Trong những năm đầu phát triển của Việt Nam, cùng với sự phát triển vũ bão của kinh tế thế giới, tốc độ phát triển “thần kỳ” ở Nhật, sự đột phá của các “con rồng Châu Á và sự lớn mạnh về kinh tế của các nước Đông Nam Á. Việt Nam từng bước hội nhập và phát triển, tiếp thu công nghệ của các nước đỉ trước dần khẳng định vị thế của mình ở khu vực và trên thế giới. Trong lĩnh vực thanh toán Ngân hàng hiện nay,với những áp dụng chưa từng có từ trước tới nay về các thành tựu của khoa học, kỹ thuật và công nghệ, khó có ai có thể phủ nhận vai trò nền tảng của hệ thống thanh toán quốc tế trong cơ sở hạ tầng tài chính của một nền kinh tế thị trường phát triển. Hệ thống thanh toán quốc tế không ngừng được cải thiện với các phương tiện mang tính ưu việt hơn trước, các chính sách ưu đãi đã góp phần phát triển kinh tế đất nước nói chung và Ngoại thương nói riêng. Thanh toán quốc tế phát triển tạo tiền đề cho việc giao dịch và trao đổi ngoại thương giữa các quốc gia, đưa dần dần nền kinh tế Việt Nam vào dòng chảy của thời đại. Thông qua thanh toán quốc tế nổi bật lên vai trò của ngân hàng, hệ thống liên Ngân hàng trong quan hệ giao dịch và trao đổi về Ngoại thương. Tóm lại, mọi hoạt động mang tính chất hội nhập và phát triển đều cần có sự trao đổi giữa các quốc gia, sự trao đổi dựa trên nguyên tắc “hai bên cùng có lợi” tạo ra bước tiến mới trong quan hệ phát triển kinh tế giữa các nước. Đứng giữa đó, vai trò của Ngân hàng và nghiệp vụ thanh toán quốc tế đóng vai trò quan trong việc thúc đẩy tiế trình phát triển nhanh chóng hơn. Thanh toán quốc tế là một hệ thống không thể thiếu và tách rời trong mọi nền kinh tế đặc biệt đối với Việt Nam, một nước đang phát triển theo nền kinh tế thị trường.
Được sự giúy đỡ của TS - ĐÀO VĂN HÙNG và các cán bộ nhân viên tại chi nhánh ngân hàng Cổ phần PHƯƠNG NAM tại Hà nội em đã hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn!
63 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1306 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thánh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM – Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thêm uy tín nơi khách hàng.
- Đội ngũ cán bộ được tăng cường cả về số lượng, chất lượng vàcó sự kết hợp giữa người cũ và người mới nhằm nâng cao nghiệp vụ và đảm bảo tính an toàn trong kinh doanh.
2.3.1 Phương thức thanh toán quốc tế L/C
Về các hình thức tín dụng xuất nhập khẩu, chi nhánh Ngân hàng PHƯƠNG NAM –Hà Nội nói riêng và các ngân hàng khác đều đặt ra rất nhiều hình thức tín dụng khác nhau. Tuy nhiên, vì tính chất của tín dụng xuất nhập khẩu, vì ưu nhược điểm của các hình thức tín dụng và quan trọng hơn cả là yêu cầu của thị trường nên chi nhánh Ngân hàng PHƯƠNG NAM áp dụng hình thức tín dụng thông qua L/C là chủ yếu.
Sơ đồ quy trình thực hiện thanh toán quốc tế qua thư tín dụng (L/C)
(3) gửi L/C
Ngân hàng
phục vụ
nhà nhập khẩu
Ngân hàng phục vụ
nhà xuất khẩu
Nhà nhập khẩu
Nhà xuấtkhẩu
(7) y/c thanh toán
(8) thanh toán
Y/c mở L/C (2) (9) báo nợ (4) báo có L/C (6) trình chứng từ
(1) ký hợp đồng
(5)giao hàng
Nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu ký kết hợp đồng ngoại thương.
Nhà nhập khẩu làm thủ tục đề nghị ngân hàng phục vụ mình mở L/C theo yêu cầu đã thoả thuận trong hợp đồng ngoại thương.
Ngân hàng xem xét đề nghị mở L/C, nếu chấp nhận mở và gửi L/C sang ngân hàng nước ngoài được chỉ định.
Ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu thông báo cho người xuất khẩu đã có L/C.
Nhà xuất khẩu sau khi xem xét các ràng buộc trong L/C phù hợp với hợp đồng đã ký kết, tiến hành giao hàng.
Người xuất khẩu tập hợp chứng từ theo yêu cầu của L/C, xuất trình bộ chứng từ cho ngân hàng phục vụ mình.
Ngân hàng sau khi kiểm tra chứng từ lần nữa, sẽ gửi bộ chứng từ cho ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu, yêu cầu thanh toán theo chỉ định
Sau khi kiểm tra chứng từ, ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu tiến hành thanh toán.
Ngân hàng giao bộ chứng từ nhận hàng cho người nhập khẩu đổi lấy việc thanh toán hoặc cấp tín dụng.
Trong hình thức tín dụng bằng việc mở L/C thì cả nhà xuất khẩu và nhập khẩu đều có lợi.
Nhà nhập khẩu ký hợp đồng với một nhà xuất khẩu là doanh nghiệp nước ngoài sẽ vấp phải nhiều vấn đề. Cả nhà nhập khẩu và xuất khẩu đều mong phía mình có lợi. Nghĩa là nhà nhập khẩu muồn biết chắc hàng hoá đã được giao phù hợp với các điều kiện của hợp đồng trước khi tiến hành thanh toán. Tương tự, nhà xuất khẩu cũng không muốn rời hàng thậm chí còn không muốn tiến hành sản xuất trước khi biết chắc là sẽ được thanh toán tốt đẹp. Do đó, nhà xuất khẩu sẽ muốn phòng ngừa trước những rủi ro không thanh toán trong tương lai của nhà nhập khẩu. Trong trường hợp này L/C sẽ đáp ứng nhu cầu của cả hai với tư cách là một phương tiện thanh toán. Nó đồng thời cũng có thể là công cụ tín dụng.
Thật vậy, với những đảm bảo mà nó mang lại cho mỗi bên, đảm bảo giao hàng đối với nhà nhập khẩu và đảm bảo thanh toán đối với nhà xuất khẩu, nên các bên có thể xin vay để phục vụ nhu cầu vốn của mình.
+ Đối với nhà nhập khẩu, mở L/C được xem là hình thức tài trợ của ngân hàng.Với mọi biến cố xẩy ra thì thương vụ vẫn được diễn ra. Mọi thư tín dụng đều được mở theo yêu cầu của nhà nhập khẩu. Khi ngân hàng đồng ý mở L/C, có nghĩa là ngân hàng cam kết thanh toán cho người hưởng lợi nếu bộ chứng từ hợp lý. Ngân hàng sẽ gánh hết rủi ro nếu như nhà nhập khẩu không có khả năng thực hiện hợp đồng với nhà xuất khẩu. Khi đó ngân hàng mở L/C sẽ vẫn thanh toán cho phía nước ngoài rồi chấp nhận cấp tín dụng cho khách hàng. Dó đó, trước khi mở L/C ngân hàng cũng phải tiến hành những bước thẩm định khách hàng như khả năng thanh toán, tình hình tài chính, uy tín vay nợ, tỷ lệ vốn xin mở L/C so với tổng vốn cần thiết,..... và yêu cầu những khoản đảm bảo. ở đây, xin nói kỹ về các khoản ký quỹ là khoản mà ngân hàng thường yêu cầu khách hàng đối với hình thức này.
Mức độ ký quỹ sẽ tuỳ thuộc vào điểm tín dụng mà ngân hàng chấm cho khách hàng. ở Việt Nam mức ký quỹ có thể là 0% nhưng cũng có thể là 100%, tỷ lệ ký qũy càng lớn chứng tỏ mức rủi ro của L/C này càng cao. Đôi khi khoản tiền ký quỹ đã trở thành gánh nặng cho doanh nghiệp, đặc biệt là các khoản ký quỹ 100%. Do đó để khắc phục, ngân hàng tiến hành cho khách hàng vay khoản ký quỹ đó. Như vậy mức độ rủi ro đã giảm xuống vì dư nợ đã phát sinh ngay từ khi thương vụ chưa diễn ra thay vì nó phát sinh một cách bị động đối với ngân hàng khi thương vụ đã xảy ra, và trong tình trạng đó khách hàng thường có tư tưởng trốn nợ. ý nghĩa của khoản ký quỹ này là một khoản đảm bảo cho ngân hàng khi rủi ro xẩy ra, khi đó ngân hàng sẽ dùng khoản ký qũy này để bù đắp. Và, một khi khách hàng đã đồng ý ký quỹ chứng tỏ khách hàng có năng lực về vốn và ràng buộc khách hàng làm tròn nghĩa vụ của người nhận bảo lãnh. Có những quy định như là nếu khách hàng vi phạm hợp đồng hay hợp đồng chấp dứt thì khoản ký qũy này sẽ mất, coi như một khoản phí trả cho ngân hàng vì đã cung cấp dịch vụ.
