Đối với Việt Nam và cũng như hầu hết các nước đang phát triển trên thế giới vấn đề ” Thu hút và khai thác hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài” đang là một trong những mục tiêu hàng đầu cho phát triển kinh tế trước xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới hiện nay.
Trong thời gian qua được sự ưu đãi đặc biệt, khu vực đầu tư nước ngoài đã đạt được những thành tựu đáng kể: Tổng giá trị sản phẩm, dịch vụ được sản xuất ra và số thu từ thuế của khu vực nàyđã đóng góp một phần quan trọng trong công cuộc đổi mới của nền kinh tế nước ta, đưa chúng ta tiến nhanh hơn trên con đường CNH-HĐH đất nước.
Tuy nhiên với việc ngày càng tăng lên khối lượng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ kéo theo các hoạt động kinh tế hết sức mới mẻ, đa dạng, phong phú và cũng hết sức phức tạp đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ và định hướng đúng đắn của Nhà nước để khu vực này phát huy tối đa vai trò của mình đối với phát triển nền kinh tế đất nướctrong giai đoạn mới.
Một trong những công cụ hữu hiệu được Nhà nước sử dụng có hiệu quả để khai thác tăng thu cho ngân sách Nhà nước, đồng thời thu hút định hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ những mục tiêu chiến lược trong thời gian qua đó là chính sách thuế áp dụng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Hải Phòng là một trong những trung tâm kinh tế của cả nước, là nơi có mật độ đầu tư trực tiếp nước ngoài tương đối cao trong cả nước, đối tượng nộp thuế của khu vực này tương đối lớn, do đó Hải Phòng trở thành một địa bàn quan trọng trong công tác quản lý thu thuế các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hơn nữa trong những năm qua số thu từ thuế trên thực tế và tiềm năng thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Hải Phòng là tương đối cao, chiếm tỷ trọng đáng kể trong tồng số thu ngân sách của thành phố, thực trạng quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp này còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc thì việc đẩy mạnh và hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phù hợp với điều kiện mới là một điều tất yếu và cấp thiết.
Xuất phát từ những thực trang, yêu cầu đặt ra đối với công tác quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho thấy việc chọn đề tài “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Hải Phòng” của em là có ý nghĩa thiết thực về cả lý luận và thực tiễn.
Với mục đích nghiên cứu để hiểu rõ hơn về công tác quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nâng cao kiến thức đã học, đưa ra một số những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, em rất mong nhận được những ý kiến góp ý quý báu của thầy cô.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy cô!
86 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1324 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i việc thực hiện công việc của từng phòng ban. Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài mô hình này không chỉ tạo sự an toàn cho NS mà còn nâng cao môi trường đầu tư thông qua việc cho phép các công ty đa quốc gia tiếp xúc với đội ngũ cán bộ trực tiếp quản lý thuế để giải quyết thắc mắc về thuế phát sinh từ những kế hoạch đầu tư mới và tìm kiếm sự giải thích cho những hoạt động quản lý mà ngành thuế thực hiện.
Tuy nhiên hiện nay hiện nay quy trình tách 3 bộ phận chưa được thực hiện triệt để và còn bộc lộ nhiều nhược điểm.
- Vẫn tạo nên mối quan hệ thường xuyên, trực tiếp (1 - 1) giữa cán bộ quản lý và ĐTNT từ đó dễ dẫn đến tình trạng tiêu cực.
- Về nguyên tắc, việc kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp sẽ do phòng thanh tra và phòng quản lý thu kết hợp chặt chẽ với nhau để kiểm tra ĐTNT nhưng trên thực tế việc kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do phòng đầu tư thực hiện. Do đó phòng đầu tư vừa quản lý đôn đốc thu nộp, vừa thanh tra kiểm tra (kiểm tra, hoàn thuế, kiểm tra quyết toán thuế, tham gia đoàn thanh tra ĐTNT) phòng thanh tra chỉ thanh tra, kiểm tra 10% số ĐTNT hàng năm, vừa hướng dẫn, giải thích chính sách chế độ về thuế. Lý do của việc này là để tận dụng sự thông thạo về quản lý cũng như trình độ ngoại ngữ tạo không khí bớt căng thẳng, thể hiện sự ưu đãi của Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng thực tế, đây là một khối lượng công việc rất lớn và hiệu quả của công tác quản lý thu thuế phụ thuộc phần lớn vào năng lực của đội ngũ cán bộ thuế trực tiếp quản lý.
Vì vậy, cần tách ra theo từng chức năng riêng biệt, nâng cao chuyên môn hoá từng chức năng để nâng cao chất lượng quản lý.
- Trong những năm qua, mặc dù tăng thu cho ngân sách hàng tỷ đồng qua công tác truy thu thuế và việc sử phạt vi phạm của doanh nghiệp . Song công tác thanh tra, kiển tra còn gặp nhiều khó khăn trong việc ra quyết định sử phạt hành chính. Nhiều doanh nghiệp đã có quyết định xử phạtnhưng lại không chịu nộp phạt, số tiền phạt cứ ngày càng tăng theo thời gian nhưng phòng đầu tư vẫn không có biện pháp cưỡng chế mạnh mẽ. Điều này ảnh hưởng đến ý thức tự giác của doanh nghiệp, tạo sự trây ì, coi thường luật pháp.
Ví dụ: Năm1999,công ty bia Hà Tây do chậm nộp thuế GTGT đã bị phòng đầu tư ra quyết định xử phat số tiền bằng1/1000x ngày số thuế chậm nộp là 131.144 ngìn đồng cho đến nay số phạt này vẫn chưa được nộp vào ngân sách. Tương tự là trạm kinh doanh AJNOMOTO, chi nhánh Cocacola.
- Về phía các doanh nghiệp: dịch vụ hỗ trợ ĐTNT là rất quan trọng, công việc này giúp cho các doanh nghiệp hiểu rõ các chính sách thuế, các nghiệp vụ tính thuế và kê khai nộp thuế, giúp doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Tại Cục thế Hải Phòng cũng như các cơ quan thuế khác vẫn chưa có tổ chức chuyên trách công việc này, mà chủ yếu do phòng quản lý thu đảm nhiệm. Vì vậy, chưa đáp ứng kịp thời việc giải thích và trả lời vướng mắc cho nhân dân về chính sách, chế độ thuế đ làm giảm hiệu quả của quy trình tự kê khai, tự tính thuế và nộp Ngân sách của các doanh nghiệp.
1.2.2 Hạn chế về chính sách thuế
Từ khi thực hiện hai luật thuế mới (1999) đến nay đã thu được nhiều kết quả khả quan, kèm theo làchính sách ưu đãi về thuế đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần thúc đẩy, mở rộng và cải thiện môi trường đầu tư…Tuy nhiên các chính sách thuế còn bộc lộ nhiều hạn chế:
a/ Thuế GTGT
1,Về đối tượng chịu thuế.
Thuế GTGT là loại thuế gián thu do người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ chịu, vì vậy về nguyên tắc tất cả hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng đều phải chịu thuế GTGT không phân biệt hàng hoá trong nước hay nhập khẩu. Tuy nhiên căn cứ vào chính sách xã hội và cách xác định thuế các nước áp dụng thuế GTGT đều có quy định không thu hoặc miễn thuế đối với một số hàng hoá, dịch vụ. Danh mục hàng hóa, dịch vụ cụ thể từng nước quy định khác nhau nhưng đều áp dụng nguyên tắc hạn chế tối đa diện không chịu thuế. Đối tượng không chịu thuế bao gồm hàng hoá khâu sản xuất nông nghiệp; một số dịch vụ công cộng, dịch vụ thiết yếu đến đời sống của nhân dân; vũ khí, khí tài cho quốc phòng, an ninh; một số dịch vụ tài chính ngân hàng, bảo hiểm.
