Luận văn Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra, cá basa tại Ngân hàng Công Thương chi nhánh An Giang

Đề tài: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra, cá basa tại Ngân hàng Công Thương chi nhánh An Giang Mục lục CHƯƠNG I LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG CHƯƠNG II THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY HỘ CHĂN NUÔI CÁ TRA-BASA TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH AN GIANG CHƯƠNG III NHỮNG GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY HỘ CHĂN NUÔI CÁ TRA-BASA TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH AN GIANG Trên đây là những giải pháp nhằm khắc phục những nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang. Việc tìm ra những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn mà ngành nghề cá tra-basa đang từng bước trở thành một ngành nghề kinh tế mũi nhọn của ĐBSCL nói riêng và của cả nước nói chung để từ đó việc tài trợ vốn tín dụng cho ngành nghề này đạt hiệu quả cao hơn giúp cho ngành nghề chăn nuôi cá tra basa ngày càng phát triển và phát triển bền vững, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước. Mỗi giải pháp có một tác dụng riêng. Vì vậy, để các giải pháp này phát huy hiệu quả thì phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các giải pháp trên, giữa Chính Phủ - Ngân hàng - Doanh nghiệp và người chăn nuôi.

doc74 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1739 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra, cá basa tại Ngân hàng Công Thương chi nhánh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sẽ trụ được lâu dài, ngược lại sẽ bị lỗ thậm chí bị phá sản không trả được nợ vay ngân hàng. Mặc dù năm 2007 là năm xuất khẩu cá tra-basa gặp nhiều thuận lợi, nhiều ngư dân đã thắng lớn, tuy nhiên vẫn phát sinh NQH trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa nhưng ở mức thấp và có khả năng thu hồi được là do ngân hàng đã đánh giá được phần nào rủi ro trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa nên đã áp dụng một số biện pháp hạn chế rủi ro và chỉ mở rộng cho vay theo xu hướng của thị trường cá tra-basa (tình hình xuất khẩu cá tra-basa ổn định hoặc phát triển thì ngân hàng mở rộng cho vay, ngược lại ngân hàng thu hẹp cho vay để hạn chế những rủi ro phát sinh) mà vẫn chưa đưa ra được những giải pháp cụ thể nào dành riêng cho hoạt động cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa. Bảng 9 : Tình hình dư nợ cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang Đvt : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ của các TCTD trên địa bàn tỉnh AG 7,472,952 8,989,848 13,444,716 + Ngành thủy sản 559,117 618,287 1,157,993 * Cho vay chăn nuôi cá tra-basa 475,249 525,540 810,595 (Nguồn : Báo cáo của NHNN tỉnh AG năm 2005, 2006 và 2007) Bảng 10 : Tình hình dư nợ cho vay chăn nuôi cá tra-basa của NHCT Chi nhánh An Giang trên địa bàn tỉnh An Giang Đvt : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ cho vay chăn nuôi cá tra-basa trên địa bàn tỉnh AG. 475,249 525,540 810,595 + Chi nhánh NHCT An Giang 69,995 50,383 90,280 + Tỷ trọng 15% 10% 11% (Nguồn : Báo cáo của NHNN tỉnh An Giang năm 2005, 2006 và 2007) Trên đây là tình hình dư nợ cho vay trong hạn và dư nợ quá hạn của hoạt động cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang, nếu so với Tổng dư nợ trong hạn cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang thì dư nợ trong hạn cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa của NHCT Chi nhánh An Giang chỉ chiếm một phần nhỏ (bảng số liệu 9 và 10). Cụ thể như sau : + Năm 2005, TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang là 475.249 triệu đồng, trong khi đó TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang là 69.995 triệu đồng chiếm 15%/TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang. + Năm 2006, TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang là 525.540 triệu đồng, trong khi đó TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang là 50.383 triệu đồng chiếm 10%/TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang. + Năm 2007, TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang là 810.595 triệu đồng, trong khi đó TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang là 90.280 triệu đồng chiếm 11%/TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang. Qua diễn biến tình hình dư nợ trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang cho thấy : đối với một tỉnh có lợi thế về chăn nuôi cá tra-basa như hiện nay và dư nợ trong hạn cho vay ngành thủy sản trên địa bàn tỉnh An Giang chủ yếu là dư nợ trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa thì dư nợ trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của NHCT Chi nhánh An Giang – một trong những NHTMNN lớn trên địa bàn tỉnh An Giang – chiếm một tỷ trọng rất thấp (trung bình chỉ chiếm 12%/TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang). Nguyên nhân là do NHCT Chi nhánh An Giang đã nhận thức được những rủi ro trong cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại Chi nhánh NHCT Châu Đốc nên kể từ năm 2006 điều kiện cho vay chăn nuôi hộ cá tra-basa có phần gắt gao hơn và hạn chế hơn, chủ yếu là cho vay theo xu hướng của thị trường cá tra-basa. Bảng 11 : Tình hình dư nợ quá hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang Đvt : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ quá hạn của các TCTD trên địa bàn tỉnh AG 225,000 223,000 176,000 + Ngành thủy sản 10,928 10,148 5,165 * Cho vay chăn nuôi cá tra-basa 9,288 8,625 4,132 (Nguồn : Báo cáo của NHNN tỉnh An Giang năm 2005, 2006 và 2007) Do tính rủi ro của ngành nghề cá tra-basa nên các ngân hàng rất thận trọng trong cho vay chăn nuôi cá tra-basa. Qua bảng số liệu bảng 11 cho thấy trong Tổng NQH của ngành thủy sản thì đa số là NQH của loại hình cho vay chăn nuôi cá tra-basa. Tuy nhiên, NQH đối với cho vay chăn nuôi cá tra-basa đã giảm trong giai đoạn 2005 – 2007. Dư nợ cho vay chăn nuôi cá tra-basa trên địa bàn tỉnh An Giang thì tăng còn NQH thì giảm, một mặt do các ngân hàng thận trọng hơn trong việc cho vay chăn nuôi cá tra-basa, mặt khác do giai đoạn 2005 – 2007 là giai đoạn phát triển thuận lợi của con cá tra-basa nên hầu hết những người chăn nuôi đều thu được lợi. Bảng 12 : Tình hình dư nợ quá hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của NHCT CN An Giang trên địa bàn tỉnh An Giang Đvt : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ quá hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa trên địa bàn tỉnh AG 9,288 8,625 4,132 + Chi nhánh NHCT An Giang 2,184 259 197 + Tỷ trọng 