+ Đối với nhà xuất khẩu. Cho vay thực hiện hàng xuất khẩu theo L/C đã mở: khi đó L/C như một tài sản đảm bảo khách hàng sẽ có tiền trong tương lai và do đó những yêu cầu xin vay để thực hiện hợp đồng sẽ trở nên có đảm bảo hơn bao giờ hết, và vốn sẽ được cấp cho khách hàng để tiếp tục sản xuất. Rõ ràng, giữa khách hàng và ngân hàng có một đảm bảo tín dụng tốt nên ngân hàng sẽ không từ chối cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu, khi đó họ sẽ có đủ vốn để tiến hành gom hàng, sản xuất, đảm bảo cho việc giao hàng chắc chắn sẽ diễn ra.
Nhà xuất khẩu cũng có thể bán lại cho ngân hàng hợp đồng với nhà nhập khẩu để đổi lấy một khoản tiền. Chúng ta không nên hiểu là khi nhà xuất khẩu bán hợp đồng cho ngân hàng là vì họ không còn đủ khả năng thực hiện hợp đồng mà đơn giản vì việc bán đó đã mang lại lợi nhuận. Đồng thời việc ngân hàng mua hợp đồng không có nghĩa ngân hàng đứng ra gánh rủi ro cho khách hàng mà vì ngân hàng hi vọng sẽ thu được một khoản tiền cao hơn khi hợp đồng được thực hiện. Việc bán hợp đồng này là việc nhà xuất khẩu trao cho ngân hàng quyền truy đòi tiền thanh toán của nhà nhập khẩu, còn trách nhiệm của nhà xuất khẩu sẽ chỉ dừng lại ở bước giao hàng theo thoả thuận ba bên, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu và ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu. Như vậy, ngân hàng đã giúp cho khách hàng của mình rảnh tay sản xuất mà không phải lo đến việc thu tiền, trong khi đó ngân hàng càng ngày càng chuyên nghiệp hơn trong nghiệp vụ này.
2.3.2 áp dụng phức thanh toán L/C vào hoạt động
Như chúng ta đã biết, trong thanh toán quốc tế, có rất nhiều hình thức thư tín dụng, song tại chi nhánh Ngân hàng PHƯƠNG NAM áp dụng hai hình thức thư tín dụng chủ yếu là L/C at sight và L/C trả chậm. Tuy nhiên, chỉ có L/C at sight được áp dụng phổ biến vì mức độ rủi ro của hai loại thư tín dụng này khác nhau rất nhiều.
Sự khác nhau này do tính thời điểm của L/C quy định: như chúng ta đã biết, thời hạn càng dài thì độ rủi ro càng cao do tư bản luôn luôn vận động từ hình thái này sang hình thái khác. Cả hai hình thức thư tín dụng này đều có giá trị thanh toán khi ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu gửi về ngân hàng bộ chứng từ hoàn hảo. Và cả hai hình thức đều có thể mở bằng vốn của khách hàng hoặc vốn của ngân hàng (có quy định mức ký quỹ phù hợp với từng đối tượng khách hàng khác nhau).
+ Nhưng đối với L/C at sight việc thanh toán của ngân hàng với nước ngoài cũng đồng thời (hoặc gần như đồng thời) với việc thanh toán của khách hàng với ngân hàng. Như vậy, nếu trong trường hợp mở bằng vốn của khách hàng thì khách hàng chuyển tiền vào cho ngân hàng thanh toán. Còn nếu bằng vốn của ngân hàng, khách hàng sẽ phải nhận nợ ngay lập tức do đó tính bảo đảm sẽ cao hơn vì ngân hàng thường nắm chắc số hàng hoá của khách hàng để thu nợ và gốc trên số hàng hoá đó, mọi động thái của khách hàng ngân hàng đều biết để có thể xử lý kịp thời.
+ Trong khi đó L/C trả chậm nghĩa là việc ngân hàng thanh toán cho ngân hàng nước ngoài và việc khách hàng thanh toán cho ngân hàng diễn ra không đồng bộ. Khách hàng trả cho ngân hàng sau một thời gian như trong hợp đồng đã quy định. Khi đó ngân hàng thường khó kiểm soát được khách hàng do ngoài nguyên nhân kinh doanh không có lãi, không thu được tiền hàng thì còn có thể xẩy ra trường hợp khách hàng quay vòng vốn của ngân hàng, sử dụng vào mục đích khác khi chưa đến thời hạn thanh toán với ngân hàng. Đồng thời tính thời điểm còn ảnh hưởng đến rất nhiều loại rủi ro tín dụng khác nữa đặc biệt là rủi ro tỷ giá.
Ngân hàng thường đồng ý mở thư tín dụng cho các đối tượng có quan hệ tín dụng lành mạnh, uy tín, hoặc có bảo lãnh mở L/C, một hình thức đảm bảo cho loại tín dụng này.
Đối với các hình thức tín dụng này, khách hàng có thể nhận nợ bằng ngoại tệ nhưng cũng có thể nhận nợ bằng nội tệ với điều kiện trong hồ sơ vay nợ có hợp đồng mua bán ngoại tệ với ngân hàng. Tuy nhiên như chúng ta đã biết , với tình hình tỷ giá luôn biến động như trong 3 năm qua thì khách hàng luôn thay đổi thái độ của mình đối với các khoản nợ cho mục đích nhập khẩu. Khi giá ngoại tệ ổn định, khi đó tuỳ thuộc vào lãi suất trên thị trường của nội tệ và ngoại tệ, lãi suất nào nhỏ hơn sẽ là lãi suất được ưa thích. Nhưng khi tỷ giá biến động phức tạp thì họ thường thích nhận nợ bằng nội tệ hơn để tránh rủi ro tỷ giá bởi vì VNĐ là một đồng tiền yếu nên xu hướng chung là giảm giá so với ngoại tệ. Tuy nhiên khi đó còn phải tính đến sự tăng giảm tương đối giữa lãi suất với tỷ lệ tăng giảm ( chính là chỉ số giá) của đồng tiền đó để ra quyết định vay bằng đồng tiền nào thì có lợi. Như vậy, tình trạng nhận nợ bằng ngoại tệ thường thấy trong những năm trước năm 1999, còn những năm 2000, 2001 tỷ giá ngoại tệ tăng đáng kể, không ổn định nên các dư nợ phát sinh bằng nội tệ đã tăng, làm tổng dư nợ nhập khẩu tăng đáng kể như đã nói ở trên.
2.3.3 Tín dụng theo hình thức thanh toán bằng L/C là chủ yếu nên cân nhấn mạnh một số bước thực hiện như sau:
* Thẩm định khách hàng nhằm phân loại khách hàng, cho điểm tín dụng khách hàng để từ đó có thể ra quyết định. Quyết định thường ở loại đồng ý hay không, và đồng ý ở mức tín dụng như thế nào, bao nhiêu phần trăm nhu cầu của khách hàng....
* Tiến hành cho vay:
- Lập hợp đồng tín dụng ngoại tệ: trong hợp đồng này xác định số tiền khách hàng nhận nợ từ khách hàng, thời hạn, lãi suất cùng các yêu cầu kèm theo khác. Nhận nợ bằng ngoại tệ cũng tương tự như bằng nội tệ, nghĩa là cũng có các hình thức như hạn mức, từng lần....
-Ký quỹ: đây là một bước không thể thiếu vì nó đảm bảo cho món vay của khách hàng, giảm rủi ro cho ngân hàng như đã nói ở trên. Tuy nhiên không phải bất cứ một thư tín dụng nào cũng làm phát sinh dư nợ mà còn tuỳ thuộc vào khách hàng thanh toán bằng vốn của khách hàng hay bằng vốn của ngân hàng.
