Luận văn Giải pháp mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thăng Long

Lời mở đầu Toàn cầu hoá - đó là su thế tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia trên thế giới. Đi liền với nó là những cơ hội và cả những thách thức vô cùng to lớn đối với mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó, sau khi đã trở thành thành viên chính thức của WTO, các Doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn khi bước chân ra biển lớn, nhất là đối với các DNV&N. Sức ép cạnh tranh sẽ không ngừng tăng lên khi tham gia vào thị trường trong và ngoài nước. Do vậy các DNV&N vẫn chưa được chuẩn bị để có thể chịu nổi áp lực cạnh tranh và sau đó là dần khẳng định được vị trí của mình trên trường quốc tế. Hiện tại, cả nước có khoảng 200.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, đóng góp trên 40% GDP, tạo nên hơn 12 triệu việc làm cho xã hội. Tiềm năng của khối doanh nghiệp này là rất lớn. Tuy nhiên để phát huy hết tiềm năng của mình, các DNV&N cần có đước sự hỗ trợ từ nhiều mặt về cơ chế chính sắch, trong đó hỗ trợ về vốn có tầm quang trọng hàng đầu. Vấn đề được đặt ra là làm sao hỗ trợ các DNV&N giải quyết những khó khăn, vướng mắc để các DNV&N phát triển một cách hiệu quả, bền vững và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. NHNo&PTNT có ưu thế là mạng lưới rộng khắp, có chi nhánh xuống đến cấp huyện, xã nên đáp ứng được yêu cầu của mọi Doanh nghiệp trên mọi miền đất nước. Tuy nhiên việc tiếp cận vốn vay hỗ trợ sản xuất kinh doanh của các DNV&N lại gặp không ít khó khăn bởi những rào cản do nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan. Xuất phát từ thực trạng đó, việc tiếp cận nghiên cứu lý luận, đánh giá thực tế và tìm giải pháp để mở rộng quan hệ tín dụng tại Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long đối với các thành phần kinh tế nói chung và các DNV&N nói riêng, để Ngân hàng và Doanh nghiệp hội nhập vào kinh tế thế giới, tôi đã chọn đề tài “ Giải pháp mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long” làm đề tài cho luận văn thạc sỹ của mình. Kết cấu luận văn gồm 03 chương Chương I: Tổng quan về cho vay của Ngân hàng thương mại đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ Chương II: Thực trạng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long. Chương III: Giải pháp mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long.

doc82 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1744 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o vay của Ngân hàng. Trong một thời gian dài có thể nói là Ngân hàng đã không tiến hành giải ngân, hoặc chỉ giải ngân nhỏ rọt đã kiến các Doanh nghiệp lao đao vì thiếu vốn phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của mình. 2.3.2.2. Chiến lược thu hút khách hàng Đây là điểm yếu có thể nói là cố hữu của các Ngân hàng thương mại Nhà nước, nguyên nhân là do mạng lưới và cơ cấu bộ máy tổ chức qúa lớn và trải dàn trên toàn quốc nên sự thay đổi trong cơ cấu sản phẩm là điều khó khăn và diễn ra chậm hơn sơ với hệ thống Ngân hàng cổ phần. Các sản phẩm của Ngân hàng thường là cố định được áp dung thống nhất trên toàn hệ thống, các sản phẩm có nhiều tính giá trị gia tăng cho khách hàng lựa chọn còn ít. Các khách hàng từ lớn, nhỏ cho đến tiềm năng hay không tiềm năng đều có một cơ chế như nhau chứ không linh hoạt và phù hợp với mỗi đối tượng khách hàng nên dẫn đến sức hút có thể nói là khách hàngông bằng các Ngân hàng cổ phần Trong thời điểm hiện nay nếu Ngân hàng đợi khách hàng đến với mình thì sẽ mất hết những khách hàng tốt và khách hàng tiềm năng của mình. Mỗi cán bộ Ngân hàng phải tự mình tìm đến những khách hàng tốt cho Ngân hàng, cung cấp cho khách hàng những sản phẩm tốt nhất, đa dạng nhất và có tính cạnh tranh nhất để lôi kéo khách hàng đó về với mình. 2.3.2.3. Lãi suất cho vay chưa linh hoạt và phù hợp Hiện nay Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long và hệ thống NHNo Việt Nam đều áp dụng chung mức lãi suất cho vay trên toàn hệ thống và phân chia lãi suất cho vay theo thời gian là: lãi suất cho vay ngắn hạn, lãi suất cho vay trung hạn và lãi suất cho vay dài hạn. Như vậy với quy định như trên vô tình chung đã làm đi tính cạnh tranh trong lãi suất đối với khách hàng. Trong kinh doanh chúng ta không thể đánh đồng mọi khách hàng như nhau được mà phải căn cú vào tình tình hình thực tế của từng khách hàng, từng lĩnh vực để đưa ra mức lãi suất phù hợp nhất và linh hoạt nhất cho khách hàng. 2.3.2.4. Sản phẩm, dịch vụ chưa đa dạng Hiện nay hệ thống Ngân hàng Việt Nam còn rất nhỏ bé so với các Ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Hoạt động kinh doanh Ngân hàng tại Việt Nam vẫn chưa hiện đại theo chuẩn quốc tế. Các sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng hiện nay vẫn tập trung chủ yếu vào công tác huy động vốn và cho vay chứ chưa đi sâu vào các dịch vụ hiện đại của Ngân hàng. Bên cạnh đó những sản phẩm đang áp dụng hiện nay còn đơn giản chưa đa dạng, sự liên kết những sản phẩmvà dịch vụ với các Ngân hàng khách còn yếu nên chưa tạo ra nhiều hấp dẫn cho khách hàng. 2.3.2.5. Tỷ lệ nợ quá hạn còn cao Trong kinh doanh của Ngân hàng thì nợ quá hạn là điều không thể tránh khỏi, tuy nhiên tỷ lệ đó phải ở mức cho phép theo một quy chuẩn nhất định thì mới đảm bảo an toàn kinh doanh cho Ngân hàng. Công tác tín dụng của Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long qua các năm đều tiến triên tốt về cả chất và lượng tuy nhiên tỷ lệ nợ quá hạn lại hơi cao nên sẽ ảnh hưởng đến sự an toàn, cũng như khả năng thu hối vốn của Ngân hàng. Khi tỷ lệ nợ quá hạn cao hơn tiêu chuẩn cho phép thì Ngân hàng đó phải tập trung vào công tác thu hồi nợ chứ không thể tiếp tục mở rộng cho vay qua đó sẽ ảnh hưởng lớn đến kế hoạch kinh doanh của Ngân hàng. 2.3.2.6. Trình độ chuyên môn của cán bộ Trong vài năm trở lại đây hiện tượng “khát” nhân lực ngành Ngân hàng diễn ra ở tất cả các Ngân hàng từ TMQD cho đến các Ngân hàng cổ phần. Hiện tượng những cán bộ có trình độ năng lực cao có xu hướng chuyển từ Ngân hàng Nhà nước sang Ngân hàng cổ phần với mức đãi ngộ cao hơn diễn ra rất phổ biến. Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long là một chi nhánh mới thành lập được hơn 5 năm nên có thể coi là một chi nhánh non tre trong hệ thống NHNo Việt Nam, trong suốt quá trình phát triển thì cũng gặp không ít khó khăn trong đó có khó khăn vrrg nhân sự. Hiện nay các cán bộ làm công tác tín dụng tại Chi nhánh có trình độ đại học chuyên nghành học còn ít nên dẫn đến trình độ đội ngũ cán bộ tín dụng thực sự có nghiệp vụ cứng có thể nói là rất ít mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thực tế. Các cán bộ trẻ được nhận vào làm phải có một thời gain nhất định mới có thể chủ động làm việc tín dụng được. Tư tưởng cán bộ tín dụng chờ khách hàng tìm đến với mình còn diễn ra, trong khi đó mỗi một cán bộ tín dụng phải là người chủ động tìm đến khách hàng để chào sản phẩm của Ngân hàng, tư vấn trực tiếp cho khách hàng về các dịch vụ của Ngân hàng và phải là người cùng chia sẻ các khó khăn trong kinh doanh với khách hàng. Những thông tin về Doanh nghiệp mà Ngân hàng có được chủ yếu là do khách hàng cung cấp nên thường thiếu chính sác, không đầy đủ, chưa thực sự đáng tin cậy…công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay còn một số hạn chế nhất định. Nguyền nhân của hiện trạng trên: > Từ phía Ngân hàng: Quy đinh từ Ngân hàng về hạn mức tín dụng cho vay tối đa với một khách hàng còn thấp, kỳ hạn các khoản vay chủ yếu là ngắn hạn, chưa phù hợp với nhu cầu thực sự của Doanh nghiệp, lãi suất cho vay còn cao, các ưu đãi chủ yếu dành cho các Doanh nghiệp lớn. Tâm lý cho vay còn phân biệt giữa Doanh nghiệp lớn và các DNV&N đang còn tồn tại. Mặc dù các DNV&N chiếm một tỷ trọng lớn trong số lượng các Doanh nghiệp ở bất cứ quốc gia nào, nhưng việc cho các DNV&N vay vẫn bị các Ngân hàng nhìn nhận là kém hấp dẫn. Ngân hàng thường có xu hướng cung cấp hạn mức tín dụng cho các khách hàng là các Doanh nghiệp lớn, có quan hệ lâu dài vì trong mắt Ngân hàng thì các Doanh nghiệp lớn ít bị rủi ro về phá sản. Mắc dù trong thời gian gần đây, cách nhìn nhận về các DNV&N đã đuợc cải thiện rất nhiều nhưng NHNo&PTNT chưa thực sự mặn mà với đối tượng này. Uy tín của các Doanh nghiệp thường tương đối thấp, các Doanh nghiệp chưa tạo được sự tin tưởng đối với Ngân hàng cho nên dẫn đến việc thẩm định các dự án còn thấp và chứa đựng nhiều rủi ro. Quy trình và thủ tục cho vay còn nhiều bất cập chưa thực sự phù hợp với các DNV&N. Hiện nay các Ngân hàng áp dụng quy trình cho vay đối với Doanh nghiệp lớn và Doanh nghiệp nhỏ đêu như nhau nên dẫn đến sự thiệt thòi cho các DNV&N. Trên thực tế các Doanh nghiệp “ma” vẫn ngang nhiên tồn tại và không thể quản lý được nên cũng gây ra tâm lý e ngại cho phía Ngân hàng. Năng lực, trình độ của cán bộ Ngân hàng chưa thực sự cao đặc biệt là trong công tác thẩm định dự án loon và phức tạp Thiếu thông tin thực tế trung thực về các DNV&N. Bên cạnh đó còn không ít hạn chế cần được chi nhánh tiếp tục tìm kiếm giải pháp khắc phục để nâng cao hơn nữa hoạt động tín dụng DNV&N từ đó tăng cường hiệu quả hoạt động góp phần vào việc thực hiện định hướng kinh doanh của toàn ngành Ngân hàng, mục tiêu và chiến lược kinh doanh của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. > Từ phía DNV&N: Có một thực tế là phần lớn các DNV&N không bổ xung và cung cấp cho ngân hàng các thông tin cần thiết, trung thực để các Ngân hàng có thể thẩm định để xét duyện cho vay hay không. Trên thực tế tài sản của DNV&N là của chủ Doanh nghiệp, nên trong các trường hợp đó các báo cáo tài chính thường là không chính xác và không trung thực, đây chính là thông tin mất đối xứng giữa Doanh nghiệp và Ngân hàng nên dẫn đến các Ngân hàng thường hạn chế tín dụng. Các DNV&N thưòng là các Doanh nghiệp có quy mô sản xuất nhỏ bé, manh múm, vốn ít, trình độ khoa học kỹ thuật và công nghẹ sản xuất còn lạc hậu. Thêm vào đó, trình độ quản lý, quản trị điều hành còn thiếu và yếu, việc phân tích và đưa ra chiến lược kinh doanh còn nhiều hạn chế, mang nặng tính thời vụ, thiếu một chiến lược rõ ràng. Các DNV&N khi mới thành lập thì gặp rất nhiều lúng tong trong việc xây dung chiến lược kinh doanh, chiến lược phát triển và chiến lược sản phẩm. Trình độ tay nghề của người lao động còn hạn chế, sản phẩm nghèo nàn. Trong quản lý và kinh doanh các DNV&N không chú trọng đến việc nắm bắt các cơ hội khai thác thông tin về các thị trường như: Thị trường vốn, lao động, nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường xuất khẩu... các DNV&N vẫn có thói quen kinh doanh kiểu cũ là sản xuất những gị mình có chứ không chú trọng sản xuất những gì thị trường cần. Chính vì các yếu tố đó mà sự phát triển đi lên của các DNV&N là gặp nhiều khó khăn, không thể phát triển mạnh mẽ được dẫn đến các Ngân hàng không dám mạo hiểm đầu tư cho các đối tượng này. Thêm vào đó là có không ít các công ty thành lập theo kiểu chụp giật, các công ty “ma”…điều này làm cho các DNV&N rất khó tiếp cận vốn với các Ngân hàng. > Từ phía cơ chế, chính sắch: Các cơ chế hỗ trợ cho sự phát triển củaccác DNV&N còn thiếu, còn phân biệt đối xử vơi các loại hình Doanh nghiệp này. Các quy định của phấp luật về thế chấp, bảo lãnh, đăng ký giao dich đảm bảo còn nhiều bất cập gây khó khăn, kéo dài thời gian làm thủ tục khi vay vốn. Thị trường vốn của Việt Nam còn non trẻ, các quỹ đầu tư, quỹ hỗ trợ phát triển DNV&N đã hình thành nhưng hoạt động chưa thực sự hiệu quả, cơ chế về xử lý tài sản thế chấp còn nhiều bất cập và chưa thực sự bảo vệ quyền lợi của các phía Các cơ chế về hỗ trợ tài chính cho các DNV&N còn nhiều vẫn