24% 3% 5% (Nguồn : Báo cáo của NHNN tỉnh An Giang năm 2005, 2006 và 2007) Năm 2005, trong tổng NQH cho vay chăn nuôi cá tra-basa trên địa bàn tỉnh An Giang thì NQH của NHCT Chi nhánh An Giang đã chiếm tới 24%. Nguyên nhân chính vẫn do NQH của Chi nhánh Châu Đốc – địa phương chăn nuôi cá tra-basa nhiều nhất của tỉnh An Giang. Năm 2006, tỷ trọng NQH cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang giảm xuống chỉ còn 3%/Tổng NQH trên địa bàn tỉnh An Giang nhưng đến năm 2007 NQH lại tăng lên 5%. Kết hợp với bảng số liệu 10 thấy được nguyên nhân của việc tăng NQH này là do dư nợ cho vay chăn nuôi cá tra-basa của NHCT Chi nhánh An Giang đã tăng lên. Như vậy, tăng số lượng cho vay chưa chú trọng nhiều đến chất lượng cho vay. Hiện nay, ngành thủy sản mà đặc biệt là chăn nuôi cá tra-basa (cá tra-basa: một loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng quý giá) là một trong những thế mạnh của ĐBSCL nói chung, của tỉnh An Giang nói riêng và được các nước trên thế giới biết đến, nhất là trong giai đoạn hiện nay Việt Nam vừa gia nhập WTO thì việc mở rộng phát triển sản lượng cá tra-basa cả về lượng và về chất là rất cần thiết để đáp ứng cho nhu cầu thực phẩm trong nước và xuất khẩu. Để làm được điều này cần phải có sự phối hợp tốt giữa 04 nhà, trong đó nhà nông là lực lượng nồng cốt trong việc phát triển ngành nghề này, còn ngân hàng là một trong các nhà doanh nghiệp hỗ trợ về vốn tốt nhất cho nhà nông vì đa số những người chăn nuôi cá tra-basa đều thiếu vốn cho một chu kỳ nuôi. Tuy nhiên, một mặt mở rộng tín dụng cho những người chăn nuôi cá tra-basa, mặt khác phải đảm bảo chất lượng tín dụng bằng những biện pháp giảm thiểu rủi ro trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa, hạn chế phát sinh NQH đến mức thấp nhất. Trong những năm qua, nghề chăn nuôi cá tra-basa đã khẳng định được vị thế của mình, đây là thế mạnh của Đồng bằng Sông Cửu Long sau nông nghiệp nên Chính phủ rất quan tâm và tạo điều kiện để phát triển nghề này. Đặc biệt trong những tháng đầu năm 2008 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã dành khoảng 1.000 tỷ đồng để mua cá tra-basa quá lứa tại các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long tạo điều kiện cho người chăn nuôi vượt qua khó khăn. Tuy nhiên, việc thực thi chính sách này của Ngân hàng Nhà nước các Ngân hàng Thương mại được giao nhiệm vụ thực hiện còn rất hạn chế, chưa đạt kế hoạch đề ra, có nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do Ngân hàng Nhà nước đã có chủ trương nhưng chưa có các giải pháp cụ thể để thực hiện. 2.5 NHỮNG NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU DẪN ĐẾN RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY HỘ CHĂN NUÔI CÁ TRA-BASA TẠI NHCT CHI NHÁNH AN GIANG ĐBSCL nói chung và tỉnh An Giang nói riêng là vùng sản xuất nông nghiệp, thủy sản hàng hóa lớn nhất cả nước. Với khoảng 50% sản lượng lúa, 52% sản lượng thủy sản và đóng góp khoảng 90% sản lượng gạo xuất khẩu, chiếm 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Kinh tế vùng tăng trưởng khá cao, GDP bình quân giai đoạn 2001 – 2005 tăng gần 11%/năm, đứng thứ ba (sau vùng Đông Nam Bộ - 39,9%; vùng Đồng bằng Sông Hồng – 22,8%) và đang dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, phát triển dịch vụ thương mại và du lịch. Cụ thể : GDP tăng bình quân 11% - 12%/năm; Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 20%/năm; Cơ cấu GDP với trên 30% dịch vụ, gần 30% công nghiệp và xây dựng, 40% nông lâm ngư nghiệp. Riêng NTTS, toàn khu vực hiện có 1.100.000 ha, chiếm 55% tổng diện tích NTTS cả nước (2.000.000 ha). Hơn 10 năm qua, diện tích NTTS tăng 2,37 lần, sản lượng tăng 3,68 lần ; tốc độ dịch chuyển cơ cấu sản xuất nông nghiệp sang NTTS đang diễn ra rất sôi động. Trong đó, ngoài tôm sú thì cá tra-basa đóng góp rất lớn vào kim ngạch xuất khẩu thủy sản, năm 2007 xuất khẩu thủy sản đạt 3.600 triệu USD; công nghiệp chế biến chiếm khoảng 80% giá trị sản lượng công nghiệp toàn vùng. Diện tích nuôi cá tra-basa tăng 7 lần (từ 1.200 ha tăng lên 9.000ha), sản lượng tăng 36,2 lần (từ 22.500 tấn tăng lên 825.000 tấn); toàn vùng có 70 nhà máy chế biến với công suất khoảng 1.500.000 tấn/năm, giá trị sản phẩm chế biến xuất khẩu tăng 40 lần (từ dưới 20 triệu USD lên 736,8 triệu USD), chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản. Tính đến cuối năm 2007, tổng dư nợ cho chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang đạt 810.595 triệu đồng, tăng 54% (tương đương tăng 285.055 triệu đồng so với năm 2006), trong đó, riêng Vietinbank chi nhánh An Giang là 83.552 triệu đồng, tăng 82% (tương đương tăng 37.751 triệu đồng so với năm 2006). Tuy nhiên, mức dư nợ cho vay trên chưa tương xứng với kim ngạch xuất khẩu cũng như thế mạnh và tổng dư nợ cho vay của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang nói chung (chiếm 10% trong tổng dư nợ cho vay) và của Vietinbank chi nhánh An Giang nói riêng. Vậy đâu là nguyên nhân? Vì vậy cần phải nghiên cứu, phân tích để tìm ra những giải pháp phù hợp trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa nhằm giảm thiểu những rủi ro tín dụng trong khi cho vay. Từ đó mở rộng tăng trưởng tín dụng trong lĩnh vực này phù hợp với định hướng phát triển của cả nước, của NHCT Việt Nam nói chung và của NHCT chi nhánh An Giang nói riêng. Vì đây là một trong những thế mạnh và tiềm năng của khu vực kinh tế ĐBSCL trong đó có An Giang, là lĩnh vực đầu tư truyền thống của Vietinbank chi nhánh An Giang bên cạnh việc đầu tư cho ngành lương thực. 2.5.1 Nguyên nhân khách quan - Mất cân đối cung cầu cá tra-basa nguyên liệu Toàn vùng ĐBSCL có 70 Nhà máy chế biến, với công suất khoảng 1.500.000 tấn/năm. Tuy nhiên việc phát triển Nhà máy chế biến chưa theo quy hoạch; còn mang tính tự phát cả trong phát triển Nhà máy chế biến và vùng nguyên liệu. Điều này có thể dẫn đến rủi ro mất cân đối cung cầu nguyên liệu và thị trường xuất khẩu. - Thị trường tiêu thụ cá tra-basa chủ yếu là thị trường nước ngoài Sản phẩm chủ yếu là xuất khẩu (khoảng 80% sản lượng chế biến) nên phụ thuộc nhiều vào thị trường nước ngoài, thị trường tiêu thụ trong nước còn hạn chế. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với nguy cơ kiện bán phá giá hay vi phạm các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm trong chăn nuôi cá tra-basa của những người chăn nuôi mà tác hại của những vấn đề trên là không nhỏ và thực tế đã từng xảy ra. - Sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp Sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong việc hạ hoặc tăng giá thu mua nguyên liệu hay giá bán làm ảnh hưởng không nhỏ đến những người chăn nuôi cá tra-basa, cạnh tranh giữa các ngân hàng trong việc hạ thấp các tiêu chuẩn cho vay, lãi suất,… - Thiếu sự liên kết giữa các doanh nghiệp Giữa các doanh nghiệp thiếu sự liên kết để tạo thêm sức mạnh trong cạnh tranh hay giải quyết tình trạng thừa nguyên liệu cục bộ tạm thời tác động đến giá cả thu mua nguyên liệu của những người chăn nuôi; Các doanh nghiệp còn gây khó khăn cho người nuôi khi nguồn nguyên liệu dồi dào. Điều này tác động xấu đến người nuôi – nhà chế biến. - Tốc độ phát triển quá nhanh về diện tích và số người chăn nuôi làm mất cân bằng sinh thái Tốc độ phát triển quá nhanh về diện tích và số người nuôi làm mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng đến môi trường, gây nên dịch bệnh cho cá; Tình trạng “Nhà nhà nuôi cá” bất kể có đúng quy trình, kỹ thuật hay không dẫn đến tình trạng chất lượng cá không đảm bảo do nhiễm hóa chất, vi sinh đã làm giảm chất lượng hàng xuất khẩu, ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ; Nhiều hộ nuôi nhỏ lẻ, manh mún rất dễ gặp rủi ro khi thị trường tiêu thụ gặp khó khăn. - Nhu cầu vốn luôn quá cao so với các điều kiện về đảm bảo tiền vay của ngân hàng Nhu cầu vốn vay của người chăn nuôi kể cả nhu cầu vốn cho đầu tư máy móc thiết bị thì luôn quá cao so với các điều kiện về bảo đảm tiền vay của ngân hàng nên đã có nhiều phương án, dự án không thực hiện được và ngân hàng khó có thể cho vay hoặc nếu cho vay thì ngân hàng sẽ gặp nhiều rủi ro. - Thiếu quy hoạch tổng thể, thiếu chiến lược phát triển ngành nghề dẫn đến tình trạng phát triển tự phát Tại An Giang – địa phương chăn nuôi cá tra-basa nhiều nhất khu vực ĐBSCL – còn thiếu quy hoạch tổng thể, thiếu chiến lược phát triển ngành nghề dẫn đến tình trạng phát triển tự phát. Vai trò của Hiệp Hội nghề cá Việt Nam, Hiệp hội nghề nuôi và chế biến thủy sản chưa rõ nét trong việc nuôi trồng, xây dựng vùng quy hoạch, làm cầu nối giữa người nuôi và doanh nghiệp chế biến hay trong kiểm tra giám sát chất lượng,… - Sự phụ thuộc quá nhiều vào đồng đô la Mỹ Đa số các doanh nghiệp chế biến ở Việt Nam rất thường sử dụng đồng đô la Mỹ trong xuất khẩu. Điều này rất dễ dẫn đến nhiều rủi ro trong kinh doanh của các doanh nghiệp nhất là trong những lúc đồng đô la Mỹ giảm giá. Tình trạng này sẽ làm cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá tra-basa gặp nhiều khó khăn trong thu mua cá nguyên liệu và trang trải các chi phí sản xuất khác. Hậu quả là người chăn nuôi phải gánh chịu nhiều thiệt hại do nguồn cá nguyên liệu không bán được, bị tồn đọng lại do các nhà máy chế biến không thu mua cá nguyên liệu. Nếu có thu mua thì sẽ thu mua theo giá rất thấp, người chăn nuôi dù bán hay không vẫn phải gánh chịu thiệt hại. Ngoài những nguyên nhân chủ yếu ở trên thì chính những đặc điểm của ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa như : thiếu kinh nghiệm, thiếu hiểu biết, chỉ thấy lợi ích trước mắt,…cũng là những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay chăn nuôi cá tra-basa. 2.5.2 Nguyên nhân chủ quan - Định giá tài sản đảm bảo tiền vay quá cao so với giá trị thực tế của nó Do tốc độ phát triển diện tích nuôi quá nhanh dẫn đến tình trạng giá đất tăng không có cơ sở và gấp nhiều lần so với khung giá do Nhà nước quy định (bình thường 1.000m2 ao nuôi chỉ có vài chục triệu đồng nhưng vào thời điểm ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa gặp nhiều thuận lợi, mọi người kéo nhau đào ao nuôi cá thì giá đất có khi tăng đến 100 triệu đồng/1.000m2. Nhưng nếu nuôi thất bại, người chăn nuôi không trả được nợ, ngân hàng sẽ phát mãi tài sản để thu hồi nợ thì số diện tích đất này – tài sản chủ yếu dùng làm đảm bảo cho ngân hàng – rất khó bán được do không có thị trường hoặc bán với giá rất thấp. - Ngân hàng nhận chính quyền sử dụng đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản làm tài sản đảm bảo Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản thường có giá trị rất thấp (tính thanh khoản thấp) do tính năng sử dụng của nó nhưng khi cho vay ngân hàng thường nhận chính quyền sử dụng đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản để làm tài sản đảm bảo cho khoản vay của người vay mà không kết hợp với những hình thức bảo đảm khác (thế chấp quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu nhà ở có tính thanh khoản cao hoặc bảo lãnh,...). Khi xảy ra rủi ro không đảm bảo thu hồi được nợ. - Lãi suất cho vay thường cao hơn các ngành nghề khác Do mức độ rủi ro của ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa nên ngân hàng thường áp dụng lãi suất cho vay rất cao so với các ngành nghề khác nên khi người chăn nuôi gặp khó khăn thì việc lãi suất cho vay cao sẽ càng gây khó khăn hơn cho người chăn nuôi trong việc trả nợ gốc và nợ lãi cho ngân hàng. - Cán bộ tín dụng chưa thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay sau khi giải ngân Sau khi cho vay, cán bộ tín dụng thường ít khi kiểm tra sử dụng vốn vay của khách hàng xem người vay có sử dụng tiền vay đúng mục đích hay không, thời điểm khách hàng bán cá và giá cả như thế nào để thu hồi vốn vay. Nếu không thường xuyên kiểm tra thì sau khi bán cá khách hàng có thể trả nợ cho người khác trước mà không ưu tiên trả nợ cho ngân hàng vì để đáp ứng đủ nhu cầu vốn nuôi cá người chăn nuôi thường vay tiền từ nhiều nguồn khác nhau. - Trình độ của cán bộ tín dụng về ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa còn yếu kém Ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa tuy không phải là một ngành nghề mới mà đã có từ rất lâu nhưng ít được biết đến nhiều như hiện nay. Chăn nuôi cá tra-basa đầu tiên là để đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho những hộ gia đình nông thôn đến nay chăn nuôi cá tra-basa để đáp ứng nhu cầu cá nguyên liệu cho các NMCB xuất khẩu thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy mà ngày nay, ngành nghề này ngày càng phát triển và trở nên phổ biến hơn. Nhu cầu vốn cho ngành nghề này cũng ngày càng nhiều hơn nhất là nhu cầu vốn vay ngân hàng. Chăn nuôi cá tra-basa đã trở thành đối tượng vay vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, trình độ hiểu biết về ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa của cán bộ tín dụng còn nhiều yếu kém. Đa số cán bộ tín dụng đều không có kiến thức về con cá tra-basa và những rủi ro trong chăn nuôi mà những rủi ro này có thể dẫn đến rủi ro tín dụng trong khi cho vay để từ đó giúp khách hàng và ngân hàng phòng ngừa, mặt khác cũng gây khó khăn cho cán bộ tín dụng trong việc kiểm tra sử dụng vốn vay của khách hàng. - Việc thực thi các chủ trương chính sách của Nhà nước chưa đồng bộ : Trong 06 tháng đầu năm 2008, tình