Đề tài: Giải pháp hạn chế rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng TMCP Á Châu
Trong ngoại thương, việc thanh toán giữa các nhà xuất khẩu và nhập khẩu
thuộc hai quốc gia khác nhau phải được tiến hành thông qua ngân hàng bằng những phương thức thanh toán nhất định. Việc lựa chọn phương thức thanh toán quốc tế nào tùy thuộc vào sự thương lượng giữa các bên và phù hợp với tập quán cũng như luật lệ trong thanh toán và buôn bán quốc tế. Trong các phương thức như chuyển tiền, nhờ thu, tín dụng chứng từ . thì phương thức tín dụng chứng từ được sử dụng rất phổ biến. Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn này chỉ đề cập đến phương thức tín dụng chứng từ
Mục lục:
CHƯƠNG 1: RỦI RO VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC HẠN CHẾ RỦI RO KHI SỬ DỤNG PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHIỆP VỤ TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Á CHÂU
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TRONG PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU
Như vậy, trong hoạt động thanh toán quốc tế và phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ của các ngân hàng luôn tiềm ẩn những rủi ro. Các ngân hàng đều có những giải pháp phòng ngừa rủi ro hiệu quả nhất đối với từng ngân hàng củ thể. Các giải pháp nêu ra ở chương 3 chủ yếu nêu ra để áp dụng cho ACB nhưng đều có thể áp dụng cho các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, trong thực tế ACB phải vận dụng các giải pháp như thế nào mang lại hiệu quả nhất để vừa hạn chế được rủi ro có thể xảy ra vừa thu hút và duy trì được khách hàng. Việc vận dụng các giải pháp một cách hợp lý như vậy là một nghệ thuật trong kinh doanh mà ACB cần phải xem xét chứ không tuân theo các giải pháp một cách máy móc. Vì vậy, các chi nhánh cần phải xem xét để vận dụng các giải pháp một cách linh hoạt, hợp lý tùy theo từng trường hợp cụ thể và từng đối tượng khách hàng cụ thể. Mục đích chính của việc vận dụng các giải pháp là vừa hạn chế rủi ro vừa thu hút được khách hàng cho các chi nhánh của ACB.
80 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1625 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp hạn chế rủi ro hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đây là hình thức gian
lận phổ biến nhất để tạo tài sản thế chấp.
54
+ Phân loại công nợ trên biểu thu công nợ sai quy định: trường hợp này xảy ra
khi bên đi vay chuyển những hóa đơn công nợ từ cột quá hạn không đủ tiêu chuẩn
sang cột đủ tiêu chuẩn để tăng mức tài sản thế chấp cho vay nợ.
+ Khai khống công nợ: trong hành vi gian lận này, con nợ tạo khống các khoản
công nợ. Đó có thể là những hóa đơn chưa bao giờ tồn tại, hoặc là các hóa đơn phát
sinh từ giao dịch với bạn bè hoặc những doanh nghiệp có liên quan, trong đó cả bên
đi vay lẫn đối tác của bên đi vay đều ghi nhận doanh thu bán hàng trên sổ sách kế
toán của mình. Đây là hành vi gian lận nghiêm trọng nhất và nguy hiểm nhất.
+ Gian lận hàng trong kho gồm các hình thức như: khai tăng lượng hàng trong
kho và hạch toán hàng trong kho theo giá trị không có thực, giả mạo hàng trong kho
trên sổ sách kế toán nhất là hàng ở những kho cách xa hoặc đang trong quá trình
vận chuyển,…
+ Và các hình thức gian lận khác như là: một tài sản được đem thế chấp tại
nhiều ngân hàng khác nhau, dùng tài sản không thuộc sở hữu của mình để thế chấp,
vay vốn,….
- Gian lận liên quan đến việc ngụy tạo uy tín để lợi dụng vay tiền như:
+ Cố ý gây thanh thế, làm quen với những người có chức, có quyền và lợi dụng
quan hệ, uy tín đó để vay tiền.
+ Tạo cơ sở niềm tin ban đầu với ngân hàng bằng việc trả vốn và lãi đầy đủ
trong những lần vay vốn đầu tiên với số tiền nhỏ và khi đã tạo được tín nhiệm mới
tìm cách vay những khoản lớn hoặc tạo ra các dự án khống để vay khoản tiền lớn và
trốn chạy.
+ Móc nối, hối lộ cán bộ ngân hàng để vay được tiền, trì hoãn nợ,…
2.4.3 Nguyên nhân khách quan
Ngoài các nguyên nhân chính từ phía ngân hàng và khách hàng, không thể
không kể đến một số tác động khác gây rủi ro cho hoạt động tín dụng đến từ môi
trường kinh tế bên ngoài. Cụ thể là:
55
2.4.3.1 Rủi ro do sự thay đổi của môi trường tự nhiên như: thiên tai, dịch bệnh,
bão lụt gây tổn thất cho khách hàng vay vốn kinh doanh.
Việt Nam là nước nông nghiệp với thế mạnh về các mặt hàng nông sản như:
gạo, cà phê, cau su, tiêu, điều,… và có tỷ trọng xuất khẩu cao hàng năm. Bên cạnh
đó là ngành nghề chăn nuôi gia cầm, gia súc, chăn nuôi và chế biến thủy hải sản.
Đặc điểm của ngành nghề này là rất nhạy cảm với sự thay đổi của thời tiết và dịch
bệnh. Trong những năm qua, bên cạnh dịch cúm gia cầm gây nên những tổn thất
nặng nề cho những hộ chăn nuôi gia cầm thì còn có một loạt các cơn bảo khác đã
tàn phá khu vực miền Bắc, miền Trung, miền Nam và đã gây ra những tổn thất
nặng nề cho nền kinh tế.
Theo Tổng cục Thống kê cho biết, tổng thiệt hại do thiên tai, chủ yếu là do sạt
lỡ đất, mưa to, bão lũ gây ra ở 50 tỉnh, thành phố trên cả nước trong năm 2007 ước
tính lên tới 11.600 tỷ đồng, bằng khoảng 1% GDP. Thiên tai đã làm ngập và hư hại
113.800 ha lúa, phá hủy trên 1.300 công trình, đập, cống, làm sạt lỡ cuốn trôi hơn
1.500 km đê và kênh mương, làm hơn 7.800 ngôi nhà, cơ sở sản suất và phòng họp
bị sập đỗ.
Các hộ gia đình, các doanh nghiệp vay vốn tại Ngân hàng Á Châu để kinh
doanh nông sản, chăn nuôi gia cầm, gia súc, nuôi trồng thủy hải sản bị ảnh hưởng
bởi thiên tai, bảo lụt, dịch bệnh đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc trả nợ vay.
2.4.3.2 Rủi ro do sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị
trường thế giới.
Trong những năm 2005-2007, trên thế giới có nhiều biến động lớn về giá cả các
loại nguyên nhiên liệu đầu vào như nguyên liệu ngành nhựa, xăng dầu,… đã tác
động ảnh hưởng trực tiếp đến việc triển khai dự án, hiệu quả sản xuất kinh doanh
của khách hàng và đã gián tiếp làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân
hàng vì phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng bị thất bại. Cụ thể:
56
Ngành dệt may Việt Nam trong năm 2007 xuất khẩu tuy đạt 7,8 tỷ USD, tăng
30% so với năm 2006, song còn nhiều vấn đề còn tồn tại lớn. Sản xuất ngành này
còn phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, mà những loại vật tư, nguyên
liệu đầu vào phục vụ làm hàng xuất khẩu trong nước đều đắt lên như xăng dầu, xơ
sợi,… tăng khoảng 15-30% tùy loại đã làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu bị
giảm tới 20%. Đồng thời, hầu hết các doanh nghiệp này làm hàng xuất khẩu đều thu
về ngoại tệ bằng USD, trong khi đồng USD suy yếu thì hàng hóa Việt Nam xuất
khẩu sang các thị trường đều bị thiệt hại nặng nề, ít nhất là giảm khoảng 4-5% giá
xuất khẩu. Ngoài ra, trong năm 2007, hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường
Hoa Kỳ là 4,5 tỷ USD, nhưng sẽ còn cao hơn nếu không bị Hoa Kỳ đối xử thiếu
công bằng bởi chương trình giám sát hàng nhập khẩu từ Việt Nam. Và điều này đã
làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng và của
các ngân hàng cho vay nói chung.
