Luận văn Du lịch sinh thái với việc giáo dục môi trường cho học sinh THPT tại thành Phố Hồ Chí Minh

LUẬN VĂN THẠC SỸ: "Du lịch sinh thái với việc giáo dục môi trường cho học sinh THPT tại Thành Phố Hồ Chí Minh" MS: LVDL-KTXH001 SỐ TRANG: 139 NGÀNH: Địa lý CHUYÊN NGÀNH: Địa lý kinh tế xã hội NĂM: 2007 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Vấn đề bảo vệ môi trường để phát triền cho các thế hệ hôm nay và cả những thế hệ mai sau, tức là phát triển bền vững, đã trở thành một trào lưu rộng lớn của toàn nhân loại. Gần đây nhất, hội nghị thượng đỉnh về phát triển bền vững được tổ chức tại Johannesburg (Nam Phi) năm 2002 đã tổng kết các vấn đề về môi trường và phát triển trên thế giới trong những năm qua và đưa ra các chương trình hành động cụ thể. Từ năm 2000, công cuộc bảo vệ môi trường đã gắn liền với các hoạt động chính trị nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về các vấn đề môi trường. Vấn đề giáo dục môi trường cũng đang là vấn đề phát triển trước mắt và lâu dài của mọi xã hội trên con đường phát triển bền vững. Giáo dục môi trường có thể được thông qua nhiều hình thức khác nhau, song giáo dục môi trường ở trường phổ thông chiếm vị trí đặc biệt, vì đây là nơi đào tạo thế hệ trẻ, những người chủ tương lai của đất nước. Một khi ống khói của các nhà máy, xí nghiệp ngày càng vươn cao nhiều hơn trên bầu trời, dân số không ngừng gia tăng, đô thị hoá và tập trung dân cư đông đúc, khói bụi giao thông đang là vấn nạn thì nhu cầu tìm về với thiên nhiên là điều tất yếu. Vì thế du lịch nói chung và du lịch sinh thái nói riêng đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới, và Việt nam cũng nằm trong xu thế đó. Trong nhà trường, hoạt động du lich hiện nay cũng đang phát triển rất mạnh. Đây là hoạt động ngoại khoá rất hấp dẫn, thu hút sự tham gia đông đảo của nhiều học sinh. Đây có thể là một công cụ khá tốt để có thề ***g vào những nội dung giáo dục môi trường, nâng cao nhận thức thực tế cho học sinh; đồng thời qua đó kết hợp với việc ứng dụng các bài học lý thuyết trên lớp và hình thành ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên lẫn môi trường nhân văn cho học sinh. Bên cạnh các hình thức khác, giáo dục môi trường qua hoạt động du lịch sinh thái (DLST) là một hình thức hấp dẫn, sinh động, lý thú, và đạt hiệu quả cao. Đó cũng chính là lý do của đề tài nghiên cứu. 2. Lịch sử đề tài Vấn đề DLST đối với mọi người nói chung và đối với học sinh nói riêng không còn là vấn đề quá mới mẻ. Nhưng qua các tour DLST, học sinh học được điều gì, và có ý thức, trách nhiệm như thế nào trong vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ các yếu tố sinh thái vẫn chưa được đặt ra cụ thể. Nhiều học sinh vẫn nghĩ đi du lịch là để giải trí, vui chơi thoải mái sau những giờ học căng thẳng. Đề tài này muốn nghiên cứu sâu hơn tác động của DLST với việc giáo dục môi trường đối với đối tượng đặc biệt là học sinh, để từ đó có những cách thức tổ chức phù hợp và có hiệu quả. 3. Mục đích nghiên cứu _ Đề tài củng cố cơ sở lý luận cho việc xây dựng các tour DLST phục vụ việc giáo dục môi trường cho học sinh THPT. _ Nghiên cứu hiện trạng một số điểm DLST với việc giáo dục môi trường cho học sinh THPT ở thành phố Hồ Chí Minh. _ Xây dựng và định hướng phát triển các điểm, tour DLST để thực hiện giáo dục môi trường cho học sinh THPT ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung. 4. Phạm vi đề tài Không gian nghiên cứu của đề tài mở rộng từ TP.Hồ Chí Minh ra một số điểm DLST ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, phù hợp với đối tượng học sinh THPT tại TP.Hồ Chí Minh. 5. Nhiệm vụ của đề tài _ Tìm hiểu các điểm, các tour DLST điển hình trong cả nước nói chung và ở thành phố Hồ Chí Minh và các vùng phụ cận nói riêng. _ Kết hợp các tour DLST tiêu biểu với việc giáo dục môi trường cho đối tượng du lịch là học sinh phổ thông. _ Qua hoạt động DLST, bổ sung kiến thức, hình thành ý thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường cho học sinh ở khu DLST nói riêng và môi trường sống nói chung. 6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp luận: dựa trên quan điểm tổng hợp, quan điểm hệ thống, quan điểm phát triển bền vững. 6.1.1. Quan điểm tổng hợp: Mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội không hiện diện riêng lẻ mà có liên quan mật thiết với nhau. Vì thế nghiên cứu bất cứ lãnh vực nào trong tự nhiên, xã hội cũng phải xem xét trên quan điểm tổng hợp với những mối liên hệ đan xen, nhân quả. Vấn đề phát triển du lịch sinh thái với giáo dục môi trường là hai mặt không thể tách rời và đều được xem xét trong mối liên hệ với các yếu tố môi trường chung quanh (môi trường tự nhiên và môi trường xã hội). 6.1.2. Quan điểm hệ thống: Du lịch nói chung, du lịch sinh thái nói riêng bản thân nó đã là một hệ thống phức tạp từ nhỏ đến lớn, từ gần đến xa. Một điểm đến không bao giờ tồn tại riêng rẽ mà kết hợp đồng thời với nhiều yếu tố khác: tự nhiên, xã hội, cơ sở hạ tầng, chính sách phát triển Vì thế sử dụng quan điểm hệ thống để nghiên cứu đề tài là điều kiện cần thiết để giải quyết vấn đề. 6.1.3. Quan điểm phát triển bền vững: Phát triển bền vững cho hôm nay và cho cả những thế hệ tương lai là yêu cầu bức thiết của mọi quốc gia và lãnh thổ hiện nay. Nghiên cứu du lịch sinh thái là hướng tới sự phát triển du lịch bền vững và bản thân nó cũng bao gồm cả vấn đề giáo dục môi trường, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và phát triển cộng đồng. 6.2. Phương pháp nghiên cứu: sử dụng các phương pháp thu thập, xử lý tài liệu; phương pháp điều tra xã hội học; phương pháp thống kê; phương pháp bảng biểu, bản đồ; phương pháp khảo sát thực địa. 6.2.1. Phương pháp thu thập, xử lý tài liệu Đây là phương pháp được áp dụng đầu tiên trong quá trình làm đề tài, thu thập, thanh lọc những đề tài theo nội dung, yêu cầu cần tìm hiểu, sắp xếp theo từng đề mục, so sánh, đối chiếu các tài liệu và chọn lọc, xử lý. 6.2.2. Phương pháp điều tra xã hội học Là phương pháp quan trọng trong nghiên cứu khoa học. Việc thu thập thông tin qua các cuộc phỏng vấn, khảo sát nhiều đối tượng, nhiều trường giúp cho việc thực hiện đề tài được khách quan mà quan sát của một người không thể có được. 6.2.3. Phương pháp thống kê Sau khi thu thập được nhiều dữ liệu, thống kê theo từng đề mục, nội dung cần nghiên cứu. 6.2.4. Phương pháp bảng biểu, bản đồ Đây là phương pháp đặc trưng của môn Địa, một số nội dung được trình bày trên các bảng biểu, các địa danh được thể hiện trên bản đồ để làm rõ hơn những nội dung được đề cập đến trong đề tài. 6.2.5. Phương pháp khảo sát thực địa Đây là phương pháp cần thiết để đề tài nghiên cứu mang tính thực tế và khả thi. Tuy vậy, do còn hạn chế về thời gian và điều kiện nên việc khảo sát thực địa chỉ được tiến hành ở một số nơi tiêu biểu (như Thảo Cầm Viên, Củ Chi, Bình Châu, Vũng Tàu, Tiền Giang, Vĩnh Long, Ma đa gui ). 7. Cấu trúc Luận văn Luận Văn gồm: Mở đầu Nội dung Chương 1: Cơ sở lý luận chung. Chương 2: Thực trạng phát triển du lịch sinh thái với việc giáo dục môi trường cho học sinh THPT ở TP.Hồ Chí Minh. Chương 3: Định hướng tổ chức các tour du lịch sinh thái với việc giáo dục môi trường cho học sinh THPT. Kết luận

