PHẦNMỞĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nền kinh tế nước ta đã từng bước chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế mởđòi hỏi các doanh nghiệp phải hết sức nỗ lực trong sản xuất kinh doanh để có thể chiến thắng trong cạnh tranh, đáp ứng cho yêu cầu tồn tại và phát triển. Bên cạnh các DNNN, yêu cầu của nền kinh tếđã tạo điều kiện cho hàng loạt các loại hình DNNQD hình thành và phát triển chiếm một tỉ trọng cao trong số lượng các doanh nghiệp vàđóng góp một phần giá trị lớn cho nền kinh tế. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới, thì thách thức đối với các doanh nghiệp nói chung và các DNNQD nói riêng càng lớn cả về quy mô hoạt động và chất lượng sản phẩm sản xuất. Các doanh nghiệp cần phải có một năng lực tài chính mạnh để có thểđáp ứng những nhu cầu cần thiết của mình trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên, không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng cóđủ vốn theo nhu cầu của mình, điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp phải huy động vốn từ các nguồn bên ngoài. Đối với các DNNN, vốn của doanh nghiệp là do Nhà nước cấp, đối với các DNNQD, vốn của doanh nghiệp là do các thành viên sáng lập tự góp và khi có nhu cầu về vốn lớn vượt quá khả năng của doanh nghiệp thì bắt buộc doanh nghiệp phải huy động từ các nguồn bên ngoài vàđi vay ngân hàng được coi là một giải pháp chủ yếu và tối ưu nhất trong điều kiện của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, không phải lúc nào nhu cầu của DNNQD cũng được đáp ứng vì nhiều lí do khác nhau do đó nhiều khi doanh nghiệp đã mất đi những cơ hội kinh doanh của mình. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để các DNNQD thoả mãn được các nhu cầu về vốn của mình, đặc biệt là bằng nguồn vay ngân hàng.
NHTMCP Quân Đội được thành lập với mục đích làđáp ứng nhu cầu vốn của các DNNN đặc biệt là các doanh nghiệp Quân đội. Nhưng sau hơn 13 năm trưởng thành và phát triển, phạm vi hoạt động của NHTMCP Quân Đội đã mở rộng ra vàđáp ứng nhu cầu về vốn cho mọi thành phần kinh tế. Trong thời gian qua ngân hàng đã từng bước tăng trưởng về số lượng tín dụng đối với các DNNQD với chất lượng tín dụng khá cao vàđã duy trìđược một số khách hàng truyền thống có tiềm lực mạnh. Tuy nhiên, với những gìđạt được chưa phải làđã tương xứng với tiềm năng của ngân hàng cũng như của các DNNQD, việc không ngừng mở rộng cho vay đối với các DNNQD là rất cần thiết để NHTMCP Quân Đội không ngừng mở rộng và phát triển, chính vì vậy Tôi đã chọn đề tài: "Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNQD tại NHTMCP Quân Đội"
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Đề tài tập trung vào việc nghiên cứu vai trò của TDNH cũng như của các DNNQD đối với sự phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời đề tài cũng chú trọng vào việc phân tích tình hình cho vay của NHTMCP Quân Đội đối với các DNNQD trong những năm gần đây, từđóđưa ra những vấn đề còn tồn tại vàđi tìm hiểu những nguyên nhân của những tồn tại đểđề ra những giải pháp góp phần mở rộng hơn nữa doanh số cho vay đối với các DNNQD của NHTMCP Quân Đội.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Đề tài phân tích một cách khái quát về những vấn đề chung như: những vấn đề cơ bản về Tín dụng ngân hàng, về DNNQD và hoạt động chung của NHTMCP Quân Đội trong thời gian vừa qua và tập trung vào việc phân tích thực trạng cho vay đối với DNNQD vàđưa ra các giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNQD tại NHTMCP Quân Đội.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu thống kê, phân tích, so sánh vàđặc biệt là sử dụng lý luận, nghiên cứu các chính sách marketing, quản trị trong ngân hàng để rút ra kết luận và những đề xuất chủ yếu.
5.Tên và kết cấu luận văn.
- Tên luận văn:
“Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNQD tại ngân hàng TMCP Quân đội”.
- Kết cấu luận văn ngoài phần mởđầu và kết luận gồm:
Chương I: DNNQD và vai trò của TDNH đối với sự phát triển của các DNNQD.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNNQD của NHTMCP Quân Đội.
Chương III: Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNQD tại NHTMCP Quân Đội.
MỤCLỤC
PHẦNMỞĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TÍNDỤNGNGÂNHÀNGVÀVAITRÒCỦATÍNDỤNGNGÂN HÀNGĐỐIVỚISỰPHÁTTRIỂNCỦACÁCDOANHNGHI ỆPNGOÀIQUỐCDOANH. 3
1.1. TÍNDỤNGNGÂNHÀNGVÀVAITRÒCỦATÍNDỤNGNGÂN HÀNGĐỐIVỚINỀNKINHTẾTHỊTRƯỜNG. 3
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng. 3
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng. 5
1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng. 6
1.1.3.1. Đối với nền kinh tế 6
1.1.3.2. Đối với NHTM. 7
1.1.3.3. Đối với khách hàng. 8
1.2. NHỮNGVẤNĐỀCƠBẢNVỀ DNNQD. 9
1.2.1. Khái niệm DNNQD. 9
1.2.2. Đặc điểm của DNNQD. 10
1.2.3. Vai trò của DNNQD đối với sự phát triển kinh tếđất nước. 12
1.2.4. Xu hướng phát triển của DNNQD tại nước ta vàđường lối của Đảng trong việc phát triển DNNQD. 16
1.3. VẤNĐỀCHOVAYĐỐIVỚICÁC DNNQD. 19
1.3.1. Vai trò của TDNH đối với các DNNQD. 19
1.3.2. Sự cần thiết của việc cho vay đối với các DNNQD. 21
1.3.3. Các nhân tốảnh hưởng tới việc cho vay các DNNQD. 24
CHƯƠNG 2:THỰCTRẠNGHOẠTĐỘNGCHOVAYĐỐIVỚI DNNQDCỦA NHTMCP QUÂNĐỘI 28
2.1. KHÁIQUÁTVỀ NHTMCP QUÂNĐỘI. 28
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển. 28
2.1.2.Cơ cấu tổ chức của ngân hàng TMCP Quân đội. 29
2.1.3. Khái quát hoạt động kinh doanh của NHTMCP Quân Đội. 30
2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn. 30
2.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn 33
2.1.3.3. Các hoạt động khác: 35
2.1.3.3. Kết quả hoạt động kinh doanh. 39
2.2. THỰCTRẠNGHOẠTĐỘNGCHOVAYĐỐIVỚICÁC DNNQD TẠI NHTMCP QUÂNĐỘI. 40
2.2.1. Thực trạng cho vay DNNQD tại hệ thống NHTMCP Quân Đội. 40
2.2.1.1. Tình hình cho vay các DNNQD. 40
2.2.1.2. Cơ cấu cho vay DNNQD. 48
2.2.1.3. Chất lượng khoản vay của khu vực ngoài quốc doanh. 49
2.2.2. Đánh giá chung về hoạt động cho vay của NHTMCP Quân Đội đối với DNNQD. 51
2.2.2.1. Những kết quảđạt được. 51
2.2.2.2. Tồn tại và nguyên nhân. 53
CHƯƠNG 3: GIẢIPHÁPMỞRỘNGCHOVAYĐỐIVỚI DNNQDTẠI NHTMCP QUÂNĐỘI 59
3.1. ĐỊNHHƯỚNGHOẠTĐỘNGCỦA NHTMCP QUÂNĐỘI. 59
3.2. GIẢIPHÁPNHẰMMỞRỘNGCHOVAYĐỐIVỚI DNNQD TẠI NHTMCP QUÂNĐỘI. 63
3.2.1. Giải pháp về tài chính. 63
3.2.2. Xây dựng một chiến lược cho vay cụ thểđối với khách hàng là các DNNQD. 65
3.2.2.1. Xác định tính chiến lược của việc cho vay đối với DNNQD. 66
3.2.2.2. Đổi mới và hoàn thiện quy chế cho vay đối với DNNQD. 67
3.2.2.3. Tăng cường công tác khách hàng. 70
3.2.2.4. Tích cực chủđộng trong việc tìm hiểu khách hàng DNNQD. 72
3.2.3. Mở rộng mạng lưới hoạt động và các kênh phân phối. 73
3.2.4. Phát triển nguồn nhân lực. 74
3.2.5. Phát triển công nghệ thông tin. 76
3.2.6. Tổ chức tốt mạng lưới thu thập, xử lí thông tin và phân tích thông tin tín dụng. 78
3.2.7. Xử lí nợ quá hạn. 79
3.3. MỘTSỐKIẾNNGHỊ. 80
3.3.1. Kiến nghịđối với Nhà nước và các cơ quan hữu quan 80
3.3.2. Kiến nghịđối với Ngân hàng Nhà nước 83
3.3.3. Kiến nghịđối với các DNNQD 84
KẾTLUẬN 87
93 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1546 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh tế Việt Nam cần thu hút được các ngân hàng nước ngoài mở tài khoản tại ngân hàng.