đề phải bàn cãi. Việc các cơ quan Nhà nước cung cấp các sản phẩm về dịch vụ và tài chính cho các DNV&N trực tiếp là chủ yếu. Làm như vậy sẽ giảm khả năng cạnh tranh của các DNV&N, tốt nhất hãy tạo ra cho các DNV&N mọt hành lang pháp lý, xây dung một môi trường cạnh tranh lành mạnh đề Ngân hàng có thể cung cấp các sản phẩm của mình một cách tự nhiên và thực sự có hiệu quả. Trên thực tế hiện nay, đang tồn tại sự bất bình đẳng giữa DNNN và các DNV&N trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng. Trong khi các DNNN có thể vay vốn Ngân hàng mà không cần có tài sản thế chấp, thậm chí còn được chính phủ bảo lãnh cho các khoản vay dài hạn với lãi suất thấp. Còn các DNV&N thì không đuợc ưu ái như vậy, các DNV&N muốn vay phải có tài sản thế chấp. Thêm vào đó khung pháp lý lại thực sự không chú ý đên các DNV&N, các cơ chế chính sách về vay vốn, bảo lãnh chủ yếu là cho các DNNN. Các DNV&N khó có thể được chính phủ bảo lãnh để tiếp cạn với nguồn vốn dài hạn, lãi suất thấp nên hầu hết các DNV&N sẽ ding các khoản vay ngắn hạn để đầu tư trung và dài hạn, đây là điều tối kỵ trong nguyên tác tài chính dẫn đến không hiệu quả trong quá trình kinh doanh, thậm chí còn dẫn đến phá sản Doanh nghiệp. Tóm lại: Những kết quả đạt được, những hạn chế trên đây của Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long trong việc cho vay DNV&N là do nhiều nguyên nhân phát sinh bao gồm nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng, những nguyên nhân khách quan từ phía môi trường vĩ mô và nguyên nhân từ phía các DNV&N. Việc thúc đẩy hoạt động tín dụng DNV&N có thực sự hiệu quả đòi hỏi phải tiến hành tìm hiểu, phân tích kỹ càng và chuyên nghiệp những nguyên nhân đó để tìm ra hướng giải quyết tốt nhất và sớm nhất. Chương 3: giải pháp mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNo&PTNT Thăng long 3.1. định hướng trong mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Thăng Long 3.1.1. Sự cần thiết phải mở rộng cho vay đối với các DNV&N trong xu thế hội nhập. 3.1.1.1 Đối với doanh nghiệp: Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO đây chính là cơ hội cũng như thách thức cho các Doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các Doanh nghiệp sẽ có thị trường rộng lớn, môi trường cạnh tranh đổi mới và rất khác nhiệt. Nền kinh tế quốc gia trở thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp giao lưu thuận lợi trong các nghiệp vụ xuất nhập khẩu hàng hoá, chuyển giao công nghệ và trao đổi chuyên gia, giới thiệu được sản phẩm của mình trên thị trường quốc tế, từ đó tạo dựng nhiều cơ hội cho các DNV&N trong việc liên kết với nước ngoài. Nhưng bên cạnh đó sẽ có không ít những khó khăn đang chờ đợi, các nước thành viên WTO đã công nhận Việt Nam là nước phát triển ở trình độ thấp và là nền kinh tế đang chuyển đổi. Thực trạng này đã phản ánh toàn diện những khó khăn và thách thức của các DNV&N trước những vận hội mới. Từ môi trường cạnh tranh nội địa, chuyển sang cạnh tranh quốc tế, các DNV&N sẽ gặp rất nhiều khó khăn nên rất cần có sự can thiệp của ngân hàng thể hiện ở các mặt sau: Thứ nhất: Cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt hơn do mở cửa thị trường. Mở cửa thị trường, các Doanh nghiệp nước ngoài sẽ ồ ạt tràn vào Việt Nam, trong khi quy mô của các DNV&N lại quá nhỏ so với các Doanh nghiệp sản xuất cùng loại sản phẩm của một số nước trong khu vực và trên thế giới, Doanh nghiệp phải đối diện với tập đoàn đa quốc gia, các Doanh nghiệp hàng đầu thế giới… với quy mô và tài sản hàng trăm, hàng ngàn tỷ USD và có trình độ quả lý cũng như kỹ thuật công nghệ hàng đầu. Đó là một vấn đề không nhỏ cho các DNV&N, đặc biệt với kiểu kinh doanh truyền thống hiện nay của các Doanh nghiệp thì đây sẽ là một thách thức rất lớn. Nguồn vốn là rất quan trọng trong lúc này để có thể mở rộng sản xuất, nhập các công nghệ hiện đại và đào tạo nguồn nhân luck kỹ thuật cao để phục vụ sản xuất. Số lượng các DNV&N chiếm trên 90% trong tổng số Doanh nghiệp song tổng số vốn giành cho sản xuất kinh doanh chỉ mới bằng 30% so với tổng vốn của các Doanh nghiệp trong cả nước. Điều này một mặt phản ánh khả năng thu hút vốn vào sản xuất, kinh doanh của các DNV&N còn thấp, mặt khác cho thấy các DNV&N chưa được quan tâm đầu tư vốn để mở rộng sản xuất. DNV&N giải quyết nhu cầu vốn chủ yếu dựa vào thị trường tài chính phi chính thức, ít tiếp cận được các nguồn tín dụng chính thức thông qua các tổ chức tín dụng do hạn chế về tài sản đảm bảo và thiếu các điều kiện khác. Không chỉ bị hạn chế về mở rộng sản xuất, các DNV&N còn bị lạc hậu về công nghệ, trang thiết bị máy móc và đội ngũ lao động chủ yếu là lao động phổ thông ít được đào tạo bài bản, thiếu kĩ năng... Hiện nay trên địa bàn thành phố có khoảng 81.000 DNV&N với số vốn đăng ký gần 86.000 tỉ đồng, đây là thị trường đầy tiềm năng trong việc cung ứng các sản phẩm dịch vụ tài chính, tín dụng của ngân hàng. Thế nhưng theo hầu hết các DNV&N thì khi có nhu cầu phát triển thường chỉ huy động vốn từ ngươi thân, bạn bè, thậm chí cả vốn vay nặng lãi bên ngoài, còn việc tiếp cận các nguồn tín dụng là rất khó khăn. Theo các chuyên gia thực tế nguồn vốn bơm cho các DNV&N vẫn còn rất ít so với nhu cầu và còn khá nhiều Doanh nghiệp chưa được vay vốn. Tại khu công nghiệp làng nghề Bắc Ninh, vốn lưu động dự trữ cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của các DNV&N tại đây thường gấp 2 – 3 lần vốn đầu tư cố định, chính vì lẽ đó nhu cầu vốn cho các khu công nghiệp làng nghề ngày càng là áp lực với các tổ chức tín dụng. Sự thiếu hụt và hạn chế về vốn đã kéo theo hàng loạt những hạn chế khác làm giảm năng suất, không đáp ứng được nhu cầu về số lượng cũng như chất lượng sản phẩm. Từ đó thấy rõ hơn được sự cần thiết của việc mở rộng tín dụng đối với các DNV&N Thứ hai: Trình độ KHCN của DNV&N còn rất thấp, quy mô tài