hình cá tra-basa gặp nhiều khó khăn trong chăn nuôi cũng như trong chế biến xuất khẩu do sự bất ổn định về tình hình kinh tế xã hội. Trước tình hình đó, NHNN đã giao chỉ tiêu 1.000 tỷ đồng phân bổ cho các NHTM giải ngân ưu tiên giúp cho các DNCB và người chăn nuôi cá tra-basa vượt qua khó khăn. Tuy nhiên, việc giải ngân chưa được thực hiện đồng bộ giữa các NHTM, các DNCB và người chăn nuôi do các nguyên nhân sau : + Đối với ngành ngân hàng : NHNN đã giao chỉ tiêu cho các NHTM phải cho vay thu mua cá tra-basa quá lứa trong dân nhưng việc cho vay tại các NHTM lại thực hiện theo thể lệ tín dụng hiện hành (điều kiện cho vay, lãi suất cho vay,…). Nếu rủi ro xảy ra thì phải trích lập dự phòng rủi ro làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh tại các ngân hàng cho vay nên các NHTM rất thận trọng trong cho vay, mặc dù đã được sự chỉ định của NHNN. + Đối với doanh nghiệp chế biến : thực hiện theo chủ trương mua cá quá lứa của NHNN thì các doanh nghiệp đầu mối phải thu mua theo chủ trương nhưng các doanh nghiệp chỉ cthực hiện cầm chừng. Nguyên nhân của tình trạng này là do việc xuất khẩu cá tra-basa phải tùy thuộc vào thị trường tiêu thụ ở nước ngoài yêu cầu (kích cỡ cá, chất lượng thịt cá,…), mặt khác thủy sản xuất khẩu dự trữ trong kho cũng phải có thời gian, sức chứa của các kho đông lạnh cũng có hạn, lãi suất cho vay của Ngân hàng theo lãi suất cho vay thương mại (không ưu đãi lãi suất),… làm cho chi phí xuất khẩu tăng lên trong khi giá cá xuất khẩu không tăng, nếu doanh nghiệp mua càng nhiều thì rủi ro càng cao. Khi doanh nghiệp gặp rủi ro xảy ra thì Chính phủ tạo điều kiện cho doanh nghiệp như thế nào cũng chưa có các giải pháp cụ thể, tạo điều kiện để doanh nghệp an tâm thực hiện chủ trương chính sách của Nhà nước. + Đối với các hộ ngư dân : được ngân hàng xem xét cho gia hạn nợ nhưng với lãi suất cho vay như hiện nay cộng thêm giá thức ăn tăng lên từng ngày,…làm cho giá thành 1kg cá tăng lên trong khi giá bán không tăng mà giảm từng ngày. Từ đó, những người chăn nuôi đang gặp khó khăn lại càng khó khăn thêm. Kết luận chương II : Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa, cả khách quan lẫn chủ quan và những nguyên nhân được nêu ra trên đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro trong cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang. Qua phân tích các số liệu ta thấy được trong tổng NQH cho vay thuỷ sản của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang thì NQH của ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa luôn chiếm tỷ trọng cao. Trong đó có NHCT Chi nhánh An Giang, mặc dù dư nợ cho vay chăn nuôi cá tra-basa của Chi nhánh tăng trong giai đoạn 2005 – 2007 nhưng NQH lại giảm. Điều này chứng tỏ hoạt động cho vay chăn nuôi cá tra-basa ngày càng được Chi nhánh chú trọng hơn cả về số lượng lẫn chất lượng, tuy nhiên việc cho vay ngành nghề này còn phụ thuộc nhiều vào xu hướng thị trường của con cá tra-basa (thị trường thuận lợi cho con cá tra-basa thì Chi nhánh mở rộng cho vay, ngược lại thu hẹp cho vay) do tính chất còn nhiều rủi ro của ngành nghề. Xuất phát từ việc nhận thấy những rủi ro do một số nguyên nhân trên gây ra nên Chi nhánh chưa mạnh dạng trong cho vay và chưa chủ động trong xây dựng chiến lược đầu tư cho vay ngành nghề này. CHƯƠNG III NHỮNG GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY HỘ CHĂN NUÔI CÁ TRA-BASA TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH AN GIANG 3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NHCT CHI NHÁNH AN GIANG TRONG NĂM 2008 3.1.1 Định hướng chung Tiếp tục thực hiện phương châm “ Phát triển - an toàn - hiệu quả”, chi nhánh NHCT An Giang xây dựng kế hoạch kinh doanh năm 2008 như sau : - Về nguồn vốn huy động : tốc độ tăng trưởng nguồn vốn đến cuối năm là 15% so với đầu năm. - Về tổng dư nợ cho vay nền kinh tế : tốc độ tăng trưởng dư nợ đến cuối năm là 20% so với đầu năm (trong đó dư nợ cho vay cá tra-basa chiếm 15%/Tổng dư nợ cho vay) và tăng trưởng tín dụng phải đi đối với chất lượng tín dụng. - Số dư nợ xấu : dưới 2 tỷ đồng. - Thu dịch vụ : 3 tỷ đồng. - Lơi nhuận (đã trích dự phòng rủi ro) : 30 tỷ đồng. 3.1.2 Định hướng cụ thể - Về công tác huy động vốn : Có tăng trưởng nguồn vốn thì mới có thể chủ động trong việc cho vay và đầu tư. Đẩy mạnh khai thác, tăng trưởng nguồn vốn (cả nội tệ và ngoại tệ) theo hướng đa dạng hóa nguồn vốn, cơ cấu kỳ hạn và lãi suất hợp lý, tăng tỷ trọng các nguồn vốn có lãi suất đầu vào thấp. - Tích cực tăng trưởng tín dụng đầu tư, phát triển dư nợ mới, khách hàng mới, đảm bảo chất lượng, an toàn, hiệu quả, bền vững. Tiếp cận và triển khai mở rộng hoạt động tín dụng nhắm vào khách hàng có tình hình sản suất kinh doanh ổn định, phát triển, tài chính lành mạnh để xây dựng cơ cấu tín dụng có khả năng sinh lời cao. - Tập trung phân tích đánh giá một số nhóm khách hàng, đề xuất định hướng, chiến lược đầu tư đặc biệt, chiến lược đầu tư tín dụng đối với lĩnh vực chăn nuôi cá tra-basa – một ngành chủ lực của tỉnh nói riêng và của ĐBSCL nói chung. Nâng tỷ trọng cho vay cá tra-basa đối với các khách hàng có kinh nghiệm, có TSBĐ ổn định, có Hợp đồng bao tiêu sản phẩm và là hội viên của Hội nghề cá tỉnh An Giang. - Huy động vốn và phát triển sản phẩm dịch vụ cụ thể đối với từng nhóm khách hàng. - Triệt để thu hồi các khoản nợ xấu, nợ ngoại bảng, lành mạnh hóa tình hình tài chính. - Phát triển các sản phẩm dịch vụ thanh toán hiện đại, mở rộng thanh toán song biên, mở rộng phạm vi kết nối hệ thống thanh toán NHCT với các tổ chức tín dụng khác. Phát triển tăng thị phần phi tín dụng và các dịch vụ tài chính ngân hàng, cung ứng cho nền kinh tế với chất lượng cao và ổn định, có sự khác biệt và có tính cạnh tranh cao so với các NHTM khác, dịch vụ ngân hàng hoàn hảo. Nhanh chóng triển khai các tiện ích mới cho sản phẩm thẻ, phát hành thẻ chip, tăng số lượng thẻ tín dụng visa master card,… - Xây dựng phong cách văn hóa, lề lối làm việc, kỹ cương trong toàn chi nhánh, đề cao nguyên tắc, kỹ luật, kỹ cương trong quản trị điều hành; xác định rõ trách nhiệm của từng cán bộ trong quản trị hệ thống, có chính sách, chế độ thưởng phạt nghiêm minh,… 3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY HỘ CHĂN NUÔI CÁ TRA-BASA Từ những nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong cho vay chăn nuôi cá tra-basa cho thấy là đầu tư, cho vay chăn nuôi cá tra-basa luôn gặp rủi ro. Vì thực tế lĩnh vực này đang phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, tiềm năng còn rất lớn. Nhưng đứng về khía cạnh ngân hàng, việc xác định rủi ro của ngành, thận trọng trong cho vay khi xét thấy khoản vay dễ gặp rủi