Không chỉ các doanh nghiệp dệt may gặp khó khăn mà các doanh nghiệp ngành
vật liệu xây dựng, trang trí cũng bị tác động mạnh bởi giá xăng, dầu tăng. Xăng
tăng trên 10% làm cho chí phí vận chuyển của công ty tăng thêm 5%. Giá sắt, thép,
xi măng, cát, đá,… cũng tăng 20-30% làm cho hàng loạt các công trình xây dựng
gặp khó khăn, thậm chí ngưng trệ.
Không chỉ xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương không
kém. Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Theo Hiệp hội
thép Việt Nam, chỉ tính trong năm 2007, giá sắt thép tăng 100%. Việc tăng giá thép
làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất do chi
phí giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm.
2.4.3.3 Rủi ro do sự tấn công của hàng nhập lậu
Với hàng trăm km biên giới trên bộ và trên biển cùng địa hình địa lý phức tạp và
tình hình nghèo khó của dân cư vùng biên giới, cuộc chiến đấu với hàng nhập lậu
đã kéo dài dai dẵng từ rất nhiều năm nay mà kết quả là hàng lậu vẫn tràn lan tại các
57
thành phố lớn, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư
vốn cho các doanh nghiệp này. Bởi vì khi tính toán phương án vay vốn, khách hàng
hoạch định giá sản phẩm đầu vào và đầu ra theo các kênh giá chính thức trên thị
trường, nhưng khi các doanh nghiệp khác sử dụng hàng nhập liệu đầu vào là hàng
nhập lậu với chi phí thấp hơn sẽ giảm được giá thành và cạnh tranh với các doanh
nghiệp vay vốn, làm cho hàng hóa sản xuất ra không bán được vì có giá thành cao,
và điều này tất yếu sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Theo báo cáo của Bộ Công Thương tại hội nghị triển khai công tác đấu tranh
chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại ngày 28/3, cho thấy, riêng năm
2007, cơ quan chức năng đã kiểm tra, xử lý 130.787 vụ vi phạm pháp luật (tăng
6,42% so với năm 2006). Theo đó, tổng giá trị hàng hóa vi phạm, xử phạt và truy
thu thuế trên 1.280 tỷ đồng (tăng 136,7% so với năm 2006). Các mặt hàng chủ yếu
là kim khí điện máy, gạch men, đường cát, vải vóc, quần áo, mỹ phẩm, thuốc
lá,…Và các địa bàn nóng vẫn là Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lào Cai, Kiên Giang, An
Giang, Long An, Tây Ninh, Đồng Tháp, Quảng Trị. Địa bàn trung chuyển hàng lậu
đáng chú ý nhất là Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, hải Dương và Cần Thơ.
2.4.3.4 Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự kém hiệu quả của cơ
quan pháp luật cấp địa phương trong việc triển khai
Môi trường pháp lý của Việt Nam chưa đồng bộ, chưa ổn định, nhiều khi còn
chồng chéo, bất cập nên đã ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. Hành
lang pháp lý cho các ngành nghề kinh doanh trong đó có ngân hàng còn chưa thống
nhất, xuyên suốt. Trong điều kiện pháp luật vừa thiếu, vừa không đồng bộ, quy định
không rõ ràng, công tác phổ biến còn nhiều bất cập, do vậy mỗi người hiểu và vận
dụng một cách khác nhau dẫn đến nhiều khó khăn trong thực hiện. Cụ thể:
- Về nội dung chủ yếu của hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản (hợp đồng bảo
đảm). Theo Nghị định 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 về giao dịch bảo đảm
(Điều 11), ngoài các nội dung chủ yếu như: nghĩa vụ được bảo đảm; mô tả tài sản
58
thế chấp, cầm cố; giá trị của tài sản thế chấp, cầm cố thì hợp đồng cầm cố, thế chấp
tài sản còn có một nội dung chủ yếu nữa là “các thỏa thuận khác”. Các thỏa thuận
khác là gì thì pháp luật không xác định rõ. Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày
29/12/1999 bảo đảm tiền vay của các Tổ chức Tín dụng lại càng không hề đề cập
đến vấn đề này mà chỉ quy định chung chung mang tính chất dẫn chiếu ngược trở
lại, đó là: tài sản, điều kiện nhận tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, thủ tục ký kết
và thực hiện hợp đồng thế chấp, cầm cố (hợp đồng bảo đảm) và đăng ký giao dịch
bảo đảm thực hiện theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm (Điều 7). Nghị
định 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 sửa đổi bổ sung Nghị định 178 nói trên cũng
không sửa đổi, bổ sung gì thêm. Các quy định này tạo ra vòng lẩn quẩn và gây
không ít khó khăn trong nhận thức và thực hiện của các Tổ chức Tín dụng.
- Về việc thế chấp, cầm cố tài sản Doanh nghiệp Nhà nước: tại Điều 7 Nghị định
27/1999/NĐ-CP ngày 20.4.1999 (sửa đổi bổ sung Quy chế quản lý tài chính và
hạch toán kinh doanh đối với Doanh nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo Nghị
định 59/1996/NĐ-CP ngày 03.10.1996) quy định: “Khi doanh nghiệp (nhà nước)
cho thuê, thế chấp, cầm cố những tài sản là toàn bộ dây chuyền công nghệ chính
theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế, kỹ thuật thì phải được cơ quan
quyết định thành lập doanh nghiệp đồng ý bằng văn bản”. Thông tư 62/1999/TT-
BTC ngày 07.6.1999 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định 27 nói trên
cũng nêu rõ: “Đối với tài sản là toàn bộ dây chuyền công nghệ chính của doanh
nghiệp (nhà nước) theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế kỹ thuật khi
cho thuê, cầm cố, thế chấp phải được cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp
cho phép”. Tuy nhiên cho đến nay, thế nào là “toàn bộ dây chuyền công nghệ chính
của doanh nghiệp theo quy định của cơ quan quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật” thì
vẫn chưa được pháp luật làm rõ. Vì vậy, việc thế chấp, cầm cố tài sản Doanh
nghiệp Nhà nước để vay vốn ngân hàng đã gặp không ít khó khăn, ách tắc.
59
- Trường hợp khách hàng vay mà không trả được nợ thì ngân hàng thương mại
có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Nhưng trên thực tế, các ngân hàng thương
mại không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế chứ không phải
là cơ quan quyền lực nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng
bàn giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc việc chuyển tài sản đảm bảo
nợ vay để Tòa án xử lý qua con đường tố tụng,… đã dẫn đến ngân hàng thương mại
không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng. Nghị định 165 và 178 đều
không có quy định rõ ràng, chưa nêu được trách nhiệm và quyền hạn của các cơ
quan có thẩm quyền trong việc xử lý tài sản đảm bảo, vì vậy đã gây khó khăn cho
việc hỗ trợ các Tổ chức Tín dụng trong việc thu giữ và xử lý tài sản đảm bảo.
- Sự bất cập trong công chứng hợp đồng tín dụng, do quy định phòng công
chứng yêu cầu phải ghi số hợp đồng cụ thể vào trong hợp đồng bảo đảm tiền vay,
do đó khi hợp đồng tín dụng hết thời hạn thì phải tất toán khoản vay và thay bằng
hợp đồng tín dụng mới, điều này không phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh
liên tục thường xuyên. Việc công chứng các phụ lục hợp đồng đảm bảo tiền vay
nhằm tăng giá trị tài sản để tăng hạn mức tín dụng cũng không được chấp nhận mà
yêu cầu làm hợp đồng đảm bảo tài sản mới. Điều này là không thực hiện được vì
khách hàng còn dư nợ nên ngân hàng không thể giải chấp hợp đồng đảm bảo để lập
hợp đồng mới.