chính có hạn nên các DN “ lực bất tòng tâm “, không có khả năng đổi mới KH-CN. Vậy các ngân hàng cần phải làm gì để các Doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng này? Sức ép về vốn tự có đối với các DN càng lớn, lượng vốn tự có của bản thân các DNV&N không đủ xây dựng nhà xưởng và sắm mới dây truyền công nghệ, thậm chí nhiều Doanh nghiệp ngay từ tiền thuê mặt bằng đã phải huy động từ bên ngoài. Tại khu công nghiệp làng nghề Bắc Ninh với trên 700 DNV&N được hình thành chủ yếu từ hộ gia đình trong các làng nghề truyền thống, nay việc chuyển sang sản xuất các mặt hàng cao cấp đòi hỏi phải đầu tư các dây truyền máy móc thiết bị hiện đại, nhà xưởng có quy mô công nghiệp là rất khó khăn do vướng mắc về vốn. Trình độ khoa học công nghệ lạc hậu của các DNV&N không chỉ làm giảm năng suất, chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng đến việc sản xuất hiện tại của các Doanh nghiệp này mà còn là mối lo ngại khi Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập, các DNV&N của Việt Nam sẽ đối đầu với các Doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực tài chính hùng mạnh, với trình độ KHCN tiên tiến nhất trên thế giới. Thứ ba: Kinh nghiệm trên thương trường quốc tế chưa nhiều, sản phẩm của các DNV&N chủ yếu được tiêu thụ trong nước mà rất ít được xuất khẩu ra nước ngoài. Vì vậy, khi Việt Nam gia nhập WTO, các DNV&N như những con thuyền từ trong hồ bơi ra biển lớn, chưa có kinh nghiệm nhiều về chào hàng, tính giá, kiến thức quản trị doanh nghiệp và trình độ tay nghề người lao động chưa cao... do đó gặp không ít rắc rối về tuân thủ luật pháp quốc tế, về bán phá giá, về thuế... tại thị trường nước ngoài. Do đó, vào WTO các DNV&N chắc chắn còn phải tốn nhiều ” học phí” thì mới trưởng thành và hội nhập được với cộng đồng quốc tế. 3.1.1.2 Đối với ngân hàng: Thứ nhất: Phân tán rủi ro: Ngày nay cùng với sự phát triển không ngừng của các tổ chức tín dụng kể cả về số lượng lẫn chất lượng thì nguy cơ gặp phải những rủi ro tiềm ẩn là rất cao. Việc tập trưng vốn vay vào một số ít những doanh nghiệp mặc dù có thể tiết kiệm đựơc nhiều chi phí thẩm định, tăng cường hiệu quả quản lý nhưng đem lại những nguy cơ mất vốn cho ngân hàng khi doanh nghiệp này gặp khó khăn trong sản xuất - kinh doanh thậm chí là phá sản. Chính vì vậy, việc phân tán rủi ro vào các DNV&N với số lượng lớn, số vốn một lần vay ít sẽ tránh cho ngân hàng bị tổn thất. Thứ hai: Làm tăng doanh thu và lợi nhuận từ lãi vay để “ không thua ngay trên sân nhà của mình”. Gia nhập WTO lĩnh vực ngân hàng sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh rất lớn từ các ngân hàng nước ngoài với tiềm lực tài chính, quản trị, công nghệ rất mạnh, họ có đủ điều kiện để cho vay các DNV&N bởi hầu hết các chính phủ và các nhà tài trợ quốc tế ngày càng nhận ra tầm quan trọng của khu vực DNV&N trong nền kinh tế quốc dân và trong cộng đồng doanh nghiệp. Thậm chí, ngay cả các quốc gia như Hàn Quốc, Singapore...là những nứơc trước kia thường tập trung vào các tập đoàn lớn, các công ty toàn cầu thì những năm gần đây cũng thay đổi chính sách hướng tới sự phát triển DNV&N. Vậy những ngân hàng thương mại tại Việt Nam, tại sân nhà của mình phải làm gì để có thể cạnh tranh với một thế lực rất mạnh và luôn sẵn sàng nuốt chửng những trướng ngại trên con đường hội nhập. Ngân hàng phải nắm lấy cơ hội trong tay để có thế tăng doanh thu và lợi nhuận, có thể đứng vững trên trường quốc tế. Hiện nay, các ngân hàng thương mại trong nước đã có những đổi mới căn bản về đối tượng khách hàng và trong chiến lược. Trong quá trình phát triển của các ngân hàng thương mại, ước tính 80% lượng vốn cung ứng cho DNV&N là từ kênh tín dụng ngân hàng. Trong những năm gần đây, số vốn mà các ngân hàng thương mại cho các DNV&N vay chiếm bình quân 40% tổng dư nợ DNV&N hiện đang là đối tượng khách hàng quan trọng, chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại. Thậm chí khả năng tiếp cận vốn của họ ngày càng tăng vì điều kiện để ngân hàng và doanh nghiệp gặp nhau ngày càng thuận lợi, đặc biệt do hiệu quả kinh doanh nói chung của các DNV&N ngày càng tốt hơn và thực sự đây là đối tượng khách hàng đầy tiềm năng đối với các ngân hàng thương mại. Thứ ba: Việc ngân hàng cho vay còn giúp nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng, nhờ đó mà sức cạnh tranh của ngân hàng được nâng lên, điều này rất cần thiết bởi Việt Nam đã gia nhập WTO đồng nghĩa với việc chúng ta gặp phải các đối thủ có lợi thế về vốn, công nghệ, trình độ quản trị không chỉ ở trong nước mà còn ở cả nước ngoài. Việc mở rộng cho vay, đặc biệt là đối với các đối tượng tín dụng phức tạp như các DNV&N, sẽ giúp các cán bộ tín dụng nâng cao nghiệp vụ phân tích tín dụng, tích luỹ kinh nghiệm xử lý những trường hợp phức tạp. 3.1.1.3 Đối với nền kinh tế. Vệc tăng cường cho vay đối với các DNV&N sẽ là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, tín dụng với sự đa dạng về hình thức và chủng loại sẽ góp phần điều hòa vốn trong nền kinh tế, tăng cường chất lượng hoạt động tín dụng sẽ giảm thiểu lượng tiền trong lưu thông, điều đó không chỉ giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế mà còn tạo điều khiện để mở rộng tín dụng, mở rộng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, từ đó tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội. Mở rộng tín dụng tạo đà cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, tăng uy tín cho ngân hàng, cho quốc gia đồng thời góp phần kiềm chế và đẩy lùi lạm phát thực hiện ổn định tiền tệ. Như đã nêu trên hiện nay đối với DNV&N thì vấn đề hạn chế về tài chính đang là vấn đề cấp bách hàng đầu, hàng loạt những khó khăn của các DNV&N đều xuất phát từ những hạn chế về tài chính vì thế việc tăng cường tín dụng đối với các DNV&N sẽ tạo điều kiện cho các DNV&N phát triển và đem lại những