pdf139 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1661 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Du lịch sinh thái với việc giáo dục môi trường cho học sinh THPT tại thành Phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y, trong số 250000 loài thực vật đã biết thì rừng nhiệt đới là nơi sinh sống của 170000 loài. Ở Việt Nam, tỳ lệ che phủ rừng năm 1943 là 43%, đến năm 1976 còn 33% và còn 27% năm 1990. Hiện nay, do nhiều chính sách trồng rừng và bảo vệ rừng những năm gần đây, diện tích rừng đã tăng lên đáng kể. Năm 2000, tỷ lệ che phủ rừng là 35,14%; năm 2005: 38%; dự kiến đến năm 2010 sẽ là 42 – 43%; năm 2020 là 47%. (Theo Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020). 4. HỆ SINH THÁI RỪNG NGẬP MẶN HST RNM đóng vai trò rất quan trọng ở vùng cửa sông, ven biển nhiệt đới. Trên thế giới, RNM chủ yếu phân bố ở vùng xích đạo và nhiệt đới hai bán cầu. Ở Việt Nam, HST RNM phân bố cả hai miền Nam - Bắc, nhưng chủ yếu phân bố ở Nam Bộ, tập trung ở hai vùng chính là bán đảo Cà Mau và vùng rừng Sác Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh. Do điều kiện khí hậu, thủy văn, địa hình không giống nhau trên suốt dải ven biển, nên RNM phát triển không đồng đều. Theo GS.TS Phan Nguyên Hồng thì RNM ở Việt Nam có khoảng hơn 50 loài cây. Có 4 khu vực chính: a. Khu vực 1: Khu vực ven biển Đông Bắc từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Đồ Sơn (Hải Phòng). RNM phát triển nhờ các đảo che chắn ở phía ngoài. Hệ thực vật gồm những loài ưa mặn và chịu muối giỏi, các loài cây chủ yếu là: Đước vòi, Vẹt dù, Sú, Mắm, Trang. Do có mùa Đông lạnh nên cây chỉ cao từ 1,5m đến 7m. b. Khu vực 2: Ven biển đồng bằng Bắc Bộ từ Đồ Sơn đến cửa Lạch Trường (Thanh Hóa). Tuy có các bãi bồi rộng, giàu phù sa, nhưng ở đây bãi biển trống trãi, không có các đảo chắn gió nên chỉ có một ít RNM trong các cửa sông với các loài ưa nước lợ như: Bần, Vẹt dù, Sú, Ô rô… c. Khu vực 3: Ven biển miền Trung kéo dài từ Lạch Trường đến Vũng Tàu. Bãi bồi hẹp, ít phù sa do bờ biển dốc, nhiều gió bão nên chỉ có những dải rừng hẹp ở phía trong các cửa sông, chủ yếu là các cây nhỏ, cây bụi, có Đước, Đưng, Vẹt, Sú, Mắm… d. Khu vực 4: Bờ biển Nam Bộ (từ Vũng Tàu đến Hà Tiên), địa hình thấp và bằng phẳng, có nhiều bãi bồi rộng, giàu phù sa do hệ thống sông Đồng Nai, Cửu Long cung cấp, ít gió bão, nhất là ở Cà Mau. Khu vực này chịu tác động của hai chế độ nước triều: ở biển Đông có chế độ bán nhật triều, biên độ triều lớn (3 – 4m), ảnh hưởng sâu trong đất liền; còn chế độ triều ở vịnh Thái Lan yếu hơn, biên độ triều nhỏ (0,8m). Đây là khu vực thuận lợi nhất cho sự phát triển RNM, rừng giàu thành phần loài, kích thước lớn, có mặt hầu hết các loài cây ngập mặn Đông Nam Á: Đước đôi, Đưng, Vẹt, Dà, Mắm, Bần ổi, Bần chua, Dừa nước… RNM có ở các tỉnh Long An, Bến Tre, Trà Vinh, Kiên Giang, Cà Mau… và huyện Cần Giờ (Tp.Hồ Chí Minh). Tuy nhiên từ lâu nay, RNM bị tàn phá nhiều để lấy đất làm đầm nuôi tôm, hoặc lấy gỗ, củi… Rừng đã và đang suy thoái nghiêm trọng, gây ảnh hưởng lớn cho nhân dân khi có thiên tai hoặc khí hậu thay đổi. Hiện nay, để giảm thiểu nguy cơ trên, Cục Lâm nghiệp phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường rừng đã triển khai thí điểm 5 mô hình trồng RNM phòng hộ xung yếu, vừa tăng cường tác dụng bảo vệ đê biển, vừa kết hợp lâm ngư nghiệp tăng giá trị kinh tế cho người dân tại một số tỉnh ven biển như Hải Phòng, Cà mau. 5 mô hình: trồng RNM phòng hộ xung yếu bảo vệ đê biển và tăng cao tốc độ bồi lắng phù sa lấn biển; nuôi tôm kết hợp trồng RNM; khôi phục RNM trong các đầm nuôi tôm bị thoái hóa; cải tiến thiết kế đầm nuôi tôm lâm ngư nghiệp kết hợp; trồng RNM trên bờ bao các đầm nuôi tôm bước đầu mang lại nhiều kết quả khả quan. Diện tích rừng Bần, Trang trưởng thành đã góp phần làm giảm từ 75 – 83% độ cao của sóng biển khi sóng biển truyền qua RNM so với nơi không có rừng phòng hộ đê biển. Bên cạnh đó, do rừng được trồng kết hợp phương thức 70% diện tích RNM với 30% diện tích nuôi tôm, nên tỉ lệ cây sống có thể đạt 80%, năng suất tôm nuôi tăng từ 80kg/ha/vụ lên 350kg/ha/vụ và các đầm nuôi sau khi thu hoạch tôm không phải bỏ hoang… Cục Lâm nghiệp đang phối hợp với các địa phương ven biển xây dựng kế hoạch nhân rộng các mô hình này nhằm giải quyết tận gốc quá trình sản xuất tự phát, phá vỡ cân bằng sinh thái của ngư dân sinh sống ven biển hiện nay. Ngoài ra, từ năm 2002, chính phủ Nhật Bản đã viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam triển khai dự án trồng rừng trên đất cát ven biển Nam Trung Bộ (dự án PACSA) tại 4 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa. Nhờ đó, ta có thêm những cánh rừng phòng hộ, và hơn nữa, có được những kinh nghiệm quý từ việc trồng rừng ven biển… 5. VAI TRÒ CỦA RỪNG NGẬP MẶN VIỆT NAM Nhằm bảo vệ và phát triển bền vững hệ sinh thái rừng ngập mặn hiện nay, Viện Khoa học Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - NN&PTNT) đã đưa ra mười khu vực rừng ngập mặn trọng điểm cần ưu tiên quản lý tại các địa phương đến năm 2010: Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau (Cà Mau), Ram Sar (Nam Định); Khu Bảo tồn thiên nhiên Thanh Phú (Bến Tre), Tiên Yên (Quảng Ninh); Khu Bảo tồn loài và sinh cảnh cửa sông Văn Úc (Hải Phòng), Thái Thuỵ (Thái Bình), Sóc Trăng (cửa sông Hậu), Khu rừng phòng hộ xung yếu và sản xuất Lâm ngư trường 184 (Cà Mau), Khu Dự trữ sinh quyển Cần Giờ (TP.HCM) và Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu). _ RNM Việt Nam có ý nghĩa quan trọng đối với quốc gia về kinh tế, xã hội, môi trường, với nhiều tác dụng: bảo vệ tính đa dạng sinh học của thảm thực vật ngập mặn; phòng hộ ven biển và mở nhanh diện tích các bãi bồi ra biển; giảm bớt sự xáo trộn đất đai và ô nhiễm nguồn nước ven biển; hệ rễ của cây RNM góp phần vảo việc giảm tốc độ dòng chảy của thuỷ triều, tạo điều kiện lắng đọng bùn và các vật chất lơ lửng, đồng thời tạo ra nơi trú ẩn cho nhiều loài hải sản sống ở đây; tạo sinh kế cho ngư dân nếu được quản lý bền vững. _ Rừng ngập mặn, các vỉa san hô và cỏ biển còn nguyên vẹn có thể làm giảm nhẹ hoặc tiêu tan các đợt sóng thần cao 15 mét. Một nghiên cứu của Nhật Bản cho thấy, một RNM có chiều rộng 100 mét có thể làm giảm 50% chiều cao của sóng triều và giảm 50% năng lượng của sóng. Ở đâu có RNM, sức tàn phá của sóng biển bị suy giảm. RNM là vành đai xanh góp phần quan trọng trong việc phòng chống và giảm thiểu thiệt hại thiên tai. RNM có ý nghĩa to lớn trong việc phòng vệ đê chống xói lở ở vùng ven biển. Nếu chỗ nào không có RNM thì khi có bão dễ bị phá. (Giáo sư-Tiến sĩ Phan Nguyên Hồng - một chuyên gia trong lĩnh vực rừng ngập mặn) _ Vùng RNM Cà Mau trước giải phóng có diện tích hơn nửa triệu ha và là RNM cửa sông lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau vùng RNM cửa sông Amazon (Nam Mỹ). Như một cái bể lớn, rừng chứa nước ngọt vào mùa mưa, đến mùa khô khi nước sông xuống thấp, nước ngọt ở trong rừng chảy ra ngăn không cho nước mặn từ biển vào quá sâu trong đất liền, giữ cho ngọt hóa cả một vùng đồng bằng ở bán đảo Cà Mau. Khuyến cáo của các nhà khoa học lúc đó là phải giữ cho được