Đối với trường hợp thanh toán bằng vốn của khách hàng tỷ lệ ký quỹ như sau:
Bảng 8:
I. Thư tín dụng xuất khẩu
Thông báo thư tín dụng
( Nếu NHPN là NH thông báo thứ hai)
12 USD ( giảm 10 USD)
Miễn phí
1.2 Thông báo tu chỉnh tăng trị giá
5 USD
1.3 Thông báo tu chỉnh khác
3 USD
1.4 Chuyển tiếp L/C, tu chỉnh L/C qua NH khác
20 USD
Thanh toán L/C
Tối thiểu
Tối đa
0, 075%
10 USD
140 USD
II. Thư tín dụng nhập khẩu
2.1 Mở thư tín dụng
*Ký quỹ 100%
Tối thiểu
Tối đa
*Ký quỹ dưới 100%
Tối thiểu
Tối đa
*Miễn ký quỹ
Tối thiểu
Tối đa
0,075%
5 USD
200 USD
0,1%
10 USD
300 USD
0,1%
20 USD
300 USD
2.2 Tu chỉnh tăng tiền
Như mở thư tín dụng
2.3 Tu chỉnh khác
5 USD
2.4 Thanh toán ngay
Tối thiểu
Tối đa
0,2%
10 USD
200 USD
2.5 Chấp nhận hối phiếu trả chậm
Tối thiểu
0,25%/ quý ( trọn gói)
30 USD
2.6 Ký hậu vận đơn (B/L)
2 USD
2.7 Xác nhận thư tín dụng của NH khác mở
Tối thiểu
0,25%
25 USD
2.8 Huỷ thư tín dụng
5 USD và các chi phí phải trả cho nước ngoài (nếu có)
(Nguồn: văn bản hướng dẫncủa Hội sở)
Như vậy, mức ký qũy nhỏ nhất là 0% và lớn nhất là 100%. Phần chênh lệch giữa giá trị L/C và giá trị ký quỹ phải được khách hàng cam kết sẽ thanh toán bằng văn bản. Đối với một ngân hàng chi nhánh thì chỉ được cho phép ký duyệt đối với một mức tín dụng gọi là mức uỷ quyền. Tuy nhiên có sự phân biệt rất nhiều giữa doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh, phân biệt cả về mức ký quỹ và mức được phép cho vay của ngân hàng. Chính điều này đã hạn chế rất nhiều lượng khách hàng đến với ngân hàng. Do đó các khách hàng của ngân hàng cho đến nay đa phần là các doanh nghiệp quốc doanh, rất ít các đơn vị ngoài quốc doanh, một mảng khách hàng mà ngân hàng còn bỏ ngỏ.
* Đối với khách hàng thanh toán bằng vốn của ngân hàng:
Cho vay ngắn hạn: giám đốc chi nhánh xem xét quyết định mức ký quỹ hoặc miễn ký quỹ.
Cho vay trung dài hạn: khách hàng sẽ phải ký quỹ 100% vốn tự có của mình tham gia vào dự án để nhập khẩu máy móc thiết bị. Hoặc phải ký quỹ theo phần vốn tự có tham gia vào nhập khẩu máy móc đối với các dự án có phần xây dựng cơ bản.
Đối với các thư tín dụng mở 100% bằng vốn của khách hàng thì sẽ được thực hiện tại phòng kinh doanh ngoại tệ. Còn đối với các thư tín dụng mở bằng vốn của ngân hàng hoặc cả của ngân hàng và khách hàng thì sẽ được thực hiện tại phòng kinh doanh nội tệ nhưng sau đó tất cả sẽ được chuyển sang phòng kinh doanh ngoại tệ để thực hiện thanh toán với ngân hàng nước ngoài. Hầu như tất cả các hình thức thanh toán với ngân hàng nước ngoài của Ngân hàng PHƯƠNG NAM cũng như các chi nhánh ngân hàng khác đều được tiến hành thông qua Hội sở của Ngân hàng PHƯƠNG NAM, các chi nhánh tự lập hợp đồng tự tính toán lỗ lãi nhưng đều phải qua Hội sở của Ngân hàng PHƯƠNG NAM như một đầu mối chung chuyển. Hiện nay tốc độ thanh toán của Hội sở của Ngân hàng PHƯƠNG NAM nói chung và các chi nhánh Ngân hàng PHƯƠNG NAM đạt tốc độ khá cao, tương đương ngân hàng quốc doanh. Đôi khi đã có ưu thế hơn do số lượng khách hàng ít hơn nên có thể phục vụ tận tình hơn, có thể giúp khách hàng lập hợp đồng, tư vấn cho khách hàng về các hình thức thanh toán hợp lý, cho khách hàng vay khi có nhu cầu...
Hoạt động thanh toán quốc tế trong Ngân hàng chủ yếu chú trọng vào các mặt hàng:
Đối với xuất khẩu bao gồm: Dệt may, sản phẩm lâm sản, gỗ, coffee
Đối với nhập khẩu bao gồm: thiết bị Y Tế, Sắt thép, Nguyên vật liệu, Hoá chất
2.4 Ưu điểm và nhược điểm về hoạt động kinh doanh của Chi nhánh ngân hàng tại hà nội
2.4.1. Ưu điểm
- Về cơ chế: Ngân hàng Nhà Nước, Ngân hàng Cổ phần PHƯƠNG NAM đã có những văn bản cụ thể, chi tiết hướng dẫn nghiệp vụ, đồng thời luôn luôn nhận phản hồi từ phía chi nhánh ngân hàng để có thể sửa đổi kịp thời, phù hợp với tình hình thực tiễn. Ngân hàng cũng đã nghiêm túc làm theo quy định và góp ý kịp thời với cấp trên.
Có các thông tư liên bộ quan trọng thông báo về các chính sách liên quan đến vấn đề xuất nhập khẩu, đặc biệt là về bỏ các loại giấy phép kinh doanh, giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, hạn nghạch xuất nhập khẩu còn trong năm, cũng như các văn bản về các mặt hàng cấm xuất nhập khẩu...
- Về nghiệp vụ huy động: nằm trong khu vực dân cư đông nên thu hút được nhiều nguồn vốn của dân cư, tăng nhanh trong những năm gần đây. Số dư từ khu vực kinh tế cũng tăng trong thời gian qua. Luôn có vốn điều chuyển về trung tâm. Được đánh giá là chi nhánh có tiềm năng phát triển nhất trong các chi nhánh của ngân hàng.
- Về nghiệp vụ cho vay: đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, không phải từ chối yêu cầu nào của khách hàng khi đến với ngân hàng. Tình hình ngoại tệ luôn đủ để đáp ứng nhu cầu dư nợ bằng ngoại tệ.
Nghiệp vụ tiến hành ngày càng nhanh, thanh toán cũng nhanh đáp ứng được tốc độ kinh doanh của khách hàng. Có nhiều hình thức thanh toán, trong đó các giao dịch bằng L/C chiếm tỷ trọng lớn, tốc độ nhanh chính xác, thuận lợi cho khách hàng.
- Về tình hình dư nợ: dư nợ phát sinh lành mạnh, khách hàng kinh doanh nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu, tuy nhiên cũng chưa phải là nhiều, có thể đêm được các doanh nghiệp kinh doanh trong khu vực này. Cho đến nay hồ sơ tín dụng đối với các đơn vị này đều không phát sinh sai sót gì, đảm bảo một mức sinh lợi hợp lý cho cả ngân hàng và khách hàng.
- Về tình hình dư nợ khó đòi, quá hạn: phát sinh ít. Trong những năm gần đây dư nợ giảm dần, thể hiện sự chất lượng của các khoản tín dụng. Dư nợ thường tập trung vào các khoản vay dài hạn. Ngân hàng thường tự giải quyết tài sản thế chấp với khách hàng, không liên quan đến Toà án.
- Cơ cấu khách hàng: chủ yếu là thành phần kinh tế khác nên tình hình vay nợ trả nợ diễn ra phức tạp nhưng những năm vừa qua chưa gặp trường hợp xấu nào xảy ra. Trong những năm gần đây số lượng khách hàng đã tăng đáng kể. Tuy nhiên ít các đơn vị ngoài quốc doanh, các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài. Các hộ cá thể thường là đối tượng gây ra dư nợ khó đòi, quá hạn là chủ yếu.
2.4.2. Nhược điểm.
- Về hệ thống luật quy định quyền hạn của chi nhánh: Ngân hàng Cổ phần PHƯƠNG NAM chưa cho phép chi nhánh tự ấn định lãi suất đầu vào cũng như đầu ra, tức là khả năng cạnh tranh trên thị trường tài chính của chi nhánh còn rất thấp, trong khi đó chi nhánh phụ thuộc nhiều vào Ngân hàng Nhà Nước và Hội Sở chính của Ngân hàng Cổ phần PHƯƠNG NAM do đó phải thực hiện cả những khoản nợ chính sách, cũng như thực hiện các nghĩa vụ. Nói chung có nhiều nguyên tắc còn gò bó, trói buộc các chi nhánh nói chung và chi nhánh Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM tại Hà Nội nói riêng.
- Theo tính toán lãi suất đầu vào trung bình của ngân hàng cao hơn so với các ngân hàng khác nên chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra hẹp, tỷ lệ sinh lợi thấp.