- Tăng cường tìm kiếm các nguồn tài trợ, uỷ thác của các Chính phủ, các tổ chức kinh tế, tổ chức Phi chính phủ đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội trong nước. Đồng thời thương lượng, đàm phán để vay vốn của các tổ chức tài chính tín dụng nước ngoài bằng nhiều hình thức vay: vay dài hạn, vay ngắn hạn, hạn ngạch tín dụng trong thanh toán quốc tế...
Chính sách lãi suất là do mức lãi suất chung trên thị trường quy định, tuy nhiên ngân hàng cũng có thể áp dụng một cách linh hoạt, đưa ra những mức lãi suất hấp dẫn đối với khách hàng để thu hút thêm khách hàng đến gửi tiền. Ngoài ra, ngân hàng có thể có các hình thức như :tặng quà khuyến mại, bốc thăm trúng thưởng... để kích thích khách hàng đến gửi tiền.
3.2.2. Xây dựng một chiến lược cho vay cụ thể đối với khách hàng là các DNNQD.
Môi trường kinh tế cạnh tranh quyết liệt tạo ra nhiều cơ hội cho các ngân hàng nhưng bên cạnh đó cũng có không ít thách thức. Các khách hàng đến quan hệ với ngân hàng mà cụ thể là các DNNQD ngày càng lớn nhưng các ngân hàng cùng mạng lưới hoạt động của nó cũng ngày càng nhiều, điều đó đòi hỏi các ngân ngân hàng cần phải chủ động, tích cực trong hoạt động kinh doanh của mình. Để thu hút thêm các DNNQD đến giao dịch vay vốn ngân hàng, theo em có một số biện pháp như sau:
3.2.2.1. Xác định tính chiến lược của việc cho vay đối với DNNQD.
Muốn phát triển tốt một hoạt động nào đó thì trước hết phải xác định được tầm quan trọng của nó đối với sự phát triển của ngân hàng để từ đó đưa ra phương pháp thực hiện cho phù hợp. Để mở rộng được hoạt động cho vay đối với DNNQD cũng vậy, ngân hàng cần phải xác định được tầm quan trọng của hoạt động cho vay DNNQD đối với ngân hàng, từ đó mới có thể đưa ra được những kế hoạch phù hợp để phát triển loại hình cho vay này. Từ thực tế hoạt động của ngân hàng, Tôi xin đề xuất một số nội dung của chính sách cho vay DNNQD như sau:
NHTMCP Quân Đội tiếp tục coi DNNQD là đối tượng khách hàng quan trọng trong công tác mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng. Trong thời gian tới ngân hàng cần đẩy mạnh các hoạt động tiếp xúc khách hàng, giới thiệu hình ảnh của ngân hàng tới các doanh nghiệp, tiếp thu ý kiến của khách hàng trong công tác cho vay của ngân hàng.
Ngân hàng cần có chiến lược, chính sách khách hàng phù hợp trong từng thời kì, có kế hoạch cụ thể cho từng lớp khách hàng, trong thời kì đầu, ngân hàng nên tập trung vào công tác trang bị các kiến thức cơ bản cần thiết cho các đối tượng có ý tưởng kinh doanh hay có ý tưởng thành lập doanh nghiệp. Sau khi doanh nghiệp được hình thành, hay các ý tưởng kinh doanh được xây dựng ở giai đoạn tiền khả thi thì ngân hàng bắt đầu giới thiệu các dịch vụ tiện ích của ngân hàng trong đó có hoạt động cho vay.
Ngân hàng nên có sự phân loại các ngành, lĩnh vực được ưu tiên trong hoạt động vay vốn tại ngân hàng. Sự phân loại này nên theo sát định hướng phát triển kinh tế của từng khu vực, định hướng phát triển đối tượng khách hàng hoạt động trên lĩnh vực công- thương nghiệp.
Tiếp tục có chiến lược kinh doanh nhằm tăng trưởng một cách lành mạnh với phương châm: "an toàn- hiệu quả- bền vững", cần bám sát các chương trình và định hướng phát triển kinh tế của khu vực, cùng với mục tiêu phát triển của ngành để đầu tư vốn vào những dự án khả thi, tăng cường đầu tư trung và dài hạn vào các chương trình kinh tế trọng điểm; chú trọng tăng thị phần tín dụng đối với các ngân hàng theo các dự báo và tín hiệu của thị trường, đặc biệt là các doanh nghiệp, công ty liên quan đến lĩnh vực công nghệ thông tin, các công trình xây dựng. Đối với những chi nhánh tại các tỉnh, ngân hàng nên tìm hiểu và đầu tư vào những khu kinh tế trọng điểm của tỉnh, các lĩnh vực mới có khả năng đem lại lợi nhuận cao. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần phải chú trọng đến việc nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế tới mức thấp nhất rủi ro cho ngân hàng, tăng cường kiểm tra, giám sát đối với khoản vay.
3.2.2.2. Đổi mới và hoàn thiện quy chế cho vay đối với DNNQD.
Thủ tục cho vay: Trên thực tế, khách hàng phàn nàn rất nhiều về thủ tục cho vay bởi nó nhiều khi quá cứng nhắc và rắc rối. Trong khi đó, những thủ tục đó cũng không làm giảm bớt rủi ro cho ngân hàng mà mặt khác nó còn hạn chế việc khách hàng đến với ngân hàng. Vì vậy, trong phạm vi hoạt động của mình ngân hàng nên có một số giải pháp như sau:
Cần phải đơn giản hoá thủ tục cho vay, rút ngắn thời gian xét duyệt vốn vay để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng một cách nhanh nhất nhưng vẫn phải đảm bảo chính xác và an toàn. Như vậy đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm và nhiệt tình, hết mình trong công việc.
Tạo sự đơn giản và dễ hiểu về thủ tục vay vốn để phù hợp với trình độ của mọi đối tượng khách hàng. Cán bộ tín dụng tiến hành giải thích và hướng dẫn khách hàng làm thủ tục vay vốn một cách rõ ràng, giải thích sự cần thiết của những loại giấy tờ và những khó khăn của ngân hàng để khách hàng thông cảm và ủng hộ ngân hàng. Tuy nhiên, đơn giản không có nghĩa là bỏ qua những giấy tờ cần thiết.
Cơ chế bảo đảm.
Hiện nay, ngân hàng vẫn chú trọng vào việc phải có tài sản đảm bảo khi khách hàng đến vay vốn ngân hàng và đi kèm với tài sản đó là hàng loạt các giấy tờ chứng nhận nguồn gốc xuất xứ cũng như quyền sở hữu, tài sản đảm bảo là thật sự cần thiết vì nó là một tấm rào chắn góp phần giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng, đảm bảo cho sự an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nhưng đối với các NHTM nói chung và NHTMCP Quân Đội nói riêng thì đó hầu như là một điều kiện chủ yếu và gần như là duy nhất, là điều kiện cần và đủ để khách hàng vay vốn ngân hàng. Đối với các DNNQD thì điều kiện đó gần như là bắt buộc và càng chặt chẽ hơn và do đó có thể hạn chế việc khách hàng đến với ngân hàng. Vì vậy, trong thời gian tới, ngân hàng cần phải linh hoạt và chủ động hơn trong việc xem xét tài sản đảm bảo trong quá trình thẩm định khoản vay, cần xác định tài sản đảm bảo chỉ là một điều kiện cần thiết chứ không phải là điều kiện đầy đủ và duy nhất. Mặt khác, đối với những khách hàng truyền thống, có uy tín đối với ngân hàng, ngân hàng nên đơn giản hoá thủ tục vay và nhanh chóng giải quyết nhu cầu vay cho khách hàng. Điều đó sẽ góp phần kích thích khách hàng đến vay vốn và giảm đi sự e ngại về thủ tục vay cho khách hàng.
Ngân hàng cũng có thể áp dụng các hình thức bảo đảm khác nhau dựa trên những tài sản sẵn có của doanh nghiệp như: hàng tồn kho, các khoản phải thu, các hợp đồng kinh tế, giấy tờ có giá... và có thể sử dụng kết hợp các hình thức để linh hoạt hơn trong giải quyết cho vay. Tuy nhiên việc thẩm định tài sản đảm bảo phải được tiến hành một cách cẩn thận và chính xác để hạn chế tổn thất cho ngân hàng khi có rủi ro xảy ra. Điều đó đòi hỏi cán bộ thẩm định phải am hiểu về thị trường và tâm huyết với nghề, tránh tình trạng cán bộ tín dụng câu kết với khách hàng để trục lợi, từ đó mới có thể xác định chính xác được giá trị của tài sản.