và tái sinh vùng RNM quý giá này cho đất nước. Nhưng tiếc thay, rừng càng ngày càng bị thu hẹp lại, đặc biệt khi có phong trào phá rừng nuôi tôm. Thêm vào đó là những vụ cháy lớn do không được phòng hộ, kết quả đến nay rừng tràm ở bán đảo Cà Mau chỉ còn khoảng hơn 250.000 ha, đã mất gần nửa diện tích trước đây. Có năm, mặn đã thâm nhập vào sâu trong đất liền đến 50 km. _ RNM Cần Giờ có tác dụng rất to lớn đối với thành phố Hồ Chí Minh. Mùa mưa, nước được trữ lại một phần ở đây. Đến mùa kiệt, do hạn chế của nước hồ Dầu Tiếng nên mực nước sông Đồng Nai xuống rất thấp, lúc đó nước từ trong rừng ngập mặn ở cửa sông Đồng Nai chảy ra, ngăn nước mặn không vào quá sâu. Khi xây dựng hồ Dầu Tiếng, người ta đã lo lắng việc xâm nhập mặn khi mùa kiệt tới, uy hiếp nguồn nước sinh hoạt của thành phố. Nhưng giờ đây, điều đó đã không xảy ra và một phần không nhỏ là đóng góp của rừng Cần Giờ. Với khả năng lưu thông không khí, một ngày một ha rừng đước có thể đồng hóa trên 1000 kg CO2 nghĩa là toàn bộ số lượng CO2 có trong độ cao từ 20 đến 200m của khu vực rừng. Đồng thời hàng ngày rừng ngập mặn có thể cung cấp xấp xỉ 500m2/ha hơi nước làm mát khí hậu, cung cấp lượng lớn O2 trong lành và đảm bảo ẩm độ không khí thuận lợi cho Thành phố. Hơn thế nữa rừng ngập mặn bao gồm những thực vật có áp suất thẩm thấu cao, có cơ chế sinh lý đặc biệt để hấp thụ các chất ô nhiễm trong môi trường không khí, môi trường đất và đặc biệt là môi trường nước đã bị ô nhiễm. Điều đó đã nâng cao, vai trò kinh tế tài nguyên của RNM Cần Giờ, tạo một khả năng vô cùng quý giá là tự làm sạch môi trường sinh thái, môi trường nước, đất, không khí thành phố vốn đã bị ô nhiễm nghiêm trọng. RNM Cần Giờ vừa là rừng phòng hộ vừa là rừng bảo vệ môi trường cho thành phố. Nếu mất RNM sẽ dẫn đến hóa phèn, hoá mặn đất đai, vì đây là một vùng đất phèn tiềm tàng và đất mặn đan xen nhau. Dinh dưỡng trong đất và trong nước mất đi, hậu quả là sinh vật phù du, tảo, rong, thức ăn cho tôm cá cũng mất theo, tôm cá theo đó cũng không thể sống được. Thành phố Hồ Chí Minh có 5 triệu dân, với nồng độ bụi 2,5mg/m3 vượt quá tiêu chuẩn vệ sinh từ 4 – 10 lần, nồng độ CO2 và SO2 gấp 1,5 – 8 lần cho phép, tiếng ồn gấp 1,2 – 4 lần cho phép, mà nội thành bình quân diện tích cây xanh trên đầu người chỉ 0,4 – 0,7m2. Hơn 5 triệu người thải ra bầu không khí hàng ngàn m3 CO2 và một ngày người lấy đi lượng O2 tương đương 1,4kg không khí (hay 14m3 không khí). Do vậy, chức năng bổ sung O2 cho bầu không khí và lọc bụi cho thành phố Hồ Chí Minh chính là từ RNM phòng hộ Cần Giờ. 6. CÂY ĐƯỚC - VỆ SĨ BỜ BIỂN Cây Đước mọc ở vùng Nhiệt đới và Á Nhiệt đới, trong vùng bùn lầy của bờ biển. Cây thân gỗ nhỏ. Đất lầy bãi biển quá nhão, thường xuyên bị thủy triều tấn công khiến cây cối khó sinh sống. Cây Đước nhờ có bộ rễ rất phát triển, trên thân cành lại có rất nhiều rễ trụ đan xen ngang dọc, rủ xuống bãi lầy, ngoài tác dụng chống đỡ cho cây, Đước còn có tác dụng thoáng khí và hô hấp. Cây Đước có đặc tính khác các loài cây khác. Nó không sợ nước biển, đất mặn hay đất chua. Đước thường mọc ven bờ biển ngập nước mặn. Cách sinh sôi, nảy nở rất đặc biệt: hạt được nảy mầm trên cây rồi rơi xuống. Gặp bùn đất, chỉ sau mấy giờ sẽ mọc rễ thành cây non, cách sinh sản này gọi là “thực vật thai sinh” (cây đẻ con). Nếu hạt đước rơi xuống đúng cơn thuỷ triều lên, chúng sẽ theo thuỷ triều trôi dạt chu du khắp nơi. Thậm chí, vượt đại dương đến miền đất mới, gặp đất ở đâu chúng sẽ dừng lại bám rễ và sinh sống ở đó. Rễ đước chịu được mặn và hút được dinh dưỡng từ trong nước biển. Lá rất cứng, có màng sáp và bóng loáng phản quang để giữ nước. Trong lá có tuyến thải muối để thải muối thừa ra khỏi cơ thể. Người ta gọi Đước là cây “máy lọc nước biển thành nước ngọt màu xanh”. Các nhà khoa học đang nghiên cứu đặc điểm này của cây Đước để áp dụng vào công nghệ lọc nước biển. Cây Đước có vai trò rất quan trọng: _ Do rễ Đước nhiều và cắm sâu vào lòng đất, cành lá rậm rạp, rừng đước như một bức tường thành vững chãi, che chắn bờ biển, sóng to gió lớn từ biển đổ vào sẽ bị chặn đứng. Nhờ đó những cánh đồng dọc bờ biển cũng được bảo vệ. _ Rừng Đước không những bảo vệ bờ biển khỏi bị ăn lấn vào trong đất liền, mà còn mở rộng bờ biển. Đước còn giữ được chất lắng đọng của nước biển, cùng với lá rụng và phân chim, lâu ngày sẽ thành đảo mới hoặc đất liền. Rừng Đước còn là nơi cư trú của nhiều loại chim, tôm, cá, cua, làm cân bằng sinh thái bờ biển. _ Với nghề nuôi trồng hải sản, rừng Đước là nơi sinh sống, trú ngụ lý tưởng cho tôm, cá, ốc, sò biển… Ở đó chúng trốn tránh được kẻ thù hung dữ ngoài biẻn cả, có nguồn thực phẩm phong phú và tự do sinh sôi nảy nở. _ Gỗ Đước rất tốt. Người dân dùng cây Đước làm cột, kèo, cây đòn tay, đòn giông, xây nhà, đóng tủ, bàn ghế, làm xuồng, cầu cây, củi, than, vật dụng trong nhà, v.v… 7. CÂY MẮM Mắm là một nhóm các loài cây RNM phân bổ rộng khắp trên thế giới, trong các vùng bờ biển nằm trong khoảng giữa lúc triều lên và triều xuống, về phía Nam của Bắc chí tuyến. Ở Việt Nam có 4 loài cây Mắm: Mắm lưỡi đòng (Mắm trắng), mắm đen, Mắm ổi, Mắm quăn. Tùy loài, cây Mắm có thể đạt đường kính gốc và chiều cao khác nhau, có loài đạt đường kính gốc 60 cm và chiều cao 30 m. Đặc điểm của cây Mắm là có rễ đất và rễ phổi. Rễ phổi (cặc Mắm) có nhiệm vụ hấp thụ dưỡng khí, là biện pháp sinh tồn khi nền đất ngập mặn. Rễ phổi cũng là "kiến trúc" của thiên nhiên thích ứng để bảo vệ đất bồi. Trái một hột, mọc mầm trước khi rụng (vivipare, cây sinh con) cũng như một số loại cây khác trong rừng ngập mặn. Cây Mắm trước đây dùng làm ghe, thuyền, cất nhà và làm củi. Ngày nay Mắm cũng cung cấp nguyên phẩm cho việc biến chế dược liệu và cung cấp sắc tố cho công nghiệp thuộc da. Nguồn lợi chính của Mắm không nằm trong việc khai thác gỗ mà nằm ở lợi ích trong việc bảo vệ đất bồi và gây môi trường sống cho sinh vật ven biển. Diện tích đất bồi (riêng Cà Mau vài km²/năm) sẽ giảm đi nếu thiếu mắm để bảo vệ. Rễ Mắm mọc ngược, rễ Đước ăn xuôi. Cuộc hành trình của sa bồi cũng là cuộc cắm chân của cây Mắm. Đứng chân tới đâu là rễ Mắm tua tủa ngoi lên mặt nước tới đó. Một cây Mắm mọc là cả trăm chiếc rễ như những chiếc đũa tre ngoi lên mặt bùn vây kín gốc. Tựa vào bộ rễ đặc biệt đó, phù sa cứ thế lắng thành bùn loãng, thành đất nhão, gặp nắng gặp gió dần dà cứng lại. Cây Mắm vươn biển theo chiều nước phù sa, đến khi cây Đước theo ra thì Mắm lại nhường chỗ cho rừng Đước ken dày. Dân gian ở đây đã đúc kết: “Cây Mắm đi trước/Cây Đước theo sau”. Cái lý của trật tự trong sự lấn biển này là: Cây Mắm đen có lá dày và quả nặng, chỉ có nó mới cắm rễ được trên đất bùn bị sóng biển và thủy triều làm xáo động. Nó là quân tiên phong củng cố đất. Cây Đước tiếp đến với những chùm rễ hình chóp nón, trông như cái nạng. Những cây cao có thể vài chục mét; từ trên cành, quả Đước nảy mầm thành những cây nhỏ rơi xuống bùn nước mặn là mọc ngay. Cây Mắm có bộ rễ mọc ngược lên, đất phù sa bồi ra biển đến đâu, cây Mắm mọc choài ra, tiên phong giữ đất. Cây Đước có bộ rễ chùm, mọc theo sau cây Mắm, giữ đất bám chắc khoẻ vào bộ rễ của mình… Người dân biển nói: Không có con đê nào vững chắc bằng rễ cây Mắm. Dù bão