- Thực chất vẫn chỉ là các hình thức vay nợ truyền thống, hình thức mở thư tín dụng mới bắt đầu được áp dụng và phổ biến trong thời gian gần đây, tuy nhiên số lượng lại chưa nhiều.
- Khả năng tự đáp ứng ngoại tệ cho bản thân là thấp. Nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ mới nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu ngoại tệ mà chưa vì mục đích kinh doanh lấy lợi nhuận là mục tiêu. Vẫn phải nhận vay điều chuyển từ Ngân hàng Cổ phần PHƯƠNG NAM, chưa sử dụng các hợp đồng như thị trương tài chính thế giới.
- Các nghiệp thanh toán vẫn phải thông qua hội sở Ngân hàng Cổ phần PHƯƠNG NAM vì cơ sở vất chất, điều kiện công nghệ kỹ thuật chưa cho phép. Hiện nay, các chi nhánh ngân hàng chưa có hệ thống máy rút tiền tự động nên cũng gây ảnh hưởng không ít tới hoạt động thanh toán của Ngân hàng.
- Dư nợ cho vay XNK tăng trưởng chậm, số lượng khách hàng thấp và kém đa dạng, số lượng thanh toán L/C thấp, chênh lệch giữa L/C xuất và L/C nhập, cho vay xuất khẩu và cho vay nhập khẩu.
- Tình hình lãi suất, tỷ giá biến động phức tạp gây kho khăn và rủi ro lớn cho các khoản nợ nhận bằng ngoại tệ của khách hàng.
- Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam còn kém sôi động nên dư nợ xuất khẩu thấp, thậm chí không tăng trong thời gian qua.
Trên đây là những đánh giá về hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng. Từ chỗ nắm được những ưu và nhược, chúng ta sẽ đưa ra những giải pháp và kiến nghị giúp nâng cao hiệu quả hoạt động này tại ngân hàng.
chương III:
Một số giải pháp và kiến nghị dể phát triển hệ thống thanh toán quốc tế thông qua các phương thức thanh toán quốc tế hiện nay.
I. Định hướng phát triển hoạt động
tín dụng xuất nhập khẩu của
nhthcp. phương nam
* Định hướng hoạt động chung trong toàn hệ thống của Ngân hàng Cổ phần PHƯƠNG NAM.
. Định hướng hoạt động chung của chi nhánh:
-Mức doanh số thanh toán quốc tế đạt: 20 triệu USD
-Mức tăng huy động vốn: 20-22%.
-Mức tăng trưởng dư nợ tín dụng: 15-16%.
. Giải pháp cơ bản của chi nhánh Ngân hàng Hà nội cho thanh toán quốc tế trong ngoại thương.
-Ngân hàng cần phải đảm bảo rằng các ngân hàng tham gia vào hệ thống thanh toán phải lành mạnh về mặt tài chính. Điều này có thể thực hiện thông qua các quy định phù hợp về điều kiện tham gia hệ thống thanh toán đối với Hội sở chính của Ngân hàng.
-Tư cách người giám sát hệ thống thanh toán, Hội sở chính của Ngân hàng cần đảm bảo rằng bất kỳ rủi ro có liên quan đến hệ thống thanh toán nào đều được kiểm soát chặt chẽ,về hệ thống thanh toán phải hoạt động một cách an toàn.
-Đẩy mạnh việc thanh toán bằng (L/C), tiền điện tử… các phương tiện có tính ưu việt, mang lại hiệu quả cho việc trao đổi và đầu tư.
-Tăng cường cơ sở pháp lý, mở rộng quan hệ tín dụng thanh toán giữa các hệ thống liên Ngân hàng đa quốc gia.
-Bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ lành nghề về nghiệp vụ thanh toán qua Ngân hàng để tránh rủi ro không hiểu biết.
Để thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu chiến lược giai đoạn 2001-2005 và cụ thể năm 2002 của Hội sở chính chỉ đạo, chi nhánh Ngân hàng TMCP Phương Nam Hà nội đã có những bước đi cụ thể của mình.
II Giải pháp và kiến nghị
Đối với vấn đề thanh toán quốc tế
Tăng các dịch vụ thanh toán quốc tế đặc biệt hoàn thiện thêm về phương thức thanh toán L/C nên:
Tăng nguồn ngoại tệ
Giảm các biểu phí (Lệ phí và điện phí)
Tăng hệ thống khách hàng.
Mở rộng quan hệ khách hàng.
Tham gia hệ thống thanh toán SWIFT để tiện giao dịch.
Rút ngắn thời gian thụ lý hồ sơ.
Giải pháp mở rộng thanh toán quốc tế đối với các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu tại chi nhánh Ngân hàng TMCP PHƯƠNG NAM - Hà nội.
Giải pháp mở rộng tín dụng xuất nhập khẩu là một trong các giải pháp tốt nhất để gián tiếp thúc đẩy vàphát triển dịch vụ thanh toán quốc tế. Do đó, chi nhánh cần phải:
2.2.1 Tăng tổng dư nợ cho vay xuất nhập khẩu.
Ta thấy tình hình nợ quá hạn, khó đòi đối với cho vay xuất nhập khẩu là không đáng kể. Cho nên để tăng dư nợ cho vay xuất nhập khẩu chúng ta cần tập trung vào quy trình, nghiệp vụ tốc độ của công tác cho vay.
Cần tách hẳn cho vay xuất nhập khẩu sang phòng kinh doanh ngoại tệ để luôn luôn chủ động trong công tác ra quyết định cho vay. Hai phòng kinh doanh phải liên kết chặt chẽ hơn để có thể đồng bộ trong việc ra quyết định, đồng thời giảm thời gian làm hồ sơ cho khách hàng.
Hiện nay, khi một khách hàng đến ngân hàng xin vay bằng nội tệ để nhập hàng, cần phải chuyển nội tệ đó sang ngoại tệ. Đầu tiên khách hàng phải làm việc với phòng kinh doanh nội tệ để làm hồ sơ nhận nợ, sau đó lại phải sang phòng kinh doanh đối ngoại để làm thủ tục mua bán ngoại tệ và nếu khách hàng có nhu cầu chuyển lượng tiền đó để thanh toán thì lại mất công làm những hồ sơ khác nữa, chính vì vậy đã gây khó khăn cản trở rất mất thời gian. Thường thì cán bộ tín dụng của hai phòng tự đi lại để làm hồ sơ thủ tục nhưng vẫn mất thời gian, mất chủ động và gây cho khách hàng cảm tưởng về sự không đồng nhất của ngân hàng. Vấn đề này cần được xem xét để có những hướng giải quyết cụ thể. Bằng cách chuyển hẳn mảng ngoại tệ sang phòng kinh doanh đối ngoại. Phòng này sẽ chủ động hơn nguồn ngoại tệ vào ra của ngân hàng.
Tuy nhiên chưa có dư nợ nhưng không có nghĩa là không phát sinh nên trong thời gian tới chúng ta luôn phải chú trọng đến chất lượng của khoản vay mới để đảm bảo đó là những món vay tốt trong thời gian tới. Khi ngân hàng cho vay, ngân hàng cần nghĩ đến trường hợp khách hàng trả nợ đúng hạn và đủ về số lượng hơn là việc ỷ lại khách hàng đã có tài sản thế chấp và chỉ cần phát mại là có thể thu được đủ vốn và lãi. Cách nghĩ đó là tiêu cực, cần phải xoá bỏ, chỉ có vậy cán bộ tín dụng mới tích cực trong công việc của mình ngay từ những khâu đầu tiên, thẩm định dự án.
Hiện nay chúng ta còn chịu quá nhiều luật lệ quy định về hồ sơ vay nợ và ngày càng được quy định rõ ràng hơn trong những năm gần đây. Điều đó là hợp lý để có được bộ hồ sơ có tính bảo đảm chắc chắn. Nhưng hiện nay chưa có sự đồng bộ giữa các ngành. Trong trường hợp khách hàng là hộ cá thể thế chấp bằng nhà ở yêu cầu phải có sổ đỏ, nhưng khu nhà đó chưa được các cấp có thẩm quyền cấp sổ đỏ. Hoặc nếu khách hàng là đơn vị kinh doanh thuộc bộ quốc phòng thì bất động sản thế chấp đó phải được sự đồng ý của bộ quốc phòng... Chính sự không đồng bộ đó đã gây khó khăn các doanh nghiệp khi đến vay, đặc biệt là các công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty tư nhân có năng lực nhưng không thể vay nợ từ ngân hàng. Đồng thời chúng ta còn có tư tưởng là các đơn vị này thường làm ăn không hiệu quả do đó cần xem xét kỹ hơn những hồ sơ hay dự án khả thi mà họ trình nộp.