ro là cần thiết và phù hợp với định hướng phát triển. Hơn nữa trong thời gian gần đây, việc phát triển rất nhanh nghề nuôi cá tra-basa tại các địa phương dễ dẫn đến hệ quả xấu trong tương lai. Nên việc xuất hiện những rủi ro trong cho vay lĩnh vực này là điều dễ nhận thấy. 3.2.1 Trước tiên là giải pháp đối với Chính phủ về lĩnh vực chăn nuôi cá tra-basa Rủi ro tín dụng trong việc cho vay lĩnh vực chăn nuôi cá tra-basa một phần xuất phát từ sự bất ổn định đối với lĩnh vực đó tạo nên. Chính sự phát triển ồ ạt mà không bền vững của ngành chăn nuôi cá tra-basa đã gây ra không ít sóng gió cho cả người chăn nuôi, các doanh nghiệp và cả môi trường sống, điển hình như : ô nhiễm môi trường, dịch bệnh trên cá, mất cân đối cung cầu cá nguyên liệu, lợi ích phân phối không đồng đều giữa Nhà nông và Nhà doanh nghiệp,…Vì vậy, muốn hạn chế những rủi ro có thể xảy ra trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa thì điều đầu tiên cần phải làm là giúp cho lĩnh vực chăn nuôi cá tra-basa phát triển một cách bền vững thông qua một số giải pháp sau : 3.2.1.1 Ứng dụng tiến bộ khoa học a. Về nuôi trồng : Áp dụng tiến bộ khoa học của thế giới và khu vực, nâng cao công nghệ hiện có và nhập mới các công nghệ mới về nuôi trồng, thức ăn, xử lý và bảo vệ môi trường (công nghệ sinh học). Gia tăng đầu tư để hiện đại hóa cơ sở nghiên cứu chăn nuôi cá tra-basa nguyên liệu chất lượng cao, khuyến khích nhiều thành phần kinh tế đầu tư vào xây dựng và áp dụng quy trình nghiên cứu sản xuất giống chất lượng cao. Muốn vậy thì phải gia tăng ngân sách nhà nước cho nghiên cứu khoa học song song với việc gia tăng quá trình chuyển giao công nghệ từ các Viện, Trường, Trung tâm nghiên cứu ứng dụng tới người chăn nuôi cá tra-basa phù hợp với nhu cầu phát triển của tỉnh An Giang, của Việt Nam, của khu vực Đông Nam Á và trên thế giới. b. Về chế biến : Đầu tư nâng cấp và xây dựng các Nhà máy chế biến cá tra-basa với công nghệ tiên tiến theo hướng gia tăng tỷ trọng các nhà máy chế biến, thực hiện quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO, HACCP, SQH,…nhằm gia tăng khối lượng các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Bên cạnh đó, cũng phải xây dựng thương hiệu sản phẩm xuất khẩu trong nước và quốc tế. 3.2.1.2 Giải pháp thị trường a. Thông tin dự báo thị trường : Thông tin thị trường (do các cơ quan chức năng thực hiện) phải cập nhật thường xuyên và phổ biến đến người chăn nuôi cá tra-basa trên những phương tiện truyền thông như báo, đài, trên trang web,… b. Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước đối với thị trường : - Lập kế hoạch về hoạt động của thị trường thủy sản nói chung và cá tra-basa nói riêng, xác định mục tiêu và xây dựng các chương trình hành động cho sản xuất, tiếp cận và tiêu thụ. Cụ thể là Chính quyền các cấp cơ sở, các tổ chức Hội, Hiệp hội địa phương cần thể hiện rõ hơn nữa vai trò, chức năng quản lý của mình đối với những người chăn nuôi cá tra-basa, nhất là trong trong công tác quản lý chất lượng cá nguyên liệu đầu vào từ khâu sản xuất con giống đến khâu nuôi trồng và cuối cùng là khâu chế biến của các DNCB. - Kiểm tra chất lượng an toàn vệ sinh thú y thủy sản ở các cơ sở nuôi, các Nhà máy chế biến, sản phẩm xuất khẩu do Cục Chất lượng an toàn vệ sinh và thú y thủy sản (viết tắt là NAFIQAVED) đảm trách. - Thu thập, xử lý, phân tích và lưu giữ số liệu thống kê về giá cả, một số mặt hàng được chế biến từ cá tra-basa trên thị trường để từ đó Nhà nước có thể kiểm soát được giá cả, biết được những mặt hàng mạnh và những mặt hàng yếu. Từ đó, phát huy những mặt hàng mạnh và loại bỏ những mặt hàng kém chất lượng. - Trong thời gian qua vẫn diễn ra “một cuộc chiến thầm lặng” giữa những người chăn nuôi cá tra-basa và các DNCB, một cuộc chiến thu mua nguyên liệu. Nếu thị trường theo hướng có lợi cho các Nhà máy thì giá thu mua nguyên liệu sẽ do các Nhà máy quyết định, ngược lại sẽ do những ngư dân quyết định và đương nhiên lợi ích sẽ do người quyết định nắm giữ. Bất kể là Nhà máy thu mua nguyên liệu hay người chăn nuôi cá tra-basa chỉ cần có cơ hội thì họ sẽ tranh thủ giành hết lợi ích về cho mình dù cho giữa hai bên có ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm hay không, mạnh ai nấy “xé rào” mà không phải chịu bất kỳ một hình phạt nào do “vi phạm hợp đồng”. Vì vậy, Bộ Thương mại cần tăng cường hơn nữa chức năng quản lý thị trường để tình trạng trên không còn, giúp cho giá cá tra-basa nguyên liệu được ổn định hơn. Xảy ra tình trạng trên là do Việt Nam chưa có một hành lang pháp lý rõ ràng nào cho lĩnh vực chăn nuôi cá tra-basa, việc quản lý còn lỏng lẻo, việc xử phạt chưa nghiêm minh. Trong thời gian tới, chính quyền các cấp cơ sở, các tổ chức Hội, Hiệp hội địa phương cần phải kiên quyết xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm, những doanh nghiệp có hiểu hiện gian lận thương mại giúp cho người chăn nuôi hạn chế những thiệt hại phát sinh do doanh nghiệp chế biến chèn ép giá. c. Về tiêu thụ hàng hóa xuất khẩu và tiêu thụ hàng hóa nội địa : - Tiêu thụ hàng hóa nội địa : Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm thủy sản nói chung và cá tra-basa nói riêng ở nước ta ngày nay ngày càng tăng, sản phẩm cá tra-basa được người dùng ưa chuộng do những công dụng bổ ích của nó, với dân số khoản 80 triệu người Việt Nam là một thị trường tiêu thụ sản phẩm cá tra-basa lớn trong khu vực. Do đó, phát triển thị trường cá tra-basa nội địa là phát huy nội lực để phát triển ngành Thủy sản. - Tiêu thụ hàng hóa xuất khẩu : Bốn thị trường lớn nhập khẩu sản phẩm cá tra-basa của Việt Nam là Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc chiếm tỷ trọng cao (khoản ¾ tổng giá trị xuất khẩu thủy sản). Nhưng các thị trường này biến động nhiều, gây nhiều rủi ro, do vậy cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu cá tra-basa, đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu, khai thác chiều sâu các thị trường lớn. Đơn cử là “vụ kiện chống bán phá giá cá da trơn của Mỹ”. Trước vụ kiện chống bán phá giá cá da trơn của Mỹ đối với Việt Nam thì Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất, chiếm hơn 90% về sản lượng xuất khẩu và giá trị xuất khẩu cá tra-basa của Việt Nam. Sau khi xảy ra vụ kiện trên, trong một thời gian dài sản phẩm cá tra-basa của Việt Nam đã không xuất khẩu được. Như vậy, quá phụ thuộc vào một thị trường sẽ dễ rơi vào thế bị động. 3.2.1.3 Giải pháp về bảo vệ môi trường, phát triển bền vững Ngày nay, lượng nước thải sử dụng trong quy trình nuôi trồng thủy sản thải ra môi trường nước tự nhiên (sông, kênh rạch) không qua xử lý là rất lớn (trong năm 2006 khoảng 1,1 tỷ m3; năm 2007 