Việc quản lí, theo dõi, kiểm tra thường xuyên đối với tài sản bảo đảm sẽ giúp ngân hàng thấy được tình trạng của tài sản đảm bảo để từ đó có biện pháp chấn chỉnh và xử lí kịp thời, tránh tình trạng doanh nghiệp dùng một tài sản đi vay nhiều nơi. Để hoạt động này có hiệu quả, ngân hàng nên có sự phối hợp chặt chẽ với các ngân hàng khác, với chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng trong việc thẩm tra giám sát tài sản của DNNQD.
Quy trình cho vay:
Việc thực hiện đúng quy trình cho vay đã quy định là cần thiết đảm bảo sự an toàn cho khoản vay, tuy nhiên cán bộ tín dụng có thể áp dụng một cách linh hoạt quy trình cho vay, đối với những khâu đơn giản có thể thực hiện nhanh chóng để giảm bớt thời gian chờ đợi cho khách hàng. Ngân hàng nên chủ động hướng dẫn khách hàng làm hồ sơ, hướng dẫn các thủ tục cần thiết một cách rõ ràng và cụ thể ngay khi khách hàng phát sinh nhu cầu để giảm được thời gian phải điều chỉnh, bổ sung giấy tờ nếu xảy ra, gây mất thời gian và chi phí cho khách hàng đồng thời việc chờ đợi giải ngân có thể làm cho khách hàng mất đi cơ hội trong kinh doanh. Cần có sự phối hợp giữa các phòng, ban, giữa bên thẩm định, ra quyết định với bên giải ngân để nhanh chóng cung ứng vốn cho khách hàng, kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đa dạng hoá hình thức cho vay: Hiện nay, các DNNQD hoạt động rất đa dạng, một doanh nghiệp có thể thực hiện sản xuất kinh doanh nhiều sản phẩm khác nhau chính vì vậy nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp không chỉ phát sinh theo từng thời điểm, thời kì nhất định mà diễn ra liên tục, đặc biệt là nhu cầu vốn lưu động, do đó doanh nghiệp luôn luôn có nhu cầu vay vốn ngân hàng. Chính vì vậy, cho vay theo hạn mức tín dụng càng ngày càng trở nên phù hợp hơn với nhu cầu của doanh nghiệp, ngân hàng cần phát triển loại hình cho vay này. Sử dụng loại hình cho vay này sẽ giảm bớt được các thủ tục và giấy tờ khi giải ngân, đồng thời qua diễn biến của tài khoản ngân hàng biết được khách hàng đang gặp thuận lợi hay khó khăn để kịp thời tìm cách tháo gỡ. Khi cho vay theo hạn mức tín dụng ngân hàng cũng cần phải lựa chọn những khách hàng tốt có uy tín, có quan hệ thường xuyên với ngân hàng vì loại hình cho vay này rất dễ dẫn đến rủi ro.
Trong điều kiện hiện nay của nền kinh tế, ngân hàng nên mở rộng thêm các loại hình cho vay với điều kiện tín chấp, cho vay dựa trên bảo lãnh của bên thứ ba. Các loại hình cho vay này chủ yếu được áp dụng đối với những doanh nghiệp có uy tín và hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Việc mở rộng những loại hình cho vay này cũng góp phần tăng cường mối quan hệ của ngân hàng.
Mặt khác, ngân hàng cũng nên đa dạng hoá các thời hạn cho vay cũng như lãi suất cho vay, để đáp ứng được nhu cầu vốn của khách hàng trong ngắn hạn cũng như dài hạn.
Kiểm tra, giám sát món vay cũng như xem xét, tổng kết, đánh giá hiệu quả của món vay. Đối với bất kì một hoạt động nào muốn nâng cao hiệu quả cũng cần phải có việc giám sát và đánh giá kết quả đạt được để từ đó tìm ra được những điểm mạnh, điểm yếu cũng như rút ra những kinh nghiệm cho giai đoạn tiếp theo để từ đó tìm ra được cách làm đúng nhất, hiệu quả nhất. Đối với công tác cho vay của ngân hàng thì điều đó càng quan trọng hơn vì hiệu quả của mỗi khoản vay không những đem lại lợi nhuận cho ngân hàng mà nó còn góp phần tạo nên hình ảnh của ngân hàng trong tương lai. Việc cho vay đối với các DNNQD càng ngày càng trở nên phức tạp hơn trong điều kiện thị trường biến động và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, chính vì vậy, sau khi giải ngân, ngân hàng cần phải tiếp tục theo dõi xem khách hàng có sử dụng khoản vay đúng mục đích hay không, khoản vay có đang đem lại hiệu quả không...
Đối với mỗi khoản nợ quá hạn, ngân hàng cần phải đi sâu tìm hiểu nguyên nhân và dựa trên uy tín cũng như trình độ sản xuất hiện tại của khách hàng để quyết định xem có nên gia hạn cho khoản vay hay không. Ngoài ra, theo từng thời kì, ngân hàng nên tổng kết đánh giá và có sự so sánh về doanh số cho vay, số lượng khách hàng cũng như chất lượng khoản vay để rút ra kinh nghiệm cho kì tiếp theo. Từ những biện pháp trên sẽ giúp ban lãnh đạo ngân hàng cũng như cán bộ tín dụng xác định được những biện pháp cụ thể để thúc đẩy tăng trưởng dư nợ cho vay DNNQD.
3.2.2.3. Tăng cường công tác khách hàng.
Về mặt chiến lược, chính sách cho vay là phải thu hút được khách hàng mới; duy trì, phát triển khách hàng truyền thống từ đó mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng. Công tác khách hàng được xem như một công việc quan trọng của ngân hàng nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường như hiện nay. Để làm tốt công tác khách hàng, ngân hàng cần tập trung vào một số vấn đề sau:
Đánh giá, phân loại khách hàng dựa trên các tiêu chuẩn về năng lực tài chính, về vị thế và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường cũng như khả năng quản lí, khả năng thích nghi với môi trường kinh doanh chứ không phải là dựa trên hình thức sở hữu như trước. Các tiêu thức trên sẽ quyết định tính hợp lí của nhu cầu vay vốn cũng như khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Việc đánh giá và xếp loại khách hàng rất quan trọng giúp ngân hàng đưa ra được những chính sách cụ thể đối với từng đối tượng khách hàng, để từ đó đưa ra những quy định về hạn mức cho vay cũng như có chính sách quản lí món vay hiệu quả.Nhờ công tác thống kê và thẩm định khách hàng, Ngân hàng TMCP Quân đội có thể đánh giá và phân chia khách hàng thành 5 loại như sau:
Khách hàng loại 1: Là khách hàng có chiến lược phát triển kinh doanh, hoạt động kinh doanh tốt, có triển vọng trên thị trường, là khách hàng tiềm năng, tình hình tài chính ổn định và có xu hướng phát triển; các năm hoạt động kinh doanh đều có lãi, tỷ suất lợi nhuận cao; không bị mất cân đối về đầu tư, đảm bảo đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn; có uy tín trong quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng; không có nợ quá hạn tại bất kỳ tổ chức tín dụng nào tại thưòi điểm xét dưyệt và trong vòng 02 năm trở lại; hoạt động chính qua Ngân hàng Quân đội; phương án kinh doanh khả thi, hiệu quả đảm bảo chắc chắn hoàn trả vốn vay; doanh thu của phương án kinh doanh qua Ngân hàng Quân đội, ưu tiên khách hàng có tài sản đảm bảo.
Đối với các Doanh nghiệp xây lắp có năng lực tài sản cố định mạnh, có đội ngũ cán bộ kỹ thuật công nhân lành nghề, đã xây dựng nhiều công trình có quy mô lớn, có chất lượng cao. Ngân hàng TMCP Quân đội cần có chính sách ưu đãi về quan hệ, lãi suất và các dịch vụ khác đi kèm. Có thể cho khách hàng vay tín chấp đối với một số phương án kinh doanh có hiệu quả và quản lý được nguồn thu.