Trong quá trình thẩm định, cán bộ tín dụng cần tính toán để có những quyết định chính xác khi đồng ý cho vay. ở đây xin nói về việc ra quyết định về kỳ hạn của món vay. Thường thì khách hàng đề nghị về thời hạn cũng như giá trị của món vay và ngân hàng chấp nhận trên những đề nghị đó. Cần có những phương pháp được toán hoá để có thể tính toán được những chỉ tiêu này một các cụ thể.
Về thời hạn: chúng ta có thể căn cứ vào thời gian của một chu kỳ sản xuất đối với cho vay nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất hay vay để sản xuất hàng xuất khẩu. Đối với vay nhập khẩu hàng hoá để bán lại trên thị trường có thể căn cứ vào thời gian sống của sản phẩm, các hàng hoá có chu kỳ sống ngắn như các loại bánh kẹo, lương thực, đường sữa, hàng tươi sồng. Không thể cho vay 6 thàng đối với việc nhập khẩu hoa quả tươi vì nếu họ đã không trả được thì có nghĩa họ mãi mãi không trả được vì hàng hoá đã bị hỏng không có khả năng thu hồi trên số hàng nhập khẩu nữa.
Hiện nay để xác định thời gian cho một khoản vay, cán bộ tín dụng cắn cứ vào nhiều chỉ tiêu, ở đây xin bàn về chỉ sổ vòng quay vốn lưu động của khách hàng, chỉ số này được tính như sau:
Vòng quay vốn lưu động =
Doanh thu chưa tính thuế giá trị đầu kỳ + giá trị cuối kỳ Tài sản lưu động trung bình
Tài sản lưu động trung bình của khách hàng =
2
Như vậy chỉ số này thiếu chính xác và sẽ kém hợp lý khi dùng làm căn cứ. Có những hợp đồng cho kết quả là 1,5 vòng trong 6 tháng thì có nghĩa là thời hạn 6 tháng là quá dài. Đúng ra chỉ cần 4 tháng đã kết thúc một chu kỳ kinh doanh, nếu để đến hết thời hạn 6 tháng không đúng thời hạn hết một chu kỳ tìi khả năng thu hồi vốn khó hơn vì vốn lại đang nằm trong chu kỳ sản xuất.
Hiện nay, Ngân hàng TMCP Phương Nam Hà nội cho phép mở rộng thời hạn cho vay so với tình toán, nhưng lại không cho biết được phép mở rộng bao nhiêu, khiến cho việc xác định thời hạn vay nợ trở nên tuỳ tiện, ngân hàng thường đồng ý với những tính toán đề xuất của khách hàng.
Đồng thời, như trong “quy trình nghiệp vụ cho vay” của Ngân hàng TMCP Phương Nam Hà nội đặt ra rất nhiều các chỉ tiêu phản ánh các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên khi thẩm định dự án, cán bộ tín dụng thường không tính toán hết các chỉ tiêu đó, chỉ tính toán một số chỉ tiêu thông thường. Thiết nghĩ, tất cả những chỉ tiêu đó đều có những quan hệ nào đó tới tình hình tài chính của doanh nghiệp, qua đó có thể đánh giá chính xác hơn tình hình của doanh nghiệp. Do đó, đề nghị cán bộ tín dụng thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ đã quy định.
Các khoản vay xuất nhập khẩu của ngân hàng thường là trung và dài hạn (trên 12 tháng). Mà các đơn vị vay ngân hàng hiện nay chủ yếu là các đơn vị nhập khẩu nguyên vật liệu về để sản xuất, lại có thời hạn ngắn. Do đó cần rút ngắn thời gian vay, cho vay dưới hình thức luân chuyển, vay theo hạn mức tối đa là 6 tháng. Sau thời gian đó sẽ tiến hành thẩm định lại, quyết định lại về thời hạn lãi suất cũng như hạn mức. Như chúng ta đã biết, nhiều món vay ngắn hạn gộp lại thành một món vay dài hạn. Hình thức này có lợi cho cả đôi bên vì ngân hàng thì tăng tính thanh khoản, quản lý vốn dễ dàng và tránh rủi ro cao hơn. Doanh nghiệp thì được hưởng từ mức lãi suất ngắn hạn thấp đồng thời chỉ chịu trên số phát sinh, không phải trên cả hạn mức một món như trước đây mặc dù chưa dùng đến. Tuy nhiên khi áp dụng hình thức này giữa ngân hàng và khách hàng phải có mối quan hệ tín nhiệm tin tưởng lẫn nhau bởi vì hạn mức ngân hàng đưa ra thường ứng với mức cầu về vốn lớn nhất của khách hàng còn khách hàng thì có thể sẽ rơi vào tình trạng bị ngân hàng từ chối cấp vốn khi thực sự cần đến vốn.
Một cách để nâng cao doanh số dư nợ xuất nhẩp khẩu nữa đó là tăng các giao dịch thanh toán cho khách hàng, đặc biệt là thanh toán bằng thư tín dụng. Bằng hình thức này ngân hàng nhận mở thư tín dụng cho khách hàng dưới dạng ký quỹ hoặc cho vay ký quỹ hoặc cho vay để thanh toán đúng theo hợp đồng. Hình thức tín dụng này có hiệu quả vì thời gian vay nợ ngắn, khả năng trả nợ của khách hàng cũng cao vì còn nhiều ràng buộc về mặt pháp luận hơn. Hơn nữa ở nước ta hiện nay, hay hẹp hơn là ở Ngân hàng TMCP Phương Nam Hà nội thì cho vay để mở thư tín dụng có ký quỹ để phục vụ xuất nhập khẩu tương đối lớn do đó cần tăng cường hoạt động này.
Để bảo đảm chất lượng của các khoản vay nợ này chúng ta cũng cần có những quy định cụ thể về tỷ lệ trích lập quỹ xử lý rủi ro. Đối với cho vay xuất nhập khẩu, ngoài các loại rủi ro thương gặp trong hoạt động cho vay như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất.... thì cho vay xuất nhập khẩu còn phải đối mặt với rủi ro hối đoái – rủi ro do biến động tỷ giá ngoại tệ. Rủi ro ở đây thường là khi nhận nợ bằng nội tệ rồi chuyển sang ngoại tệ, nhưng đến khi khách hàng hoàn trả bằng nội tệ, vì giá ngoại tệ tăng đối với nội tệ nên với số tiền đó không thể chuyển sang lượng ngoại tệ như trước đây, như vậy là ngân hàng đã bị lỗ. Mặc dù biến động tỷ giá thường nhỏ trên mối đơn vị tiền tệ, nhưng vì xuất nhập khẩu thường với giá trị lớn nên khi xẩy ra rủi ro thì cũng rất lớn, do đó cần một quỹ để xử lý riêng cho loại rủi ro này. Điều này càng cần thiết đối với các ngân hàng của Việt Nam vì VNĐ là một đồng tiền yếu, chịu tác động của các ngoại tệ mạnh khác, đặc biệt là USD, và gần đây là ECU .
Nói tóm lại, trong các biện pháp nhằm mở rộng tín dụng đối với xuất nhập khẩu thì việc tập trung vào nâng cao tổng dư nợ là một biện pháp trực tiếp nhưng không hiệu quả bằng các biện pháp gián tiếp dưới đây.
2.2.2. Chủ động tìm bạn hàng
Như chúng ta thấy, khách hàng của TMCP Phương Nam Hà nội rất ít và kém đa dạng, chủ yếu là các đơn vị quốc doanh. Do đó việc đa dạng hoá khách hàng là rất cần thiết nhằm giảm bớt rủi ro.
Thực tế, hiện nay đối với quốc doanh không có rủi ro là vì các đơn vị đang còn được Nhà Nước đỡ đầu, trợ giá... thực tế cũng có những đơn vị kinh doanh không có hiệu quả bằng một số đơn vị ngoài quốc doanh khác, cho nên đến khi cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước sẽ có những khó khăn phát sinh và tình hình trả nợ sẽ không thể như trước được.
Mở rộng khách hàng, vươn tới các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài. Đây chính là khu vực có tiềm năng nhất đối với lĩnh vực cho vay xuất nhập khẩu. Hiện nay khu vực này thường tập trung vào các ngân hàng nước ngoài do họ áp dụng một cơ chế thoáng hơn, và thực tế là khả năng về ngoại tệ của họ là cao hơn.
Khi đến với các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu cán bộ tín dụng phải chứng tỏ được ngân hàng có thể đáp ứng được tất cả các yêu cầu của khách hàng từ cho vay theo nhiều hình thức khác nhau, thanh toán với tất cả các đối tác của khách hàng ở mọi nước, lập hợp đồng, tư vấn về hình thức vay nợ thanh toán, trợ giúp tính toán hiệu quả của dự án......