Theo quy định tại Điều 4 Luật thuế GTGT thì đối tượng không chịu thuế GTGT bao gồm 26 nhóm, hàng hoá dich vụ, bao gồm cả: hàng hoá, dịch vụ ở khâu chịu thuế TTĐB (sản xuất và nhập khẩu); hầu hết các dịch vụ cung cấp và tiêu dùng ở nước ngoài.
Đối tượng không chịu thuế theo quy định hiện hành quá rộng, và chưa phù hợp với quá trình luân chuyển hàng hoá, dịch vụ giữa các khâu. Ví dụ: mặt hàng chịu thuế TTĐB chưa áp dụng thuế GTGT ở khâu chịu thuế TTĐB nên các mặt hàng này khi chuyển sang khâu kinh doanh sau không có thuế GTGT đầu vào để tính khấu trừ và đã áp dụng cho khấu trừ ấn định theo tỷ lệ 3% trên giá mua và giảm mức thuế từ 10% xuống 5%. Một số hàng hoá, dịch vụ chưa áp dụng thuế GTGT cũng chưa thật khuyến khích xuất khẩu.
Về tên gọi các loại hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng “không chịu thuế GTGT” làm cho nhiều người nhận thức chưa đúng về hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT cả đầu ra lẫn thuế đầu vào; chưa phân biệt rõ với trường hợp hàng hoá dịch vụ không phải tính thuế GTGT đầu ra, miễn thuế GTGT.
2,Về thuế suất
Thuế suất thuế GTGT là căn cứ tính thuế thể hiện mức điều tiết tiêu dùng và động viên thông qua thuế của nhà nước. Theo quy định của Điều 8 Luật thuế GTGT thuế suất áp dụng cho hàng hoá xuất khẩu có 4 mức thuế suất (0%, 5%, 10%, 20%), trong đó nhóm thuế suất phổ thông là 10%. Đại bộ phận hàng hoá, dịch vụ thuộc nhóm thuế suất 10%.
Do tác động của cuộc khủng hoàng kinh tế tài chính khu vực, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp khó khăn, hiệu quả thấp; để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, đảm bảo Luật thuế phù hợp với tình hình thực tế, thời gian vừa qua Chính phủ đã trình Uỷ ban thường vụ Quộc hội sửa đổi, bổ xung các nhóm thuế suất như sau:
-Bổ sung điều chỉnh 27 nhóm hàng hoá, dịch vụ từ nhóm thuế suất 10% sang nhóm thuế suất 5% (chủ yếu là tư liệu sản xuất), nhóm thuế suất 5% từ 13 nhóm ban đầu lên 40 nhóm.
-Bổ sung điều chỉnh kinh doanh dịch vụ khách sạn, du lịch, ăn uống từ nhóm thuế suất 20% sang nhóm thuế suất 10%. Như vậy nhóm thuế suất 20% chỉ còn lại một số ít dịch vụ như: xổ số kiến thiết; đại lý hàng hải, dịch vụ môi giới; kinh doanh vàng bạc, đá quý ( tính trực tiếp trên giá trị gia tăng).
-Việc mở rộng đối tượng hàng hoá, dịch vụ nhóm thuế suất 5% như trên dẫn đến rất phức tạp trong quá trình thực hiện do tiêu thức, căn cứ phân loại giữa các hàng hoá, dịch vụ thuộc các nhóm thuế suất 5% và 10% không rõ ràng nên thực hiện không thống nhất (ví dụ: phân loại nhóm cơ khí là tư liệu sản suất và tư liệu tiêu dùngdùng rất khó khăn). Đặc biệt là thu thuế GTGT đối với hàng hoá ở khâu nhập khẩu gặp khó khăn, phức tạp do việc phân loại nhóm mặt hàng theo biểu thuế suất thuế GTGT và danh mục hàng hoá nhập khẩu theo thông lệ quốc tế, không thống nhất.
áp dụng 4 mức thuế suất hiện hành, đặc biệt là đã mở rộng đối tượng hàng hoá dịch vụ áp dụng thuế suất 5% không đảm bảo mục tiêu của cải cách chính sách thuế bước 2 như: công bằng giữa các doanh nghiệp, đơn giản, đảm bảo nguồn thu cho NSNN, tạo xu hướng xin điều chỉnh thuế suất cá biệt để lợi cho từng doanh nghiệp, dẫn đến không công bằng giữa các doanh nghiệp. Việc xác định thuế đầu ra, thuế đầu vào được khấu trừ phức tạp đối với doanh nghiệp và cơ quan thuế. Trong điều kiện cắt giảm thuế nhập khẩu khi tham gia hội nhập, việc áp dụng mở rộng mức thuế suất 5% sẽ không đảm bảo mức độ động viên thu NSNN.
3,Về phương thức tính thuế phải nộp:
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do chế độ sổ sách kế toán, chứng từ hoá đơn đảm bảo đủ tiêu chuẩn nên phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế. Song phương pháp này vẫn còn không ít hạn chế.
Theo phương pháp khấu trừ thuế:
Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra – Thuế GTGT đầu vào
Thuế GTGT đầu ra, thuế GTGT đầu vào để tính thuế phải nộp được xác định theo hoá đơn GTGT. Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phưong pháp khấu trừ thuế khi bán hàng hoá, dịch vụ phải sử dụng hoá đơn GTGT, trong đó ghi rõ giá bán không có thuế và thuế GTGT, giá thanh toán có thuế GTGT để làm căn cứ kê khai khấu trừ, tính thuế phải nộp.Tuy nhiên trên thực tế nuớc ta, hiện tượng các doanh nghiệp cấu kết, thoả thuận với nhau trong việc ghi tăng hoặc giảm giá tính thuế GTGT đầu vào để thực hiện “chuyển giá” giữa các doanh nghiệp nhằm tránh thuế còn khá phổ biến, gây thất thu nghiêm trọng cho NSNN.
4, Về vấn đề hoàn thuế GTGT
Hoàn thuế GTGT là thực hiện hoàn lại cho các doanh nghiệp số thuế GTGT đã nộp khâu trước, khi xác định thuế phải nộp phát sinh thuế đầu vào lớn hơn thuế đầu ra. Các trưòng hợp hoàn thuế thường xảy ra đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu hoặc có đầu tư lớn.
Hoàn thuế GTGT có ý nghĩa quan trọng trong chính sách thuế GTGT nhưng do thời gian qua đã mở rộng việc khấu trừ theo tỷ lệ phần trăm, việc sử dụng hoá đơn chứng từ chưa tốt, tình trạng mua bán, thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến tạo nhiều kẽ hở bị lợi dụng kê khai, lập hồ sơ hoàn thuế khống, rút tiền của NSNN. Nhưng về quy định đối tượng, điều kiện được hoàn thuế cũng như thời gian hoàn thuế chưa phù hợp: quy định thời hạn hoàn thuế ngắn 15 ngày, trường hợp phải kiểm tra trước khi hoàn thuế thời hạn xử lý tối đa là 30 ngày, cơ quan thuế không có đủ thời gian để kiểm tra, thẩm định hồ sơ hoàn thuế cũng dẫn tới không phát hiện được những sai phạm, lợi dụng khai man của doanh nghiệp.
5, Về kê khai nộp thuế GTGT.