tố phong ba, dù gió giật cát bay, bao đời qua, những cây Mắm đứng sát vào nhau, rễ của chúng làm nên bờ kè vững chắc để chắn sóng. Nhiều người nói một cách hình tượng rằng, Mắm là loài cây đi tiên phong lấn biển để mở mang bờ cõi. Các nhà khoa học lâm sinh thì nói rằng, trong quy luật diễn thế của RNM, sự xuất hiện đầu tiên là cây Mắm. Mắm có vai trò ổn định đất và khi đất được ổn định thì rừng Đước hình thành. Nhưng từ thế hệ rừng Mắm sang thế hệ rừng Đước phải mất ba mươi năm. 8. CÓ PHẢI TỐC ĐỘ TUYỆT CHỦNG CỦA CÁC LOÀI SINH VẬT NGÀY CÀNG TĂNG ? Hiện nay trên Trái đất có khoảng trên 1 triệu loài động vật, khoảng 45 vạn loài thực vật, trong đó có khoảng 25 vạn loài thực vật bậc cao… Về chủng loại, trên Trái đất hiện có khoảng 5 – 10 triệu loài sinh vật . Tính từ khi trên Trái đất có sự sống đến nay thì có hơn 1 tỷ loài sinh vật đã lần lượt xuất hiện nhưng tới 990 triệu loài đã bị tuyệt chủng (99%). Trước khi loài người xuất hiện trên Trái đất, các sinh vật bị tuyệt chủng là do núi lửa phun trào, động đất, băng hà xuất hiện, v.v… Đồng thời sự cạnh tranh sinh tồn giữa các sinh vật cũng là một nhân tố quan trọng dẫn đến sự tuyệt chủng. Nhưng quá trình sinh vật bị tuyệt chủng trước khi xuất hiện loài người diễn ra rất chậm. Sau khi loài người xuất hiện, tốc độ tuyệt chủng các loài sinh vật diễn ra ngày một nhanh hơn. Theo thống kê, cách đây 400 năm, cứ khoảng 3 – 4 năm có một loài sinh vật bị tuyệt chủng. Nhưng bước vào đầu thế kỷ XX mỗi năm có 1 loài sinh vật bị tuyệt chủng. Đến thập kỷ 80, cứ mỗi giờ có 1 loài sinh vật bị tuyệt chủng. Hiện nay mức độ tuyệt chủng đang nhân lên theo con số gấp 1.000 lần tỷ lệ tuyệt chủng cơ sở: cứ mỗi giờ có 3 loài biến mất; mỗi ngày có 150 loài bị mất đi; mỗi năm 18.000 – 55.000 loài động vật và thực vật bị tuyệt chủng. Các số liệu trên do ông Ahmed Djoghlaf, Thư ký điều hành Ban Thư ký Công ước về đa dạng sinh học đưa ra nhân dịp Ngày quốc tế về Đa dạng sinh học (22/5). Theo dự tính của Tổ Chức Bảo Tồn Thiên Nhiên Quốc Tế, trên toàn thế giới có hơn 40% số loài hiện được xếp vào bậc bị đe doạ, đa số chúng ở vùng nhiệt đới, nơi có đa dạng sinh học phong phú nhất. Đứng đầu vể danh sách các loài bị đe doạ về chim, cá, thú là Indonesia – 1 nước nhiệt đới với nhiều đảo có các loài đặc hữu nhưng tập trung thành quần thể nhỏ và môi trường sống của chúng đang bị tàn phá ở quy mô lớn. Các số liệu gần đây của IUCN cho thấy, mất môi trường sống là mối nguy hại lớn nhất của các loài đang bị đe doạ, sau nữa là việc khai thác trực tiếp (săn bắn, thu lượm) và tiếp đó là sự thâm nhập của các loài ngoại lai. _ Trong những năm qua, Việt Nam đã nỗ lực và thành công trong việc mở rộng diện tích rừng trồng nhưng chưa thành công trong việc làm giảm sự thu hẹp diện tích rừng tự nhiên có chất lượng và mức độ ĐDSH cao. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN-MT), hiện nay, diện tích rừng giàu, có tính ĐDSH đang giảm mạnh so với trước đây. Tại những vùng có nhiều rừng, cũng là những vùng rừng giàu trữ lượng và có chất lượng cao như Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ, cấu trúc và cơ cấu rừng bị phá vỡ. Các hệ sinh thái (HST) như rạn san hô và rừng ngập mặn đều suy giảm. Kết quả điều tra từ 1994 đến 1997 tại 142 khu vực ven biển cho thấy chỉ có 1% diện tích rạn san hô được đánh giá là trong điều kiện phát triển rất tốt, 26% tốt, 41% trung bình và 31% là kém. Tổng diện tích rừng ngập mặn của cả nước hiện chỉ còn khoảng 155.000 ha, giảm hơn 100.000 ha so với trước năm 1990 và vẫn tiếp tục giảm. Rừng ngập mặn tự nhiên nguyên sinh hầu như không còn. Những thống kê gần đây cho thấy số lượng cá thể của một số loài động vật quý hiếm đang bị giảm rõ rệt và có nguy cơ tuyệt chủng cao. Điển hình nhất là loài Tê giác một sừng, hiện chỉ còn khoảng vài cá thể; Voi Châu Á chỉ còn gần 100 con; Hổ Đông Dương cũng tương tự. Một số loài thực vật như Sâm Ngọc linh, Hoàn đàn, Thông nước, Trầm hương, Lát hoa... đang bị đe dọa tuyệt chủng. Số lượng các loài thủy sinh vật, đặc biệt là tôm, cá có giá trị kinh tế bị giảm sút nhanh. Danh mục sách Đỏ Việt Nam (2003) liệt kê 417 loài động vật và 450 loài thực vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng ở các mức độ khác nhau, trong khi con số tương ứng của sách Đỏ Việt Nam (1996) là 365 và 356. Sơ đồ I gồm các loài cực kỳ nguy cấp, có nguy cơ bị tuyệt chủng và sẽ bị đe doạ tuyệt chủng. Sơ đồ II gồm các loài đã tuyệt chủng hay đã tuyệt chủng trong tự nhiên. Cả hai bảng bao gồm động vật có vú, chim, các loài bò sát, lưỡng cư, cá, động vật thân mềm, động vật không xương sống, thực vật. I. Các nước có số loài bị đe doạ cao nhất theo Sách đỏ IUCN 2006 II. Các nước có số loài bị tuyệt chủng cao nhất theo Sách đỏ IUCN 2006. 9. VÌ SAO TỐC ĐỘ TUYỆT CHỦNG CỦA CÁC LOÀI SINH VẬT HIỆN NAY DIỄN RA NHANH NHƯ VẬY ? Nguyên nhân cốt lõi chính là do con người tạo ra. _ Con người đã phá hoại nơi cư trú của động vật cũng như môi trường sinh tồn của thực vật. Công việc xây dựng thành phố, khái thác hầm mỏ, khai phá đất hoang để trồng trọt, xây dựng đập nước,… gây ra những thay đổi to lớn đối với rừng núi, đồng cỏ, sông hồ, bờ biển khiến các loài sinh vật hoang dại không có nơi sinh sống và bị tiêu diệt tận gốc, chưa kể nạn săn bắn và buôn bán trái phép động vật hoang dã, khai thác quá mức gỗ và lâm sản, đánh bắt thuỷ hải sản một cách không bền vững, ô nhiễm môi trường… _ Sự gia tăng dân số là mối đe dọa lớn: việc mở rộng và thâm canh nông nghiệp làm gia tăng áp lực lên các nguồn tài nguyên thiên nhiên. _ Sự biến đổi khí hậu toàn cầu do tích tụ khí CO2 trong bầu khí quyển đang ở mức chưa bao giờ có trong vòng 650.000 năm qua. Ban Thư ký Công ước về ĐDSH cũng đưa ra lời cảnh báo, vào cuối thế kỷ này, nhiều loài và HST sẽ phải vật lộn để thích nghi với những thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa và tỷ lệ tuyệt chủng tăng lên. Biến đổi khí hậu là nguyên nhân quan trọng dẫn tới suy giảm ĐDSH. Đồng thời, sự suy giảm ĐDSH và sự xuống cấp của các sinh cảnh tự nhiên cũng góp phần biến đổi khí hậu. Chính vì vậy, “Đa dạng sinh học và biến đổi khí hậu” được lấy là chủ đề của ngày ĐDSH thế giới năm 2007 10. CÁC LOÀI SINH VẬT BỊ TUYỆT CHỦNG SẼ GÂY NGUY HẠI LỚN CHO CON NGƯỜI NHƯ THẾ NÀO ? _ Đối với nông nghiệp, các giống cây hoang dại có tác dụng rất quan trọng. Đặc tính ưu việt của bất kỳ loài thực vật nào cũng không thể duy trì được mãi mãi. Giống lúa mì và các loại cây lương thực của Châu Âu và Bắc Mỹ chỉ duy trì tuổi thọ được 5 – 15 năm. Bởi lẽ, thời gian càng dài thì quá trình phát triển sâu bệnh sẽ làm giảm sức đề kháng của cây trồng. Đồng thời sự thay đổi thổ nhưỡng và khí hậu có thể sẽ không thích ứng với cây trồng. Vì vậy, con người phải không ngừng lai tạo ra những giống cây trồng mới. Trong đó các giống cây hoang dại giữ vai trò rất quan trọng. Nếu các loài cây hoang dại bị tuyệt chủng, lẽ tất nhiên nguồn nguyên liệu để lai tạo giống mới sẽ mất đi. Hậu quả sẽ không lường trước được. _ Ngành chăn nuôi cũng vậy. Các nhà động vật học đã phác hiện ra một loại gà hoang gọi là Kaunis, hình dạng của chúng rất xấu xí. Nhưng nếu lai giống với gà công nghiệp sẽ cho ra đời một giống gà mới