Mở rộng hơn nữa địa bàn hoạt động của ngân hàng, nghĩa là có thêm nhiều khách hàng ở các địa bàn khác nhau, có thêm nhiều khách hàng ở các lĩnh vực ngành nghề kinh doanh. Đối với đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu thì mở rộng cho vay đối với các đơn vị sản xuất các mặt hàng khác ngoài các mặt hàng thế mạnh từ trước đến nay.
Nâng cao tính cạnh tranh của ngân hàng bằng việc cải tiến kỹ thuật công nghệ, chế độ lãi suất, thái độ phục vụ.... Trong lĩnh vực cho vay xuất nhập khẩu, yêu cầu về tốc độ là rất cao, ngoài ra còn cần độ chính xác để tránh những tranh chấp về hợp đồng do hiểu lầm giữa các đối tác ở hai quốc gia khác nhau.
Thực hiện chiến lược khách hàng, quan tâm cả đến thái độ của cán bộ tín dụng, lời nói cử chỉ thái độ hành động. Tạo cho khách hàng một sự thoải mải trong vay nợ, tránh tình trạng là khách hàng đi vay nhưng lại có cảm giác như chịu ơn từ ngân hàng, từ cán bộ tín dụng trực tiếp làm việc. Ngược lại ngân hàng cần khách hàng, thêm một khách hàng là thêm thu nhập cho ngân hàng cho từng cá nhân trong ngân hàng.
Chủ động tìm bạn hàng là một biện pháp có tính bước ngoặt vì từ trước đến nay ngân hàng vẫn nghĩ rằng người có tiền trong tay là người có quyền thế, cho vay được hay không thì tiền vẫn còn đấy. Nhưng ngày nay không cho vay được là ngân hàng sẽ bị lỗ, lâm vào tình trạng khó khăn. Đây thuộc về vấn đề quan điểm nhận thức nên rất khó thay đổi trong thời gian ngắn. Thực tế hiện nay không phải không còn những cán bộ tín dụng còn tư tưởng này, hoặc là có nghĩ được nhưng đến lúc làm vẫn chưa hoàn toàn theo đúng quan điểm này.
Hoạt động Marketing một cách có hiệu quả
Nói một cách chính xác là ngân hàng vẫn chưa có một chiến lược marketing cụ thể, mọi việc làm hiện nay của ngân hàng vẫn chỉ là nhất thời, lẻ tẻ, không hợp nhất giữa các bộ phận với nhau.
Marketing đã thực sự cấp bách đối với ngân hàng. Phải có một bộ phận tách riêng để thực hiện công việc này.
Tuy nhiên chúng ta cũng nên đặt vấn đề về thực trạng nền kinh tế thị trường bây giờ, thực tế là chưa đủ tính cạnh tranh, chưa phải một thị trường cạnh tranh hoàn hảo ít ra là trên thị trường tài chính tiền tệ ... Hay nói dúng hơn là giữa các ngân hàng chưa đặt tính cạnh tranh lên quá cao, chưa thực sự kinh doanh. Để mở rộng được số lượng khách hàng hay nâng cao dư nợ vẫn còn phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ kinh tế được thiết lập từ chế độ cũ, hoặc do quan hệ của cán bộ tín dụng với đơn vị đó. Các doanh nghiệp tìm đến ngân hàng vẫn dựa nhiều trên cơ sở thuận tiện, nghĩa là gần đơn vị mình, hay do đã có quan hệ từ lầu rồi. Chứ chưa thực sự do lãi suất ngân hàng đưa ra, hay những ưu đãi mà các ngân hàng cung cấp cho khách hàng..... Do đó những nỗ lực Marketing đôi khi là chưa cần thiết. Tuy nhiên chúng ta phải có những biện pháp đón đầu hơn là để nước đến chân mới nhảy.
Do đó Marketing phải được lập thành chiến lược cụ thể. Ví dụ khi có thêm sản phẩm mới, ví dụ là một hình thức thanh toán mới, cũng cần qua các bước của Marketing cơ bản đó là thu thập thông tin thị trường, phân tích xử lý để từ đó có những nhận thức về mức cầu đối với loại hình nay, tính toán chi phí lợi nhuận cân đối để tránh tình trạng có thêm sản phẩm mới nhưng làm lợi nhuận giảm (thời gian đầu thì có thể chấp nhận được nhưng trong lâu dài thì chắc chắn phải có lãi). Tung ra thị trường cũng cần có chiến dịch quảng cáo để khách hàng hiểu về nó. Ngân hàng kinh doanh dịch vụ là những vật vô hình, vì vậy việc quảng cáo càng quan trọng, càng hiện thực hoá, cụ thể hoá hàng hoá đó khiến khách hàng có thể cầm nắm được thì sản phẩm càng đi vào đời sống và có sức sống lâu dài.
Hoạt động Marketing cần một khoản chi phí lớn, không thể tiếc tiền mà làm qua quýt công tác này. Do đó cần dự phòng một khoản phí lớn cho hoạt động này. Hiện này chúng ta chưa thấy một hình thức khuyến mại nào đối với lĩnh vực ngân hàng. Đã đến lúc phải nghĩ tới vấn đề đó. Người trong cuộc sẽ nói khuyến mại chính là hình thức giảm lãi, hay giảm phí... nhưng những khoản đó đều được tính gộp vào khoản vay và người vay không được thấy khoản đó, việc tách nó ra sẽ đánh vào tâm lý của khách hàng hơn là có lợi cho khách hàng. Chúng ta có thể khuyến mại bằng hình thức vay nợ chịu lãi suất giảm dần (nhưng phải là nợ tốt), tặng quà đối với khách hàng thứ bao nhiêu đó, tặng quà đối với những dư nợ lớn đến giới hạn nào đó...
Tuy nhiên chúng ta cũng cần xem xét lại cho vay nhiều nhưng không có nghĩa là càng nhiều càng tốt như trong bán hàng thông thường mà càng nhiều càng tốt trong một quy chế nhất định về chất lượng món vay, về tài sản đảm bảo, về rủi ro có thể gặp của khách hàng....
Do đó thực chất việc cụ thể hoá, đồng bộ hoá hoạt động marketing vào một mối thực ra rất khó, cần có thời gian, công sức và chi phí hợp lý.
Bảo đảm lượng ngoại tệ cho hoạt động cho vay xuất nhập khẩu.
Trong năm qua tình trạng thiều hụt ngoại tệ chưa xẩy ra đối với Ngân hàng TMCP Phương Nam Hà nội nhưng thực tế là do nhu cầu ngoại tệ chưa thất sự cao vì tỷ lệ cho vay bằng ngoại tệ không cao, cũng như các khoản nhận nợ bằng ngoại tệ chiếm tỷ trọng không đáng kể. Nếu nhu cầu ngoại tệ tăng lên trong năm tới thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn có thể dẫn đến mất khách hàng.
Để duy trì năng lực ngoại tệ thì có thể tiến hành các nghiệp vụ hiện đại như các hợp đồng Future, Option, ... những hợp đồng này tạo ra một thế chủ động hơn cho cả ngân hàng và khách hàng đồng thời giảm bớt rủi ro hối đoái, rủi ro thị trường. Vươn ra thị trường ngoại tệ với nước ngoài.
Tiến hành nhiều hơn nữa kinh doanh ngoại tệ, vươn tới không chỉ vì mục đích bảo đảm ngoại tệ mà phải vì mục tiêu lợi nhuận, tiến tới có mối liên hệ với thị trường tiền tệ thế giới, tuy nhiên để có thể thực hiện dự định này còn cần được sự cho phép của các cấp phía trên.
Mở rộng khách hàng trong lĩnh vực mở thư tín dụng L/C xuất. Đây chình là nguồn ngoại tệ “rẻ nhất” mà ngân hàng có thể huy động. Đồng thời phải đa dạng hơn nữa các loại ngoại tệ để đáp ứng được nhu cầu tín dụng thanh toán của khách hàng trên mọi thị trường với các loại ngoại tệ khác nhau.
Tiếp tục đào tạo nâng cao trình độ của cán bộ trong ngân hàng
Theo thống kê thì tỷ lệ đại học trong ngành ngân hàng là cao hơn so với các ngành khác vì yêu cầu của ngành là phải luôn đi trước các ngành kinh tế khác một bước cho nên yêu cầu về cán bộ càng cần thiết. Cán bộ ngân hàng ngoài việc được đào tạo về nghiệp vụ cần phải có trình độ ngoại ngữ, máy tính để có thể tự làm được công việc của mình để không phải thông qua bất cứ một bộ phận nào khác. Ngoài ra họ còn phải là người thông thạo hơn cả về thị trường, những biến động của thị trường và nhạy cảm với những biến động đó.