Theo quy định tại điều 13, điều 14 Luật thuế GTGT thì doanh nghiệp tự kê khai số thuế GTGT phảit nộp theo mẫu kê khai quy định gửi đến cơ quan thuế, cơ quan thuế ra thông báo nộp thuế cho doanh nghiệp trên cơ sở tờ khai thuế của doanh nghiệp, doanh nghiệp thực hiện nộp thuế theo thông báo thuế của cơ quan thuế. Thực hiện quy định trên dẫn đến cơ quan thuế phải thực hiện thêm thủ tục hành chính là ra thông báo thuế. Thời gian phải lập, gửi thông báo thuế rất ngắn chỉ từ 5 đến 10 ngày kể từ khi nhận được tờ khai thuế của doanh nghiệp trong lúc số lượng thông báo phải phát hành là rất lớn; Tình hình này dẫn tới thông báo còn nặng về thủ tục hình thức, gây cho doanh nghiệp tư tưởng ỷ lại chờ thông báo để nộp thuế.
b/ Thuế TNDN
- Thuế TNDN hiện nay quy định một mức thuế suất là 32%, nhưng chỉ áp dụng đối với kinh doanh trong nước. Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài vẫn hưởng thuế suất ưu đãi 25% và phải nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Qua đây đã có quan điểm cho rằng đã có sự không công bằng trong chính sách của Nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp trên. Có thể hiểu đây là một hình thức ưu dãi của nhà nước đối với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, tuy nhiên thuế chuyển lợi nhuận nước ngoài đã thu lại một phần thu nhập sau thuế (phân tích ở phần kiến nghị sau), sắc thuế này chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chứ không áp dụng cho các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên điều này cũng đã tạo ra tâm lý không tin tưởng vào chính sách thuế.
- Chi phí để xác định thu nhập chịu thuế chưa quy định cụ thể và còn nhiều bất cập nên dẫn đến việc quyết toán thuế còn tuỳ tiện.
- Thuế TNDN phục vụ quá nhiều các chính sách xã hội làm mất tính trung lập của thuế. Thời gian qua, một số chính sách xã hội được đưa vào chính sách miễn giảm thuế đã nào làm phức tạp hệ thống thuế. Ví dụ chính sách miễn giảm thuế TNDN đã đề cập giảm và miễn thuế TNDN cho doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ. Quy định ưu đãi thuế cho Việt kiều khi đầu tư vào Việt Nam đã vi phạm quy định về không phân biệt đối xử trong hiệp đinh tránh đánh thuế hai lần. Việc tiếp tục mở rộng và kéo dài thời hạn ưu đãi về thuế đối với đầu tư nước ngoài là không phù hợp với việc các nước không chấp nhận kéo dài thời hạn áp dụng biện pháp trừ khoán thuế trong hiệp đinh tránh đánh thuế hai lần đã kí với Việt Nam cũng như các nước đang và sẽ đàm phán với Việt Nam. Điều này gây thiệt hại cho Ngân sách của ta mà không thực sự là biện pháp khuyến khích, thu hút đầu tư nước ngoài hiệu quả.
c/ Thuế TNCN
- Thu nhập chịu thuế:
Sự phân biệt thu nhập thường xuyên và không thường xuyên đã dẫn đến không ít khó khăn cho công tác quản lý thuế. Thu nhập thường xuyên được tạm nộp hàng tháng, cuối năm tổng hợp quyết toán cho 12 tháng. Như vậy một cá nhân có tháng có thu nhập chịu thuế, có tháng thu nhập không chịu thuế, cuối năm tổng hợp tính thu nhập bình quân tháng dưới 3 triệu đồng (8 triệu đồng đối với người nước ngoài) thì không phải nộp thuế. Số thuế đã được khấu trừ trong năm cá nhân sẽ được hoàn lại. Nói cách khác, cá nhân có thu nhập trên 36 triệu/ năm (96 triệu/năm đối với người nước ngoài) thì phảichịu thuế. Thu nhập không thường xuyên thực hiện thu theo thuế suất khác với thu nhập thường xuyên và phải nộp sau khi chi trả thu nhập, cuối năm không quyết toán. Chính vì vậy, bất hợp lý xảy ra là có khoản thu nhập của cá nhân xét về thời điểm nhận thu nhập là nhận 1 lần, nhưng khoản thu nhập đó có được là của nhiều thời gian trước.
Một vấn đề khác là do có quy định tính thuế trên từng lần phát sinh thu nhập và giới hạn dưới 1 mức thì không chịu thuế nên thực tế các cá nhân tránh thuế bằng cách chia nhỏ khoản thu nhập phải chịu thuế.
1.2.3. Một số hạn chế khác
*/ Về vấn đề hoá đơn
Việc thực hiện các luật thuế mới đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường hạch toán kinh tế và thực hiện chế độ sổ sách kế toán chặt chẽ, vi vậy nhu cầu sử dụng hoá đơn tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên, do thực trạng việc thanh toán mua bán hàng hoá không được thực hiện đồng bộ, cá nhân tổ chức trong nước chưa có thói quen thanh toán qua ngân hàng đã tạo những lỗ hổng để đối tượng nộp thuế dựa vào đó để ẩn lậu thuế như ghi hoá đơn và hạch toán không đúng thực tế.
Trong năm qua, riêng đối với khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Cục thuế Hải Phòng đã bán ra 6.985 quyển hoá đơn. Với số lượng ấn chỉ phát hành lớn như vậy, thì việc kiểm tra là rất khó khăn.
*/ Cán bộ quản lý thuế còn thiếu và cần thiết phải được nâng cao trình độ hơn nữa
- Số lượng cán bộ còn thiếu: Phòng quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài- Cục thuế Hải Phòng có 8 cán bộ trong đó có một trưởng phòng, hai phó phòng và hai cán bộ thuộc bộ phận tổng hợp. Do đó, đảm nhận việc quản lý trực tiếp gần 150 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả khối ngân hàng) chỉ có 5 cán bộ. Bình quân mỗi cán bộ phụ trách khoảng 30 doanh nghiệp từ đôn đóc nộp tờ khai, xử lý thông tin, quản lý tình hình thu nộp ngân sách, tư vấn giải thích chính sách thuế, vừa tham gia thanh tra, kiểm tra quyết toán thuế tại doanh nghiệp. Đây quả là khối lượng công việc quá lớn, để bao quát được hết là rất khó khăn, vì vậy cán bộ thuế không thể tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm trong công tác quản lý gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Mặt khác, Cũng do khối lượng công việc quá lớn nên để đảm bảo tiến độ làm việc đôi khi trong công tác thanh tra kiểm tra cán bộ thuế phải áp dụng kiểm tra thí điểm, Ví dụ: Đầu năm 2003 tiến hành thanh tra kiểm tra quyết toán thuế tại 1 doanh nghiệp, thực hiện kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh trong 5 năm (từ năm 1998 đến 2002). Do số cán bộ của đoàn kiểm tra quá ít so với khối lượng công việc, không thể kiểm tra hết số hoá đơn thuế GTGT đầu vào 5 năm của doanh nghiệp trong thời hạn kiểm tra 5 ngày (theo quy định) nên cán bộ thuế buộc phải kiểm tra chứng từ của 1 năm rồi đưa ra nhận xét chung. Điều này chưa đảm bảo tính khách quan, chính xác và hợp lý.
-Về trình độ cán bộ quản lý thuế: 100% cán bộ phòng đầu tư nước ngoài có trình độ đại học chuyên nghành thuế, trong đó có 3 cán bộ có trình độ cao học, 100% đã học qua lớp quản lý nhà nước, có trình độ ngoại ngữ và tin học. Cục thuế Hải Phòng cũng thường xuyên mở những đợt tập huấn về công tác quản lý, về những chính sách mới phức tạp, tuy nhiên công tác này vẫn chưa được tổ chức một cách đồng bộ. Đặc điểm của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là thường áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, trình độ năng lực của nhân viên quản lý, kế toán,…cao, việc thực hiện chế độ kế toán, chế độ sổ sách chứng từ…. là tương đối tốt. Tuy nhiên cũng do trình độ cao của đội ngũ quản lý, kế toán, việc các doanh nghiệp “ lách luật” thường xảy ra ở mức độ tinh vi gây rất nhiều khó khăn cho công tác quản lý của cán bộ thuế, vì vậy vấn đề nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ thuế là điều tất yếu để đảm bảo thu đung, thu đủ cho ngân sách nhà nước.