rất khoẻ và chóng lớn. Nhìn chung, các loài sinh vật hoang dã đều có sức đề kháng rất cao với bệnh tật và môi trường khắc nghiệt. Chúng thích nghi với mọi điều kiện thiên nhiên. Vì vậy chúng là nguồn “nguyên liệu” vô cùng quan trọng để con người lai tạo ra các giống và con giống mới. Xung quanh ta có nhiều loài sinh vật hoang dã tưởng như không có ích gì. Nhưng ngày nào đó nó có thể đem lại lợi ích to lớn cho con người. Chúng ta cần nâng niu , bảo vệ các loài sinh vật hoang dã, không nên tự tiện tiêu diệt chúng. _ Đối với ngành y dược, các sinh vật hoang dại cũng có sự liên quan mật thiết. Trước tiên, nhiều loại dược phẩm được trực tiếp sản xuất từ các sinh vật hoang dại. Phần lớn các loại thuốc Bắc, thuốc Nam đều lấy từ thực vật hoang dại và cũng có nhiều thứ thuốc lấy từ động vật. Trong Tây y cũng vậy, các dược phẩm không tách rời sinh vật hoang dại. nếu trong hơn 400 loại dược phẩm chế từ động vật thì có hơn 100 loại chế từ con hươư. Còn ở Mỹ, hàng năm có ít nhất 40% số thốc chế từ sinh vật hoang dại, thực vật bậc cao chiếm 25%, động vật chiếm 3% và sinh vật chiếm 13%...Thứ hai, chất liệu thiên nhiên có sẵn trong sinh vật hoang dại thường là công thức gợi ý con người nghiên cứu sản xuất tổng hợp thành dược phẩm chữa bệnh. Do gợi ý của các cấu trúc tế bào mà các nhà khoa học đã chế ra thuốc điều trị rối loạn chức năng sống và chữa bệnh đậu mùa. Thứ ba, trong quá trình nghiên cứư y dược học và sinh vật học, các nhà khoa học cần rất nhiều động vật hoang dại để làm thí nghiệm. Hiện nay, chỉ riêng chuột bạch to, chuột bạch bé và các loài chuột khác được nuôi dùng trong các phòng thí nghiệm lớn trên thế giới có tới trên trăm triệu con. Ở Châu Mỹ có loài cá phổi rất kỳ lạ: vừa có mang vừa có phổi. Khi sông hồ khô cạn chúng chui xuống bùn ngủ và có thể sống dưới bùn 2 năm liền. Các nhà khoa học hy vọng sẽ tìm thấy trong máu loài cá này chất khống chế giấc ngủ. Nếu tìm được chất này sẽ có tác dụng rất quan trọng trong các ca mổ. Bởi vì, các thầy thuốc sẽ có nhiều thời gian phẫu thuật mà không ảnh hưởng tới sức khoẻ bệnh nhân. Nếu nguồn sinh vật hoang dại bị tuyệt chủng thì ngành y dược sẽ bỏ phí mất nhiều cơ hội để khám phá bí mật của tự nhiên, phục vụ cho sức khoẻ loài người 11. TẦM QUAN TRỌNG CỦA KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN _ Theo quan niệm trước đây, các khu bảo tồn thiên nhiên thường được xem như một khu vực tách biệt với thế giới loài người. Quan niệm này đã dẫn đến những sai lầm trong việc quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên. Kết quả là thiên nhiên vẫn liên tục bị con người tác động theo hướng tiêu cực: tàn phá mà nguyên nhân là do những áp lực xã hội và sinh thái cả trong và ngoài khu bảo tồn. Theo Chương trình Con người và Sinh quyển (Man and Biosphere Program; viết tắt là: MAB thuộc UNESCO), thực tế cho thấy các khu bảo tồn vẫn cần có một số khu vực không có hoặc chịu rất ít tác động của con người với những quy định kiểm soát chặt chẽ, được gọi là “vùng lõi”. Bên cạnh đó cần thúc đẩy phát triển kinh tế thân thiện với môi trường, phát triển giáo dục và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống ở các vùng xung quanh được gọi là các “vùng đệm” và chuyển tiếp trong đó, người dân địa phương đóng vai trò chủ chốt. Có như vậy công tác bảo tồn mới đạt được hiệu quả lâu dài và bền vững. _ Khái niệm khu DTSQ lần đầu tiên được MAB đưa ra tại hội nghị khoa học ‘Sử dụng hợp lý và bảo tồn tài nguyên của Sinh quyển’ tổ chức tại Paris vào tháng 9/1968 với sự tham gia của 236 đại biểu đến từ 63 nước và 88 đại diện của các tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ của nhiều ngành khoa học khác nhau cùng các nhà quản lý và ngoại giao. Sau này được gọi là “Hội nghị Sinh quyển” do UNESCO tổ chức với sự ủng hộ tích cực của Tổ chức Lương thực, Tổ chức Y tế thế giới, các tổ chức bảo tồn và chương trình sinh học quốc tế thuộc Hội đồng Khoa học Quốc tế (IBP/ICSU). _ Việc xây dựng khu DTSQ là nhằm giải quyết một trong những vấn đề thực tiễn quan trọng nhất mà con người đang đối mặt hiện nay: đó là là làm thế nào để có thể tạo nên sự cân bằng giữa bảo tồn đa dạng sinh học, các nguồn tài nguyên thiên nhiên với sự thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, duy trì các giá trị văn hoá truyền thống đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Mô hình khu DTSQ vừa cung cấp cơ sở lý luận vừa là công cụ thực hiện chương trình nghiên cứu đa quốc gia về tác động qua lại giữa con người và sinh quyển. Về mặt phương pháp luận và cách tiếp cận cơ bản, khu dự trữ sinh quyển là: “Con người là một phần của sinh quyển”, là “Công dân sinh thái”. _ Năm 1969, Ban Tư vấn Khoa học của MAB đã đề xuất việc thành lập mạng lưới hợp tác trên toàn thế giới, bao gồm cả các vườn quốc gia, khu dự trữ sinh quyển và các hình thức bảo tồn khác phục vụ cho công tác bảo tồn cũng như đẩy mạnh các công trình nghiên cứu, giáo dục và đào tạo. Các chức năng cơ bản của mạng lưới này bao gồm: đóng góp vào việc bảo tồn đa dạng di truyền, loài, hệ sinh thái và duy trì đa dạng sinh học (chức năng bảo tồn); tạo điều kiện cho các hoạt động nghiên cứu và giám sát, giáo dục và trao đổi thông tin giữa các địa phương, quốc gia và quốc tế về bảo tồn và phát triển bền vững (chức năng hỗ trợ); kết hợp chặt chẽ giữa bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế nâng cao mức sống người dân và đây cũng chính là nhân tố cơ bản đảm bảo cho sự thành công của công tác bảo tồn (chức năng phát triển). _ Khu DTSQ là phòng thí nghiệm sống cho việc nghiên cứu, giáo dục, đào tạo và giám sát các hệ sinh thái, đem lại lợi ích cho cộng đồng cư dân địa phương, quốc gia và quốc tế. _ Trong 6 năm qua, từ khi tham gia các hoạt động quốc tế trong Chương trình Con người và Sinh quyển (2000-2006), nước ta đã đóng góp 5 khu DTSQ cho nhân loại. Các khu DTSQ này bao gồm các HST trên đất liền và các vùng ven biển và biển - đảo, được UNESCO công nhận đang thúc đẩy mối quan hệ cân bằng giữa con người và thiên nhiên... Các khu DTSQ này đang góp một phần quan trọng trong sự cân bằng sinh thái như hạn chế xói lở, làm cho đất đai màu mỡ, điều hoà khí hậu, hoàn thiện các chu trình dinh dưỡng, hạn chế ô nhiễm nước và không khí và còn nhiều chức năng khác nữa. 12. CÁC KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN Ở VIỆT NAM Đến nay, Việt Nam có tất cả 5 khu DTSQ thế giới: 1. Khu DTSQ Cần Giờ: Tên đầy đủ là khu DTSQ rừng ngập mặn Cần Giờ, thuộc thành phố Hồ Chí Minh, được UNESCO công nhận vào ngày 21/1/2000. Tổng diện tích 75.740 ha, dân số hơn 57 ngàn người. Cánh rừng này được giới chuyên môn đánh giá là rừng ngập mặn đẹp nhất Đông Nam Á được khôi phục sau khi bị chất độc hóa học hủy diệt gần như toàn bộ trong thời gian chiến tranh. Tên cũ của rừng là rừng cấm Quảng Xuyên - Cần Giờ. Vào những thập niên đầu thế kỷ 20, nơi đây nổi tiếng với những cánh rừng ngập mặn nguyên sinh và nhiều loài động vật hoang dã. Chất độc hóa học đã rải xuống nhiều lần trong suốt gần 10 năm chiến tranh (1964-1972) làm cho hơn 80% rừng ngập mặn có nhiều cây cổ thụ bị chết. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng mới được khôi phục lại. Khu DTSQ Cần Giờ cách thành phố Hồ Chí Minh 30-40km đường chim bay, đây được coi là “lá phổi xanh của thành phố” bởi có chức năng điều hòa không khí, giảm ô nhiễm và hấp thu CO2 do các hoạt động công nghiệp thải ra từ thành phố Hồ Chí Minh. Ngày nay những quần xã thực vật bản địa mà loài Đước đôi chiếm ưu thế ở đây không còn nguyên vẹn do bị chất độc hóa học của Mỹ hủy diệt. Thay vào đó là quần xã thực vật rừng tái sinh và trồng mới, trong đó chủ yếu là cây Đước nhập giống từ rừng Năm Căn, Cà Mau vì nguồn giống tại chỗ của Cần Giờ không đủ cung cấp (đến năm 1990 mới có nguồn giống Đước tại chỗ). Từ năm 1984 trở đi, một số loài cây khác như Gõ biển, Dà vôi, Dà quánh, Cóc trắng, Xu ổi, Tra,... cũng được trồng để phủ xanh các vùng đất cao, ít ngập triều. Khu DTSQ Cần Giờ có vùng lõi 4.721 ha. Vùng này đặc trưng cho các hệ sinh thái rừng trồng và đặc biệt là rừng ngập mặn tái sinh tự nhiên dọc theo các kênh rạch và bìa rừng với tính đa dạng sinh học cao về thành phần các loài động vật, thực vật, vi sinh vật với cảnh quan rừng ngập mặn đa dạng. Vùng đệm của khu DTSQ Cần Giờ là 41.139 ha. Còn lại là vùng chuyển tiếp có diện tích là 29.880 ha. Đây được xem là vùng phát triển bền vững, nơi cộng tác của các nhà khoa học, nhà quản lý và người dân địa phương. Tạo điều kiện thuận lợi và đẩy mạnh các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch, dịch vụ đi đôi với tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng. 2. Khu DTSQ Cát Tiên: Thuộc các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, Lâm Đồng và Đắc Lắc, được UNESCO công nhận ngày 10/11/2001.Tổng diện tích gần 729 ngàn ha, với hơn 170 ngàn dân. Đây là một khu rừng mưa ẩm nhiệt đới cuối cùng còn sót lại ở miền Nam nước ta, với rất nhiều loài động thực vật quí hiếm đang bị đe dọa tuyệt chủng, đặc biệt là loài tê giác một sừng. Các hệ sinh thái ở đây cung cấp rất nhiều dịch vụ sinh thái trong đó phải kể đến chức năng điều hòa nước vùng thượng nguồn sông Đồng Nai, cung cấp nước ngọt vào mùa khô và khống chế ngập lụt vào mùa mưa cho cả một vùng rộng lớn Đông Nam Bộ, kể cả thành phố Hồ Chí Minh. Các hệ sinh thái rừng đặc trưng ở đây là rừng lá rộng thường xanh, rừng tre nứa, rừng hỗn giao,… chạy dài từ vùng núi cao xuống tận cao nguyên Lâm Đồng, xen lẫn là các hệ sinh thái đồng cỏ, đất ngập nước cùng với rất nhiều loại hình vùng chuyển tiếp sinh thái. Đây là nơi giao thoa của các loại rừng mưa ẩm nhiệt đới núi cao, cao nguyên và phức hệ rừng hỗn giao, đất ngập nước đầu nguồn làm nên sự đa dạng và phong phú không nơi nào có được ở nước ta. Đây là nơi ở và kiếm ăn cho nhiều loài động vật quí hiếm bao gồm các loài động vật có vú, chim, bò sát, cá, côn trùng, sâu bọ,… Trải dài trên diện tích của bốn tỉnh, khu DTSQ Cát Tiên có diện tích lớn nhất về các hệ sinh thái nội địa. Có 11 dân tộc anh em sống ở đây, những dân tộc chính bao gồm: người Kinh (vùng đồng bằng, đất thấp), người S’Teng và Châu Mạ, Châu Ro sống định cư ở đây từ vài thế kỷ. Ngoài ra còn có các dân tộc ít người mới từ miền Bắc chuyển vào như Tày, Nùng, Dao, Hoa, H’Mông,… Vùng lõi của khu DTSQ có diện tích gần 74 ngàn ha, là vùng lõi của Vườn quốc gia Cát Tiên. Do một số vùng rừng nguyên sinh còn sót lại, đa dạng sinh học ở đây được giữ lại gần như ở trạng thái nguyên vẹn. Vùng lõi này có nhiệm vụ bảo tồn 1.610 loài thực vật, trong đó có 31 loài quí hiếm, 23 loài chỉ có ở Cát Tiên. Trong số các loài thực vật có 30 loài được bảo tồn nguồn gen, 511 loài cây gỗ (176 loài gỗ quí), 550 loài cây làm thuốc và hàng trăm loài có giá trị thực phẩm, lấy dầu, lấy sợi,… Hiện có có 34 loài có tên trong sách đỏ Việt Nam như Gõ đỏ, Cẩm lai, Giáng hương,... Các loại rừng này là nơi ở và kiếm ăn của các loài động vật chỉ có ở vùng rừng nhiệt đới. Đến nay, đa dạng sinh học của Cát Tiên vẫn chưa xác định hết, công việc này vẫn còn đang tiếp tục. Đến nay các nhà khoa học đã công bố 77 loài thú, 318 loài chim, 58 loài bò sát, 28 loài lưỡng cư và 130 loài cá, trong đó nhiều loài có nguy cơ bị tuyệt chủng như voi châu Á, tê giác một sừng, Heo rừng, Bò tót, Voọc vá chân đen, Vượn đen má hung. Trong khu DTSQ có 3 loài chim đặc hữu là Gà so cổ hung, Gà tiền mặt vàng và Chích chạch xám. với nhiều loài chim nước rất hiếm như Ngan cánh trắng, Già đẫy... và rất nhiều loài sâu bọ,... Trước đây Cát Tiên còn có Cá sấu nước ngọt, nhưng hiện tại loài này gần như đã tuyệt chủng. Trong những năm gần đây loài cá sấu này được đưa trở lại trong điều kiện tự nhiên của khu vực Bàu Sấu. Vùng đệm của khu DTSQ Cát Tiên có diện tích trên 251 ngàn ha. Mặc dù gọi là vùng đệm nhưng do Cát Tiên có nhiều sinh cảnh rừng khác nhau từ rừng thường xanh nguyên sinh, rừng rụng lá nguyên sinh và thứ sinh, trảng bụi, trảng cỏ, đất ngập nước với các loại hồ và các trảng cỏ ngập nước theo mùa và nhiều kiểu sinh cảnh giao thoa sinh thái liên tục giữa vùng lõi và vùng đệm, không ở đâu thấy rõ vai trò của vùng đệm quan trọng như thế nào đối với công tác bảo tồn ở vùng lõi như ở khu vực này. Vùng chuyển tiếp của khu DTSQ Cát Tiên có diện tích trên 403 ngàn ha. 3. Khu DTSQ Cát Bà: Tên chính thức là khu DTSQ quần đảo Cát Bà, thuộc thành phố Hải Phòng, được UNESCO công nhận ngày 2/12/2004. Tổng diện tích hơn 26 ngàn ha, trong đó vùng lõi là 8.500 ha, vùng đệm gần 8 ngàn ha và vùng chưyển tiếp là 10 ngàn ha; số dân trên 10 ngàn người. Quần đảo Cát Bà thuộc địa phận huyện Cát Hải, cách tp. Hải Phòng 60 km. Cát Bà có 620 loài thực vật bậc cao phân bố thuộc 438 chi của 123 họ. Rừng ở đây là loại hình rừng mưa nhiệt đới thường xanh trên núi đá vôi hợp thành từ nhiều kiểu phụ như rừng trên đỉnh và sườn núi đá vôi, rừng kim giao, rừng ngập nước trên núi (ao ếch) và rừng ngập mặn. Rừng ngập mặn nằm ở phía Tây Bắc đảo, các loài chủ yếu bao gồm Đước, Trang, Ô rô, Ráng, Sú,... đặc trưng của vùng bờ biển Đông Bắc Bộ. Dưới biển là các hệ sinh thái san hô, cỏ biển, tảo phù du, tảo đáy.. Đây là môi trường lý tưởng cho các loài thuỷ hải sản. Có giả thuyết cho rằng Bò biển đã từng sống ở đây cùng với Cá heo và một số loài động vật khác. Cát Bà có 32 loài thú, 69 loài chim và 20 loài bò sát, lưỡng cư. Nhiều loài quý hiếm như Voọc đầu trắng, Sơn dương, Rái cá, Báo, Mèo rừng, Cầy hương, Sóc đen,... Đặc biệt Voọc đầu trắng là loài đặc hữu của Cát Bà, nên nó được mang tên Voọc Cát Bà. Nhiều loài chim quý cũng cư trú hoặc di cư đến đây như Sâm cầm, Khướu, Chim cu xanh, Cu gáy,... Khu DTSQ Cát Bà có hai vùng đệm. Vùng đệm khu trung tâm (vùng đệm Việt Hải) có diện tích 141 ha và vùng đệm bao quanh cả hai vùng lõi có diện tích 7.600 ha, trong đó có 4.800 ha phần đảo và 2.800 ha phần biển. Đây là vùng có chức năng phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho người dân, trợ giúp cho công tác bảo tồn vùng lõi. 4. Khu DTSQ Châu thổ sông Hồng: Tên chính thức là khu DTSQ đất ngập nước ven biển liên tỉnh châu thổ sông Hồng, thuộc 5 huyện Thái Thụy, Tiền Hải (Tỉnh Thái Bình); Giao Thủy, Nghĩa Hưng (Tỉnh Nam Định) và Kim Sơn (Tỉnh Ninh Bình), được UNESCO công nhận vào ngày 2/12/2004. Tổng diện tích của khu DTSQ lớn hơn 105 ngàn ha, vùng lõi hơn 14 ngàn ha, vùng đệm gần 37 ngàn ha, vùng chuyển tiếp trên 54 ngàn ha, có số dân trên 