- Thủ tục hành chính của Nhà nước rườm rà và kéo dài dẫn đến kế hoạch thu
tiền của khách hàng bị thất bại làm ảnh hưởng đến kế hoạch trả nợ ngân hàng, nhất
là các khách hàng vay vốn xây dựng hoặc bán hàng cho các dự án thuộc ngân sách
Nhà nước.
2.4.3.5 Rủi ro do sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng
Nhà nước
Qua các đợt thanh tra Ngân hàng Á Châu của Ngân hàng Nhà nước cho thấy,
bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng chưa
60
có sự cải thiện căn bản về chất lượng; năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp
ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới, Thanh
tra ngân hàng còn chưa theo kịp. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc
hậu, chậm được đổi mới.
Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát nội bộ thị
trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một
cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít khi có khả năng ngăn chặn và
phòng ngừa rủi ro và vi phạm.
2.4.3.6 Rủi ro do hệ thống thông tin quản lý còn bất cập
Hiện nay, Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của Ngân hàng Nhà
nước đã hoạt động hơn một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất
đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin tín dụng. Tuy nhiên, thông tin cung cấp
còn đơn điệu, thiếu cập nhật, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin.
Chẳng hạn như là:
- Hệ thống cung cấp thông tin của CIC mới chỉ cung cấp được số liệu dư nợ và
phân loại nợ vay của các doanh nghiệp tại các Tổ chức Tín dụng, chưa có thông tin
phi tài chính, khả năng quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp.
- Việc cung cấp thông tin còn chậm và chưa kịp thời làm ảnh hưởng đến cơ hội
kinh doanh của các Tổ chức tín dụng.
- CIC chưa chủ động thông báo những dự báo rủi ro về tín dụng qua mạng mà
chỉ cung cấp thông tin khi được Tổ chức tín dụng yêu cầu vì vậy chưa phát huy
hiệu quả cao.
- Thông tin về khách hàng chưa được CIC cập nhật kịp thời. Đối với khách hàng
chưa từng có quan hệ tín dụng với các Tổ chức tín dụng nào thì CIC hoàn toàn
không hề có thông tin gì về khách hàng.
- Mặt khác, các Tổ chức Tín dụng chưa có nhận thức đầy đủ về thu thập và cung
cấp thông tin về phòng ngừa rủi ro cho CIC nên CIC không cung cấp hoặc cung cấp
61
thông tin chậm trễ. Trong khi đó lại chưa có hành lang pháp lý và chế tài buộc các
Tổ chức Tín dụng phải cung cấp thông tin kịp thời cho trung tâm.
Trên đây là những thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và
kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin
tương xứng. Nếu các ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng
trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nợ xấu cho hệ
thống ngân hàng.
62
Chương 3
Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng thương mại cổ phần Á Châu
3.1 Định hướng phát triển hoạt động tín dụng tại Ngân hàng TMCP Á Châu
trong thời gian tới
Định hướng phát triển kinh doanh trong hoạt động tín dụng là một phần của
định hướng chiến lược kinh doanh chung của toàn Ngân hàng. Định hướng hoạt
động tín dụng được ban hành trong từng giai đoạn trên cơ sở chiến lược kinh doanh
chung của Ngân hàng Á Châu và được thể hiện bằng các mục tiêu cụ thể cho phù
hợp với tình hình thị trường và tình hình hoạt động thực tế của ACB.
3.1.1 Định hướng phát triển kinh doanh trong thời gian tới
Môi trường hoạt động năm 2008 sẽ tiếp tục biến động theo chiều hướng rất
phức tạp, tạo ra cả cơ hội và thách thức cho các ngân hàng. Trên thế giới, kinh tế
Mỹ có thể suy thoái diện rộng, kéo theo thâm hụt thanh khoản toàn cầu, ảnh hưởng
xấu đến xuất khẩu của Việt Nam, gây khó khăn cho việc huy động vốn từ nước
ngoài, đồng thời đưa giá vàng vào xu thế tăng. Trong nước, các biện pháp đảm bảo
tăng trưởng và kiềm chế lạm phát sẽ làm hoạt động kinh doanh ngân hàng chịu
nhiều sức ép và khó khăn. Sẽ có nhiều ngân hàng mới, bao gồm cả các ngân hàng
nước ngoài tham gia thị trường và cạnh tranh về thị phần, đặc biệt là thị phần huy
động và cho vay sẽ quyết liệt hơn. Thị trường chứng khoán và thị trường bất động
sản sẽ ngày càng quy cũ hơn và tiếp tục sẽ là nơi thu hút đầu tư xã hội.
63
Trong năm 2008, ACB tiếp tục thực hiện chiến lược kinh doanh xoay quanh 5
mục tiêu:
- Tăng trưởng nhanh và bền vững.
- Kiểm soát rủi ro tốt để đảm bảo an toàn.
- Duy trì cấu trúc tài chánh lành mạnh.
- Chuẩn bị nhân lực kế thừa.
- Hoàn thiện văn hóa công ty.
Năm 2008 còn là năm tạo tiền đề cho việc hiện thực hóa kế hoạch 2008-2010
của ACB: dự kiến năm 2010 tổng tài sản và dư nợ cho vay sẽ tăng gấp 3,6 lần; vốn
chủ sở hữu tăng gấp 2,5 lần và lợi nhuận trước thuế tăng gấp 3 lần so với năm 2007.
Để thực thi chiến lược này, năm 2008 ACB phấn đấu nâng chỉ tiêu hoạt động
như sau:
Lợi nhuận trước thuế 2.500 tỷ đồng
Tổng tài sản 145.000 tỷ đồng
Dư nợ cho vay (*) 59.000 tỷ đồng
Huy động tiền gửi khách hàng 94.500 tỷ đồng
Thu dịch vụ đạt 465 tỷ đồng
Số lượng nhân viên tăng thêm 3.263
Số lượng chi nhánh và phòng giao dịch mới 93
(*) Dư nợ thực hiện thực tế có thể sẽ được điều chỉnh giảm theo chỉ đạo của
Ngân hàng Nhà nước.
(Nguồn: Báo cáo thường niên 2007 Ngân hàng TMCP Á Châu)
Ngoài ra, ACB còn thực hiện các chương trình và dự án trọng điểm, bao gồm:
- Triển khai mô hình bán hàng trực tiếp toàn hệ thống.
- Chuyển đổi cơ cấu tổ chức theo hướng tách bạch vai trò kinh doanh với vận
hành và tăng cường hệ thống kiểm tra kiểm soát.
64
- Giới thiệu thêm các sản phẩm phục vụ nhu cầu tiết kiệm, vay vốn và đầu tư
của khách hàng.
- Tăng trưởng mạng lưới cả về số lượng chi nhánh, phòng giao dịch và địa bàn
hoạt động.
Do môi trường kinh doanh của năm 2008 thay đổi nhanh như dự báo, ACB nhận
thức được yêu cầu linh hoạt trong xây dựng các chương trình hành động ngắn hạn
phù hợp với diễn biến của thị trường, quyết liệt trong việc triển khai các dự án trọng
điểm và tận dụng tốt cơ hội.
3.1.2 Định hướng phát triển hoạt động tín dụng trong thời gian tới
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển khách hàng tại các khu vực thị trường mục tiêu của
ACB thông qua việc tiếp thị các sản phẩm hiện có nhằm mở rộng thị trường hoạt
động tín dụng tới mọi lĩnh vực, mọi đối tượng khách hàng mà pháp luật cho phép.
Đẩy mạnh cho vay đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các Doanh nghiệp
vừa và nhỏ, đẩy mạnh bán lẻ đối với tư nhân cá thể, hộ gia đình, các khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị, khu chung cư và khu dân cư,.. Đồng thời điều
chỉnh cơ cấu tín dụng hợp lý, nâng cao chất lượng tín dụng, đo lường và quản trị
được rủi ro trong hoạt động tín dụng nhằm giảm tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ và
không vượt quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Hoàn thiện sản phẩm, dịch vụ và quy trình cung cấp các sản phẩm dịch vụ hiện
có thông qua việc tăng cường ứng dụng và khai thác công nghệ thông tin nhằm đơn
giản hóa thủ tục xử lý công việc, từ đó đáp ứng một cách nhanh nhất yêu cầu của
khách hàng.