Chương III
Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
I. Quan điểm cơ bản về quản lý thu thuế
Đảng và Nhà nước ta đã có những quan điểm hết sức rõ ràng về công tác quản lý thu thuế “Dù ngân sách Nhà nước phải ứng nhiều khoản chi lớn nhưng chúng ta kiên quyết không phát hành thêm tiền dể chi mà phải dựa vào tăng thu và các nguồn vay, đầu tư nước ngoài. Hiện nay tỷ lệ thu ngân sách so với tổng sản phẩm trong nước còn thấp song hướng tăng thu không phải là nâng thuế suất mà chủ yếu là cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản, hợp lý, vừa dễ thu, khuyến khích sản xuất kinh doanh phát triển để mở rộng nguồn thu vừa tiết kiệm được chi phí quản lý thu mà vẫn có hiệu quả cao”.
Trong bối cảnh mới với những định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước, trước mục tiêu và nhiệm vụ cho phát triển kinh tế – xã hội đất nước, thành phố Hải Phòng, đã đặt công tác quản lý thu thuế nói chung và công tác quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Hải Phòng nói riêng đứng trước những nhiệm vụ và yêu cầu hết sức quan trọng:
1. Đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước
Trong điều kiện hiện nay khi nền kinh tế đang từng bước tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhu cầu chi tiêu ngân sách ngày càng lớn, đặc biệt là chi cho đầu tư phát triển kinh tế , phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật cũng như hạ tầng văn hoá- xã hội. Để đáp ứng được nhu cầu này, nhiệm vụ của công tác quản lý thu thuế là phải đảm bảo tăng thu ngân sách trên cơ sở hợp lý “tăng thuế” nhưng lại “giảm thuế” để nuôi dưỡng, phát triển nguồn thu.
2. Phải có tác dụng khuyến khích đầu tư và phát triển kinh tế
Thông qua công tác quản lý thu thuế, Nhà nước khuyến khích đầu tư trên cơ sở phù hợp với dịnh hướng chién lược phát triển KTXH của đất nước, phù hợp với cơ cấu của nền kinh tế. Với một chính sách thuế đơn giản, hợp lý, vừa có khả năng bao quát các nguồn thu vừa khuyến khích doanh nghiệp phát triển. Ngoài ra, công tác quản lý thu thuế phải phù hợp với thông lệ quốc tế , phải là một biện pháp tích cực để mở rộng quan hệ ngoại thương, tạo điwuf kiện thuận lợi thực hiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế trong nước…
3. Đảm bảo luật pháp nghiêm minh, công bằng và hợp lý.
Nộp thuế vừa là quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân vì vậy tính công bằng hợp lý trong công tác quản lý thu thuế là yếu tố đảm bảo cho hệ thống chính sách thuế thực hiện được. Chính sách thuế phải tiến tới áp dụng một cách thống nhất với mọi doanh nghiệp thành phần kinh tế thống nhất giữa khối doanh nghiệp nội dịa và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo hành lang pháp lý bình đẳng để mọi thành phần kinh tế cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
II. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế tại khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại hải phòng
1. Một số giải pháp về công tác quản lý thuế
Trước những thực trạng trong công tác quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian qua, để có thể góp phần thực hiện được tốt mục tiêu của đất nước, đáp ứng những yêu cầu của nghành thuế trong giai đoạn mới đòi hỏi hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một điều tất yếu, sau đây em xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần cải thiện công tác quản lý thu thuế.
a. Giải pháp cho quy trình quản lý thu thuế
+ Thực hiện nghiêm túc quy trình quản lý thu thuế.
Quy trình quản lý thu thuế phản ánh trình tự các bước, công việc nhằm tập trung đầy đủ, kịp thời số thuế vào ngân sách nhà nước. Thực chất nội dung của quy trình quản lý thu thuế là thể chế hóa các luật, pháp lệnh thuế cho phù hợp với đối tượng phân công, phân nhiệm rõ ràng cụ thể giữa các bộ phận trong bộ máy quản lý. Do đó, việc thực hiện nghiêm túc các bước trong quy trình quản lý thu thuế đối với từng sắc thuế là nhiệm vụ quan trọng của cơ quan thuế các cấp.
* Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện nghiêm túc các quy trình tự kê khai, tự tính thuế và nộp vào ngân sách nhà nước: Trong thời gian qua, công tác quản lý đăng cấp mã số đối tượng nộp thuế và kê khai thuế đã được triển khai tốt, việc cấp mã số thuế đối tượng nộp thuế được thực hiện một cách nhanh chóng tạo điều kiện cho doanh nghiệp. Việc kê khai, nộp thuế được thực hiện tương đối nghiêm chỉnh. Để phát huy tốt những kết quả đạt được, hạn chế tình trạng chậm nộp tờ khai, nội dung tờ khai không đúng, không đủ... nghành thuế phải tăng cường công tác tuyên truyền cung cấp dịch vụ tư vấn, hướng dẫn các đối tượng nộp thuế, áp dụng nghiêm minh các hình thức phạt về thuế đối với các trường hợp vi phạm như không kê khai thuế, kê khai sai thuế, hay nộp chậm tờ khai... Tiến tới việc kết hợp tờ khai với việc thanh toán thuế, tăng cường ý thức tự giác thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của đối tượng nộp thuế, giảm chi phí nguồn lực cho cơ quan thuế, giảm những tiêu cực phát sinh do việc tách rời thời điểm nộp tờ khai thuế và việc thanh toán thuế.
* Tăng cường phối kết hợp chặt chẽ giữa phòng thanh tra thuế với các phòng quản lý thu trong việc kiểm tra, thanh tra đối tượng nộp thuế.
Theo quy định của nghành thuế thì quy trình quản lý thu thuế được thực hiện tách bạch 3 phần: phần đôn đốc quản lý đối tượng nộp thuế do phòng quản lý thu đảm nhận; phần tính thuế, ra thông báo thuế... sẽ do phòng kế hoạch, kế toán thống kê và phòng máy tính đảm nhận và phần kiểm tra, thanh tra thuế sẽ do phòng thanh tra và xử lý tố tụng( gọi tắt là phòng thanh tra) đảm nhận. Trong thời gian qua, phòng quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đảm nhiệm cả 2 chức năng: quản lý đối tượng nộp thuế và thanh tra, kiểm tra thuế, điều này đã gây ra nhiều hạn chế, tồn tại; Vì vậy trong thời gian tới chức năng thanh tra, kiểm tra thuế sẽ do phòng thanh trakiểm tra thuế thực hiện là chủ yếu, có sự phối kết hợp chặt chẽ với phòng đầu tư nước ngoài.
Tăng cường số lượng các đơn vị được thanh tra, kiểm tra. Phòng thanh tra tăng cường phối kết hợp với phòng quản lý thu và các cấp chính quyền, các nghành nội chính như: ủy ban nhân dân các cấp, công an kinh tế, Viện kiểm soát... tiến hành thanh tra kiểm tra thuế theo kế hoạch định kỳ hoặc theo kế hoạch kiểm tra đột xuất.
Mỗi cuộc thanh tra đều phải lập biên bản , công bố công khai, đặc biệt đúc rút kinh nghiệm để tuyên truyền, phổ biến cho các cán bộ thuế, đảm bảo đợt thanh tra sau có hiệu quả, tiến hành nhanh gọn, không gây phiền hà, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của đối tượng được thanh tra.
* Tăng cường công tác tuyên truyền , giáo dục, cung cấp dịch vụ về thuế để nâng cao tính tự giác và trách nhiệm của đối tượng nộp thuế
Để các luật thuế đặc biệt là 2 luật thuế được áp dụng tại Việt Nam (luật VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp) đi vào đời sống, nâng cao ý thức của người dân trong việc chấp hành quy trình quản lý thu thuế mới, Nhà nước cũng như nghành thuế cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật thuế trong mọi tầng lớp dân chúng. Cơ quan thuế cần tranh thủ mọi cơ hội và vận dụng hình thức thích hợp để các doanh nghiệp cũng như người dân hiểu rằng bản chất của thuế dưới chế độ XHCN được Nhà nước ta sử dụng nhằm mục đích phát triển kinh tế, phục vụ lợi ích cử nhân dân và vì dân.