Đối với cán bộ tín dụng đảm nhận các khoản vay xuất nhập khẩu, chuyên trách nhiệm vụ thanh toán với nước ngoài càng cần có trình độ ngoại ngưc để có thể lập hợp đồng theo ý của khách hàng ngay lập tức, đọc và phát hiện những sai sót trong hợp đồng kinh tế bằng ngoại ngữ. Thao tác trên máy tính nhanh gọn góp phần tăng tốc độ của thanh toán.
Do đó hàng năm ngân hàng cần có kế hoạch bồi dưỡng bổ xung kiến thức còn thiều, chưa cập nhật của cán bộ. Chấp nhận mất chi phí để việc đào tạo có hiệu quả hơn, tránh tình trạng học chỉ là hình thức, chỉ là thông báo về những văn bản mới. Cần đi sâu vào các nghiệp vụ thao tác.
Giải pháp này không có hiệu quả ngay trong thời gian ngắn mà có giá trị tích luỹ trong dài hạn.
Kiến nghị đối với Ngân hàng TMCP Phương Nam
Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, tạo thế cạnh tranh mới.
Như chúng ta đã biết, ngân hàng là một ngànhkinh doanh mặt hàng là tiền tệ, nó phải đi trước các ngành khác về mọi mặt. Cho nên, ngay từ bây giờ các ngân hàng cần có kế hoạch nâng cấp công nghệ của mình để đáp ứng nhu cầu trong nước, sau đó tiến kịp với công nghệ của thế giới, đảm bảo các chỉ tiêu được quốc tế hoá, tiến tới hội nhập cả trên lĩnh vực tài chính tiền tệ.
Hoạt động này cần một số vốn rất lớn do đó rất cần một chương trình kế hoạch cụ thể của cấp trên, cụ thể ở đây là Ngân hàng TMCP Phương Nam . Hiện nay về công nghệ ngân hàng, đặc biệt là công nghệ thanh toán, nhìn chung Ngân hàng Công thương Việt Nam còn thua kém Ngân hàng TMCP Phương Nam. Mặc dù đã trang bị nhiều máy vi tính cho các ngân hàng chi nhánh nhưng vẫn chưa đủ và thiếu đồng bộ. Khi áp dụng phần mềm vào thì chưa đồng bộ, và hoạt động chưa hiệu quả vì hạn chế của cán bộ thực hiện.
Do đó, để việc áp dụng công nghệ mới hiệu quả cần có sự đào tạo cán bộ cho đồng bộ. Đồng thời cần một số vốn lớn để nhập công nghệ, chuyển giao và áp dụng công nghệ đó thật hiệu quả.
2.3.2. Củng cố và mở rộng hệ thống chi nhánh và đại lý.
Hệ thống ngân hàng đại lý có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển hoạt động thanh toán quốc tế và tín dụng xuất nhập khẩu. Qua ngân hàng đại lý có thể trực hiện cho vay gián tiếp, khai thác các nguôn tại trợ để bổ sung cho nguồn vốn ngoại tệ, tìm hiểu thông tin về các đối tác trong hợp đồng ngoại thương của khách hàng, nhằm tránh rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng của khách hàng cũng như của Ngân hàng TMCP Phương Nam.
Hiện nay Ngân hàng TMCP Phương Nam Hà nội có quan hệ đại lý trên cả nước, đã hình thành các cơ sở tại các tỉnh thành phía nam, từ Hà nội Ngân hàng sẽ mở rộng hoạt động trên khắp miền bắc; đồng thời tham gia các dự án cùng với các ngân hàng khác trên thị trường quốc tế..... tiến tới thành lập các văn phòng đại diện, các chi nhánh của tại các thị trường này.
2.3.3. Nâng mức uỷ quyền phán quyết cho vay ngoại tệ.
Nhược điểm cơ bản khiến khách hàng lớn không muốn giao dịch tại Ngân hàng TMCP Phương Nam Hà nội là thời gian phán quyết đối với các món vay vượt mức phán quyết của giám đốc là còn chậm đồng thời còn thấp, không đáp ứng được nhu cầu vốn của họ.
Vì vậy, để thuận tiện hơn cho hoạt động cho vay xuất nhập khẩu tại chi nhánh, đề nghị tăng mức uỷ quyền cho các chi nhánh, tạo thể chủ động hơn cho các ngân hàng.
2.3.4. Nới lỏng hơn đối với hoạt động huy động vốn.
Như chúng ta vẫn biết, Ngân hàng Công thương Việt Nam ấn định lãi suất thu hút đầu vào cũng như các đợt phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, cả đến các kỳ hạn của các loại tiền gửi, ví dụ như hiện nay vẫn chưa có ký hạn 9 tháng. Chính tình trạng thu hút như vậy đã làm cho ngân hàng không chủ động được nguồn vốn kinh doanh của mình, đồng thời cũng gần như đặt ra một giới hạn dưới chung cho các ngân hàng chi nhánh cùng hệ thống, vì họ không thể cho vay thấp hơn lãi suất huy động.
Cho nên cần có những chính sách mới đối với lãi suất đầu vào. Có thể để các ngân hàng chi nhánh tự ấn định dựa trên thực lực kinh doanh của bản thân. Đồng thời trao cho các chi nhánh ngân hàng quyền tự ấn định các hình thức thu hút, các ký hạn của tiền gửi tiết kiệm để từ đó các chi nhánh có thể tự điều chỉnh được lãi suất thu hút trung bình, điều này hoàn toàn ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng.
2.4. Kiến nghị đối với Nhà Nước và Ngân hàng Nhà Nước.
2.4.1.Về hệ thống luật và văn bản dưới luật.
Nhìn chung luật pháp của Nhà Nước ta nói chung và luật của ngànhngân hàng nói riêng đều có những sơ hở, những kẽ hở để những kẻ xấu có thể luồn lách được. Do đó công tác này phải được thực hiện tốt hơn.
Có thể nghiên cứu từ hệ thống luật của nước ngoài sau đó áp dụng có chọn lọc có sửa đổi cho phù hợp tình hình thực tế của nước ta.
Đối với các quyết định, các văn bản hướng dẫn cần cụ thể hơn, đi sâu nghiên cứu hơn và phải có thời gian thực hiện thí điểm, đồng thời liên tục được sửa đổi để phù hợp hoặc gạt bỏ những bất cập phát sinh khi đem ra thực hiện.
Tuy nhiên không được dựa vào việc có thể sửa đổi được mà cố tình làm luật một cách qua quýt. Càng như vậy càng cần một thái độ nghiêm túc trong công tác làm luật.
Tránh tình trạng trong một thời gian ngắn mà đã thay đổi chính sách đến mấy lần. Việc công bố lãi suất đầu vào và đầu ra cần được cụ thể hoá là lấy theo một nguồn nào đó như từ SIBOR hay theo lãi suất của ngân hàng ngoại thương Việt Nam để từ đó các chi nhánh ngân hàng áp dụng luôn không cần mỗi lần thay đổi lãi suất lại mất một lần thông báo bằng quyết định, điều này vừa lâu vừa không hợp lý trong tình hình thị trường đầy biến động như hiện nay.
Có những ý kiến của các cán bộ trong ngân hàng là quá nhiều văn bản hướng dẫn. Nếu nhiều văn bản nhưng văn bản này không trái ngược với các văn bản ra sau nó thì tốt. Nhưng trên thực tế, việc nhiều văn bản là do Nhà Nước và Ngân hàng Nhà Nước còn can thiệp quá sâu vào hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Hệ thống luật là bộ xương của ngành ngân hàng. Bộ xương đó có vững chắc thì cả cơ thể mới cơ thể phát triển một cách lành mạnh chắc chắn.
Về chủ trương cơ cấu lại ngân hàng
Trong năm 1999 Ngân hàng Nhà Nước đã ra Quyết định về việc tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Đây là một nghị định có tính hiệu quả cao nhưng hiện nay các ngân hàng mới đang ở những bước đầu để thực hiện.
Các ngân hàng đều có những bước đi cụ thể của mình, cụ thể đến từng chi nhánh nhưng thường tập trung vào:
- Xử lý nợ xầu: rà soát tình hình nợ quá hạn, phân loại nợ theo thành phần kinh tế, theo thời gian, nguyên nhân. Sử dụng quỹ dự phong rủi ro để xóa các khoản nợ quá hạn ra khỏi bảng cân đối tình hình huy động sử dụng vốn. Khai thách tài sản thế chấp, xin cấp cốn tự có. Thân trọng trong các món vay mới.