128 ngàn người. Đây là khu DTSQ liên tỉnh bao gồm cả Vườn quốc gia Xuân Thuỷ, khu BTTN đất ngập nước Tiền Hải và các vùng phụ cận, Khu Ramsar Xuân Thuỷ cũng nằm trong khu DTSQ này. Đây là khu Ramsar được công nhận vào năm 1989, là khu đầu tiên và duy nhất ở Việt Nam tính đến thời điểm này. Ramsar là tên Công ước bảo vệ những vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt là nơi cư trú của những loài chim nước, do các nước tham gia ký tại tp. Ramsar, Cộng hoà Hồi giáo Iran. Xuân Thuỷ cũng là khu Ramsar đầu tiên của Đông Nam Á và thứ 50 của thế giới. Khu DTSQ này hiện đang lưu giữ những giá trị đa dạng sinh học phong phú với các loài quý hiếm và có tầm quan trọng quốc tế. Các công trình nghiên cứu đã công bố khoảng 200 loài chim, trong đó có gần 60 loài chim di cư, hơn 50 loài chim nước. Nhiều loài quý hiếm được ghi trong sách Đỏ thế giới như: Cò thìa, Mòng bể, Rẽ mỏ thìa, Cò trắng bắc,... Sinh cảnh đặc sắc nơi đây là những cánh RNM rộng hàng ngàn ha, đầm lầy mặn, bãi bồi ven biển và cửa sông. Những cánh rừng này được ví như bức tường xanh bảo vệ đê biển, làng xóm khỏi bị tàn phá bởi gió bão, nước biển dâng, thậm chỉ cả thảm hoạ sóng thần nếu xảy ra. RNM cũng là nơi nuôi dưỡng sinh đẻ của các loài hải sản. Như một vườn ươm cho sự sống của biển, RNM cung cấp nguồn lợi thuỷ sản phong phú cùng với 500 loài động thực vật thuỷ sinh và cỏ biển, nhiều loài thuỷ hải sản có giá trị kinh tế cao như Tôm, Cua, Cá biển, Vạng, Trai, Sò, Cá tráp, Rong câu chỉ vàng,... Khu DTSQ châu thổ sông Hồng có hai vùng lõi và năm vùng chuyển tiếp. 5. Khu DTSQ Kiên Giang: Khu DTSQ Kiên Giang có ba vùng lõi thuộc các Vườn Quốc Gia U Minh Thượng, Vườn quốc gia Phú Quốc, và rừng phòng hộ ven biển Kiên Lương - Kiên Hải. So với 4 khu DTSQ được công nhận trước đó, khu DTSQ Kiên Giang có phần đa dạng hơn về cảnh quan cũng như hệ sinh thái. Tổng diện tích chính xác của khu DTSQ Kiên Giang là 1.118.105 ha, lớn nhất trong số các khu DTSQ thế giới tại Việt Nam hiện nay. Về cảnh quan bao gồm các mẫu cảnh quan tiêu biểu và độc đáo là rừng Tràm trên đất than bùn khu vực U Minh Thượng; khu vực đảo Phú Quốc có nhiều sông suối, các bãi tắm chạy dài dọc bờ biển; khu vực Kiên Lương – Kiên Hải với hơn 30% diện tích là đồi núi và hải đảo, còn lại là RNM ven biển và rừng tràm ngập nước theo mùa vùng Tứ giác Long Xuyên. Khu DTSQ Kiên Giang là nơi tập trung nhiều HST rừng nhiệt đới như: HST rừng nguyên sinh và rừng thứ sinh, HST rừng trên núi đá, HST rừng ngập chua phèn, HST RNM, HST rú bụi ven biển và HST rạn san hô - cỏ biển. Đây là nơi bảo tồn nhiều nguồn gen động vật và thực vật quý hiếm. 13. VƯỜN QUỐC GIA Ở Việt Nam, các vườn quốc gia dưới đây đã được công nhận: 1. Vườn quốc gia Hoàng Liên (Lào Cai) 2. Vườn quốc gia Ba Bể (Bắc Kạn) 3. Vườn quốc gia Bái Tử Long (Quảng Ninh) 4. Vườn quốc gia Xuân Sơn (Phú Thọ) 5. Vườn quốc gia Tam Đảo (Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Tuyên Quang 6. Vườn quốc gia Ba Vì (Hà Tây) 7. Vườn quốc gia Cát Bà (Hải Phòng) 8. Vườn quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình, Thanh Hóa, Hòa Bình) 9. Vườn quốc gia Xuân Thủy (Nam Định) 10. Vườn quốc gia Bến En (Thanh Hóa) 11. Vườn quốc gia Pù Mát (Nghệ An) 12. Vườn quốc gia Vũ Quang (Hà Tĩnh) 13. Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng (Quảng Bình) 14. Vườn quốc gia Bạch Mã (Thừa thiên-Huế) 15. Vườn quốc gia Chư Môm Ray (Kon Tum) 16. Vườn quốc gia Kon Ka Kinh (Gia Lai) 17. Vườn quốc gia Yok Đôn (Dak Lak) 18. Vườn quốc gia Chư Yang Sin (Dak Lak) 19. Vườn quốc gia Cát Tiên (Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Phước) 20. Vườn quốc gia Bù Gia Mập (Bình Phước) 21. Vườn quốc gia Côn Đảo (Bà Rịa-Vũng Tàu) 22. Vườn quốc gia Lo Go Sa Mát (tỉnh Tây Ninh) 23. Vườn quốc gia Tràm Chim (Đồng Tháp) 24. Vườn quốc gia U Minh Thượng (Kiên Giang) 25. Vườn quốc gia Phú Quốc (Kiên Giang) 26. Vườn quốc gia Núi Chúa (Ninh Thuận) 27. Vườn quốc gia Mũi Cà Mau (Cà Mau) 28. Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà (Lâm Đồng) 29. Vườn quốc gia U Minh Hạ (Cà Mau) 30. Vườn quốc gia Phước Bình (Ninh Thuận) 14. THẾ NÀO LÀ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ? Phát triển bền vững là khái niệm mới ra đời. Năm 1987 trong báo cáo của Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển (WCED) đã sử dụng chính thức cụm từ “phát triển bền vững” trên quy mô quốc tế và được định nghĩa như sau: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng những nhu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại và phương hại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”. Phát triển bền vững có nghĩa rộng là bảo vệ môi trường. Môi trường không tồn tại tách biệt với những hoạt động, mong ước và nhu cầu của con người. “Môi trường” là nơi chúng ta sinh sống, còn “phát triển” là cái mà chúng ta cố gắng làm để cho mọi thứ ngày càng tốt đẹp hơn trong môi trường đó. Trong những năm sau 90, khái niệm “phát triển bền vững” được sử dụng phổ biến, nhưng chưa thống nhất hoàn toàn về định nghĩa và nội dung. Song nội hàm của phát triển bền vững là sự lồng ghép ít nhất 3 mặt: tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Ba mặt nói trên tác động và quy định lẫn nhau. Sự phát triển lâu dài và ổn định chỉ có thể đạt được trên sự cân bằng nhất định của 3 mặt nói trên. Trong một thời kỳ cụ thể (như thời kỳ công nghiệp hoá), người ta có thể đặt một mặt nào đó lên vị trí ưu tiên số một, nhưng mức độ và thời gian của sự ưu tiên là có giới hạn. Thời kỳ công nghiệp hoá, hầu như các nước đều coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu số 1, “tạm thời” hy sinh tính công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Ở Việt Nam, phát triển bền vững đã trở thành quan điểm của Đảng (thể hiện trong Nghị quyết IX). Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 – 2010 và trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 – 2005 là: “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, đảm bảo sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Chiến lược quốc gia đã được soạn thảo có sự tham gia rộng rãi của các tổ chức chính phủ, các đoàn thể xã hội, đại biểu các tầng lớp nhân dân. Ba mục tiêu chính được xác định cho chiến lược phát triển bền vững là: _ Ngăn chặn và kiểm soát ô nhiễm. _ Bảo vệ, bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học. _ Cải thiện chất lượng môi trường đô thị, khu công nghiệp và nông thôn. 15. VÌ SAO PHẢI XANH HOÁ THÀNH PHỐ? Trong thành phố dân số tập trung đông, kiến trúc dày đặc, xe cộ và các nhà máy nhiều, gây nên ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn khá nghiêm trọng. Cây xanh không những có thể hấp thụ khí CO2, nhả ra một lượng lớn khí ôxy mà còn có tác dụng hấp thụ các chất độc, bụi bặm, diệt vi khuẩn, giảm tiếng ồn, ngăn ngừa gió cát, tích nước, bảo vệ đất, điều tiết tiểu khí hậu, thậm chí còn có thể dùng để giám sát và đo các chất độc hại trong môi trường. Cây cối là “máy chế tạo ôxy” thiên nhiên, hấp thụ khí cacbonic và nhả ra khí ôxy. Người ta xác định được: cứ có 15 mẫu cây xanh, thì mỗi ngày có thể lấy ở không khí 1 tấn CO2 và nhả ra 0,73 tấn O2. Cây xanh là “người bảo vệ và miễn