- Để công tác tuyên truyền được thực hiện một cách sâu rộng, nghành thuế có thể áp dụng các phương pháp sau:
+ Nghành thuế cần phải chủ động phối hợp chặt chẽ với báo đài trung ương và địa phương, đẩy mạnh công tác tuyên truyền nội dung các văn bản pháp lệnh thuế, các chính sách thuế trên các phương tiện thông tin đại chúng, in các chính sách, nội dung và các ý nghĩa của mọi sắc thuế.... thành các tờ ngắn gọn( các tờ rơi) giúp cho các doanh nghiệp cũng như nghười dân dễ hiểu và nắm được chương trình cải cách thuế, chế độ thu thuế trong từng giai đoạn. Thực hiện cung cấp các văn bản pháp quy về thuế như luật, nghị định và các thông tư hướng dẫn, kể cả các công văn trả lời ĐTNT, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động thực hiện tốt nghĩa vụ với ngân sách nhà nước.
+ Tuyên truyền công tác chống buôn lậu và trốn thuế, tình trạng chống người thi hành công vụ trong thuế, nêu rõ các quy hoạch sử phạt đối với các trường hợp này và tên các doanh nghiệp vi phạm chính sách thuế trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh đó tổ chức khen thưởng những đơn vị thực hiện nghĩa vụ nộp thuế tốt, có số đóng góp vào NSNN lớn được khuyến khích để doanh nghiệp tiếp tục thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đến các doanh nghiệp .
+ Ngoài việc tuyên truyền về các luật thuế cho mọi người dân thì các cơ quan nghành thuế cần phải tìm hiểu sâu, tiếp nhận những phản hồi từ phía doanh nghiệp, đối tượng nộp thuế để kịp thời giải đáp các thắc mắc của các doanh nghiệp về cả quyền lợi và nghĩa vụ của họ để họ thông suốt về mục đích chính sách thuế.
+ Để có thể vừa giải đáp những thắc mắc, hướng dẫn các ĐTNT thực hiện tốt nghĩa vụ của mình và không tạo mối quan hệ thường xuyên giữa các ĐTNT và cán bộ quản lý ĐTNT thì việc hình thànhcác tổ chức, dịch vụ tư vấn thuế và là rất cần thiết và cần đẩy nhanh tiến đọ triển khai triểnt khai của phòng tư vấn này:
Thực hiện các dịch vụ hỗ trợ , tư vấn thuế là một tất yếu trong bất kỳ một nghành thuế hiện đại nào, và điều nay đã được chứng minh qua kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, ví dụ: tại Thụy Điển “ Dịch vụ hỗ trợ ĐTNT ” đã được xây dựng và phát triển từ nhiều năm nay, bắt đầu từ những năm 70 và đã phát triển song hành cùng với sự đi lên của xã hội và có liên quan mật thiết với các trương trình cung cấp dịch vụ của các cơ quan nhà nước khác. Do đó “dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế” nếu được áp dụng phù hợp ở nước ta sẽ có tác dụng thiết thực với đối tượng nộp thuế nhằm ngăn ngừa giảm thiểu những sai phạm thường mắc phải, việc làm này còn thuận lợi cho cơ quan thuế trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình. Thông qua hỗ trợ đối với tượng nộp sẽ tạo mối quan hệ thân thiện đối với đối tượng nộp thuế ... hơn nữa cũng tại dịch vụ hỗ trợ ĐTNT được mở rộng sẽ giảm rất nhiều chi phí trong toàn xã hội. Doanh nghiệp không mất thời gian và tiền cho quá trình thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, cơ quan thuế lại càng tiết kiệm được nhiều hơn trong công tác quản lý thu thuế đồng thời số thuế doanh nghiệp chủ động thực hiện nộp vào NSNN sẽ tăng lên, từ đó hạn chế đến mức thấp nhất các cuộc thanh tra không cần thiết.
Tư vấn hỗ trợ nộp thuế là một nội dung rộng lớn không chỉ tập chung trong phạm vi “một trung tâm” hay “ một phòng của cơ quan thuế ”mà phải bao gồm tất cả các tổ chức trong nghành thuế từ trung ương đến địa phương vì vậy tại mỗi cục và các chi cục lớn ta nên thành lập các phòng tư vấn về thuế.
Với nước ta, trong giai đoạn đầu thực hiện hai luật thuế mới và quy trình quản lý thu thuế tự tính tự kê khai nộp thuế mới được áp dụng thì tại mỗi cục thuế nên đưa vào hoạt động ngay các văn phòng tư vấn thuế công, thực hiện tư vấn thuế không cần tiền phí dịch vụ, trước tiên là để cho các ĐTNT thực hiện đúng các quy định thuế của luật thuế và quy trình thu mới. Thứ hai là tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp ( đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ cao trong nền kinh tế nước ta) có thể tiếp cận dễ dàng với loại dịch vụ này (bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta chưa có thói quen và nhu cầu tư vấn thuế nếu phải trả phí).
* Tiếp tục tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa nghành thuế với các cấp nghành có liên quan trong công tác quản lý thu thuế
Công tác quản lý thu thuế là trách nhiệm chung của chính quyền các cấp, các nghành và toàn diện chứ không chỉ nghành thuế. Do đó, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế, nghành thuế phải chấp hành nghiêm chỉnh sự chỉ đạo của các cấp, nghành chuyên môn. Tổ chức hệ thống thuế nước ta trực thuộc bộ Tài chính, nghành thuế phải thực hiện, triển khai nghiêm túc và kịp thời các chính sách, chế độ của bộ tài chính đồng thời cũng nâng cao ý thức trách nhiệm và vai trò của nghành thuế, không chỉ thực hiện dập khuôn, ỷ lại sự chỉ đạo của cấp trên,nghành thuế phải luôn nâng cao vị trí độc lập của mình, chủ động trong công việc tổ chức hướng dẫn, chỉ đạo thực hện nhiệm vụ thu, kiểm tra thi hành nhiệm vụ thu, kiểm tra thi hành các luật thuế cũng như trong công tác cán bộ, công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình đọ, công tác quản lý kinh phí, xây dựng cơ sở vật chất nghành, hiện đại hóa quản lý thuế công tác đối ngoại hợp tác quốc tế nghành thuế...
Nghành thuế tổ chức theo nghành dọc từ trung ương đến địa phương và quản lý toàn bộ các khoản thu, cơ quan thuế địa phương phải thực hiện song trùng lãnh đạo. Vì vậy Cục thuế Hải Phòng phải thực hiện sông trùng lãnh đạo với UBND Thành phố Hải Phòng, phải luôn tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của UBDN chủ động phối kết hợp chặt chẽ với các nghành chức năng có liên quan nhất là các nghành nội chính như công an, quản lý thị trường, viên kiểm sát... để thực hiện quản lý ĐTNT tốt hơn:
- Phối hợp với chính quyền các cấp các nghành chủ quản để kịp thời nắm chắc số lượng có đăng ký kinh doanh, số lượng các doanh nghiệp giải thể, phá sản, sáp nhập, chia tách, nghừng hoạt động, mở thêm chi nhánh, thay đổi địa điểm kinh doanh, hay bỏ trốn,... trên cở sở đó nghành thuế nhanh chóng đưa tất cả các đối tượng này vào “ống kính quản lý”.
- Tăng cường phối hợp với các nghành Tài chính, kho bạc đảm bảo thực hiện các nguyên tắc, chế độ quản lý về tài chính, thu nộp thuế nhanh, gọn, kịp thời, đầy đủ. Phối hợp với các cơ tổng hợp như kế hoạch, thống kê lao động, vật giá... tổ chức theo dõi điều tra, thanh tra, năm thêm tình hình biến động của doanh nghiệp, và tình hình kinh doanh.
- Phối hợp với nghành Ngân hàng để xác định tình hình hoạt động, doanh thu phát sinh của các doanh nghiệp, gửi ở tài khoản ngân hàng để khấu trừ thuế, tiền phạt trong trường hợp dây dưa, chây ỳ tiền thuế.