lợi ích cho nền kinh tế như: Mở rộng tín dụng góp phần quan trọng thực hiện các quy hoạch, chương trình phát triển kinh tế của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, của từng vùng, của từng địa phương từng ngành kinh tế. Việc tăng cường cho vay đối với các DNV&N tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các vùng miền và các ngành, vì các DNV&N rải rác ở các địa phương, các làng nghề truyền thống chứ không tập trung ở các vùng đô thị lớn hay các ngành công nghiệp chủ chốt như các doanh nghiệp lớn; góp phần giải quyết việc làm tăng thu nhập cho người lao động, xói đói giảm nghèo, khơi dậy các tiềm năng phát triển của kinh tế địa phương, phát huy và làm sống lại nhiều ngành nghề truyền thống. Thông qua những phân tích đánh giá khả năng phát triển của các đối tượng định đầu tư để có những quyết sách đầu tư đúng đắn, nhằm khai thác khả năng tiềm tàng về tài nguyên, lao động, vốn... cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội, tận dụng tránh gây lãng phí các nguồn tài nguyên của xã hội. 3.1.2. Phương hướng và mục tiêu phát triển của mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long là một hạt nhân trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam, nên kể từ khi Chi nhánh chính thức đi vào hoạt động, tập thể ban lãnh đạo và toàn bộ cán bộ công nhân viên trong toàn chi nhánh đã đạt ra cho mình là phấn đất thực sự trở thành lực lượng chủ đạo và chủ lực trong vai trò cung cấp tín dụng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển nông nghiệp nông thôn phù hợp với chính sắch của Đảng và Nhà nước, mở rộng hoạt động một cách vững chắc, an toàn, bền vững về tài chính; áp dụng công nghệ thông tin hiện đại, cung cấp các dịch vụ về tài chính đa năng, an toàn, tiện ích. Cùng với NHNo&PTNT Việt Nam xây dung và phát triển thương hiệu và văn hoá Doanh nghiệp; từng bước đưa thương hiệu Agribank đến với mọi đối tượng khách hàng, từ hộ nông dân, HTX, DNV&N cho đến các khách hàng lớn Chiến lược ưu tiên cho khách hàng là những DNV&N có đủ điều kiện quan hệ tín dụng. Phát triển các sản phẩm sinh lời cao, phấn đấu đa dạng háo các lạo hình dịch vụ, phấn đấu trở thành một Ngân hàng hiện đại theo chuẩn quốc tế. Đảm bảo tỷ lệ nợ xấu dước 3% theo chuẩn quốc tế; đưa ra nhiều hình thức cung cấp tín dụng khác nhau; xây dung chiến lược và biện pháp để tăng trưởng dư nợ gắn với an toàn, hiẹu quả và phát triển bền vững Mục tiêu Như ta đã biết Hà Nội là trung tâm kinh tế – chính trị – văn hoá của cả nước, với số lượng DNV&N rất lớn, khả năng phát triển cao, tiềm năng phát triển lớn, Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long đã xây dưụng cho mình mục tiêu phát triển để phù hợp với tiến trình hội nhập đăc biệt là sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên chính thức của WTO. Trong năm 2008, mạc dù nền kinh tế rất khó khăn, nhưng Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long đã đề ra cho mình mục tiêu cụ thể là hoàn thành triệt để chỉ tiêu được giao và phấn đầu để trở thành chi nhánh hàng đầu trong hệ thống nói riêng và trên cả nước nói chung. Mục tiêu đó là: Một là: Tập trung, đẩy mạnh huy động nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội khác. Chú trọng các nguồn vốn có tính ổn định lâu dài cả nội lẫn ngoại tệ. Hai là: Tập trung khai thác đẩy mạnh cho vay đối với mọi thành phần kinh tế có phương án và dự án khả thi, tình hình tài chính ổn định và lành mạnh, đáp ứng đầy đủ về vốn vay cho các DNV&N, cáchộ sản xuất. Không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng, chấn chỉnh các quy trình cho vay để đảm bảo an toàn, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn. Đẩy mạnh và xử lý, thu hồi các khoản nợ khó đòi… Ba là: Tập trung triển khai toàn diện có hiệu quả công tác tiếp thị, quảng cáo, quảng bá thương hiệu các dịch vụ của Ngân hàng. Mạnh dạn áp dụng các sản phẩm mới, công nghệ hiện đại, luôn đi đầu trong công tác mang lại giá trị cho khách hàng khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ của Chi nhánh Bốn là: Tập trung, triển khai các loại hình dịch vụ, sản phẩm của chi nhánh, đáp ứng tốt nhu cầu và thị hiếu cải xã hội đây là điều rất quan trọng trong tình hình cơ chế thị trường như hiện nay. Năm là: Tiếp tục xây dụng và thực hiện công tác đào tạo, đào tạo lại cán bộ về tất cả các mảng cho toàn bộ cán bộ trong chi nhánh…Nâng cao nghiệp vụ, trình độ ngoạ ngữ, tin học, khai thác và làm chủ các công nghệ hiện đại trong lĩnh vực Ngân hàng nhằm đáp ứng tốt các quy chuẩn của Ngân hàng hiện đại trong kr hội nhập như hiện nay. Mục tiêu cụ thể đề ra là: - Nguồn vốn tăng 30% - 35% so với năm 2007. - Tổng dư nợ tăng 20% - 25% so với năm 2007. - Nợ xấu dưới 2,5% trên tổng dư nợ. - Đảm bảo đủ lương và thưởng tối đa theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam. - Nâng cao thu từ dịch vụ trong bảng cân đối lên 20% - 30%. - Trích lập dự phòng và trích ruỉu ro theo đúng chế độ, đảm bảo nợ xấu theo chuẩn quốc tế. - Tiếp tục công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ về nhiều mặt. - Thực hiện hiện đại hoá Ngân hàng nhằm đẳm bảo đủ điều kiện cạnh tranh và hội nhập. 3.2 Giải pháp mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ NHNo&PTNT Thăng Long. 3.2.1. Đảm bảo sự tăng trưởng ổn định nguồn vốn Muốn mở rộng cho vay thì các Ngân hàng phải chủ động được nguồn vốn kinh doanh của mình. Trong thời điểm hiện nay, tình hình huy động vốn của các Ngân hàng nói chung là gặp nhiều khó khăn. Để đáp ứng được nhu cầu vốn kinh doanh cho Ngân hàng thì Chi nhánh đã và đang áp dụng nhiều thình thức huy động đa dạng, tiện lợi để đáp ứng mọi nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng: Thứ nhất: Ngân hàng luôn chủ động duy trì và phát huy mức lãi suất huy động đầu vào có tính cạnh tranh cao so với các Ngân hàng trên cùng địa bàn nhằm mục tiêu duy trì lượng khách hàng đã quan hệ giao dịch, bên cạnh đó sẽ lôi kéo được những khách hàng mới còn đang lựa chọn các Ngân hàng khác nhau. Lĩa suất sẽ được quy định theo từng tuần, tháng, năm để đáp ứng mọi nhu cầu gửi tìên của khách hàng. Tuy nhiên mức lãi suất áp dụng sẽ cạnh tranh ở mức hợp lý để đảm bảo an toàn chênh lệch đầu vào đầu ra Thư hai: Đưa ra nhiều hình thức huy động đa dạng với thời gian khác nhau. Có thể kể ra đây như: Tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm theo tuần lãi suất cao, dịch vụ tiết kiệm tại gia… Bên cạnh đẩy mạnh huy động từ dân cư thì việc huy động nguồn vốn từ các đối tượng khác như: TCTD, Công ty tài chính, công ty có nguồn tiền nhàn rỗi, các dự án ODA… cũng phải được đẩy mạnh và có cơ chế rõ ràng. Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long đã kết nối thanh toán với Tổng công ty Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Công ty viễn thông…để thanh toán và nhận tiện hộ các công ty trên. Việc này đòi hỏi công nghệ áp dụng phải hiện đại, hoá đơn chứng tà được quản lý đúng chế độ. Thứ ba: Đẩy mạnh công tác phát hành thẻ ATM, thẻ ghi nợ nội địa, thẻ Succes… Việc này sẽ tận dụng được nguồn vốn rất lớn trong tài khoản của khách hàng. Trong thời gian tới nhu cầu sử dụng thẻ trong thanh toán hàng ngày sẽ tăng lên và thu được lượng phí lớn qua đó nâng cao nguồn thu cho Ngân hàng Thứ tư: Bên cạnh việc phát triển thêm những khách hàng truyền thống thì việc tiếp thị lôi kéo những khách hàng tiềm năng về Chi nhánh là việc hết sức quan trọng, để làm được điều này ngoài công cụ lãi suất còn liên quan đến vấn đề lợi ích của khách hàng khi sử dụng dịch vụ tại Chi nhánh. Hiện này Ngân hàng đang đưa ra nhiều sản phẩm tiện ích, nổi trội như VNTOPUP, SMS Banking, Chuyên tiền qua tin nhắn SMS, đưa vào khai thác Internet Banking…bên cạnh thái độ phục vụ khách hàng, công nghệ hiện đại đã và đang được Chi nhánh cung ứng cho khách hàng. 3.2.2 Xây dựng chiến lược thu hút khách hàng Hiện tại, cả nước có khoảng 200.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, đóng góp 40% GDP, tạo nên hơn 12 triệu việc làm cho xã hội. Tiềm năng của khối doanh nghiệp này đang là hướng đầu tư trọng điểm của các NHTM, cửa của các Ngân hàng sẽ mở rộng hơn. Đó là cam kết của sự phát triển, thể hiện ở sự chuyển động tích cực của tốc độ tăng trưởng tín dụng cũng như quy mô của các quỹ cho vay trong thời gian qua. Ngân hàng No&PTNT Thăng Long xác định những doanh nghiệp vừa và nhỏ là khách hàng quan trọng vì vậy ngân hàng phải có chính sách hợp lý để thu hút khách hàng. Chẳng hạn như cách chia nhỏ nguồn vốn, chốt hạn mức tín dụng ở một ngưỡng nhất định đối với một khoản vay để đáp ứng được nhiều nhu cầu nhỏ hơn. Ngoài các khách hàng truyền thống, ngân hàng này sẽ từ chối các khoản vay mới không thực sự hiệu quả để dành vốn cho những khoản vay nhỏ hơn. Trước kia nhân viên tín dụng chỉ ngồi một chỗ đợi khách hàng đến với mình, còn bây giờ phải chủ động đi tìm, mời khách hàng vay. Các chủ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhỏ dường như rất lạ với chuyện ngân hàng tiếp thị tận nhà nên có vẻ e ngại, cảnh giác; cũng có khi họ không có nhu cầu hoặc cũng có khi họ đã là khách hàng của ngân hàng khác. Vì vậy, mỗi khi tiếp cận được khách hàng, cán bộ tín dụng cố gắng giải toả tâm lý e ngại của họ. Khách hàng được trực tiếp tư vấn tại nhà, hướng dẫn cách làm hồ sơ vay vốn chuẩn xác ngay từ đầu để không mất thời gian tới lui ngân hàng nhiều lần. Khá nhiều doanh nghiệp nhỏ do hồ sơ, giấy tờ không đầy đủ nên lâu nay khó vay vốn. Nhiệm vụ của cán bộ tín dụng là căn cứ vào thực tế kinh doanh đàng hoàng của doanh nghiệp để có thể đề xuất với ngân hàng mạnh dạn cho vay. Chẳng hạn có nhiều hộ kinh doanh cá thể tuy không thể có đầy đủ giấy tờ theo yêu cầu nhưng nhân viên ngân hàng có thể căn cứ trên sổ sách bán hàng chứng minh được thu nhập và khả năng trả nợ để đề xuất cho vay dễ dàng. Do tâm lý e ngại nên trước đây nhiều chủ doanh nghiệp nhỏ thường thông qua người môi giới để vay vốn ngân hàng, nay thì chính nhân viên tiếp thị của ngân hàng sẽ trực tiếp tìm đến khách hàng. Ngân hàng No&PTNT Thăng Long thu thập thông tin từ nhiều nguồn để có được danh sách, địa chỉ cụ thể của các doanh nghiệp, từ đó liên lạc gửi thư ngỏ để tiếp thị sản phẩm. Khi doanh nghiệp có nhu cầu, chỉ cần gọi điện thoại là nhân viên ngân hàng sẽ đến tận nhà. Không chỉ nhân viên tín dụng mà cả nhân viên thanh toán quốc tế, nhân viên kinh doanh ngoại tệ... cùng đến để có thể tư vấn được nhiều loại sản phẩm cho khách hàng. Có điều, doanh nghiệp cần có mục đích sử dụng vốn rõ ràng và hợp pháp, có phương án vay và trả nợ khả thi. Các thủ tục còn lại đã có nhân viên ngân hàng sẵn sàng tư vấn. 3.2.3. áp dụng lãi suất cho vay linh hoạt và phù hợp Lãi suất là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý người đi vay vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích kinh tế của họ. Vì vậy, muốn thu hút được nhiều khách hàng, ngân hàng nên xây dựng một cơ chế lãi suất cho vay linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều đó thoả mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng đối với sản phẩm tín dụng doanh nghiệp của ngân hàng. Lãi suất cho vay được xác định dựa trên cơ sở lãi suất huy động bình quân cộng với hệ số bù trừ rủi ro và tỷ lệ lợi nhuận dự kiến. Với từng đối tượng khách hàng, có mức lợi nhuận dự kiến và tỷ lệ rủi ro khác nhau, ngân hàng có thể áp dụng các mức lãi suất khác nhau nhằm thu hút và giữ khách hàng lấy lãi suất làm công cụ kích thích đối với tâm lý khách hàng vay vốn. Đối với khách hàng quen thuộc, có uy tín thì có thể được hưởng mức lãi suất thấp hơn, tuỳ thuộc vào lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, tính thời vụ và mức độ rủi ro của hoạt động kinh doanh...của doanh nghiệp mà có những