Đa dạng hóa sản phẩm tín dụng để phù hợp với từng đối tượng khách hàng
nhằm thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu hoạt động tín dụng.
Tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật của các đối tác chiến lược trong lĩnh vực quản lý rủi
ro, ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ. Đồng thời, ứng
dụng các chuẩn mực kế toán và quản trị ngân hàng theo thông lệ quốc tế.
65
Tăng cường đào tạo nhân viên tín dụng và các cá nhân khác cùng tham gia trong
hoạt động cung cấp dịch vụ để bồi dưỡng kỹ năng tiếp thị, bán hàng, các kiến thức
liên quan đến các sản phẩm/dịch vụ hiện có và các sản phẩm/dịch vụ mới.
Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý trung gian nhằm nâng cấp các kỹ
năng lập kế hoạch phát triển kinh doanh, đánh giá và phân tích cạnh tranh, quản trị
rủi ro và quản trị nhân sự.
3.2 Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại NH TMCP Á Châu
Như đã phân tích ở phần thực trạng hoạt động tín dụng và một số nguyên nhân
cơ bản dẫn đến rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Á
Châu nói nói riêng, rủi ro tín dụng có thể xảy ra từ những nguyên nhân chủ quan và
khách quan, từ chính bản thân ngân hàng, từ khách hàng và từ cả môi trường kinh
tế bên ngoài. Nhận diện được những nguyên nhân trên là điều kiện cơ bản để phòng
ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. Trong giai đoạn vừa qua, Ngân hàng Á Châu đã
thực hiện khá nhiều giải pháp hiệu quả để giảm thiểu rủi ro.
Tuy nhiên, quản lý rủi ro là một quá trình liên tục trong một ngân hàng thương
mại nên để hiệu quả hoạt động bền vững thì nhất thiết không ngừng đề ra các giải
pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý rủi ro, đặc biệt trong hoạt động tín
dụng. Ngân hàng thương mại muốn giảm thiểu rủi ro cho mình nhất thiết phải có
một hệ thống giải pháp chủ động ngăn ngừa và hạn chế rủi ro từ những nguyên
nhân chủ quan nội bộ cũng như hạn chế sự ảnh hưởng từ phía khách hàng. Sự chủ
động này được thể hiện ngay từ khi xây dựng chính sách cho vay, quy trình cho
vay, thực hiện quy trình và kể cả các biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn gian lận từ
phía khách hàng cũng như đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng khi khách hàng gặp
rủi ro. Sau đây, chúng ta sẽ đi sâu phân tích việc áp dụng và hiệu quả áp dụng của
các giải pháp theo trình trình tự trên.
3.2.1 Xây dựng và thực hiện chính sách cho vay thích hợp
66
Hiện nay, chính sách cho vay với các quy định cơ bản về nguyên tắc chung,
điều kiện cho vay, các tỷ lệ an toàn trong cho vay vẫn đang được Ngân hàng Á
Châu thực hiện theo quy định chung của Ngân hàng Nhà nước cũng như quy định
cụ thể của Ngân hàng Á Châu. Quyền chủ động trong xây dựng chính sách cho vay
nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng là việc xây dựng các chính sách về lãi
suất, chính sách khách hàng, quy mô và cơ cấu tín dụng phù hợp với đặc điểm
nguồn vốn, khả năng quản lý và nhân lực. Cụ thể, chính sách cho vay nên được xây
dựng theo hướng sau:
- Về chính sách lãi suất: trong môi trường cạnh tranh hiện nay thì chính sách lãi
suất của một ngân hàng thương mại sẽ được xây dựng tùy thuộc vào uy tín của
khách hàng, tính khả thi của hoạt động vay vốn và độ an toàn của món vay. Trên cơ
sở đó, chính sách lãi suất ưu đãi hoặc lãi suất linh hoạt cần được áp dụng cho những
khách hàng có lịch sử vay – trả sòng phẳng, có hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu
quả, có dự án sử dụng vốn vay khả thi cũng như có tài sản đảm bảo thích hợp.
Trong chính sách về lãi suất, các ngân hàng thương mại vẫn chấp nhận cho vay
những món vay có rủi ro cao (ví dụ thiếu hoặc không có tài sản đảm bảo,…) với
mức lãi suất cao vượt trội để nâng cao lợi nhuận. Tuy nhiên, cần phải giới hạn hình
thức này trong một tỷ lệ nhất định để tránh rủi ro quá lớn.
- Về chính sách khách hàng: việc xây dựng một chính sách khách hàng là điều
cần thiết nhất là trong tình hình cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng với nhau
như hiện nay nhằm giữ chân khách hàng cũ, thu hút khách hàng mới theo hướng đa
dạng hóa thành phần từ cá nhân đến tổ chức kinh tế để vừa mở rộng thị phần, vừa
phân tán rủi ro. Để thực hiện tốt chính sách khách hàng, có thể sử dụng một số biện
pháp sau:
+ Chuyển đổi cơ cấu khách hàng theo hướng tích cực để xóa bỏ tình trạng bị
động vào một số lượng khách hàng nhất định. Cần tiến hành phân loại khách hàng
67
theo các tiêu chí như: tiền gửi thanh toán, chất lượng tiền vay,…để áp dụng giá vốn
huy động phù hợp, có chính sách động lực đối với khách hàng lớn.
+ Tổ chức nghiên cứu, tìm hiểu tâm lý của từng nhóm khách hàng để hoàn thiện
chính sách huy động vốn kết hợp lãi suất và chính sách chăm sóc khách hàng cho
phù hợp với từng nhóm đối tượng nhằm tăng tính ổn định của nguồn vốn.
+ Thường xuyên tiến hành trao đổi, tham khảo, đóng góp ý kiến giữa ngân hàng
và khách hàng để có thể tạo ra mối quan hệ tốt đẹp giữa khách hàng và ngân hàng
cũng như giúp ngân hàng ngày càng hoàn thiện hơn.
+ Xây dựng chính sách giá khép kín nhằm khuyến khích khách hàng sử dụng
kết hợp nhiều sản phẩm dịch vụ tại Ngân hàng Á Châu như: dịch vụ thanh toán
trong nước, dịch vụ thanh toán quốc tế, dịch vụ chi hộ lương, dịch vụ ngân quỹ,…
+ Không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ và dịch vụ ngân hàng. Đây là biện
pháp hiệu quả trong việc thu hút và sử dụng vốn của ngân hàng, qua đó cũng nâng
cao năng lực của ngân hàng. Chất lượng phục vụ bao gồm nhiều lĩnh vực có liên
quan đến khách hàng chẳng hạn như là: thủ tục giấy tờ gọn nhẹ, thời gian xử lý
nghiệp vụ nhanh chóng, tư vấn cho khách hàng hiệu quả, phong cách, thái độ giao
tiếp tốt để làm vừa lòng khách hàng, nơi giao dịch sạch sẽ, thuận tiện,…
- Về chính sách sản phẩm tín dụng: sự đa dạng của sản phẩm tín dụng góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động nói chung của ngân hàng thương mại, vừa mở rộng, đa
dạng khách hàng, lĩnh vực đầu tư, mở rộng quy mô tín dụng sẽ góp phần phân tán
và hạn chế rủi ro tín dụng nếu hệ thống sản phẩm được thiết kế chặt chẽ.
- Về chính sách đối với tài sản đảm bảo: tài sản đảm bảo là nguồn thu thứ cấp để
thu hồi vốn khi có rủi ro xảy ra, vì vậy cần phải có quy định cụ thể hơn về việc định
giá tài sản đảm bảo chẳng hạn như là việc xác định giá trị tài sản đảm bảo cần
khách quan, có khả năng chuyển nhượng, có đủ điều kiện pháp lý và tính khả mại.