Việc kết hợp với các nghành các cấp sẽ giúp nghành thuế tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiêm vụ thu thuế khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Giải pháp cho công tác quản lý hoá đơn
Để thực hiện tốt chế độ mua bán,chi tiêu phải có chứng từ của mọi đối tượng nộp thuế( ĐTNT) đồng thời ngăn chặn những trường hợp sử dụng hóa đơn bán hàng không đúng chế độ quy định, sử dụng hóa đơn giả làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ thuế của bản thân doanh nghiệp và các doanh nghiệp có liên quan, ảnh hưởng đến công tác hoàn thuế gây thất thu cho ngân sách nhà nứoc thì:
+ Khuyến khích các ĐTNT sử dụng hóa đơn chứng từ tự in theo quy định của tổng cục thuế và chiu sự quản lý của cơ quan thuế.
Đối với các doanh nghiệp chưa tự phát hành được hóa đơn, cơ quan thuế phải đáp ứng đầy đủ, kịp thời hóa đơn cho các doanh nghiệp này sử dụng.
+ Bộ Tài chính nghiên cứu xem xét lai loại giấy in hóa đơn, chứng từ và ký hiệu từng loại hóa đơn, chứng từ để chống in giả;
Nối mạng về quản lý hóa đơn của đối tượng nộp thuế trên máy vi tính trong toàn quốc để tăng cường kiểm tra, xác minh đói chiếu. Phối hợp các cơ quan pháp luật để kiểm tra, phát hiện , xử lý nghiêm các trường hơp vi phạm chế độ quản lý, xử dụng hóa đơn.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghành thuế
Sự thành công của mỗi chính sách hay luật thuế, ngoài yếu tố nó phải đúng đắn, đồng bộ và phù hợp với điều kiện thực tế thì còn một yếu tố rất quan trọng, đó là nhân tố con người. Con người vừa tiến hành triển khai, vừa là đối tượng chịu tác động, cán bộ thuế là người đại diện của nghành thuế, thường xuyên tiếp xúc với ĐTNT nên việc làm tốt hay không của cán bộ thuế có ảnh hưởng đến uy tín của nghành. Do vậy, để đảm bảo nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác quản lý thu thuế, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách thuế phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế cũng như đáp ứng các nhu cầu của xu hướng hội nhập nền kinh tế thế giới cũng như khu vực thì công tác xây dựng, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ thuế phải không ngừng được đổi mới và nâng cao theo hướng đội ngũ cán bộ thuế phải giỏi về chuyên môn,. nghiệp vụ thuế, giỏi về kế toán, thành thạo kỹ năng làm việc, kỹ năng quản lý, có trình độ tin học và ngoại ngữ, với một phẩm chất đạo đức tốt, lập trường quan điểm vững vàng để đáp ứng với nhu cầu ngày một cao và nặng nề của nhiệm vụ được giao. Nghành thuế nên thường xuyên mở các lớp nghiệp vụ, các lớp bồi dưỡng tập huấn về công tác quản lý về chính sách chế độ nhất là những chính sách, quy định mới, phức tạp như: “ nội dung hiệp định thương mại Việt Mỹ” và ảnh hưởng đến thuế như thế nào, nâng cao hiểu biết về hiện tượng và biện pháp về “ chống chuyển giá” và các hiệp định tránh đánh thuế trùng giữa Việt Nam và các nước...
Thực hiện đào tạo cán bộ phải đi theo hướng chuyên môn hóa sâu theo từng chức năng công việc, phù hợp với mô hình quản lý thuế theo phương pháp tự tính, tự khai, tự nộp thuế.
Trang bị kiến thức đầy đủ về lý luận và thực tiễn, đảm bảo cán bộ có khả năng trong việc phân tích, đánh giá khả năng thực thi chính sách thuế phát hiện ra các vi phạm luật thuế của doanh nghiệp và có thể ấn định tính khoán thuế một cách xác thực nhất.
Cơ quan thuế cũng cần phải thường xuyên kiểm tra lại nội bộ để căn cứ đánh giá, phân loại chất lượng cán bộ theo các tiêu chuẩn về đạo đức, về nghiệp vụ, cả về lý thuyết cũng như trong thực hành. Qua đó, có kế hoạch sắp xếp, phân công, đề bạt theo đúng khả năng, trình độ. Có sự chuẩn bị kế cận và đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, từng bước được đề bạt vào các cương vị lãnh đạo.
Phải thường xuyên có những đánh giá, công khai, bình bầu các cán bộ thuế để có thể đánh giá trình độ năng lực của các cán bộ thuế, nêu lên các gương người tốt việc tốt hay phê bình những cán bộ thuế tiêu cực, mất phẩm chất... và xử lý kiên quyết, loại ra khỏi nghành những cán bộ quá yếu về nghiệp vụ, về phẩm chất đạo đức làm gương cho các cán bộ khác. Hàng năm cần tổ chức các kỳ thi tuyển, sát hạch về chuyên môn, kiến thức... nhằm bổ sung cán bộ theo hướng trẻ hóa đội ngũ, nâng cao chất lượng cán bộ. Mặt khác, nên khuyến khích các cán bộ thuế thực hiện các chương trình đào tạo, tự nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, nắm chắc chế độ thuế, luật pháp, chế độ kế toán, kiểm toán... thông qua nhiều hình thức tự nghiên cứu. Để tạo động lực khuyến khích các cán bộ tự nâng cao trình độ, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nghành thuế cần có chế độ đãi ngộ thỏa đáng về tinh thần đối với những cán bộ hoàn thành xuất sắc công việc. Đồng thời có những biện pháp xủ lý đối với nhữnh cán bộ có trình độ thấp mà không chịu học hỏi và xử lý nghiêm khắc tùy theo mức độ đối với những cán bộ vi phạm 10 kỷ luật của nghành.
2. Những kiến nghị để hoàn thiện để hoàn thiện công tác quản lý thu thuế, góp phần tăng thu cho NSNN.
a. Kiến nghị với nhà nước.
* Một số kiến nghị về thuế GTGT
- Kiến nghị về áp dụng một mức thuế suất thuế GTGT
Qua 4 năm áp dụng luật thuế GTGT ở nước ta đã phát huy những ưu điểm to lớn trong việc thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển, đặc biệt là khuyến khích hàng sản xuất, xuất khẩu, thúc đẩy đầu tư,.. do đó, có thể nói VAT cùng các sắc thuế trong hệ thống thuế Việt Nam đã góp phần quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Đi đôi với những ưu điểm đó còn một số vướng mắc cần phải nghiên cứu để hòan thiện hơn.
+ Trong thời gian qua, ta thấy việc sử dụng nhiều mức thuế suất đã gây khó khăn, phiền hà trong việc xác định áp dụng cho một số mặt hàng bởi khó có thể phân biệt rạch ròi mặt hàng này chịu thuế suất 5% hay 10%. Điều này đã tạo ra “ kẽ hở” cho các ĐTNT “ luồn lách” nhằm gian lận thuế. Hơn nữa,việc sử dụng nhiều mức thuế suất sẽ làm chi phí cho việc quản lý hành chính và chi phí chấp hành luật thuế cao do phải theo dõi, quản lý thuế theo từng mức thuế suất và chi phí của bản thân ĐTNT chỉ ra trong việc kê khai tính thuế, quản lý sổ sách hóa đơn chứng từ, tập hợp doanh số tính thuế theo từng mức thuế cũng là một phần không nhỏ để khắc phục những vướng mắc này, phù hợp với xu hướng hội nhập khu vực và thế giới, kiến nghị Nhà nước tiến tới áp dụng một mức thuế suất VAT ở mức 10%.
áp dụng thống nhất không phân biệt nhập khẩu, sản xuất, gia công hay kinh doanh thương mại ( hàng xuất khẩu vẫn được hưởng thuế suất 0%).