Khách hàng loại 2: Khách hàng hoạt động có hiệu quả, có tiềm năng phát triển, tuy nhiên hạn chế về nguồn nhân lực tài chính và có nguy cơ tiềm ẩn, rủi ro thấp. Là khách hàng tiềm năng. Doanh thu ổn định, 03 năm có lãi, tỷ suất lợi nhuận cao; không bị mất cân đối về đầu tư, đảm bảo đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn; có uy tín trong quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng; không có nợ quá hạn tại bất kỳ tổ chức tín dụng nào hoặc có nợ quá hạn trong quá khứ nhưng giải quyết trong vòng 60 ngày, không có nợ gia hạn trong vòng 01 năm trở lại; hoạt động chính qua Ngân hàng Quân đội; phương án kinh doanh khả thi, hiệu quả đảm bảo chắc chắn hoàn trả vốn vay; doanh thu của phương án kinh doanh qua Ngân hàng Quân đội, khách hàng có tài sản đảm bảo.
Khách hàng loại 3: Khách hàng hoạt động chưa hiệu quả, khả năng tự chủ tài chính thấp, có nguy cơ tiềm ẩn, rủi ro trung bình. Doanh thu ổn định, 02 năm liên tục kinh doanh có lãi, có một phần tài chính bị mất cân đối về mặt tài chính nhưng không gây mất khả năng thanh toán. Ban lãnh đạo có năng lực không cao. Doanh nghiệp không có nợ quá hạn hoặc có nợ quá hạn nhưng giải quyết trong vòng 120 ngày; có nợ gia hạn với tỷ lệ dưới 30% tổng dư nợ tại thời điểm xem xét. Là khách hàng cần phải nghiên cứu kỹ tình hình thực tế tại thời điểm vay, chỉ quản lý được dòng tiền và đảm bảo an toàn khoản vay hơn rất nhiều so với các khoản vay cùng loại khác.
Khách hàng loại 4: Khách hàng có hiệu quả hoạt động thấp, tài chính yếu kém, thiếu tự chủ về tài chính, rủi ro cao. Hoạt động kinh doanh không có lãi hoặc có lãi nhưng không đáng kể, tài chính bị mát cân đối. Có nợ quá hạn nhưng thời gian giải quyết rất dài. Có nợ gia hạn với tỷ lệ từ 30% đến 70%, thường xuyên không thanh toán đúng hạn, đã từng mất khả năng thanh toán trong vòng 12 tháng qua. Đây là khách hàng phải tập trung rà soát, bám chắc tình hình khách hàng, phải có phương án thu hồi khoản nợ cấp ra, quản lý chặt chẽ dòng tiền. Ngừng cấp tín dụng mới, bắt đầu nghiên cứu trích dự phòng rủi ro.
Khách hàng loại 5: Khách hàng kinh doanh thua lỗ kéo dài, tình hình tài chính yếu kém, không có khả năng tự chủ về tài chính, nguy cơ phá sản rủi ro cao. Năng lực quản lý điều hành kém hiệu quả, ban lãnh đạo thay đổi thường xuyên, nội bộ không đoàn kết thống nhất. Có nợ gia hạn nhưng chưa giải quyết được, nợ gia hạn với tỷ lệ trên 70% tổng dư nợ, tập trung biện pháp thu hồi nợ.
Ngân hàng Quân đội tập trung cho vay đối với các khách hàng loại 1 và 2. Khách hàng loại 3 cho vay trên cơ sở từng phương án, quản lý được dòng tiền. Khách hàng loại 4,5 tập trung thu hồi nợ bằng mọi biện pháp.
Tiếp tục thực hiện tốt chính sách khách hàng trên cơ sở nâng cao chất lượng phục vụ, cung ứng các dịch vụ, tiện ích khi khách hàng sử dụng các sản phẩm của ngân hàng, có cơ chế thu hút tiền gửi, tiền vay hợp lí dựa trên những quy định chung của NHNN nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của ngân hàng. Việc đa dạng hoá các sản phẩm phục vụ khách hàng cũng góp phần tạo cho khách hàng có nhiều lựa chọn khi đến giao dịch với ngân hàng.
Tiến hành phân loại khách hàng dựa trên các tiêu thức tỉ suất lợi nhuận, chu kì quay vòng vốn, chu kì trả nợ... Đây là những tiêu thức có tính chất quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng món vay cần được áp dụng trong việc phân loại khách hàng của ngân hàng.
Từ việc phân loại khách hàng như trên, ngân hàng sẽ đưa ra được những chính sách cụ thể, phù hợp với từng đối tượng khách hàng; có sự phân biệt khách hàng để lựa chọn và có những biện pháp quản lí khoản vay cũng như tài sản bảo đảm một cách có hiệu quả.
3.2.2.4. Tích cực chủ động trong việc tìm hiểu khách hàng DNNQD.
Xác định khách hàng DNNQD là những khách hàng tiềm năng, có thể đem lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng và là đối tượng ngân hàng cần tập trung khai thác và mở rộng, ngân hàng cần phải chủ động trong việc tiếp xúc khách hàng, tìm hiểu nhu cầu và khả năng của khách hàng kể từ trước khi khách hàng đến vay vốn ngân hàng. Điều đó có nghĩa là ngân hàng cần phải phát triển hơn nữa hoạt động marketing của ngân hàng. Hiện nay, phòng marketing của NHTMCP Quân Đội chỉ mới được thành lập tại hội sở chính, nó chưa phát triển tại các chi nhánh, chính vì vậy ngân hàng cần phải mở rộng và nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
Việc tìm hiểu khách hàng, gặp mặt trực tiếp khách hàng trước khi khách hàng đến vay vốn ngân hàng rồi thực hiện marketing cho những khách hàng tốt sẽ giúp ngân hàng chủ động hơn trong việc thẩm định khoản vay, ngân hàng sẽ tránh được sự bị động trước những thông tin mà khách hàng cung cấp theo hướng có lợi cho khách hàng. Đối tượng khách hàng cũng cần phải được đa dạng, hướng tới cho vay mọi đối tượng khách hàng.
Đội ngũ nhân viên marketing của ngân hàng nên tìm hiểu chính sách phát triển các ngành nghề của các tỉnh, nghiên cứu và tìm hiểu các đối tượng doanh nghiệp trên những địa bàn mà ngân hàng có chi nhánh để có chiến lược xúc tiến các hoạt động giới thiệu về chương trình cho vay của ngân hàng. Đội ngũ này cần phải có kiến thức sâu rộng và được đào tạo theo những chuyên ngành thích hợp và có thể được phân công phụ trách từng địa bàn cụ thể.
Trong thời gian tới, ngân hàng cần tiến hành mở rộng các hình thức tiếp cận khách hàng như: đến trực tiếp từng khách hàng, gặp gỡ họp mặt một khu vực khách hàng như: trong khu chế xuất, khu công nghiệp, làng nghề truyền thống... Đối tượng khách hàng cũng nên được mở rộng ra, tuy nhiên ngân hàng nên tập trung vào một đối tượng khách hàng mục tiêu của ngân hàng, ví dụ như mảng thị trường các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ngân hàng nên chủ động giới thiệu về hình ảnh, quy mô và uy tín của mình trên thị trường thông qua các chiến lược marketing để không ngừng mở rộng quan hệ đối với khách hàng và các đối tác đồng thời cũng tìm hiểu để nắm bắt được nhu cầu của khách hàng cũng như kinh nghiệm của các đối tác để từ đó có hướng đi đúng trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Đồng thời, ngân hàng cũng tăng cường giới thiệu về các điều kiện vay vốn cũng như thủ tục vay vốn trên các phương tiện thông tin đại chúng để khách hàng nắm bắt được và thực hiện.
3.2.3. Mở rộng mạng lưới hoạt động và các kênh phân phối.
Việc mở rộng mạng lưới các chi nhánh là rất quan trọng góp phần giúp cho khách hàng có thể tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng ở mọi nơi đồng thời cũng tạo nên hình ảnh của ngân hàng trong lòng công chúng. Mạng lưới hoạt động rộng cũng góp phần tăng lượng vốn huy động của ngân hàng từ các khoản tiền gửi từ mọi tầng lớp dân cư. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, các khu công nghiệp, các nhà máy đang hình thành và phát triển mạnh ở khắp các tỉnh thì việc mở rộng mạng lưới hoạt động sẽ giúp ngân hàng phát triển hoạt động của mình một cách nhanh chóng hơn.
Điểm yếu của các NHTMCP là do mới được thành lập nên chưa thể có được một mạng lưới hoạt động rộng như khối các NHNN. Đối với NHTMCP Quân Đội, hàng năm, mạng lưới hoạt động của ngân hàng lại được mở rộng ra trên các đô thị lớn và các khu kinh tế phát triển. Tuy nhiên, mạng lưới hoạt động của ngân hàng hiện nay vẫn còn hẹp chỉ tập trung ở một số những đô thị lớn. Tại một số khu công nghiệp phát triển như khu công nghiệp Nội Bài, khu công nghiệp Từ Sơn, khu công nghiệp Gia Lâm, khu công nghiệp Hải Dương... ngân hàng chưa có một chi nhánh nào. Chính vì vậy, trong thời gian tới, ngân hàng sẽ phải phát triển mạng lưới hoạt động của mình ra những khu công nghiệp phát triển đó.