khoảng 2,2 tỷ m3; và dự kiến đến năm 2010 khoảng 5,1 tỷ m3). Tình trạng ô nhiễm môi trường do các ngư dân cũng như của các DNCB gây ra vẫn còn tiếp diễn : ngư dân vì lợi ích trước mắt kéo nhau đào ao nuôi cá, còn các NMCB thì mọc lên hàng loạt mặc dù có hệ thống xử lý nước thải nhưng không đủ tiêu chuẩn nên nước thải ra môi trường ảnh hưởng đến những người dân sống xung quanh. Điều này cũng có ảnh hưởng đến chất lượng cá tra-basa nguyên liệu. Vì vậy Nhà nước phải : - Quản lý ngành Thủy sản nói chung và ngành chăn nuôi cá tra-basa nói riêng chặt chẽ. Cụ thể đối với mô hình nuôi ao hầm muốn hoạt động được phải có Giấy phép NTTS (phải có ao xử lý nước thải trong quá trình nuôi trước khi thải ra môi trường, phải có giấy phép xả nước thải ra môi trường, phải nằm trong quy hoạch NTTS của địa phương,…), phải có biện pháp xử lý cá chết khi hao hụt nhiều. - Quy định nước thải của các Nhà máy chế biến phải được xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra môi trường xung quanh. 3.2.1.4 Giải pháp về thủy lợi Quy hoạch và xây dựng hệ thống cấp nước, xả nước thải trong chăn nuôi cá tra-basa đối với những vùng chăn nuôi tập trung diện tích lớn. 3.2.1.5 Giải pháp về nhu cầu vốn Nhu cầu vốn cho phát triển chăn nuôi cá tra-basa là rất lớn, khả năng đáp ứng là có hạn, hiện nguồn vốn cho nhu cầu phát triển là nguồn vốn tín dụng. Vì vậy Nhà nước cần có chính sách về vốn (tín dụng) cho người chăn nuôi để khuyến khích phát triển ngành chăn nuôi cá tra-basa. 3.2.1.6 Duy trì và gia tăng liên kết 04 nhà : Nhà nông, Nhà doanh nghiệp, Nhà khoa học và Nhà nước. Xác định rõ vai trò, vị trí của từng Nhà. Trong tình hình hiện nay, nước ta đã gia nhập WTO thì việc sản xuất nhỏ lẻ thiếu liên kết là hình thức sản xuất sẽ không tồn tại lâu bền nhất là phải đối mặt với những khắt khe của thị trường trong nước cũng như thị trường xuất khẩu đòi hỏi các hộ nuôi riêng rẽ phải liên kết lại để tạo được môi trường tốt với chất lượng đều hơn đồng thời giảm chi phí sản xuất. Vận động các doanh nghiệp chủ động gắn kết với người nuôi, tăng cường mối liên kết trên từng khâu, từng lĩnh vực nhất là Nhà nông luôn chịu nhiều thiệt thòi khi thị trường cá tra-basa có những biến động theo chiều hướng xấu do các DNCB còn được hưởng nhiều ưu đãi của Nhà nước mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn về xuất khẩu và hội nhập nhưng Nhà nông thì rất ít có cơ hội để được hưởng. Sự phối hợp giữa người nuôi với các doanh nghiệp và Nhà khoa học trong tổ chức sản xuất một cách phù hợp góp phần làm tăng giá trị chất lượng sản phẩm và làm tăng sức mạnh cạnh tranh. 3.2.1.7 Nhanh chóng xác định quy hoạch phát triển nghề nuôi cá tra-basa ở ĐBSCL, không để tình trạng “quy hoạch của Nhà nước chạy theo dân”. Muốn làm được như vậy, trước hết phải xác định cho được sức tải của 02 dòng sông Tiền và sông Hậu. Khi đó việc xây dựng quy hoạch mới chính xác mang lại hiệu quả cao. Quy hoạch nhưng không hạn chế phát triển chăn nuôi cá tra-basa song khi nuôi phải gắn chặt với bảo vệ môi trường, xây dựng hệ thống cấp nước, nước xả trong chăn nuôi cá tra-basa đối với các vùng quy hoạch tập trung có diện tích lớn. Bên cạnh đó, phải xây dựng các vùng nuôi gắn với chế biến theo tiêu chuẩn an toàn chất lượng, các vùng nuôi với nguyên liệu sạch, sinh thái theo tiêu chuẩn quốc tế mà thị trường cần. 3.2.1.8 Tăng cường công tác đào tạo và tập huấn kỹ thuật cho người chăn nuôi cá tra-basa, cán bộ kỹ thuật và cán bộ làm công tác khuyến ngư Xác định rõ quan niệm “Nuôi cá tra-basa bây giờ để làm giàu, để thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước chứ không phải chỉ để xóa đói giảm nghèo”. Nó không phải là một tròi chơi may rủi: được thì phất, không được thì đi ăn mày”, không phải cứ bỏ vốn ra đào ao nuôi cá là sẽ mang lại lợi nhuận cao. Theo đó, người chăn nuôi phải có nhiều kinh nghiệm, có tay nghề, hiểu biết thị trường. Vì vậy phải : - Thường xuyên tổ chức lớp tập huấn để quảng bá đối tượng nuôi, mô hình nuôi, kỹ thuật nuôi (chọn giống, cho ăn, phòng trị bệnh, thu hoạch,..) đến với người chăn nuôi. Từ đó, ngư dân sẽ hiểu được những tiêu chuẩn chất lượng nào mà thị trường đòi hỏi và chọn cho mình hướng chăn nuôi phù hợp với thị trường, tránh tình trạng nuôi tràn lan không có chất lượng. Sau những lớp đào tạo như vậy, những hộ chăn nuôi cá tra-basa sẽ được cấp Giấy chứng nhận chứng minh họ đã có tham gia những lớp tập huấn kiến thức về chăn nuôi cá tra-basa. Nó được xem như một chứng chỉ hành nghề giống như các ngành nghề khác và các DNCB chỉ đồng ý thu mua cá tra-basa nguyên liệu đối với những hộ đã được cấp Giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn hành nghề chăn nuôi cá tra-basa. Nếu hộ chăn nuôi cá tra-basa nào vi phạm những tiêu chuẩn về nuôi cá tra-basa sạch gây ô nhiễm môi trường, nhẹ thì sẽ bị xử phạt hành chính, nặng thì bị tịch thu Giấy phép hành nghề, không được các DNCB tiếp tục thu mua cá nguyên liệu và ngân hàng không xem xét cho vay. - Song song với việc đào tạo người chăn nuôi cá tra-basa thì việc đào tạo đội ngũ cán bộ khuyến ngư cũng không kém phần quan trọng, nên liên kết với các trường đại học đào tạo nhân viên khuyến ngư có trình độ chuyên môn giỏi. Ngư dân chỉ có thể làm tốt công việc của mình khi có đội ngũ cán bộ khuyến ngư nhiều kinh nghiệm, hiểu biết sâu về lĩnh vực chăn nuôi cá tra-basa, về chất lượng, về tiêu chuẩn an toàn vệ sinh, về các yếu tố môi trường,…mà thị trường đòi hỏi. Do đó, phải tăng cường nhân viên khuyến ngư ở các xã, huyện với mục đích hỗ trợ kỹ thuật cho ngư dân, thực hiện chuyển giao công nghệ đến ngư dân nhanh chóng và hiệu quả. 3.2.1.9 Về lâu và về dài nên thành lập “Trung tâm giao dịch cá tra-basa” ở khu vực ĐBSCL trong thời gian tới Đối với cá tra-basa đã có sản xuất hàng hóa lớn nhưng năng lực quản lý chưa tương xứng. Vấn đề đặt ra là phải có cơ chế cho người chăn nuôi đăng ký hành nghề, đăng ký thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường, đảm bảo ATTP, ký kết HĐKT với các DNCB. Phải có định hướng và cơ chế đảm bảo hài hòa lợi ích giữa doanh nghiệp và người chăn nuôi. Việc mua bán cần diễn ra công khai đạt đến hài hòa lợi ích đặc biệt là giúp người chăn nuôi tránh bị ép giá, tổ chức đấu giá công khai hóa và thị trường hóa quá trình định giá mua – bán cá nguyên liệu bằng vệc cho ra đời “sàn đấu giá công khai cho cá tra-basa nguyên liệu ở khu vực ĐBSCL” trong thời gian tới. 3.2.1.10 Nên thành lập quỹ bình ổn giá đối với lĩnh vực chăn nuôi cá tra-basa : Ngành nghề chăn nuôi các tra-basa là một trong những thế mạnh của ĐBSCL, mang lại một nguồn ngoại tệ không nhỏ về cho đất nước, tạo công ăn việc làm không nhỏ cho người lao động. Tuy nhiên ngành nghề này cũng chứa đựng nhiều rủi ro.Vì vậy Chính phủ nên thành lập Quỹ bình ổn giá tạo điều kiện cho nghề này khi gặp khó khăn về giá như hiện nay. 3.2.2 Giải pháp đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 3.2.2.1 Hỗ trợ lãi suất cho vay và các chính sách tín dụng khác đối với các Ngân hàng Thương mại: Khi Ngân hàng Thương mại thực hiện các chủ trương chính sách của Nhà nước về cho vay nhằm giải quyết các khó khăn của các hộ ngư dân ĐBSCL thì NHNN nên kiến nghị Chính phủ xem xét hỗ trợ lãi suất cho vay đối với các NHTM và các chính sách tín dụng khác khi NHTM cho vay theo chỉ định của Chính phủ để các NHTM mạnh dạng cho vay các DNCB và người chăn nuôi với lãi suất ưu đãi tạo điều kiện cho ngành nghề này giảm bớt các khó khăn để tiếp tục phát triển. 