+ Vướng mắc trước mắt nữa là mức động viên chung lại quá thấp đối với 1 số nghành đang có lợi thế như điện lực, bưu chính viễn thông, hàng không...( do đang phải áp dụng thuế suất VAT 20% nay chỉ phải áp dụng một mức thuế suất 10%) làm giảm nguồn thu NSNN. Tuy nhiên về lâu dài việc áp dụng một mức thuế làm giảm nhiều về chi phí cho nghành thuế, cho NSNN, giảm chi phí cho các ĐTNT, đảm bảo quán triệt được quan điểm động viên cơ bản của hệ thống chính sách thuế phù hợp với xu hướng hội nhập.
-Mở rộng đối tượng chịu thuế:
Đưa các mặt hàng chịu thuế TTĐB ở khâu sản xuất và nhập khẩu, một số sản phẩm, dịch vụ xuất khẩu vào diện đối tượng chịu thuế, thực hiện khấu trừ và hoàn thuế đầu vào để khuyến khích xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Đồng thời giảm và hạn chế đối tượng không chịu thuế GTGT, chỉ để lại những dịch vụ công ích và các sản phẩm thiết yếu phục vụ tiêu dùng cuối cùng. Cuối giai đoạn bổ sung đối tượng chịu thuế là sản phẩm ở khâu sản xuất nông nghiệp để đảm bảo thực hiện thuế GTGT liên hoàn và thống nhất ở các lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
- Về hoàn thuế GTGT:
Chỉ nên hoàn thuế cho hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, đối với các loại hàng hoá, dịch vụ khác xử lý khấu trừ thuế, chỉ hoàn thuế đối với trường hợp doanh nghiệp đã hoàn toàn không phát sinh doanh thu chịu thuế (chuyển đổi sang loại hình sản xuất kinh doanh hàng hoá không chịu thuế GTGT) hoặc doanh nghiệp giải thể; trước khi hoàn phải thực hiện kiểm tra, xác minh trước hoàn thuế
* Cần phải áp dụng tỷ giá ngoại tệ trong kê khai thuế thống nhất
Để khắc phục tình trạng làm thiệt hại cho ngân sách Nhà nước do áp dụng tỷ giá để kê khai sai so với quy định, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm tra, đối chiếu của cơ quan thuế. Kiến nghị, nên có quy định việc ghi tỷ lệ ngoại tệ trên hóa đơn ngay khi phát sinh doanh thu cung cấp hàng hóa dịch vụ.
* Một số kiến nghị về thuế thu nhập doanh nghiệp ( TNDN)
Kiến nghị bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, bỏ hoàn thuế lợi tức tái đầu tư tiến tới áp dụng chung một mức thuế suất TNDN giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Theo thông tư 13/ 2001/TT- BTC ngày 8- 3- 2001 hướng dẫn thực hiện quy dịnh về thuế đối với các hình thức đầu tư theo luật ĐTNN tại Việt Nam thì doanh nghiệp có vốn ĐTNN chịu mức thuế suất thuế TNDN là 25%. Nhìn vào mức thuế suất thuế TNDN mà doanh nghiệp trong nước phải chịu là 32%, ta thấy doanh nghiệp có vốn ĐTNN được ưu đãi với mức thuế suất thấp hơn mức thuế suất các doanh nghiệp trong nước là 7%, tuy nhiên mức ưu đãi này không hoàn toàn là như vậy bởi doanh nghiệp có vốn ĐTNN chịu thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
Nếu doanh nghiệp nước ngoài có số vốn đầu tư dưới 5 triệu USD sẽ phải chịu mức thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 7%. Giả sử thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp ĐTNN là 100 đơn vị, thuế suất thuế TNDN là 25% thì doanh nghiệp nộp 25 đơn vị thuế TNDN. Số thu nhập sau thuế của doanh nghiệp sẽ là 75 (đơn vị). Doanh nghiệp bị đánh thuế 7% nếu chuyển lợi nhuận này ra nước ngoài, tức là phải nộp 5,25 (đơn vị) thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, vậy tổng số thuế TNDN phải nộp của 100 đơn vị thu nhập trước thuế là 25 + 5,25 = 30,25 ( đơn vị).
Có nghĩa là mức thuế suất chỉ được ưu đãi hơn so với mức thuế suất thuế TNDN áp dụng cho cá doanh nghiệp trong nước là 1,75% chứ không phải là 7%. Hơn nữa doanh nghiệp nước ngoài lại bị khống chế số tiền chuyển ra nứoc ngoài trong từng lần chuyển. Với xu hướng toàn cầu hóa nên sự di chuyển lao động, nguồn vốn cũng linh hoạt hơn, vì vậy để phù hợp với xu thế, điều kiện hiện nay nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, kiến nghị xóa bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
Tiến tới áp dụng chung luật khuyến khích đầu tư cho các thành phần kinh tế
Tiến tới đối xử công bằng về thuế giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, nâng cao sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước trong xu thế hội nhập và phát triển thì cùng với lộ trình cắt giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và ĐTNN (như chi phí điện nước, điện thoại, giao thông vận tải, chi phí đăng kiểm, chi phí quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng...) tiến tới áp dụng một mức thuế suất thuế TNDN chung cho các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài, xóa bỏ hoàn thuế TNDN do lãi đầu tư. Công bố rộng rãi và có chiến dịch quảng cáo các danh mục dự án khuyến khích đầu tư, và chế độ ưu đãi về thuế suất, thời gian miễn giảm thuế.
Thu hẹp các trường hợp miễn giảm thuế:
Luật thuế TNDN hiện hành có quá nhiều các trường hợp miễn giảm thuế làm cho công tác thuế trở nên phức tạp, tạo kẽ hở cho các doanh nghiệp tìm cách để trốn lậu thuế, làm xói mòn cơ sở đánh thuế. Trong hầu hết các công tác công trình nghiên cứu về tính hiệu quả của việc miễn giảm thuế ở các nước cho thấy việc miễn giảm thuế rất tốn kém nhưng không đem lại lợi ích tương xứng cho nền kinh tế. Những biện pháp như vậy chỉ mang tính tác động bề ngoài chứ không phải là các công cụ thu hút đầu tư nhiều hơn, đặc biệt với việc miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp mới thành lập đã tạo ra kẽ hở cho các doanh nghiệp “ chuyển lợi nhuận thông qua giá” để trốn thuế TNDN. Do vậy về lâu dài Luật thuế TNDN cần được hoàn thiện theo hướng thu hẹp các trường hợp miễn giảm thuế thay vào đó là các biện pháp chi tiêu tài chính khác.
* Kiến nghị về thuế thu nhập cá nhân
Về thu nhập chịu thuế:
Không phân biệt thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên; Thu nhập từ kinh doanh được xác định trên cơ sở doanh thu kinh doanh trừ đi các chi phí liên quan đến kinh doanh; Bổ xung các khoản thu nhập từ đầu tư, lãi tiền cho vay, lãi cổ phần, trái phiếu, tiền bản quyền….Nói chung phải bao quát tất cả các khoản thu nhập của cá nhân.
Về tiêu thức tiến hành đánh thuế:
Tiêu thức tiến hành đánh thuế phải dựa vào 2 cơ sở: “ cư trú” và “nguồn phát sinh thu nhập”. Cá nhân cư trú tại một nước phải nộp thuế TNCN tại nước đó và đánh trên mọi khoản thu nhập phát sinh từ khắp các nước trên thế giới. Cá nhân không cư trú chỉ bị đánh thuế trên phần thu nhập phát sinh tại nước đó. Cá nhân có nguồn thu nhập phát sinh ở đâu chỉ bị đánh thuế trên phần thu nhập phát sinh tại nơi nhận được thu nhập.