Ngân hàng cần thường xuyên theo dõi tài sản đảm bảo, nắm bắt thông tin về tài sản
đảm bảo, nếu có biến động lớn thì cần xem xét định giá lại tài sản. Đồng thời, cần
68
thường xuyên thu thập thông tin về tài sản cùng loại qua thị trường và trung tâm
bán đấu giá để có cơ sở định giá. Ngoài ra, ngân hàng cũng nên kết hợp với nhiều
cơ quan ban ngành khác trong việc xử lý tài sản đảm bảo và kết hợp các biện pháp
bảo hiểm tài sản thế chấp mà người thụ hưởng là ngân hàng.
3.2.2 Hoàn thiện và tuân thủ nghiêm ngặt quy trình cho vay
Quy trình cho vay đang được áp dụng tại Ngân hàng Á Châu được xây dựng khá
khoa học và chặt chẽ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện từ khâu tiếp nhận hồ sơ,
thẩm định hồ sơ, quyết định cho vay và kiểm tra sử dụng vốn, thu hồi vốn sau khi
cho vay vẫn còn lỏng lẻo. Để quy trình này đạt được hiệu quả thì cần phải thực hiện
chặt chẽ ở các giai đoạn sau:
- Giai đoạn kiểm tra hồ sơ thông tin khách hàng
Việc kiểm tra các thông tin liên quan đến hồ sơ pháp lý, năng lực tài chính, năng
lực quản lý, uy tín tín dụng chủ yếu dựa trên hai nguồn thông tin là từ khách hàng
và từ thông tin nội bộ trên mạng của ngân hàng. Nhân viên tín dụng cần phải tận
dụng toàn bộ nguồn thông tin này để có được nhận định chính xác về khách hàng
vay.
Vì nguồn thông tin do chính khách hàng cung cấp có thể tính chính xác không
cao, đặc biệt trong trường hợp khách hàng cố ý làm sai nên để tránh gặp phải rủi ro
thông tin, ngân hàng cần có sự kết hợp với một số cơ quan ban ngành có đủ chức
năng để đối chiếu thông tin do khách hàng cung cấp (ví dụ: cơ quan thuế,…) và áp
dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp chủ doanh nghiệp, khách hàng vay và một
số đối tượng có liên quan, đồng thời sử dụng triệt để nguồn thông tin từ trung tâm
thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC) để nắm bắt tính xác thực của
thông tin.
Một rủi ro khác có thể xảy ra ở giai đoạn này là sự chủ quan hoặc cố ý đưa ra
nhận định chủ quan của cán bộ tín dụng trong việc nhận xét về năng lực tài chính
của khách hàng. Do đó, hiện nay Ngân hàng Á Châu đang áp dụng một phần mềm
69
chấm điểm để xếp loại doanh nghiệp và cá nhân vay vốn để có cơ sở cho vay cũng
như quyết định lãi suất. Tuy nhiên, hiện nay phần mềm này vẫn chưa thực sự đạt
được hiệu quả như mong muốn vì biểu chấm điểm cũng như xử lý thông tin còn
hẹp, cho ra những kết quả xếp loại chưa thực sự thuyết phục. Hệ thống chấm điểm
tín dụng, xếp loại doanh nghiệp, cá nhân vay vốn này cần được cải tiến mở rộng
thang điểm, tăng chỉ tiêu thông tin để đạt được hiệu quả sử dụng cao hơn.
- Giai đoạn thẩm định phương án vay vốn và khả năng trả nợ
Khi thẩm định phương án vay vốn, nhân viên tín dụng cần xem xét tính xác thực
của phần vốn tự có của khách hàng tham gia vào phương án, dự án xin vay. Yêu
cầu khách hàng chứng minh nguồn cụ thể của vốn tự có này vì đây là một vấn đề
rất quan trọng ảnh hưởng đến việc thực hiện phương án, dự án. Vì nếu vốn tự có
tham gia vào càng lớn thì doanh nghiệp sử dụng vốn sẽ hiệu quả hơn, họ sẽ thận
trọng hơn trong việc đầu tư vào kế hoạch kinh doanh sắp tới. Để dự án mang lại
hiệu quả và có nguồn trả nợ cho ngân hàng thì:
+ Tỷ lệ vốn tự có /vốn vay > 1
+ Lãi ròng sau thuế và khấu hao > Tổng nợ đến hạn phải trả
Ngoài ra, khi thẩm định phương án vay vốn, nhân viên tín dụng cần phải đánh
giá năng lực tài chính, khả năng sản suất kinh doanh của khách hàng vay để xem
xét hiệu quả vốn tín dụng. Quá trình này phải kết hợp với nguyên nhân khách hàng
vay, đánh giá được các phương diện: rủi ro do ngành, rủi ro do kinh doanh,…và
nên được thực hiện dựa trên các chỉ tiêu như: khả năng sinh lời, khả năng khai thác
và sử dụng tài sản, tình hình sử dụng nguồn vốn và khả năng thanh toán.
Khi đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng vay vốn, nhân viên tín dụng cần
phải nắm rõ nguồn trả nợ chính, tức là khả năng sinh lời của phương án xin vay và
các nguồn thu khác mà khách hàng cam kết trả nợ cho ngân hàng khi nguồn trả nợ
chính có sự cố, đồng thời xem xét kèm theo những rủi ro tiềm tàng có thể mà bước
đầu tín dụng chưa thẩm định được nhằm điều chỉnh thời hạn cho vay và thu hồi nợ
70
hợp lý. Có thể nói trong bất kỳ trường hợp nào thì nguồn vốn tự có phải được coi là
nguồn lý tưởng để trả nợ. Nhân viên tín dụng phải cố gắng tránh quan điểm cho vay
hoàn toàn dựa vào tài sản đảm bảo trực tiếp hoặc của bên thứ ba bảo lãnh vì khi xử
lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ vay thì quá trình này diễn ra lâu dài, mất nhiều thời
gian và thiệt thòi luôn nghiêng về phía người cho vay. Đồng thời, ngân hàng nên
yêu cầu doanh nghiệp vay phải có số liệu báo cáo hàng tháng, hàng quý về tình
hình hoạt động kinh doanh với những nguồn vốn vay của ngân hàng trong thời hạn
đang vay vốn nhằm phát hiện những thay đổi có chiều hướng xấu của doanh nghiệp
để có biện pháp xử lý kịp thời.
Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể tăng cường thuê đội ngũ thẩm định chuyên
nghiệp trong những phương án xin vay lớn, mang tính kỹ thuật sâu để có thể phân
tích chính xác tính khả thi trước khi quyết định cho vay.
- Giai đoạn quyết định cho vay
Trước khi cán bộ tín dụng đề xuất cho vay và lãnh đạo ngân hàng quyết định
cho vay thì cần phải tập hợp một số thông tin về thị trường, chính sách kinh tế,… để
có cái nhìn hệ thống về rủi ro có thể xảy ra trong một bối cảnh cụ thể trước khi ra
quyết định.
Việc ra quyết định cho vay cần phải có sự kiểm tra kỹ lưỡng thay vì kiểm tra sơ
sài và quyết định theo đề nghị của cán bộ tín dụng thì hiệu quả phòng ngừa rủi ro sẽ
cao hơn.
Đối với những khoản vay phải thông qua Hội đồng tín dụng để xét duyệt thì
càng ẩn chứa rủi ro cao, hoạt động của Hội đồng tín dụng vẫn mang tính hình thức,
các thành viên không có đủ thời gian cần thiết để nghiên cứu hồ sơ và đa phần vẫn
quyết định theo đề nghị của cán bộ tín dụng trực tiếp xử lý hồ sơ. Chính vì vậy,
hoạt động của Hội đồng tín dụng cần quy định thời gian nghiên cứu hồ sơ cụ thể và
phải có ý kiến bằng văn bản của tất cả thành viên hội đồng trước khi họp để ra
quyết định.
71
- Giai đoạn kiểm tra sử dụng vốn sau khi cho vay
Một khoản vay có hiệu quả sẽ phụ thuộc không ít vào việc kiểm tra tín dụng.
Ngay cả đối với các khoản vay tốt nhất cũng cần có một số kiểm tra nhất định, định
kỳ để đảm bảo nó đang hoạt động theo dự kiến, tình trạng của khoản vay không xấu
đi. Vì vậy, giai đoạn này mang ý nghĩa rất quan trọng trong việc phòng ngừa rủi ro
và giảm thiểu rủi ro trước khi nó xảy ra, gây hậu quả nặng nề với phần vốn vay.
Tuy nhiên, hiện nay công tác này vẫn còn được thực hiện một cách đối phó cho đủ
thủ tục quy định nên hiệu quả kiểm tra không cao. Các vấn đề cần phải xem xét sau
khi cho vay:
+ Nắm vững và theo dõi sát sao tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng
xem việc sử dụng vốn vay có đúng mục đích hay không? Nêu rõ nguyên nhân gây
ra sai lệch.
+ Mô tả thực tế sử dụng vốn vay so với các chứng từ đã xuất trình hoặc dự
kiến ban đầu.
+ Ngân hàng phải quản lý được nguồn doanh thu của khách hàng. Trong hợp
đồng tín dụng phải thỏa thuận được với khách hàng việc chuyển doanh thu và sử
dụng các dịch vụ tại Ngân hàng Á Châu, qua đó vừa kiểm soát được nguồn trả nợ,
vừa tăng thêm phí dịch vụ thu được.
+ So sánh thực tế dự án so với dự kiến ban đầu: tình hình các yếu tố đầu vào,
thị trường tiêu thụ, tình hình cơ sở vật chất, sự hiện hữu và tình trạng của tài sản thế
chấp/cầm cố tại thời điểm kiểm tra.
+ Những thay đổi trong hoạt động kinh doanh, bộ máy quản lý, tình hình tài
chính của khách hàng (khách hàng doanh nghiệp) hoặc sự thay đổi về tình trạng gia
đình và nguồn thu nhập (khách hàng cá nhân). Đánh giá ảnh hưởng của các thay đổi
này đến khả năng trả nợ.
Việc kiểm tra tình hình sử dụng vốn sau khi cho vay cần phải được thực hiện
một cách nghiệm ngặt và cán bộ tín dụng cần phải thực hiện tốt giai đoạn này trong
72
quy trình để có thể cảm nhận được môi trường, hiệu quả công việc của doanh
nghiệp. Nếu có các dấu hiệu bất thường nào của khách hàng ảnh hưởng đến khả
năng thanh toán khoản vay thì cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm báo cáo kịp thời
cho lãnh đạo để có hướng giải quyết kịp thời và thích hợp.
Ngoài việc trực tiếp kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay, nên có một cơ chế kiểm
tra chéo trong giai đoạn này để bảo đảm tính khách quan trong kiểm tra, nếu có
điều kiện, có thể thành lập một bộ phận kiểm tra sử dụng vốn chuyên biệt cho
những món vay lớn, có tầm quan trọng đặc biệt để nhận diện rủi ro ngay từ khi mới
phát sinh.
Ngoài ra, khi có sự thay đổi về nhân sự trong việc chuyển giao hồ sơ từ cán bộ
tín dụng này sang cán bộ tín dụng khác thì cần phải quy định cụ thể trách nhiệm
bàn giao, nội dung bàn giao. Có thể quy định việc lập sổ nhật ký tín dụng về các lần
phát vay, thu nợ, biến động tài sản đảm bảo, tình hình kinh doanh và tài chính để
đảm bảo sự liên tục, thuận tiện trong việc theo dõi và chuyển giao hồ sơ giữa các
cán bộ tín dụng.
3.2.3 Thành lập bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô
Như đã trình bày ở các nội dung trước, một phần khá lớn rủi ro trong hoạt động
tín dụng xuất phát từ việc thiếu thông tin hoặc tiếp nhận thông tin không chính xác
từ khách hàng, xử lý thông tin thị trường còn sơ sài. Tất cả phần việc trên hiện đều
đặt trách nhiệm vào cán bộ tín dụng nên việc xảy ra thiếu sót và xử lý sai lệch là
điều khó tránh khỏi. Ngoài ra, hệ thống cung cấp thông tin tín dụng của Ngân hàng
Á Châu và của Ngân hàng Nhà nước đang hoạt động hiệu quả chưa cao vì thông tin
cung cầp chỉ thuần túy là những con số mà thiếu những nhận định chuyên môn,
những dự báo đáng tin cậy.
Để tránh được rủi ro từ nguyên nhân này, Ngân hàng Á Châu nên thành lập Bộ
phận nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô, bộ phận này sẽ dựa trên tất cả
các kênh thông tin, các nguồn nghiên cứu và dự báo khác để làm định hướng cho
73
hoạt động tín dụng, chiến lược quản lý rủi ro tín dụng, chiến lược khách hàng và
chiến lược đầu tư vốn tín dụng của mình. Bộ phận này sẽ tiến hành phân tích, đánh
giá quy mô, cơ cấu và hiệu quả tín dụng của các ngành kinh tế, thành phần kinh tế,
địa bàn nông thôn và thành thị để trên cơ sở đó ngân hàng có thể thực hiện các gải
pháp mở rộng tín dụng an toàn - hiệu quả - bền vững.
3.2.4 Nâng cao vai trò của công tác kiểm soát nội bộ ngân hàng
Công tác kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng là một công cụ vô cùng
quan trọng, thông qua hoạt động kiểm soát có thể phát hiện, ngăn ngừa và chấn
chỉnh những sai sót trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng. Bên cạnh đó, hoạt
động kiểm soát cũng phát hiện, ngăn chặn những rủi ro đạo đức do cán bộ tín dụng
gây ra.
Để nâng cao vai trò của công tác kiểm soát nhằm hạn chế rủi ro tín dụng, Ngân
hàng Á Châu cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Tăng cường những cán bộ có trình độ, đã qua nghiệp vụ tín dụng để bổ sung
cho phòng kiểm soát. Và tiêu chuẩn đối với người làm công tác kiểm toán nội bộ
cần phải có là: có phẩm chất trung thực, ý thức chấp hành pháp luật và sự nhìn nhận
khách quan; có kiến thức, hiểu biết chung về pháp luật, về quản trị kinh doanh và
các nghiệp vụ ngân hàng; có khả năng thu thập, phân tích, đánh giá và tổng hợp
thông tin; có kiến thức, kỹ năng về kiểm toán nội bộ; và có kinh nghiệm làm việc
trong lĩnh vực ngân hàng tối thiểu là 02 năm.
- Trong quá trình kiểm tra hoạt động tín dụng, có thể tăng cường cán bộ làm
trực tiếp từ bộ phận tín dụng hoặc thẩm định và quản lý tín dụng cùng phối hợp
kiểm tra.
- Thường xuyên đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ, luật pháp cho cán bộ
phòng kiểm soát. Vì hiện nay, có những cán bộ thực hiện kiểm tra mà chưa hề được
đào tạo hoặc chưa có kinh nghiệm làm tín dụng. Trong đó, phải đào tạo đạo đức
74
nghề nghiệp để cán bộ kiểm toán nội bộ trong quá trình tác nghiệp phải thực hiện
vô tư, tránh tình trạng cả nể và chưa thực sự góp ý thẳng.
- Cần quy định trách nhiệm đối với cán bộ kiểm soát, có chế độ khuyến khích
thưởng phạt để nâng cao tinh thần trách nhiệm trong hoạt động kiểm soát.
- Không ngừng hoàn thiện và đổi mới phương pháp kiểm tra, áp dụng linh hoạt
các biện pháp kiểm tra tùy thuộc vào từng thời điểm, từng đối tượng và mục đích
của kiểm tra.
- Bên cạnh đó, hệ thống kiểm soát nội bộ cần được thường xuyên tự đánh giá
bởi vì việc này sẽ có tác dụng phòng ngừa rủi ro và hỗ trợ đắc lực cho công tác
quản lý rủi ro của ngân hàng.