ưu đãi để cuốn hút khách hàng vay vốn. Ngoài các chỉ tiêu như lãi suất nguồn, rủi ro, chi phí, tỷ lệ lợi nhuận tối thiểu, ngân hàng cần phải quan tâm đến lãi suất của các ngân hàng khác đang áp dụng trên cùng địa bàn. Vì vậy, ngân hàng cần có một chính sách lãi suất cạnh tranh thích hợp được vận dụng linh hoạt và mềm dẻo, coi lãi suất như một công cụ để thu hút khách hàng, thực hiện giảm dần lãi suất cho vay nhưng vẫn duy trì được lợi nhuận cho ngân hàng. Cơ chế lãi suất thoả thuận cho phép các cán bộ tín dụng đưa ra được mức lãi suất phù hợp với từng hồ sơ vay vốn. Ngoài ra ngân hàng cũng có thể giảm lãi suất cho vay hoặc có những ưu đãi khác về thời hạn vay vốn hoặc tổng giá trị món vay. Đa dạng hoá các loại hình lãi suất để tạo điều kiện phù hợp với chu kỳ kinh doanh của khách hàng. Dựa vào từng loại lãi suất và kỳ hạn, khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn khoản vay thích hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 3.2.4. Cải tiến và đa dạng hoá các sản phảm, dịch vụ ngân hàng Với việc đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ chào bán của ngân hàng, trong đó có đa dạng hoá các hình thức cho vay sẽ làm giảm thiểu tính rủi ro vốn rất cao trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng, phục vụ khép kín hoạt động cho khách hàng tạo sự tin tưởng, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng yên tâm hoạt động sử dụng các sản phẩm của ngân hàng. Hơn nữa việc khách hàng sử dụng nhiều sản phẩm dịch vụ sẽ giúp cho ngân hàng có điều kiện theo dõi nắm bắt tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính của khách hàng toàn diện hơn và có chính sách cho vay tốt hơn, đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng an toàn, quan hệ khách hàng - ngân hàng bền chặt hơn. Ngân hàng No&PTNT Thăng Long cần tạo sự liên kết các sản phẩm dịch vụ, liên kết hoạt động của ngân hàng với các ngân hàng Thương mại khác, vì khách hàng của Ngân hàng No&PTNT Thăng Long hoạt động rộng khắp cả nước nên việc triển khai nắm bắt thông tin gặp nhiều khó khăn. Đối tượng khách hàng rất đa dạng, nhu cầu thông tin về khách hàng, nhu cầu trao đổi nghiệp vụ, cùng với đó là lợi thế so sánh giữa các ngân hàng.....Tất cả những vấn đề đó rất cần thiết phải phối hợp, hỗ trợ giữa Ngân hàng No&PTNT Thăng Long và các ngân hàng khác. Cùng với đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, Ngân hàng No&PTNT Thăng Long cần tạo điều kiện tăng tiện ích hoạt động cho khách hàng, tạo mối quan hệ khách hàng – ngân hàng bền vững. 3.2.5 Chú trọng đến việc xử lý và thu hồi nợ nhằm làm giảm nợ quá hạn Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thì việc phát sinh nợ quá hạn là tất yếu do tác động của nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan từ phía ngân hàng, khách hàng, môi trường kinh tế – xã hội. Nợ quá hạn làm giảm hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, ngân hàng cần chú trọng quan tâm hơn nữa đến quá trình xử lý và thu hồi nợ nhằm có được các giải pháp hữu hiệu làm giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống mức thấp nhất có thể. Cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ là một vấn đề không đơn giản. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang trong giai đoạn khởi đầu, tài sản năng lực tài chính nhỏ, kỹ năng quản trị còn kém không đủ các điều kiện theo quy chế vay vốn phải có thế chấp tài sản bảo lãnh. Doanh nghiệp hoạt động chưa ổn định, một số sau khi thành lập một thời gian kinh doanh đã rút lui, thay tên đổi chủ (ta gọi là doanh nghiệp ma) gây tâm lý lo ngại cho ngân hàng khi tiếp cận với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Báo cáo tài chính của doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính trung thực và minh bạch thấp, độ tin cậy không cao cũng gây tâm lý lo ngại cho ngân hàng vì vậy khi tiếp cạn rủi ro có thể xảy ra. Ngân hàng phải có các chính sách và biện pháp phù hợp áp dụng cho từng đối tượng khách hàng. Cụ thể là: - Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thua lỗ do nguyên nhân bất khả kháng chưa có khả năng trả nợ ngân hàng, lúc này họ cần vốn để vực dậy sản xuất kinh doanh ngân hàng cần phải nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng xem có nên tiếp tục cho doanh nghiệp đó vay thêm hay không, cho vay bao nhiêu, và phải xuống kiểm tra trực tiếp tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của từng doanh nghiệp. - Đối với doanh nghiệp có khả năng trả nợ mà cố tình chây ỳ không trả nợ thì ngân hàng phải phối hợp với chính quyền địa phương, các cơ quan pháp luật để có các biện pháp xử lý nghiêm minh làm gương cho các doanh nghiệp khác. - Đối với doanh nghiệp có hàng hoá tồn động nhiều chưa bán được để có tiền trả nợ ngân hàng có thể giới thiệu đơn vị mua bán hàng hoá giúp doanh nghiệp giải quyết số hàng tồn động này thu hồi vốn để trả nợ ngân hàng. - Đối với nợ quá hạn, nhân viên ngân hàng cần phân tích thực trạng dư nợ một cách thường xuyên và có hệ thống phân loại, theo dõi và xử lý nợ quá hạn tiềm ẩn và nợ quá hạn phát sinh mới. Nên phân tích tình hình nợ quá hạn qua đó xác định được cán bộ tín dụng nào có vấn đề và mức độ quá hạn, xác định được nợ quá hạn tiềm ẩn thuộc các địa bàn, khách hàng và đơn vị nào. Định kỳ hàng tháng hoặc quý nên chia hoạt động tín dụng ra bốn phần để phân tích và chỉ đạo từng phần cụ thể như sau: - Tổ chức phân tích nợ quá hạn ra các loại: loại thu được ngay, loại thu dần từng phần, loại khó thu và loại không có khả năng thu hồi, từ đó xác định rõ nguyên nhân, nguồn thu, biện pháp thu và thời gian thu phù hợp. - Tổ chức in giấy báo nợ các khoản nợ đến hạn của tháng sau, thông báo cho cán bộ tín dụng phụ trách doanh nghiệp có trách nhiệm đối với khách hàng mình phụ trách có nợ đến hạn để xác định khả năng thu hồi nợ của từng khách hàng, từ đó có biện pháp cụ thể, nếu khách hàng nào có khó khăn báo cáo cán bộ lãnh đạo trực tiếp để có biện pháp cụ thể giúp đỡ tháo gỡ kịp thời. Làm tốt công tác này sẽ hạn chế tình hình nợ quá hạn phát sinh. - Với các món nợ chưa đến hạn, thường xuyên tổ chức kiểm tra sau khi vay với nội dung kiểm tra là tiền vay có được sử dụng đúng mục đích xin vay hay không, số lượng, giá trị vật tư tương đương làm đảm bảo, diễn biến tài sản thế chấp...