Việc mở rộng mạng lưới hoạt động đòi hỏi ngân hàng phải có một lượng vốn đủ lớn do đó mở rộng cần phải dựa trên những nghiên cứu rõ ràng và chính xác đồng thời phải dựa trên tình hình thực tế của ngân hàng để đảm bảo đạt được hiệu quả cao trong quá trình hoạt động. Ngoài ra, ngân hàng cần phải bố trí nhân lực một cách phù hợp theo trình độ và kinh nghiệm công tác và phải phù hợp với tình hình phát triển của từng khu vực cụ thể.
Với những biện pháp đó sẽ giúp khách hàng dễ tiếp cận hơn với ngân hàng và ngân hàng đáp ứng nhanh hơn các nhu cầu vay vốn của khách hàng. Mặt khác, với một mạng lưới hoạt động rộng rãi cũng giúp ngân hàng gây được tiếng tăm trên thị trường và tăng hình ảnh và uy tín của mình trên thương trường trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt như hiện nay.
3.2.4. Phát triển nguồn nhân lực.
Con người là một yếu tố quan trọng và có tính quyết định đến hiệu quả của mọi hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động cho vay của ngân hàng nói riêng. Toàn bộ những quyết định cho vay, tiến trình thẩm định, thu hồi nợ vay... đều do cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là một khu vực dễ biến động và có nhiều phức tạp càng đòi hỏi cán bộ tín dụng ngân hàng cần phải hết sức linh hoạt, nhạy bén và có trình độ vững vàng. Đồng thời với trình độ khoa học công nghệ phát triển như hiện nay đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có trình độ nhất định về công nghệ thông tin để sử dụng được các máy móc hiện đại, ngoài ra cũng cần phải am hiểu về những lĩnh vực nhất định liên quan đến quá trình thẩm định khoản vay như: máy móc của doanh nghiệp, công nghệ của doanh nghiệp....
Chính vì vậy, phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng là một yêu cầu quan trọng nếu như ngân hàng muốn mở rộng hoạt động cho vay của mình cũng như hoạt động cho vay DNNQD nói riêng. Để làm được như vậy, ngân hàng có thể thực hiện các biện pháp sau:
Hàng năm, ngân hàng có kế hoạch tuyển dụng nhân viên vào làm việc tại ngân hàng sao cho đủ đáp ứng nhu cầu của công việc. Mặt khác, công tác tuyển dụng phải đảm bảo công bằng và nghiêm minh để tuyển dụng được những nhân viên có năng lực thật sự không chỉ về nghiệp vụ mà còn cả về trình độ tiếng Anh và vi tính bởi yêu cầu của quá trình hội nhập và công nghệ thông tin phát triển như hiện nay.
Nâng cao chất lượng nhân viên bằng cách tăng cường đào tạo cho các cán bộ nhân viên tại trung tâm đào tạo nghiệp vụ ngân hàng (BTC), chương trình phát triển dự án Mekong (MPDF) và các trường đại học tổ chức các khoá học chất lượng cao phù hợp với yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ của ngân hàng. Đồng thời khuyến khích, tạo điều kiện để các cán bộ nhân viên không ngừng học tập nâng cao trình độ. Ngân hàng cũng có thể cử nhân viên tham gia các khoá học đào tạo nghiệp vụ tại các ngân hàng và các tổ chức tài chính ở nước ngoài để tìm hiểu và học hỏi thêm kinh nghiệm.
Cán bộ nhân viên không chỉ được đào tạo về nghiệp vụ mà cần phải được đào tạo về phẩm chất đạo đức. Phong cách phục vụ, thái độ của nhân viên có ảnh hưởng rất lớn đến số lượng khách hàng đến giao dịch với ngân hàng và việc mở rộng các khoản cho vay. Chính vì vậy, ngân hàng cần phải có biện pháp thích hợp để kích thích nâng cao chất lượng phục vụ của nhân viên như có chính sách khen thưởng phù hợp với những nhân viên phục vụ tốt, và có biện pháp xử lí thích đáng đối với những nhân viên không làm vừa lòng khách hàng. Ngân hàng có thể tiến hành các cuộc thăm dò ý kiến của khách hàng về phong cách phục vụ của nhân viên để từ đó rút ra được kinh nghiệm và kịp thời có biện pháp xử lí phù hợp.
Sắp xếp nhân viên vào các vị trí sao cho vừa phù hợp với trình độ chuyên môn vừa phù hợp với vị trí công viêc. Đối với những nhân viên trực tiếp giao dịch với khách hàng và trực tiếp tiến hành công tác thẩm định thì đòi hỏi phải có một kĩ năng giao tiếp tốt, có hiểu biết về thực tế để có thể hướng dẫn khách hàng và làm hài lòng khách hàng. Họ cần phải khéo léo trong việc đàm phán, thương lượng với khách hàng về các điều kiện vay vốn, làm sao đảm bảo được lợi ích của ngân hàng mà vẫn thu hút được khách hàng.
Ngân hàng cũng cần xây dựng một chính sách tiền lương và tiền thưởng hợp lí không chỉ phù hợp với chức vụ mà còn phù hợp với năng lực và mức độ công việc của nhân viên để khuyến khích nhân viên nhiệt tình chủ động trong công việc. Đồng thời với một chính sách lương hấp dẫn sẽ thu hút được nhiều nhân tài đến tham gia dự tuyển từ đó giúp ngân hàng chọn lọc được những nhân viên có năng lực cao vào làm việc tại ngân hàng.
Với những biện pháp trên sẽ giúp cho NHTMCP Quân Đội tạo dựng được một đội ngũ cán bộ nhân viên vững vàng về nghiệp vụ, khéo léo trong giao tiếp với khách hàng để nâng cao chất lượng phục vụ. Đồng thời với những biện pháp thích hợp trong cách đối xử với nhân viên sẽ giúp cho đội ngũ nhân viên gắn bó với ngân hàng từ đó khuyến khích họ hết mình phấn đấu vì sự nghiệp phát triển chung của ngân hàng.
3.2.5. Phát triển công nghệ thông tin.
Công nghệ thông tin ngày càng phát triển như vũ bão nhưng đối với NHTMCP Quân Đội nói riêng và hệ thống NHTM Việt Nam nói chung trình độ công nghệ thông tin hiện nay vẫn còn ở trong tình trạng lạc hậu và còn kém xa so với trình độ chung của thế giới. Công nghệ hiện đại sẽ giúp cho ngân hàng giải quyết công việc một cách nhanh chóng và hiệu quả. Vì vậy, phát triển công nghệ thông tin là một yêu cầu cần thiết hiện nay, đòi hỏi ngân hàng cần phải tập trung đầu tư, phát triển. Ngân hàng cũng đã có kế hoạch phát triển công nghệ thông tin như sau:
+ Thuê tư vấn đánh giá thực trạng của hệ thống công nghệ thông tin và đề xuất các giải pháp để pháp triển hệ thống công nghệ thông tin phù hợp với chiến lược phát triển của Ngân hàng.
+ Đầu tư xây dựng hệ thống lõi (core banking), hệ thống xử lí dữ liệu thông minh (datawarehouse), hệ thống thông tin quản lí (MIS), hệ thống thông tin quản trị rủi ro.
+ Đầu tư xây dựng hệ thống dự phòng về công nghệ thông tin (back_ up system)
+ Phát triển các ứng dụng phục vụ các sản phẩm bán buôn, bán lẻ, các sản phẩm ngân hàng điện tử như Kiosk banking, Phone- banking, Home- banking, Mobile banking...
+ Phát triển mạng liên kết WAN diện rộng, thực hiện kết nối online trong toàn hệ thống và cơ sở dữ liệu khách hàng tập trung.
+ Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực quản trị thông tin.
Trong thời gian tới ngân hàng nên tập trung chú trọng hiện đại hoá lại những máy móc hiện có và trang bị thêm những máy móc mới cần thiết cho quá trình hoạt động và làm việc của nhân viên. Đẩy nhanh ứng dụng công nghệ tin học trong các nghiệp vụ ngân hàng, tập trung đầu tư phần mềm ứng dụng với các dịch vụ tiện ích của ngân hàng, đào tạo cán bộ đủ khả năng tiếp nhận kĩ thuật mới nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả thiết bị hiện có.
Đổi mới công nghệ ngân hàng không chỉ đơn thuần là trang bị kĩ thuật hiện đại mà nó phải gắn bó với việc đổi mới quy trình "sản xuất" của ngân hàng, điều đó có nghĩa là máy móc hiện đại phải tương ứng với trình độ của nhân viên sao cho có thể sử dụng được máy móc một cách có hiệu quả. Đổi mới quy trình "sản xuất" thể hiện ở chỗ: ngân hàng hiện đại hoá hệ thống thanh toán sao cho nhanh chóng, tiện ích để thu hút được nhiều khách hàng mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng; phát triển các dịch vụ tiên tiến phục vụ khách hàng như: giao dịch qua điện thoại, qua mạng máy tính...