- Cơ cấu lại tổ chức hệ thồng, nâng cao hiệu lực điều hành, mở rộng mạng lưới, phát triển dịch vụ, quản lý rủi ro tín dụng
- Tăng cường tính minh bạch, đảm bảo an toàn, hiệu quả trong hoạt động kinh doanh: kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, nhưng không chồng chéo nhau.
- Đổi mới công nghệ, đưa nhiều tiện ích ngân hàng mới phục vị khách hàng.
Từ những hướng dẫn thực hiện đó, các ngân hàng thương mại cụ thể hoá để thực hiện một cách tốt nhất ở đơn vị.
Theo quyết định này, Ngân hàng Nhà Nước sẽ tăng vốn chủ sở hữu cho 4 ngân hàng thương mại quốc doanh của Việt Nam với điều kiện các ngân hàng này phải tự giải quyết đến một mức nào đó các khoản nợ, các tồn tại, làm trong sạch ngân hàng hơn.
Cũng theo quyết định này, các ngân hàng thương mại hy vọng Ngân hàng Nhà Nước sẽ tách cho vay chính sách và cho vay đối với các đơn vị kinh tế khác, có như vậy mới tạo cho các ngân hàng thương mại một động lực hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận là chính. Đồng thời các ngân hàng này cũng không thể đổ cho hoạt động cho vay chính sách đã làm suy kém hơn chất lượng các món vay của ngân hàng.
Thành lập ngân hàng chi nhánh xuất nhập khẩu.
Theo mô hình ngân hàng của các nước tiên tiến trên thế giới, đặc biệt là hệ thống ngân hàng của Trung Quốc. Đây là một quốc gia có cấu trúc về văn hoá chính trị xã hội tương đối giống chúng ta. Việc đưa ngân hàng xuất nhập khẩu đã làm tăng mạnh khả năng xuất khẩu của Trung Quốc trong thời gian gần đây. Đó là một ví dụ để chúng ta học tập tuy nhiên cần có sự nghiên cứu để việc áp dụng có hiệu quả nhất.
Các hình thức hỗ trợ xuất khẩu được áp dụng có thể là:
- Tín dụng hỗ trợ đầu tư xuất khẩu:
+ Cho vay đầu tư để sản xuất kinh doanh các mặt hàng xuất khẩu mới nhằm thay đổi cơ cấu mặt hàng
+ Cho vay đầu tư để mở rộng sản xuất nhằm tăng thêm số lượng hàng hoá xuất khẩu.
- Tín dụng hỗ trợ cho quá trình sản xuất, kinh doanh xuất khẩu: cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình sản xuất, kinh doanh, gồm các hình thức tín dụng trước khi giao hàng cho cả nhà xuất khẩu và cho nhà nhập khẩu.
- Bảo lãnh cho hoạt động xuất khẩu, gồm các hình thức voả lãnh dự thầu; bảo lãnh thực hiện hợp đồng; bảo lãnh vay vốn tín dụng ngân hàng và bảo lãnh thanh toán ứng trước.
- Bảo hiểm xuất khẩu: khi mua bảo hiểm tín dụng xuất khẩu các ngân hàng phân tán rủi ro trong hoạt động tín dụng xuất khẩu hơn là chi phí mua bảo hiểm lại dễ dàng đưa vào trong cơ cấu chi phí của nhà xuất khẩu. Bảo hiểm xuất khẩu còn bảo vệ tránh cho nhà xuất khẩu một loạt các tủi ro tiềm ẩn trong, trước và sau khi giao hàng như: rủi ro thương mại, rủi ro trong thanh toán, rủi ro trong chuyển ngoại tệ và rủi ro chính trị.
Hoạt động của ngân hàng này sẽ giống như một ngân hàng chính sách, nhưng vì hoạt động xuất nhập khẩu khác hẳn với việc cho sinh viên vay hay cho hộ nông dân vay xóa đói giảm nghèo nên sẽ không phải là chỉ có vay mà không có trả mà chỉ là thu ít lợi nhuận hơn hoặc chấp nhận hoà vốn vì mục đích tạo ra năng lực xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp trong nước. Có nghĩa là ngân hàng này sẽ hỗ trợ về vốn cho các hoạt động xuất nhập khẩu bằng việc giảm lãi suất, giảm phí, kéo dài thời hạn, bớt những yêu cầu có tính pháp lý, có những mức lãi suất khác nhau đối với các mục đích xuất nhập khẩu khác nhau....
Giải pháp này cũng rất phù hợp với các bước thực hiện tái cơ cấu lại ngân hàng của các ngân hàng thương mại. Đồng thời quy các hoạt động hỗ trợ xuất nhập khẩu vào một mối. Các hoạt động như trợ giá cho nông dân khi vụ mùa bị thất bại, khi bị thương nhân ép giá .... cũng có thể thông qua ngân hàng này. Như vậy có thể thống nhất được cả công tác quản lý kinh tế đối với mảng xuất nhập khẩu.
Phát triển thị trường hối đoái hoàn hảo để mở rộng nguồn vốn bằng ngoại tệ, cung cấp cho hoạt động cho vay xuất nhập khẩu.
Có ý kiến cho rằng thị trường ngoại tệ của nước ta còn rất hẹp, các hợp đồng với nước ngoài cón rất ít, chủ yếu do Ngân hàng Nhà Nước đứng tên hợp đồng mà các ngân hàng Thương mại chưa được phép, hoặc để đảm bảo lượng ngoại tệ cho hoạt động xuất khẩu, Ngân hàng Nhà Nước thường dựa vào hoạt động nhập khẩu hoặc các khoản vay nợ của nước ngoại.
Trong khi đó, việc tạo ra một thị trường ngoại tệ mở với nước ngoài chỉ có Ngân hàng Nhà Nước mới có thẩm quyền quyết định, bằng việc trao cho các Ngân hàng thương mại được tự do kinh doanh, tạo cho họ thể chủ động hơn.
Tóm lại, những giải pháp và kiến nghị trên đây là những đề xuất của bản thân sau một thời gian thực tập nghiên cứu thực tế tại chi nhánh Ngân hàng Cổ phần PHƯƠNG NAM tại Hà Nội. Đó có thể là những đề xuất đúng hoặc chưa đúng, phù hợp hay chưa phù hợp nhưng đều có tính đóng góp.
Kết luận
Trong những năm đầu phát triển của Việt Nam, cùng với sự phát triển vũ bão của kinh tế thế giới, tốc độ phát triển “thần kỳ” ở Nhật, sự đột phá của các “con rồng’’ Châu á và sự lớn mạnh về kinh tế của các nước Đông Nam á. Việt Nam từng bước hội nhập và phát triển, tiếp thu công nghệ của các nước đỉ trước dần khẳng định vị thế của mình ở khu vực và trên thế giới. Trong lĩnh vực thanh toán Ngân hàng hiện nay,với những áp dụng chưa từng có từ trước tới nay về các thành tựu của khoa học, kỹ thuật và công nghệ, khó có ai có thể phủ nhận vai trò nền tảng của hệ thống thanh toán quốc tế trong cơ sở hạ tầng tài chính của một nền kinh tế thị trường phát triển. Hệ thống thanh toán quốc tế không ngừng được cải thiện với các phương tiện mang tính ưu việt hơn trước, các chính sách ưu đãi đã góp phần phát triển kinh tế đất nước nói chung và Ngoại thương nói riêng. Thanh toán quốc tế phát triển tạo tiền đề cho việc giao dịch và trao đổi ngoại thương giữa các quốc gia, đưa dần dần nền kinh tế Việt Nam vào dòng chảy của thời đại. Thông qua thanh toán quốc tế nổi bật lên vai trò của ngân hàng, hệ thống liên Ngân hàng trong quan hệ giao dịch và trao đổi về Ngoại thương. Tóm lại, mọi hoạt động mang tính chất hội nhập và phát triển đều cần có sự trao đổi giữa các quốc gia, sự trao đổi dựa trên nguyên tắc “hai bên cùng có lợi” tạo ra bước tiến mới trong quan hệ phát triển kinh tế giữa các nước. Đứng giữa đó, vai trò của Ngân hàng và nghiệp vụ thanh toán quốc tế đóng vai trò quan trong việc thúc đẩy tiế trình phát triển nhanh chóng hơn. Thanh toán quốc tế là một hệ thống không thể thiếu và tách rời trong mọi nền kinh tế đặc biệt đối với Việt Nam, một nước đang phát triển theo nền kinh tế thị trường.
Được sự giúy đỡ của TS - đào văn hùng và các cán bộ nhân viên tại chi nhánh ngân hàng Cổ phần PHƯƠNG NAM tại Hà nội em đã hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0026.doc