3.2.2.2 Xem xét về tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro khi cho vay ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa mà ngành nghề này đang gặp khó khăn Theo quy định của ngân hàng thì việc gia hạn nợ, giãn nợ,…phải được trích lập dự phòng rủi ro. Nếu người vay gặp khó khăn phải gia hạn nợ theo chỉ định của NHNN như hiện nay thì việc trích lập dự phòng rủi ro sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh tại các Ngân hàng cho vay. Vì vậy, NHNN nên xem xét về tỷ lệ trích dự phòng rủi ro đối với lĩnh vực này để ngân hàng yên yên tâm và tích cực hơn trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của NHNN. 3.2.3 Giải pháp đối với Chi nhánh Ngân hàng Công thương Việt Nam Trong các giải pháp đối với Chính phủ về lĩnh vực chăn nuôi cá tra-basa có một giải pháp không kém phần quan trọng là Giải pháp về vốn (tín dụng) cho ngành chăn nuôi cá tra-basa. Tuy nhiên, lĩnh vực chăn nuôi cá tra-basa là một lĩnh vực có nhiều rủi ro. Vì vậy, tìm ra những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong tài trợ vốn tín dụng cho chăn nuôi cá tra-basa là cần thiết để việc tài trợ vốn tín dụng đạt hiệu quả cao và giúp cho người chăn nuôi tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng dễ dàng hơn. Sau đây là một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng trong cho vay chăn nuôi cá tra-basa : 3.2.3.1 Cần sớm ban hành quy trình cho vay chăn nuôi cá tra-basa Chăn nuôi cá tra-basa là một loại hình chăn nuôi đặc biệt thuộc ngành Thủy sản của Việt Nam. Cũng giống như con Tôm, ngày nay sản lượng và kim ngạch xuất khẩu cá tra-basa ngày càng tăng, thị trường xuất khẩu ngày càng mở rộng và ngày càng trở thành một mặt hàng xuất khẩu chủ lực của cả nước. Vì vậy, vốn cần cho chăn nuôi là rất cần thiết, đặc biệt là vốn tín dụng của các NHTM vì không một cá nhân nào có VTC đáp ứng đủ cho suốt một chu kỳ nuôi cá tra-basa, nhất là trong những thời điểm thị trường cá tra-basa không ổn định. Do đó, NHCT Việt Nam cần phải nghiên cứu để sớm ban hành Quy trình cho vay ngành Thủy sản nói chung và cho vay chăn nuôi cá tra-basa nói riêng để đáp ứng yêu cầu hiện nay. 3.2.3.2 Cần có ưu đãi tín dụng cho người chăn nuôi nhằm khuyến khích phát triển chăn nuôi cá tra-basa “Người chăn nuôi” được xem là cái gốc, là “nền” để sản xuất phát triển bền vững nhưng chưa được quan tâm thỏa đáng. Họ là những người trực tiếp chăn nuôi, bỏ vốn đầu tư và theo sát quá trình chăn nuôi, quyết định đến chất lượng và năng suất cá nguyên liệu đầu vào. Nhưng họ rất yếu về lực nên chịu rất nhiều thiệt thòi. Do đó cần có biện pháp hỗ trợ nông dân trong chi phí chăn nuôi (vốn). Như đã nói ở trên nhu cầu vốn cho phát triển chăn nuôi cá tra-basa là rất lớn, khả năng đáp ứng của người chăn nuôi là có hạn mà chủ yếu là nguồn vốn tín dụng. Bên cạnh đó, các DNCB còn được hưởng nhiều ưu đãi của Nhà nước mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn về xuất khẩu và hội nhập nhưng người chăn nuôi thì rất ít có cơ hội để được hưởng. Vì vậy, song song với việc ban hành quy trình cho vay chăn nuôi cá tra-basa còn phải ưu đãi tín dụng cho người chăn nuôi như : ưu đãi về lãi suất, được gia hạn thời hạn trả nợ nếu thị trường có biến động bất lợi người chăn nuôi chưa bán được cá,...để cả doanh nghiệp và người chăn nuôi đều có lợi, ngược lại thì doanh nghiệp chỉ thiệt một còn người chăn nuôi thiệt tới mười. 3.2.3.3 Xây dựng quy chế phối hợp giữa các Công ty bảo hiểm, Hợp tác xã hoặc Hiệp hội với ngân hàng Xây dựng quy chế phối hợp giữa các Công ty bảo hiểm, Hợp tác xã hoặc Hiệp hội với ngân hàng để bảo hiểm cho con cá tra-basa cho các hội viên của mình sẽ giảm thấp những rủi ro có thể xảy ra khi có những biến động theo hướng bất lợi cho người chăn nuôi. Khi đó, ngân hàng sẽ yên tâm hơn khi cho người chăn nuôi vay vốn. 3.2.4 Giải pháp đối với Chi nhánh Ngân hàng Công thương chi nhánh An Giang 3.2.4.1 Liên kết với các trường Đại học hoặc Hội nghề cá để có những lớp tập huấn, đào tạo chuyên sâu cho cán cán bộ tín dụng phụ trách cho vay chăn nuôi cá tra-basa những vấn đề liên quan đến cá tra-basa. Cho vay chăn nuôi cá tra-basa phát triển mạnh ở ĐBSCL nói chung và ở An Giang nói riêng cho nên việc nắm bắt kiến thức về ngành nghề này là rất cần thiết nhất là đối với những cán bộ tín dụng trực tiếp thẩm định và cho vay. Qua đó, CBTD nắm bắt được xu hướng phát triển, giá cả thu mua nguyên liệu, chi phí con giống, chi phí thức ăn, quy trình nuôi, thời gian từ khi nuôi cá cho đến khi bán cá,… Khi đó, cán bộ tín dụng sẽ biết được nhu cầu vốn hợp lý cho một chu kỳ nuôi là bao nhiêu, thời gian cho vay là bao lâu, thời điểm người chăn nuôi nên bán cá, áp dụng kỹ thuật nuôi cá như thế nào để vừa có lợi vừa hạn chế được ô nhiễm môi trường,…Từ đó, CBTD sẽ tư vấn cho những người chăn nuôi có nhu cầu vay vốn được tốt hơn, hạn chế thấp nhất những rủi ro do phát sinh những chi phí bất hợp lý trong nhu cầu vốn vay ngân hàng hoặc khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích. 3.2.4.2 Chỉ cho vay đối với người chăn nuôi cá tra-basa nào có Giấy chứng nhận đã qua những lới tập huấn, đào tạo những kiến thức về con cá tra-basa và Giấy phép NTTS. 3.2.4.3 Liên kết với các Hiệp hội hoặc HTX chăn nuôi cá tra-basa sạch cung cấp vốn tín dụng cho những hội viên chăn nuôi cá tra-basa mỗi năm và chỉ cho vay đối với những hộ chăn nuôi nào đã vào Hội, Hiệp hội hoặc HTX. Việc liên kết với các Hội, Hiệp hội hoặc HTX cung cấp vốn tín dụng cho những hội viên chăn nuôi cá tra-basa mỗi năm tạo điều kiện cho các hộ tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng, đảm bảo đủ nguồn vốn để phát triển và mở rộng chăn nuôi. Khi đó, những vấn đề có liên quan đến chính sách đầu tư tín dụng trong quá trình cho vay cũng như trong quá trình thu hồi nợ của ngân hàng đều được các Hội, Hiệp hội hoặc HTX hỗ trợ. Từ đó, giảm thấp tỷ lệ rủi ro không thu hồi được nợ trong công tác cho vay. Đồng thời, qua mỗi vụ, Ban Giám đốc của NHCT Chi nhánh An Giang cùng Lãnh đạo của các Hội, Hiệp hội hoặc HTX sẽ ngồi lại tổng kết hiệu quả vay vốn tín dụng của các hộ chăn nuôi, kiểm điểm và rút ra kinh nghiệm cho việc tổ chức quản lý nguồn vốn cho vay. Như vậy, sẽ hạn chế phát sinh NQH tới mức thấp nhất, nếu có phát sinh NQH thì sẽ kịp thời tháo gỡ và có giải pháp thu hồi NQH tốt hơn. 3.2.4.4 Ngân hàng nên khuyến khích các Hội, Hiệp hội hoặc Hợp tác xã thành lập một quỹ để bảo lãnh các ngư dân vay vốn Ngân hàng (ngoài tài sản thế chấp là ao nuôi cá và TSĐB khác) để giảm thấp các rủi ro cho Ngân hàng. Việc chuyển đổi từ đất ruộng (đất 2L) thành đất mặt nước NTTS (đất NTTS) đang diễn ra từng ngày là do ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa đang phát triển mạnh ở khu vực ĐBSCL nên tốc độ đào ao nuôi cá cũng phát triển rầm rộ theo. Chính việc phát triển rầm rộ này đã làm cho giá đất (giá thị trường) tăng lên khá cao vượt xa giá khung của UBND quy định nhất là ở những khu vực có lợi thế về chăn nuôi cá tra-basa (dọc các tuyến sông lớn trên sông Tiền, sông Hậu …). Đây là một sự tăng giá ảo làm cho giá đất ở những khu vực này không còn đúng với bản chất của nó mà hầu hết những người chăn nuôi cá tra-basa khi đi vay thì TSTC chủ yếu của họ là những miếng đất mà họ đang đào ao nuôi cá. Từ đó, làm cho việc định giá TSTC của ngân hàng trở nên khó khăn hơn vì nếu định giá TSTC theo giá thị trường tại khu vực đó thì khi ngư dân bị rủi ro không trả được nợ cho ngân hàng thì TSTC sẽ rất khó phát mãi (do người mua không biết sử dụng ao cá để làm gì ngoài việc chăn nuôi cá). Vì vậy, ngoài TSTC của người đi vay nên có thêm sự bảo lãnh của Hội, Hiệp hội hoặc HTX mà người đi vay là thành viên làm cơ sở để ngân hàng cho người chăn nuôi được vay vốn. 3.2.4.5 Xem xét cho vay theo hạn mức tín dụng để người dân khi thu hoạch cá mang tiền trả nợ Ngân hàng, khi nuôi cá vay tiền trả tiền thức ăn. Đối với những hộ ngư dân có nhiều ao nuôi cá mà thời gian thả cá cho những ao nuôi khác nhau, khi thu hoạch cá cũng khác nhau, nếu mỗi ao nuôi làm một hợp đồng vay thì rất bất tiện cho khách hàng. Vì vậy NHCT Chi nhánh An Giang nên xem xét cho vay theo hạn mức tín dụng để người dân khi thu hoạch cá mang tiền trả nợ Ngân hàng, khi nuôi cá nhận tiền vay để trả tiền thức ăn. Theo quy định của Ngân hàng thì thời hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa thường là 06 đến 09 tháng trên một chu kỳ nuôi. Tuy nhiên, sau mỗi chu kỳ nuôi, người chăn nuôi thường chưa thu được tiền bán cá nguyên liệu ngay được vì còn phụ thuộc rất nhiều vào phía người thu mua. Thông thường, sau khi bán cá 01 – 03 tháng thì người chăn nuôi mới nhận được tiền bán cá hoặc tiền bán cá sẽ được thanh toán làm nhiều lần trong vòng 01 – 03 tháng. Vì vậy, đối với những nông dân có nhiều ao nuôi cá khác nhau thì nên cho vay theo hạn mức tín dụng, vừa thuận tiện cho người chăn nuôi, vừa thuận tiện cho ngân hàng trong việc thu nợ. 3.2.4.6 Ngân hàng xem xét cho vay khép kín giữa nhà máy chế biến thức ăn – người chăn nuôi – nhà máy chiến biến cá xuất khẩu sẽ giảm thấp các rủi ro tín dụng và ngân hàng dễ dàng trong quản lý đồng vốn cho vay. - Ngân hàng cho ngư dân vay vốn để trả tiền mua thức ăn chăn nuôi cá của các Nhà máy chế biến thức ăn bằng hình thức chuyển khoản qua NHCT Chi nhánh An Giang . - Khi thu hoạch cá Ngân hàng lại cho Nhà máy chế biến xuất khẩu vay vốn thu mua cá tra-basa nguyên liệu bằng cách chuyển khoản trả cho ngư dân thông qua tài khoản tiền gởi tại NHCT Chi nhánh An Giang, NHCT Chi nhánh An Giang sẽ trích tài khoản tiền gởi của NMCB thu nợ của ngư dân đã vay tiền mua thức ăn cho chăn nuôi. Nhà máy chế biến khi vay tiền phải cam kết thanh toán L/C qua NHCT Chi nhánh An Giang. Khi tiền về Ngân hàng sẽ dễ dàng thu nợ. - Bên cạnh đó, người chăn nuôi phải cam kết khi bán cá phải thông báo cho ngân hàng biết để thu hồi nợ và phải bán cá cho những NMCB đã ký trong hợp đồng bao tiêu dù cho giá cá có biến động như thế nào. Nếu giải quyết được vấn đề này thì Ngân hàng sẽ tiếp tục cho ngư dân vay thêm tiền khi chưa bán được cá mà không gặp phải rủi ro trong quản lý vốn vay của khách hàng. 3.2.4.7 Tăng cường việc kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay sau khi cho vay. Kiểm tra sau là một trong các bước trong quá trình quản lý khoản vay và là một bước quan trọng nhằm kiểm tra việc sử dụng vốn vay của người đi vay có đúng với mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng hay không. Hiện nay, việc kiểm tra này chưa được cán bộ tín dụng thực hiện một cách triệt để mà chỉ kiểm tra cho có hình thức nhằm hợp thức hóa hồ sơ tín dụng. Đặc biệt, đối với ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa – ngành nghề chứa nhiều rủi ro – thì việc kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay càng không thể thiếu vì qua số liệu phân tích ở trên cho thấy phát sinh NQH phần lớn do người vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích, hoặc khi ngư dân bán cá, ngân hàng không biết để thu hồi nợ mà ngư dân lại tiếp tục sử dụng đồng vốn đó tiếp tục nuôi cá hoặc sử dụng vào việc khác từ đó ngân hàng không kiểm soát được sẽ dễ dẫn đến rủi ro tín dụng. Như vậy, qua những lần kiểm tra, cán bộ tín dụng sẽ biết được người vay sử dụng vốn vay có đúng mục đích hay không (chi phí cho thức ăn, con giống, thuốc,…), nếu có những dấu hiệu nào cho thấy người vay sử dụng vốn vay sai mục đích thì cán bộ tín dụng sẽ kịp thời có biện pháp xử lý (nhắc nhở người đi vay nếu sai phạm lần đầu hoặc thu hồi vốn vay trước hạn nếu người đi vay vẫn tiếp tục sai phạm) . Từ đó, việc quản lý món vay sẽ hiệu quả hơn, hạn chế được rủi ro. Kết luận chương III : Trên đây là những giải pháp nhằm khắc phục những nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang. Việc tìm ra những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn mà ngành nghề cá tra-basa đang từng bước trở thành một ngành nghề kinh tế mũi nhọn của ĐBSCL nói riêng và của cả nước nói chung để từ đó việc tài trợ vốn tín dụng cho ngành nghề này đạt hiệu quả cao hơn giúp cho ngành nghề chăn nuôi cá tra basa ngày càng phát triển và phát triển bền vững, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước. Mỗi giải pháp có một tác dụng riêng. Vì vậy, để các giải pháp này phát huy hiệu quả thì phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các giải pháp trên, giữa Chính Phủ - Ngân hàng - Doanh nghiệp và người chăn nuôi.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docND luan van co chinh sua3.doc
Tài liệu liên quan