Công nghệ thông tin phát triển do đó việc thực hiện giao dịch qua mạng internet ngày càng trở nên phổ biến. Hiện nay, NHTMCP Quân Đội đã có một trang web giới thiệu về các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cũng như về mạng lưới kinh doanh và nguồn vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay trang web này chưa được phong phú và cập nhật vì thế ngân hàng nên đầu tư nhiều hơn đối với nội dung, hình thức sao cho sinh động và chi tiết hơn bởi vì qua trang web sẽ giúp cho khách hàng biết được các thông tin về ngân hàng cũng như các vấn đề liên quan các sản phẩm mà khách hàng có nhu cầu để từ đó họ tìm đến ngân hàng. Mặt khác, khách hàng cũng có thể thực hiện giao dịch thông qua mạng internet, điều này góp phần tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả khách hàng và ngân hàng.
Để phát triển được một hệ thống công nghệ thông tin hiện đại đòi hỏi ngân hàng cần phải có một lượng vốn đủ lớn và ngân hàng cũng cần phải có một vị thế nhất định trên thị trường. Phát triển công nghệ thông tin không thể là giải pháp có thể tiến hành trong một thời gian ngắn và sẽ được thực hiện trong một thời gian dài dựa trên những nghiên cứu kĩ càng và cụ thể.
3.2.6. Tổ chức tốt mạng lưới thu thập, xử lí thông tin và phân tích thông tin tín dụng.
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, với sự đa dạng của các nguồn thông tin cùng với cách thức xử lí thông tin ngày càng hiện đại, việc thu thập đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin để phục vụ cho công tác thẩm định là khá phức tạp, song vô cùng cần thiết. Sự chính xác của thông tin ảnh hưởng quyết định đến chất lượng của khoản vay và ảnh hưởng trực tiếp đến sự an toàn của ngân hàng. Vì vậy trong công tác thu thập, xử lí, phân tích thông tin trong thời gian tới ngân hàng có thể thực hiện một số công việc sau:
Để có thể có đủ thông tin cần thiết cho việc đánh giá khách hàng, trước tiên, cần thiết lập hệ thống thông tin đa dạng từ nhiều nguồn khác nhau. Cùng với những thông tin khách hàng cung cấp, ngân hàng cũng nên chủ động trong việc tìm hiểu thêm các thông tin có liên quan đến khách hàng và liên quan đến khoản vay trên các báo, tạp chí, mạng internet... để hiểu rõ hơn về khách hàng. Cần đẩy nhanh quá trình ứng dụng công nghệ thông tin, thiết lập phần mềm để quản lí khách hàng, thống kê, nghiên cứu, lưu trữ thông tin từ đó bổ sung cho việc phân tích đánh giá khách hàng từ các lần vay sau.
Ngân hàng cần tìn hiểu kĩ các thông tin về hoạt động của khách hàng qua các bạn hàng, đối tác của khách hàng vay cũng như các cơ quan chức năng trên địa bàn doanh nghiệp hoạt động. Các DNNQD luôn có một số lượng bạn hàng rất đông đảo do đó việc ngân hàng tìm hiểu khách hàng trực tiếp vay vốn ngân hàng qua những đối tượng này sẽ giúp ngân hàng tìm hiểu thêm được những thông tin cần thiết và có ích đối với ngân hàng.
Ngân hàng nên tập trung vào những thông tin trực tiếp liên quan đến chất lượng khách hàng và khoản vay, đối với những thông tin đã có từ những khoản vay trước chỉ cần xem xét sơ qua và có thể bỏ qua một số thông tin mà đã chắc chắn độ chính xác. Việc này sẽ giúp ngân hàng dành thời gian để phân tích những thông tin cần thiết, rút ngắn thời gian xét duyệt khoản vay từ đó đưa ra quyết định nhanh chóng cho khách hàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng kịp thời cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Việc thu thập, xử lí, phân tích thông tin cần phải được giao cho những cán bộ tín dụng có kinh nghiệm và có những hiểu biết nhất định về từng lĩnh vực, từng ngành nghề cụ thể. Việc này sẽ giúp cho việc phân tích thông tin được tổ chức một cách chuyên nghiệp hơn, mang lại kết luận chính xác hơn.
Từ những việc làm trên sẽ giúp cho ngân hàng có được những khoản vay có chất lượng tốt từ đó tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng các khoản vay tiếp theo, tăng uy tín của ngân hàng.
3.2.7. Xử lí nợ quá hạn.
Mở rộng cho vay luôn đi kèm với nâng cao chất lượng cho vay. Hiện nay, nợ quá hạn của các DNNQD không cao, tuy nhiên đối với mỗi khoản nợ quá hạn mà ngân hàng không thu hồi được đều gây những tổn thất nhất định cho ngân hàng. Do đó việc xử lí nợ quá hạn thế nào để vẫn đảm bảo vừa thu hồi được nợ cho ngân hàng vừa không làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề rất khó khăn đặt ra cho ngân hàng đòi hỏi ngân hàng phải có những biện pháp thích hợp. Ngân hàng có thể giải quyết nợ quá hạn theo những cách sau:
Ngân hàng phải thường xuyên giám sát khoản vay, kiểm tra hạn mức tín dụng, thường xuyên gặp gỡ khách hàng và thăm quan thực địa... để kịp thời phát hiện ra những dấu hiệu bất thường ngay khi chúng mới phát sinh để kịp thời điều chỉnh, giải quyết kịp thời nhanh chóng, tránh trường hợp khi xảy ra rủi ro mới phát hiện ra, gây tổn thất cho ngân hàng.
Đối với những khoản nợ có vấn đề mới phát sinh ngân hàng cần nhanh chóng tìm nguyên nhân, nếu do nguyên nhân khách quan thì ngân hàng phải xem xét lại kế hoạch sản xuất kinh doanh, điều chỉnh lại phương án, dự án để phù hợp với điều kiện mới, cử những cán bộ có kinh nghiệm xuống từng đơn vị để giúp đỡ doanh nghiệp; nếu do tính toán nhầm chu kì sản xuất kinh doanh mà khi tới hạn doanh nghiệp vẫn chưa thu hồi được vốn để trả ngân hàng, thì tuỳ từng trường hợp ngân hàng có thể đốc thúc doanh nghiệp trả nợ hoặc thực hiện gia hạn nợ cho doanh nghiệp; đối với những trường hợp cố tình có ý lừa đảo, cần phải nộp hồ sơ báo cáo các cơ quan hữu quan để kịp thời xử lí. Ngân hàng nên chủ động và linh hoạt trong việc giải quyết nợ quá hạn để đạt được hiệu quả tốt nhất.
Đối với những khoản nợ khó đòi, ngân hàng có thể thu hồi những khoản thanh toán của khách hàng cử cán bộ xuống xem xét lại tình hình thực tế của khách hàng để đưa ra quyết định xiết nợ kịp thời tránh tình trạng để khách hàng không có khả năng trả nợ hoàn toàn mới xiết nợ. Đối với những khoản nợ khó đòi đã được xử lí bằng quỹ dự phòng rủi ro, ngân hàng tiếp tục tiến hành thu hồi bằng cách giao cho Công ty quản lí nợ và khai thác tài sản. Chỉ sau khi áp dụng mọi biện pháp thu hồi mà vẫn không thu hồi được nợ ngân hàng mới nhờ tới sự giúp đỡ của các cơ quan pháp luật.
Tóm lại, để hoạt động xử lí nợ quá hạn của ngân hàng đạt hiệu quả cao và đảm bảo sự an toàn trong ngân hàng đòi hỏi ngân hàng phải có hoạt động kiểm soát nội bộ tốt, công tác kiểm soát phải được tiến hành dưới hình thức định kì kiểm tra việc tuân thủ các quy chế nội bộ , luật... Ban lãnh đạo ngân hàng thông qua các báo cáo quản lí kiểm tra tình hình tín dụng.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.