dịch” thiên nhiên. Một số cây xanh có thể tiết ra chất diệt vi khuẩn, giết chết các vi khuẩn trôi nổi trong không khí. Cây xanh là “máy lọc bụi” thiên nhiên. Cành và lá cây rậm rạp sẽ có tác dụng ngăn cản bụi. Bề mặt lá của một số loài cây có rất nhiều lông, có một số còn có thể tiết ra những chất keo. Lông tơ hoặc chất keo này có thể hấp thu bụi trong không khí. Một mẫu cây xanh mỗi năm hấp thụ một lượng bụi khoảng hơn 60 tấn. Trong thành phố những khu vực không có cây xanh bụi bặm trong không khí nhiều hơn khoảng 15 lần so với những khu vực có cây xanh. Cây xanh là “máy tiêu âm” tự nhiên, bề mặt lá cây thường không phẳng, trên lá cây có nhiều lỗ cực kỳ nhỏ và các lông tơ giống như những máy hấp thụ âm lồi lõm, nó có tác dụng tiêu âm rất tốt. Do đó những đường phố lớn trong thành phố có cây to thường khá yên tĩnh. Cây xanh là “máy điều hoà không khí” thiên nhiên. Sự bốc hơi của cây xanh có tác dụng làm giảm nhiệt, giảm độ nóng và tăng thêm độ ẩm trong không khí. Theo các nhà khoa học đo được, 1 ha cây xanh có hiệu quả hạ nhiệt tương đương với 500 máy điều hoà làm việc 20 giờ. Cây xanh còn là máy giám sát và đo đạc ô nhiễm môi trường. Nhiều loại cây xanh hoặc thực vật rất nhạy cảm với các chất độc hại do nhà máy thải ra. Khi lượng ô nhiễm còn thấp, cây xanh vẫn biểu hiện được các triệu chứng đã bị tổn thương, còn con người chưa hề cảm thấy được điều gì. Vì cây xanh có thể làm giảm các loại ô nhiễm môi trường cho nên thành phố cần tăng cường phát triển trồng cây xanh. 16. CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ LÀ GÌ ? VIỆT NAM ĐÃ THAM GIA NHỮNG CÔNG ƯỚC NÀO VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ? Công ước quốc tế là văn bản ghi rõ những việc cần tuân theo và những điều bị cấm thi hành, liên quan đến một lĩnh vực nào đó, do một nhóm nước thoả thuận và cùng cam kết thực hiện, nhằm tạo ra tiếng nói chung, sự thống nhất về hành động và sự hợp tác trong các nước thành viên. Công ước quốc tế có hiệu lực trọn vẹn với các nước thành viên nhưng cũng có tác động rất lớn đối với các nước trong khu vực chưa tham gia công ước. Hiện nay có khoảng 300 công ước quốc tế về bảo vệ môi trường. Một biện pháp quan trọng trong bảo tồn các HST là tham gia vào các công ước quốc tế. Việt Nam đã tham gia các công ước quốc tế về môi trường sau đây: 1. Công ước Chicago về hàng không dân dụng quốc tế, 1944. 2. Thoả thuận về thiết lập Uỷ ban nghề Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, 1948. 3. Hiệp ước về khoảng không ngoài vũ trụ, 1967. 4. Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt như là nơi cư trú của các loài chim nước (RAMSAR), 1971 (20/09/1988). 5. Công ước liên quan đến bảo vệ các di sản văn hoá và tự nhiên (19/10/1982). 6. Công ước về cấm phát triển, sản xuất và tàng trữ vũ khí hoá học, vi trùng và công việc tiêu huỷ chúng. 7. Công ước về buôn bán quốc tế về các loài động thực vật có nguy cơ bị đe dọa, 1973 (20/01/1994) 8. Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển MARPOL (29/08/1991). 9. Công ước Liên hợp quốc về sự biến đổi môi trường (26/08/1980). 10. Nghị định thư chữ thập đỏ liên quan đến bảo vệ nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang. 11. Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển (25/07/1994). 12. Cam kết quốc tế về phổ biến và sử dụng thuốc diệt côn trùng, FAO, 1985. 13. Công ước viên về bảo vệ tầng ôzôn, 1985 (26/04/1994). 14. Công ước về thông báo sớm sự cố hạt nhân, IAEA, 1985 (29/09/1987). 15. Công ước về trợ giúp trong trường hợp sự cố hạt nhân hoặc cấp cứu phóng xạ, 1986 IAEA (29/09/1987). 16. Nghị định thư Montreal về các chất làm suy thoái tầng ôzôn, 1987 (26/01/1984). • Bản bổ sung London cho công ước, London 1990. • Bản bổ sung Copenhagen, 1992. 17. Thoả thuận về mạng lưới các trung tâm thuỷ sản ở Châu Á – Thái Bình Dương, 1988 (02/02/1989). 18. Công ước Basel về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải độc hại và việc loại bỏ chúng (13/05/1995). 19. Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, 1992 (16/11/1994). 20. Công ước về đa dạng sinh học, 1992 (16/11/1994). 17. NHỮNG HÀNH ĐỘNG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CẦN GIÁO DỤC CHO HỌC SINH Mười hành động bảo vệ môi trường: 1. Sử dụng giấy viết một cách khôn ngoan: tận dụng viết cả hai mặt giấy. 2. Bảo vệ sự trong sạch của ao, hồ, sông ngòi và bãi biển bằng cách tuyệt đối không vứt rác xuống các thuỷ vực ấy. 3. Hết sức tiết kiệm năng lượng: luôn chú ý tắt đèn khi không còn dùng đến nữa. 4. Nên giữ để sử dụng lại các bao bì chứa hàng cũ. 5. Hãy cứu sự lâm nguy của các động vật hoang dã bằng cách không mua hay dùng các đồ vật được chế tạo từ: da, lông, sừng hay vỏ các loài động vật. 6. Tiết kiệm nước: nếu thấy vòi nước rò chảy, nhớ khóa lại ngay. Nếu thấy ống nước rò rỉ nhớ báo cho người có chức trách sửa lại ngay. 7. Có ý thức chăm sóc cây cối bằng cách trồng lại cây mới ở chỗ có cây vừa chết và bảo vệ cây khỏi sự phá hoại. 8. Nên tăng cường đi bộ hoặc đi xe đạp hay phương tiện công cộng. Nếu cơ quan có xe ô tô cũng chỉ nên dùng khi không có phương tiện khác thay thế. 9. Không vứt rác ra chỗ công cộng. 10. Thường xuyên đọc sách, báo, xem ti vi về nội dung bảo vệ môi trường và góp phần phổ biến đến nhiều người khác các hiểu biết bản thân thu nhận được. Bản đồ 2.1: KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN RỪNG NGẬP MẶN CẦN GIỜ BẢN ĐỒ RỪNG NGẬP MẶN CẦN GIỜ Sơ đồ 2.5: Khu du lịch sinh thái Mađagui Bản đồ 2.3: MỘT SỐ ĐIỂM DU LỊCH SINH THÁI Ở VÙNG NAM TRUNG BỘ Hình 2.2 : Một số hình ảnh về rừng ngập mặn Cần Giờ Một hố khai quật ở Giồng Cá Vồ với rất nhiều mộ chum. Hình 2.5: Một số hình ảnh về khu du lịch Bình Châu - Phước Bửu Đường vào Khu Bảo tồn thiên nhiên Bình Châu-Phước Bửu Hình 2.6: Một số hình ảnh về các điểm du lịch ở Tiền Giang Chùa Vĩnh Tràng - Mỹ Tho (Tiền Giang) Chợ Nổi Cái Bè Lò kẹo dừa Cầu Mỹ Thuận Hình 2.7: Một số hình ảnh về các điểm du lịch ở Vĩnh Long Cù lao An Bình Cưỡi đà điểu ở trang trại Vinh Sang Lò gốm Bản đồ 2.4: BẢN ĐỒ VỊ TRÍ HÀNH CHÁNH VƯỜN QUỐC GIA CÁT TIÊN Một số hình ảnh về rừng quốc gia Cát Tiên Rừng tranh, rừng tre lan tràn… Bãi đá trong Vườn Quốc gia Nam Cát Tiên Khu Bàu Sấu Một khu vực ở vườn quốc gia Cát Tiên bị chặt phá Caùc loaøi chim quyù soáng quanh caùc khu vöïc ñaát ngaäp nöôùc trong VQG Caùt Tieân Cây bằng lăng 6 ngọn Cây Tưng cổ thụ, đường kính khoảng 10 người ôm không xuể Cây Thiên Tuế khoảng 500 tuổi Nấm quý tại vườn Cát Tiên. 435 lòai bướm đã được khảo sát tại Vườn Quốc Gia Cát Tiên. Một số loài động vật quí hiếm trong khu rừng già nguyên sinh Hình 2.10: Một số cảnh quan tại khu du lịch Mađagui Tê giác Java Đường vào rừng Cầu treo qua suối Tiên. Suối voi Tham quan học tập tại khu rừng mưa nhiệt đới. Hình 2.1: Một số loài động thực vật quý hiếm tại Thảo Cầm Viên Báo lửa mẹ và báo con lúc mới sinh (Ảnh: Phạm Anh Dũng) Ngựa vằn. PHỤ LỤC 3 MỘT SỐ HÌNH ẢNH CỦA CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG Buổi học trong lớp cùng với giáo viên vườn thú Hoạt động ngoài trời - một phần học tập sinh động của chương trình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVDLKTXH001.pdf
Tài liệu liên quan