3.2.5 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Yếu tố con người là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành bại của bất
cứ hoạt động nào trên mọi lĩnh vực. Đối với hoạt động tín dụng thì yếu tố con người
lại càng đóng một vai trò quan trọng, nó quyết định đến chất lượng tín dụng, chất
lượng dịch vụ và hình ảnh của ngân hàng và từ đó quyết định đến hiệu quả tín dụng
của ngân hàng. Vì vậy, giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được đưa ra
tập trung vào một số nội dung sau:
Ngân hàng Á Châu cần quan tâm đúng mức việc đào tạo từ cơ bản đến chuyên
sâu về từng nghiệp vụ cụ thể, từng đối tượng khách hàng có đặc điểm đặc thù về
sản xuất kinh doanh cụ thể. Tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề trao đổi các bài
học kinh nghiệm liên quan đến tín dụng. Cập nhật kiến thức nghiệp vụ và tập huấn
các quy định pháp luật mới. Ngoài ra, cần tổ chức đội ngũ giảng dạy là các chuyên
gia bên ngoài, các cán bộ chuyên viên tín dụng có kinh nghiệm của ngân hàng, biên
soạn và cập nhật giáo trình giảng dạy mang tính thực tiễn, trang bị tốt cơ sở vật
chất, phương tiện giảng dạy, tổ chức kiểm tra nghiêm túc, khuyến khích tinh thần
học tập bằng cơ chế khen thưởng đề bạt.
75
Hiện nay, thực tế cho thấy cường độ làm việc của cán bộ tín dụng trong thời
gian qua là khá căng thẳng, thậm chí việc làm thêm ngoài giờ cũng khá phổ biến.
Và điều này đã dẫn đến những hạn chế các hoạt động tiếp xúc với khách hàng, kiểm
tra và kiểm soát các khoản cho vay. Vì vậy, để đảm bảo an toàn tín dụng, đủ nhân
lực để đón bắt các cơ hội kinh doanh mới thì việc tăng cường cả về số lượng và chất
lượng sẽ giúp cho ngân hàng đảm bảo nhịp độ tăng trưởng tín dụng đồng thời đảm
bảo được chất lượng tín dụng.
Ngân hàng cũng cần phải chú trọng nhiều hơn, đòi hỏi cao hơn và có thái độ rõ
ràng hơn đối với cán bộ tín dụng nhằm để hạn chế rủi ro trong cho vay như là:
- Về năng lực công tác: đòi hỏi những cán bộ có liên quan đến hoạt động cho
vay phải thường xuyên nghiên cứu, học tập, nắm vững, thực hiện đúng các quy định
hiện hành và phải không ngừng nâng cao năng lực công tác, nhất là khả năng phát
hiện, ngăn chặn những thủ đoạn lợi dụng khách hàng.
- Về phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm: yêu cầu mỗi cán bộ ngân hàng phải
luôn tu dưỡng về phẩm chất đạo đức, nêu cao ý thức trách nhiệm. Cán bộ ở cương
vị càng cao thì càng phải gương mẫu.
Và ngân hàng cần phải có chế độ đãi ngộ, khen thưởng hợp lý, công bằng: đối
với cán bộ có thành tích xuất sắc thì nên được biểu dương, khen thưởng cả về mặt
vật chất lẫn tinh thần tương xứng với kết quả mà họ mang lại, kể cả việc nâng
lương trước thời hạn hoặc đề bạt lên vị trí cao hơn; đối với cán bộ có sai phạm thì
tùy theo mức độ mà có thể giáo dục thuyết phục hoặc xử lý kỷ luật. Có như vậy thì
kỷ cương trong hoạt động tín dụng, uy tín của ngân hàng sẽ ngày càng được nâng
cao và chất lượng tín dụng chắc chắn sẽ được cải thiện đáng kể.
Ngoài ra, ngân hàng phải thường xuyên liên kết, tổ chức các khóa đào tạo về
chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao trình độ. Nếu chưa gửi người đi đào tạo kịp thời
thì có thể đào tạo tại chỗ, các giảng viên là các lãnh đạo phòng hay các chuyên viên
có kinh nghiệm. Và ngân hàng cũng cần mở các lớp học bồi dưỡng về ngoại ngữ
76
nhằm rèn luyện và nâng cao khả năng ngoại ngữ cho nhân viên để phục vụ cho
nhóm khách hàng có vốn đầu tư nước ngoài.
Đồng thời, ngân hàng không thể bỏ qua việc xây dựng chính sách đãi ngộ nhân
sự, thực hiện cơ chế tài chính thông thoáng nhằm thu hút được nhân tài và duy trì
đủ nhân lực chất lượng có thể đảm trách các hoạt động tín dụng của ngân hàng. Vì
việc tăng trưởng tín dụng hàng ngày không đồng bộ với số lượng và chất lượng của
cán bộ tín dụng phụ trách nên dễ dẫn đến những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động tín
dụng. Số lượng cán bộ tín dụng có kinh nghiệm hiện nay tại các chi nhánh, phòng
giao dịch của Ngân hàng Á Châu luôn thiếu, trong khi đó các ngân hàng mới thành
lập lại thu hút nhân sự với chính sách đãi ngộ tốt hơn đã dẫn đến tình trạng “chảy
máu chất xám” nhất là trong tình hình khan hiếm nhân lực trong ngành tài chính
ngân hàng như hiện nay. Đứng trước tình hình như vậy, việc xây dựng chính sách
đãi ngộ để thu hút nhân sự là vấn đề bức thiết và cấp bách.
3.3 Một số kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước và Chính Phủ
3.3.1 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
3.3.1.1Nâng cao chất lượng quản lý, điều hành
Nâng cao vai trò định hướng trong quản lý và tư vấn cho các ngân hàng thương
mại thông qua việc thường xuyên tổng hợp, phân tích thông tin thị trường, đưa ra
các nhận định và dự báo khách quan, mang tính khoa học, đặc biệt là liên quan đến
hoạt động tín dụng để các ngân hàng thương mại có cơ sở tham khảo, định hướng
trong việc hoạch định chính sách tín dụng của mình sao cho vừa đảm bảo phát triển
hợp lý, vừa phòng ngừa được rủi ro.
Tiếp tục hoàn thiện quy chế cho vay, đảm bảo tiền vay trên cơ sở bảo đảm an
toàn cho hoạt động tín dụng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các ngân hàng thương
mại, quy định chặt chẽ về trách nhiệm của các ngân hàng thương mại về việc tuân
thủ quy chế cho vay và bảo đảm tiền vay, hạn chế bớt các thủ tục pháp lý phức tạp,
gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại.
77
Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với các bộ ngành có liên quan trong quá
trình xử lý nợ xấu, tập trung tháo gở những khó khăn vướng mắc trong thủ tục phát
mãi tài sản. Nên có những hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục, trách nhiệm của Tổ
chức Tín dụng, của cơ quan Công an, của Chính quyền cơ sở, của Sở Tài nguyên
Môi trường làm cơ sở pháp lý để đi đến ban hành thông tư liên ngành hướng dẫn
thêm nhằm nâng cao hiệu quả công tác phối hợp đẩy nhanh tiến độ, cụ thể hóa từng
công việc trong thi hành án.
Nghiên cứu, ban hành các quy định cụ thể để các ngân hàng thương mại áp dụng
chuẩn xác, kịp thời các công cụ bảo hiểm cho hoạt động tín dụng như: bảo hiểm
tiền vay, quyền chọn và các công cụ tài chính phái sinh khác. Đồng thời, tổ chức
đào tạo, hướng dẫn các nghiệp vụ trên để giúp các ngân hàng thương mại vừa đa
dạng hóa các sản phẩm tín dụng, vừa phòng ngừa và phân tán rủi ro trong hoạt động
tín dụng.
3.3.1.2 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát
Thực hiện thường xuyên công tác thanh tra, kiểm soát dưới nhiều hình thức để
kịp thời phát hiện và ngăn chặn những vi phạm tiêu cực trong hoạt động tín dụng
nhằm đưa hoạt động tín dụng của ngân hàng vào đúng quỹ đạo luật pháp.