Việc mở rộng cho vay đối với các DNNQD của NHTMCP Quân Đội không chỉ tạo điều kiện để khuyến khích các DNNQD phát triển hoà mình vào sự phát triển chung của đất nước mà còn góp phần giúp cho NHTMCP Quân Đội ngày càng mở rộng và phát triển hơn nữa trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh và hội nhập. Những năm trở lại đây, ngân hàng đã cố gắng tăng mức dư nợ đối với các DNNQD và đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên là một ngân hàng hoạt động trong sự quản lí vĩ mô của Nhà nước cùng với việc phải tuân theo những quy định mà NHNN đề ra thì một mình NHTMCP Quân Đội cố gắng là chưa đủ mà cần phải có sự giúp đỡ hướng dẫn của các cấp, ngành có liên quan. Mặt khác, để mở rộng cho vay đối với DNNQD thì đòi hỏi các DNNQD phải phát triển cả về quy mô và trình độ. Từ những nhận xét ở trên Tôi xin được đưa ra một số kiến nghị sau:
3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước và các cơ quan hữu quan
Nhà nước là một cơ quan quản lí vĩ mô và trực tiếp điều hành hoạt động của các DNNQD. Vì vậy, để tạo điều kiện cho các DNNQD phát triển, Nhà nước và các cơ quan hữu quan cần:
Tạo môi trường thuận lợi cho các DNNQD phát triển.
Vai trò của các DNNQD ngày càng trở nên quan trọng đối với nền kinh tế nước ta bởi đó là một khu vực hoàn toàn tự chủ và năng động trước những biến động của thị trường do đó hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn so với các DNNN. Tuy nhiên, có đến trên 90% các DNNQD là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoạt động sản xuất còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, để tạo điều kiện phát triển các DNNQD thì Nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ đối với khu vực kinh tế này. Nhà nước cần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, tạo cơ hội cho các DNNQD tham gia vào các hình thức đầu tư thích hợp, mở rộng thị trường tiêu thụ cho khu vực này.
Chính phủ chỉ đạo các ngành và địa phương sớm có chương trình, kế hoạch triển khai cụ thể, các chính sách về đất đai, tín dụng, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, xúc tiến thương mại, đầu tư... theo đúng như các quy định tại Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về chính sách của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Có chính sách hỗ trợ vốn cho các địa phương thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa; hỗ trợ về vốn và ban hành cơ chế, chính sách về đào tạo chủ DNNQD và cung cấp thông tin cập nhật, đầy đủ về thị trường ở trong và ngoài nước với chi phí hợp lí.
Khuyến khích mở rộng hoạt động của các DNNQD dựa trên cơ sở mục tiêu tổng thể của nền kinh tế quốc gia. Đối với những doanh nghiệp hoạt động trong những ngành, lĩnh vực đóng vai trò là ngành mũi nhọn của nền kinh tế thì Nhà nước nên có chính sách khuyến khích, và có sự ưu tiên, ưu đãi đối với những chủ đầu tư và có biện pháp hỗ trợ cụ thể.
Nhà nước cần thống nhất giữa các văn bản điều chỉnh hoạt động của các DNNQD để hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp diễn ra thuận lợi. Cải tiến thủ tục hành chính trong việc quyết định thành lập cũng như hoạt động của các doanh nghiệp. Các cơ quan hành chính Nhà nước nên nhanh chóng giải quyết các giấy tờ liên quan đến thủ tục vay vốn cho DNNQD để doanh nghiệp hoàn tất thủ tục một cách nhanh chóng.
Các Bộ, ngành có liên quan phối hợp rà soát Luật Doanh nghiệp, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Thuế, Luật Hải quan, Luật các TCTD... và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật này để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế Việt Nam và thông lệ quốc tế. Tạo một môi trường kinh tế, chính trị ổn định, thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng hoạt động và khuyến khích đầu tư.
Tăng cường công tác quản lí đối với DNNQD
Hoạt động của các DNNQD có đạt hiệu quả hay không ảnh hưởng rất lớn đến việc ngân hàng quyết định mở rộng cho vay đối với các loại hình doanh nghiệp này như thế nào vì vậy tăng cường giám sát góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNQD là một biện pháp hữu hiệu để ngân hàng mở rộng cho vay đối với khu vực này.
Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn thấp của sự phát triển, năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn đang ở trong tình trạng yếu kém, ít có sức cạnh tranh. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn nhỏ lẻ và mang tính chụp giật do đó các cơ quan quản lí phải tăng cường giám sát để có những giải pháp kịp thời. Tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau:
+ Tiến hành kiểm tra thường xuyên về điều kiện đăng kí kinh doanh của DNNQD, xử lí nghiêm các trường hợp đăng kí kinh doanh không đúng với thực tế, Bộ Tài chính cần ban hành cơ chế quản lí và kiểm soát thích hợp, bắt buộc DNNQD ghi chép, cập nhật sổ sách, phản ánh đúng tình hình tài chính, giúp cho các TCTD rút ngắn thời gian thẩm định khoản vay của doanh nghiệp.
+ Tăng cường sự quản lí bằng cách ban hành và hướng dẫn thực hiện các điều luật và có biện pháp xử lí thích đáng đối với những trường hợp vi phạm các điều luật đã đưa ra. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát đối với các DNNQD trong việc thực hiện các điều luật đã ban hành.
+ Thống nhất trong các văn bản, quy định; giảm bớt thời gian và giấy tờ trong việc cấp giấy phép kinh doanh nhưng vẫn phải đảm bảo đủ những giấy tờ cần thiết và doanh nghiệp thành lập phải đủ điều kiện về vốn, cơ sở vật chất phục vụ sản xuất, cán bộ điều hành phải đủ năng lực, phẩm chất đạo đức.
Việc thẩm định của ngân hàng đối với mỗi dự án cho vay được dựa trên những báo cáo tài chính mà các doanh nghiệp cung cấp. Các báo cáo tài chính này phải được lập theo chế độ hạch toán thống kê được quy định chung. Hiện nay kiểm toán Nhà nước thực hiện việc kiểm toán đối với các bộ, ngành, các tổng công ty 90- 91 và các công ty thành viên của các công ty này. Các công ty kiểm toán khác được thuê kiểm toán theo yêu cầu của các cơ quan chức năng hoặc tự nguyện của doanh nghiệp. Các DNNQD hiện nay đại đa số là chưa thuê kiểm toán để kiểm tra hoạt động tài chính của mình. Do vậy Nhà nước nên có các biện pháp bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ.
Nhà nước không chỉ là cơ quan quản lí vĩ mô đối với các DNNQD mà còn quản lí các hoạt động của các NHTM. Việc đầu tư vào các DNNQD của các NHTM có độ rủi ro rất cao do đó Nhà nước cũng cần phải tạo một môi trường pháp lí tốt để hoạt động cho vay của các ngân hàng diễn ra thuận lợi:
Hoàn thiện môi trường pháp lí cho hoạt động tín dụng
Hoạt động cho vay của ngân hàng hiện nay chủ yếu dựa trên các tài sản đảm bảo của khách hàng, tài sản bảo đảm đó bao gồm đất đai, nhà cửa, tài sản... Chính vì vậy, các cơ quan hữu quan nên nhanh chóng trong việc cấp giấy tờ sở hữu đối với các tài sản đó để tạo điều kiện cho ngân hàng nhanh chóng và thuận lợi trong việc thẩm định.
Triển khai việc đăng kí thế chấp bất động sản của các doanh nghiệp, cá nhân tại Sở Tài nguyên- Môi trường và Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ở những nơi đủ điều kiện theo đúng quy định của pháp luật; công bố công khai những nơi chưa thực hiện việc đăng kí doanh nghiệp để TCTD biết.
Khi có rủi ro phát sinh do không đòi được nợ mà sau khi ngân hàng thực hiện mọi biện pháp thu hồi nợ mà vẫn không thu hồi được nợ buộc ngân hàng phải nhờ đến sự giúp đỡ của các cơ quan pháp luật để giải quyết. Khi đó các thủ tục xét xử phải đơn giản và thuận tiện, việc điều tra phải chính xác và nhanh chóng để kịp thời khắc phục những hậu quả phát sinh, đảm bảo quyền lợi cho ngân hàng.
Các thủ tục trong việc công chứng phải diễn ra nhanh chóng, tránh gây lãng phí thời gian và sức lực không cân thiết. Hiện nay các phòng công chứng đang hoạt động trong tình trạng quá tải, không đáp ứng được hết nhu cầu, gây nhiều phiền phức vì thế Nhà nước nên cải tiến thủ tục công chứng sao cho đơn giản, gọn nhẹ, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ công chứng.
Trong giai đoạn sắp tới, khi nước ta bước chân vào tổ chức thương mại thế giới, hoạt động của các DNNQD cũng như các NHTM sẽ càng gặp phải nhiều khó khăn hơn khi phải đương đầu với một sức cạnh tranh mạnh mẽ. Chính vì vậy Nhà nước cần phải xem xét lại hệ thống các văn bản pháp luật đã ban hành để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện mới.