* Phải có cuộc cải cách lớn về cơ chế thanh toán của doanh nghiệp
Bắt buộc các quan hệ mua bán, trao đổi phải thanh toán qua Ngân hàng, hạn chế đến mức thấp nhất việc thanh toán bằng tiền mặt như hiện nay( có thể quy dịnh mục tiêu thanh thanh toán từ 100.000 đ trở lên phải thanh toán bằng séc, thẻ tín dụng, thực hiện thanh toán qua ngân hàng, việc trả lương, thưởng thực hiện qua hệ thống ngân hàng). Thông qua các tài khoản tại hệ thống ngân hàng nhà nước sẽ quản lý hầu hết các hoạt động kinh tế phát sinh, từ đó xác định được doanh thu tính thuế ở mức tin cậy nhất hạn chế tệ nạn tham những, trốn lậu thuế, nhanh chóng giải quyết tình trạng doanh nghiệp chây ỳ, nợ đọng, dây dưa thuế.
Kiến nghị với bộ Tài chính.
Giành ngành thuế nguồn kinh phí thích đáng
- Để đảm bảo trang thiết bị, hệ thống giảng dạy nâng cấp chương trình và hệ thống giáo trình, tài liệu đào tạo, đặc biệt là các giáo trình đào tạo về thuế quốc tế, các giáo trình, tài liệu phải đảm bảo dễ hiểu, dễ tra cứu và có thể tự nâng cao kiến thức của mỗi cán bộ thuế. Giành một nguồn kinh phí đáng kể để đào tạo cán bộ theo hướng chuyên sâu bao gồm cả đào tạo trong nước và nước ngoài.
- Dựa trên cơ sở kế hoạch phát triển công tác tuyên truyền thuế trong từng năm cũng như kế hoạch dài hạn về công tác tuyên truyền thuế trong toàn nghành để giành một khoản kinh phí thích hợp.
- Bổ xung thêm kinh phí để thực hiện các dịch vụ tư vấn thuế công...
-Trang bị thêm cơ sở vật chất khác cho việc triển khai thực hiện các luật thuế mới. Không ngừng nâng cấp máy tính, hoàn thiện phần mềm quản lý thuế cho phù hợp với xu hướng hiện nay, phù hợp với sự phát triên không ngừng của hệ thống tin học hiện nay.
- Có một chế độ lương, thưởng thích hợp để động viên đảm bảo cuộc sống tốt, giúp cho các cán bộ thuế yên tâm làm việc, hạn chế việc móc ngoặc với các đối tượng nộp thuế, tham ô, hối lộ...
c. Kiến nghị với tổng cục thuế về cơ cấu tổ chức bộ máy thu thuế
Từ những bất cập của công tác quản lý thu thuế nói chung em đưa ra kiến nghị về tổ chức ngành thuế như sau:
Sơ đồ kiến nghi về tổ chức bộ máy ngành thuế
tổng cục
cục
phòng
dịch vụ
công
chi
cục
phòng cường chế
các phòng
thanh tra
xử lý
thông tin
Theo sơ đồ này quá trình quản lý chuyển từ quản lý trực tiếp sang quản lý gián tiếp, chuyển từ quá trình ĐTNT tự kê khai, tự tính thuế và tự nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế sang doanh nghiệp tư kê khai, tự tính và nộp thuế.
Mặt khác kết hợp giữa quản lý theo chức năng và quản lý theo đối tượng với quản lý theo chức năng là công việc chủ yếu đ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp.
Đối tượng nộp thuế sẽ được phòng dịch vụ công tư vấn, hướng dẫn, giải thích các thuế…….rồi tự kê khai tự tính và nộp thuế, không cần phải đợi cơ quan thuế đưa ra thông báo thuế đvừa giảm chi phí thông báo nộp thuế và chi phí tuân thủ pháp luật thuế của doanh nghiệp vừa tạo cho doanh nghiệp tính tự tuân thủ cao. Gắn với quyền tự chủ này, ĐTNT đồng thời phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính chính xác, tính kịp thời và kết quả thực hiện thuế của mình. Thông tin từ phiá doanh nghiệp sẽ được phòng xử lý thông tin phân tích, kiểm tra ……Nếu đối tượng nộp thuế nào có một số biểu hiện sai phạm hoặc có căn cứ nghi ngờ sẽ được kiểm tra, thanh tra bởi phòng thanh tra và xử lý tố tụng về thuế. Các phòng thanh tra được phân theo đối tượng nộp thuế, ví dụ như phòng thanh tra khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, phòng thanh tra khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh,… Những quyết định xử phạt, nếu đối tượng nộp thuế không tự nguyện thi hành thì sẽ bị cưỡng chế bởi phòng cưỡng chế đ nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thu thuế
* Từng bước áp dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý thuế để tăng cường hiệu quả quản lý thuế.
Ngày nay, công nghệ tin học đang phát triển mạnh trên thế giới, nhiều nước trong khu vực đã áp dụng tin học vào công tác quản lý thuế. Đây là thời cơ thuận lợi để áp dụng tin học vào công tác quản lý thuế ở nước ta.
* Củng cố tổ chức bộ máy quản lý thu và nâng cao phẩm chất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ thuế.
Trong thời gian tới, cơ bản không tăng thêm biên chế, nhưng sẽ phân bổ lại nguồn tập trung vào các khâu công việc chính: đổi mới công tác quản lý cán bộ theo hướng qui định rõ trách nhiệm của từng loại cán bộ trên từng vị trí công tác. Đánh giá cán bộ chủ yếu căn cứ vào kết quả công tác, vào số lượng và chất lượng công việc được giao; coi trọng phẩm chất đạo đức, chính trị ...
Kết luận
Đối với Việt Nam và cũng như hầu hết các nước đang phát triển trên thế giới vấn đề ” Thu hút và khai thác hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài” đang là một trong những mục tiêu hàng đầu cho phát triển kinh tế trước xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới hiện nay.
Trong thời gian qua được sự ưu đãi đặc biệt, khu vực đầu tư nước ngoài đã đạt được những thành tựu đáng kể: Tổng giá trị sản phẩm, dịch vụ được sản xuất ra và số thu từ thuế của khu vực nàyđã đóng góp một phần quan trọng trong công cuộc đổi mới của nền kinh tế nước ta, đưa chúng ta tiến nhanh hơn trên con đường CNH-HĐH đất nước.
Tuy nhiên với việc ngày càng tăng lên khối lượng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ kéo theo các hoạt động kinh tế hết sức mới mẻ, đa dạng, phong phú và cũng hết sức phức tạp đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ và định hướng đúng đắn của Nhà nước để khu vực này phát huy tối đa vai trò của mình đối với phát triển nền kinh tế đất nướctrong giai đoạn mới.
Một trong những công cụ hữu hiệu được Nhà nước sử dụng có hiệu quả để khai thác tăng thu cho ngân sách Nhà nước, đồng thời thu hút định hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ những mục tiêu chiến lược trong thời gian qua đó là chính sách thuế áp dụng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Hải Phòng là một trong những trung tâm kinh tế của cả nước, là nơi có mật độ đầu tư trực tiếp nước ngoài tương đối cao trong cả nước, đối tượng nộp thuế của khu vực này tương đối lớn, do đó Hải Phòng trở thành một địa bàn quan trọng trong công tác quản lý thu thuế các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hơn nữa trong những năm qua số thu từ thuế trên thực tế và tiềm năng thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Hải Phòng là tương đối cao, chiếm tỷ trọng đáng kể trong tồng số thu ngân sách của thành phố, thực trạng quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp này còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc thì việc đẩy mạnh và hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phù hợp với điều kiện mới là một điều tất yếu và cấp thiết.
Xuất phát từ những thực trang, yêu cầu đặt ra đối với công tác quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho thấy việc chọn đề tài “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Hải Phòng” của em là có ý nghĩa thiết thực về cả lý luận và thực tiễn.
Với mục đích nghiên cứu để hiểu rõ hơn về công tác quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nâng cao kiến thức đã học, đưa ra một số những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, em rất mong nhận được những ý kiến góp ý quý báu của thầy cô.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy cô!
Tháng 06/2003
Sinh viên
nguyễn thị hồng việt
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36994.doc