Chương trình thanh tra cần được xây dựng chi tiết, khoa học, thông tin được thu
thập cần phân tích kỹ lưỡng, tránh mang tính hình thức, nội dung thanh tra nên
được cải tiến sao cho chương trình thanh tra đảm bảo kiểm soát được ngân hàng
thương mại, thể hiện được vai trò của mình là cảnh báo, ngăn chặn và phòng ngừa
rủi ro và không gây ảnh hưởng đến các hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Cần xây dựng phương án bổ sung hoặc hoán đổi cán bộ thanh tra giữa các chi
nhánh Ngân hàng Nhà nước để đảm bảo tính khách quan và tạo môi trường hoạt
động đa dạng cho cán bộ thanh tra, kiểm tra trau dồi nghiệp vụ.
Cần phải xây dựng đội ngũ thanh tra, giám sát chuẩn về nghiệp vụ ngân hàng,
nghiệp vụ kiểm tra, có phẩm chất đạo đức tốt, được cập nhật thông tin về chính
78
sách, pháp luật, thị trường để một mặt thực hiện công tác thanh tra, giám sát hoạt
động của các ngân hàng thương mại, mặt khác có thể đưa ra các nhận định, kết luận
giúp ngân hàng thương mại nâng cao hiệu quả hoạt động.
Ngân hàng Nhà nước phải theo dõi chặt chẽ việc sửa đổi, bổ sung những kiến
nghị của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của
công tác thanh tra.
Hiện nay hoạt động thanh tra ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước chủ yếu là
kiểm tra tính tuân thủ pháp luật trong hoạt động của ngân hàng và đánh giá về sự an
toàn của ngân hàng thương mại. Về việc đánh giá hệ thống kiểm soát rủi ro của các
ngân hàng thương mại thì Thanh tra Ngân hàng Nhà nước chưa thực hiện việc này
một cách có hệ thống, chưa có tiêu chí để thực hiện việc đánh giá này và chưa thực
sự đánh giá toàn diện, kiến nghị cụ thể về hệ thống kiểm soát rủi ro của các ngân
hàng thương mại qua các cuộc thanh tra. Vì vậy, để thanh tra Ngân hàng Nhà nước
thực hiện được vai trò đánh giá hệ thống kiểm soát rủi ro của ngân hàng thương
mại, cần phải xây dựng tiêu chí cụ thể về đánh giá rủi ro khi thực hiện thanh tra, nội
dung hoạt động ngoài thanh tra tuân thủ cần có sự giám sát, theo dõi rủi ro và tiến
tới xây dựng hệ thống giám sát từ xa của Thanh tra ngân hàng thông qua mạng
thông tin trực tuyến với các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi
công nghệ cao và quy chế nghiêm ngặt về bảo mật thông tin để bảo vệ bí mật kinh
doanh của các ngân hàng thương mại.
3.3.1.3 Nâng cao chất lượng của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC)
Một trong những bộ phận được ngân hàng thương mại sử dụng là Trung tâm
thông tin tín dụng (mạng CIC). Và một trong những điều kiện cần thiết để thực hiện
quản trị rủi ro tốt là hệ thống thông tin phải đầy đủ, cập nhật, chính xác. Chất lượng
thông tin càng cao thì rủi ro trong kinh doanh tín dụng của các Tổ chức Tín dụng
càng giảm. Vì vậy, việc hoàn thiện hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng là
rất cần thiết chẳng hạn như là: thông tin tín dụng phải bao hàm tất cả các thông tin
79
về tình hình vay vốn của khách hàng tại các Tổ chức Tín dụng, phải có sự phân tích
thông tin tổng hợp về khách hàng để lưu ý các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó,
cần chú trọng đổi mới và hiện đại hóa các trang thiết bị, thiết lập hệ thống sao cho
việc thu thập cũng như cung cấp thông tin tín dụng được thông suốt, kịp thời.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cần phải có chính sách tuyển chọn và đào tạo
cán bộ làm công tác quản lý mạng CIC không chỉ am hiểu về công nghệ thông tin
như khai thác thông tin qua mạng và các công cụ hỗ trợ khác mà còn phải có khả
năng thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp và đưa ra những nhận định, cảnh báo
thích hợp thay vì những con số báo cáo thống kê khô khan cho các ngân thương
mại tham khảo.
Hiện nay, các ngân hàng chưa có sự hợp tác tích cực với CIC chủ yếu là do
muốn giữ bí mật thông tin về khách hàng để cạnh tranh. Vì vậy, Ngân hàng Nhà
nước nên có những biện pháp thích hợp để các ngân hàng nhận thức đúng đắn về
quyền lợi và nghĩa vụ trong việc báo cáo và khai thác thông tin tín dụng từ CIC
nhằm góp phần ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. Ngân hàng Nhà nước cần
phải có biện pháp khuyến khích và đi dần đến quy định bắt buộc các ngân hàng
thương mại hợp tác, cung cấp thông tin một cách đầy đủ cho trung tâm. Thanh tra
Ngân hàng Nhà nước nên kiểm tra việc báo cáo, khai thác thông tin của các ngân
hàng, đồng thời có biện pháp xử lý kiên quyết, kịp thời đối với những ngân hàng vi
phạm chế độ báo cáo thông tin tín dụng như: báo cáo thiếu, báo cáo thông tin sai
lệch. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cần phải có biện pháp khuyến khích các ngân
hàng sử dụng thông tin tín dụng từ CIC như là một tài liệu bắt buộc phải có trong
quá trình thẩm định cho vay.
3.3.2 Kiến nghị đối với Chính phủ
Trong việc hoạch định chính sách, cần cân đối một cách thích hợp giữa các mục
tiêu đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, ổn định tiền tệ và sự phát triển bền vững của
hệ thống ngân hàng thương mại, tránh tình trạng thắt chặt hoặc thả lỏng quá mức,
80
thay đổi định hướng quá đột ngột gây ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng
thương mại.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng là một đòi hỏi cấp bách. Nhà nước
phải không ngừng tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh để khuyến khích sản xuất
kinh doanh, tạo hành lang pháp lý vững chắc để các thành phần kinh tế yên tâm bỏ
vốn ra đầu tư. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần tiếp tục hoàn thiện, đổi mới môi
trường kinh tế, coi đó là giải pháp tổng thể và cơ bản nhất trong quá trình đổi mới
mọi lĩnh vực kinh doanh nói chung và lĩnh vực kinh doanh tiền tệ nói riêng, chẳng
hạn như:
- Trong việc ban hành và thực hiện các cơ chế chính sách pháp luật cần nắm bắt
nhanh và kịp thời mọi sự phát triển của nền kinh tế xã hội, cần phải thu thập ý kiến
đầy đủ, khách quan từ các cơ quan ban ngành, doanh nghiệp để đảm bảo việc thực
thi được chính xác, hiệu quả, công bằng và phù hợp với điều kiện thực tế;
- Hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp lý liên quan đến đảm bảo tiền vay, làm
thế nào để trong trường hợp ngân hàng đã thực hiện đúng các quy định về thế chấp,
cầm cố tài sản khi cho vay thì khi xử lý nợ, ngân hàng được toàn quyền trong việc
thanh lý tài sản nhận làm đảm bảo đó để thu nợ nhằm khắc phục các khó khăn về
quy trình, thủ tục và thời gian xử lý tài sản đảm bảo thu hồi vốn vay như hiện nay;
- Thúc đẩy thị trường tài chính, trước hết là thị trường liên ngân hàng và thị
trường tiền tệ nhằm xác định khuôn khổ hoạt động của các ngân hàng, tạo thêm
nhiều cơ hội đầu tư nhằm phân tán rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và đa
dạng hóa các công cụ thanh toán nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
- Hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật như hệ thống thông tin, kiểm toán, kế toán
theo chuẩn mực quốc tế,…để thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định, tạo điều kiện
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và ngân hàng
thương mại nói riêng phát triển an toàn, bền vững và hội nhập quốc tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van 30062008_doc.pdf