáo tổng kết hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao năm 2002; Báo cáo tổng kết hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao năm 2003; Báo cáo tổng kết hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao năm 2004; Báo cáo tổng kết hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao năm 2005; Báo cáo tổng kết hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao năm 2006; Báo cáo tổng kết hoạt động của Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh năm 2002; Báo cáo tổng kết hoạt động của Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh năm 2003; Báo cáo tổng kết hoạt động của Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh năm 2004; Báo cáo tổng kết hoạt động của Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh năm 2005; Báo cáo tổng kết hoạt động của Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh năm 2006; Thanh tra thành phố Hồ Chí Minh: “Dự thảo Báo cáo tổng kết 7 năm (1999-2005) thi hành Luật khiếu nại, tố cáo”; Thanh tra thành phố Hồ Chí Minh: “Dự thảo Báo cáo tình hình thực hiện Luật khiếu nại, tố cáo năm 2006”; Đỗ Khắc Tuấn: “Hoạt động cuả Toà hành chính - Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trong 3 năm 2003-2005, những đề xuất, kiến nghị”, tài liệu tại Hội thảo về tài phán hành chính tại Việt Nam, TP Hồ Chí Minh, 3/2006; Toà hành chính- TANDTC: “Thực trạng tổ chức và hoạt động cuả Toà hành chính trong hệ thống TAND, tư liệu tại Hội thảo khoa học về tài phán chính tại TP Hồ Chí Minh, ngày 06/4/2007. Kinh nghiệm giải quyết khiếu kiện hành chính đông người từ việc giải quyết các vụ án hành chính “ Khu công nghệ cao”, Tham luận cuả Toà hành chính- Toà án nhân dân TP Hồ Chí Minh tại Hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2007.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1.doc
Tài liệu liên quan