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
Hoạt động của các NHTM chịu sự điều chỉnh trực tiếp của các quy định, quy chế, nghị định... của NHNN. Để tạo điều kiện cho các NHTM nói chung và NHTMCP Quân Đội nói riêng mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động, em có một số kiến nghị đối với NHNN như sau:
Hiện nay, các văn bản pháp luật mà NHNN ban hành để điều chỉnh hoạt động của các NHTM vẫn còn mang tính chung chung, chưa có sự quy định cụ thể, rõ ràng đối với từng hoạt động cụ thể. Trong khi đó, hoạt động của các NHTM ngày càng đa dạng, phong phú và có nhiều phức tạp, chính vì vậy còn nhiều khó khăn cho các NHTM khi hoạt động trong những lĩnh vực mới. NHNN nên rà soát lại những văn bản hiện hành để điều chỉnh lại cho phù hợp với tình hình thực tế. Ngoài ra, đối với những văn bản đã không còn phù hợp với thực trạng của nền kinh tế và xu hướng của thị trường thì nên được thay bằng những văn bản mới. Ngoài ra, có những văn bản để điều chỉnh những lĩnh vực hoạt động mới của ngân hàng như cho thuê tài chính, hoạt động trên thị trường chứng khoán.
Thị trường liên ngân hàng là thị trường giải quyết mối quan hệ về vốn giữa các NHTM. Các NHTM có thể vay mượn lẫn nhau trên thị trường này trước khi cần sự giúp đỡ của NHNN. Như vậy, hoạt động của thị trường này nhằm tận dụng đến mức cao nhất các khả năng điều hòa vốn giữa các NHTM, sử dụng tiềm năng vốn một cách triệt để nhất trước khi yêu cầu đến tiền của NHNN. Chính vì vậy, NHNN nên tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của thị trường liên ngân hàng, hiệp hội ngân hàng cũng như việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin của trung tâm thông tin tín dụng (CIC).
NHNN nên có chính sách hỗ trợ cho ngân hàng khi có nhu cầu về vốn đột xuất, đảm bảo cho ngân hàng có đủ lượng vốn cần thiết đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Khi cần thiết, NHNN có thể giúp đỡ để ngân hàng tiếp tục hoạt động tránh tình trạng dẫn đến phá sản vì nó có thể ảnh hưởng đến hoạt động của cả hệ thống ngân hàng.
Có những biện pháp hỗ trợ các NHTM trong việc sử lí các khoản nợ có vấn đề. Hiện nay các NHTM gặp rất nhiều khó khăn trong việc xử lí tài sản đảm bảo khi có rủi ro xảy ra. Chính vì vậy, NHNN cần phối hợp với các cơ quan chức năng để giúp đỡ NHTM giải quyết vấn đề này.
3.3.3. Kiến nghị đối với các DNNQD
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNQD có đạt hiệu quả thì việc mở rộng cho vay đối với các DNNQD mới diễn ra thuận lợi. Trong thời gian qua, các DNNQD đã khẳng định được vai trò quan trọng của mình đối với sự phát triển của nền kinh tế đóng góp một phần quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại một số không nhỏ những doanh nghiệp làm ăn theo kiểu lừa đảo, chụp giật, làm ăn thua lỗ dẫn đến phá sản gây tổn thất rất lớn cho nền kinh tế. Hoạt động cho vay của NHTMCP Quân Đội nói riêng và đa số các NHTM nói chung đối với các DNNQD hiện nay còn nhiều dè dặt và hạn chế cũng bởi những nguyên nhân đó. Chính vì vậy, để hoạt động cho vay đối với DNNQD đạt hiệu quả cao và ngày càng phát triển hơn nữa phụ thuộc rất nhiều vào chính các DNNQD. Theo đó các DNNQD cần phải cố gắng hơn nữa trong hoạt động của mình theo những hướng sau:
Ngay từ khi có ý định đi vào sản xuất kinh doanh các chủ đầu tư phải xác định được mục đích kinh doanh chính dáng, lành mạnh, đầu tư vào những lĩnh vực phát triển mạnh và có xu hướng bền vững, tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư. Từ đó mới đạt được hiệu quả cao trong đầu tư.
DNNQD phải có kế hoạch và chiến lược kinh doanh phù hợp với điều kiện thực tế, ngành nghề sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; chủ động tiếp cận các thông tin về thị trường, xây dựng và thực hiện các dự án đầu tư khả thi, có hiệu quả, sản phẩm có khả năng cạnh tranh; hợp tác và liên kết với các doanh nghiệp khác; bảo đảm tính minh bạch về tài chính, hoàn thiện giấy tờ chứng minh quyền sở hữu về tài sản để doanh nghiệp có đủ điều kiện thế chấp.
Trình độ của người lãnh đạo là rất quan trọng đóng vai trò quyết định trong việc đạt được hiệu quả đầu tư. Một người quản lí tốt sẽ biết nắm bắt thời cơ, tận dụng tối đa nguồn lực hiện có và có những phương pháp điều hành hoạt động kinh doanh sao cho đạt được hiệu quả tốt nhất. Trình độ của cán bộ quản lí như thế nào cũng là một vấn đề mà ngân hàng xem xét khi thẩm định phương án dự án vay vốn. Chính vì vậy, cán bộ quản lí phải không ngừng nâng cao trình độ, học hỏi kinh nghiệm, tìm hiểu kiến thức thực tế... từ đó dẫn dắt doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
Các DNNQD phải chủ động trong việc đi tìm kiếm nguồn vốn và phải nhận thức được vai trò quan trọng của nguồn vốn vay từ ngân hàng, lãi suất phải trả ngân hàng là một chi phí mà doanh nghiệp được trừ đi khi tính thuế do đó doanh nghiệp phải nhận thức được vấn đề "tiết kiệm thuế nhờ lãi suất ngân hàng".
Các DNNQD phải tạo được uy tín của mình trên thị trường không chỉ đối với khách hàng mà còn với các đối tác kinh doanh của mình, tăng cường mối quan hệ để tìm hiểu phương pháp sản xuất kinh doanh, học hỏi thêm kinh nghiệm. Thành lập các hiệp hội để cùng phối hợp giúp đỡ nhau cùng phát triển.
DNNQD phải thực hiện hạch toán theo đúng chuẩn mực kế toán hiện hành để. Lập các báo cáo tài chính phải đảm bảo chính xác, từ đó tạo dựng lòng tin đối với ngân hàng để ngân hàng mở rộng cho vay, đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất.
Trên đây Tôi đã đề ra một số những biện pháp và kiến nghị nhằm góp phần mở rộng cho vay đối với DNNQD tại NHTMCP Quân Đội. Có thể nhận thấy, hoạt động cho vay đối với DNNQD muốn được mở rộng ra không phải là một yếu tố đơn giản và có thể thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau. Những giải pháp và kiến nghị Tôi đưa ra trên đây đều xuất phát từ tình hình thực tế cũng như định hướng hoạt động của ngân hàng trong thời gian tới.
KẾT LUẬN
Trải qua hơn 13 năm trưởng thành và phát triển, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, NHTMCP Quân Đội từ mục tiêu ban đầu là đáp ứng nhu cầu các dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp Quân đội đã không ngừng lớn mạnh, mở rộng đối tượng phục vụ, đáp ứng nhu cầu vốn của mọi thành phần kinh tế, đóng góp một phần quan trọng trong sự thành công của khách hàng. Trong vài năm trở lại đây, doanh số cho vay của ngân hàng đối với các DNNQD đã có sự tăng trưởng đáng khích lệ, thị phần cho vay DNNQD đang dần chiếm tỉ lệ cao trong hoạt động cho vay của ngân hàng với chất lượng các khoản vay là khá tốt. Tuy nhiên, xét một cách toàn diện, dư nợ cho vay DNNQD vẫn chiếm một tỉ trọng nhỏ (khoảng 40%) trong tổng dư nợ của ngân hàng, điều đó có nghĩa là, khu vực ngoài quốc doanh vẫn còn nhiều tiềm năng để ngân hàng khai thác.
Qua phân tích tình hình cho vay của NHTMCP Quân Đội đối với DNNQD trong thời gian qua, đề tài: "Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNQD tại NHTMCP Quân Đội" đã đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết những khó khăn hiện tại, phát triển hơn nữa hoạt động cho vay đối với DNNQD của ngân hàng, góp phần tăng lợi nhuận, nâng cao năng lực cạnh tranh và thế mạnh của ngân hàng trên thị trường. Hi vọng đề tài sẽ được ngân hàng xem xét và đóng góp một phần nhỏ bé trong việc mở rộng cho vay DNNQD tại ngân hàng, nhằm đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng.
Do đề tài nghiên cứu rộng và phức tạp, bản thân tác giả còn nhiều hạn chế, chắc chắn trên góc độ nào đó luận văn còn khiếm khuyết. Tác giả mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các nhà quản lý, các đồng nghiệp và các bạn đọc quan tâm đến lĩnh vực này để công trình nghiên cứu được tiếp tục hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThS1.docx