để có biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ khách hàng khắc phục khó khăn và có điều kiện trả nợ ngân hàng. - Với các món cho vay mới, yêu cầu cho vay đúng chế độ, đúng đối tượng xin vay, thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ đảm bảo vốn vay phát huy tối đa hiệu quả nhằm tạo ra mặt bằng dư nợ mới với chất lượng lành mạnh hơn. Bên cạnh các công tác trên, ngân hàng cũng nên thành lập tổ thu hồi nợ qúa hạn riêng để chuyên môn hoá trong nghiệp vụ cũng như phân định rõ trách nhiệm của từng cán bộ từ đó nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp đối với từng cán bộ. 3.2.6 Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ ngân hàng. Cán bộ tín dụng là những người trực tiếp làm việc với khách hàng, trực tiếp thẩm định hồ sơ cho vay vốn, là người ảnh hưởng lớn đến việc khách hàng có được vay vốn hay không. Vì thế có thể nói để mở rộng cho vay thì vai trò của đội ngũ cán bộ ngân hàng mang tính chất quyết định. Cán bộ tín dụng phải có trình độ chuyên sâu về nghiệp vụ tín dụng, nắm rõ bản chất của từng phương thức cho vay, lãi suất và các nhân tố ảnh hưởng đến việc ra quyết định về hình thức cho vay và lãi suất khoản vay phù hợp với từng đối tượng khách hàng. Công tác đào tạo cán bộ rất là quan trọng, có rất nhiều phương pháp đào tạo khác nhau có thể được áp dụng như: Mở các buổi hội thảo chuyên đề, cử đi học tại những trường đại học chuyên ngành, các trung tâm đào tạo ngân hàng tài chính, mở các lớp đào tạo tại chỗ, cử cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn, tham dự các buổi hội thảo, chuyên đề, giao lưu...Ngoài ra những kiến thức về các vấn đề như hoạt động xuất nhập khẩu, các quy định của pháp luật, cập nhật những thông tin của Chính phủ...đều cần chú ý bổ sung, rất tốt cho thực hiện công việc. Ngân hàng cần có chế độ thưởng phạt nghiêm minh, sáng kiến được khuyến khích và khen thưởng kịp thời theo hiệu quả. Gắn lợi ích với hiệu quả hoạt động nhằm nâng cao trách nhiệm cán bộ tín dụng trong việc tìm kiếm khách hàng mới, mở rộng tín dụng cũng như giảm nợ quá hạn, nợ khó đòi. Bố trí đội ngũ cán bộ tín dụng phải phù hợp với vị trí yêu cầu từng công việc. Phân công rõ trách nhiệm pháp lý của từng vị trí công tác đảm bảo quyền lợi gắn với trách nhiệm. Cán bộ tín dụng giỏi, tư vấn giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ xây dựng các dự án phát triển kinh doanh bảo đảm tính khả thi cao để đầu tư vốn cho doanh nghiệp kiểm tra giám sát việc thực hiện dự án thu hồi vốn và lãi đúng hạn. Việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải có chiến lược thực hiện lâu dài và liên tục, không thể nóng vội làm trong thời gian ngắn. Việc đào tại phải được tổ chức thường kỳ, thường niên sẽ tạo ra thói quen học tập, học hỏi, thói quen tư duy nhanh và liên tục trau dồi kiến thức cho nhân viên Ngân hàng 3.3 Kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị đối với chính phủ Để tạo điều kiện phát triển các DNV&N ở nước ta, giúp DNV&N nâng cao khả năng cạnh tranh khi phải đối mặt với nhiều áp lực từ việc cắt giảm thuế quan theo lộ trình AFTA/CEPT, thực hiện cam kết sâu hơn theo Hiệp định thương mại Việt – Mỹ cũng như khi Việt Nam chính thức là thành viên của WTO, cần sớm thực thi một số giải pháp: - Nới lỏng các điều kiện để DNV&N có thể tham gia vào thị trường chứng khoán nhằm đa dạng hoá hình thức huy động vốn trên thị trường tài chính, hỗ trợ cho DNV&N trong hoạt động nghiên cứu và triển khai ( R&D) - Xây dựng, phát triển hệ thống các quỹ nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phát triển như quỹ hỗ trợ sản phẩm mới, quỹ phát triển khoa học, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ bảo lãnh xuất khẩu, hỗ trợ xuất khẩu, quỹ khen thưởng xuất khẩu với những tiêu chí riêng đối với DNV&N. - Hỗ trợ, tạo điều kiện cho DNV&N tích tụ vốn cho đầu tư sản xuất, mở rộng kênh khai thác nguồn vốn từ ngân hàng, tạo điều kiện để DNV&N tiếp cận vốn vay ưu đãi của Chính phủ và các nhà tài trợ quốc tế cũng như chính phủ các nước thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng đối với DNV&N theo Quyết định 193/QĐ- TTG ngày 20/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ. - Thành lập trung tâm hỗ trợ kỹ thuật cho DNV&N, quy hoạch phát triển các mạng lưới đào tạo nghề, các trung tâm dạy nghề để hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, xây dựng hệ thống thông tin về thị trường lao động cho DNV&N. - Phát triển kết cấu hạ tầng, chuyển giao công nghệ, tập trung ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cho vùng sâu, vùng xa, những vùng đặc biệt khóc khăn điều chỉnh các quy định về ưu đãi đầu tư những lĩnh vực, ngành nghề cần hưởng ưu đãi. - Hoàn thiện hệ thống pháp lý, tăng cường cung ứng các dịch vụ pháp lý cho các DNV&N. Rà soát các văn bản pháp luật, bãi bỏ những quy định không còn phù hợp gây cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh, đơn giản thủ tục hành chính, đồng thời tiếp tụccải cách thể chế kinh tế để toạ môi trường kinh doanh thuận lợi cho DNV&N. - Trợ giúp các DNV&N tiếp cận thương mại điện tử nhằm giảm chi phí sản xuất, tìm kiếm thông tin để mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trương quốc tế, tiến tới xoá bỏ độc quyền của các DNNN, tạo điều kiện chung cho các DNV&N sử dụng dịch vụ giá rẻ nhằm giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh. - Hoàn thiện chính sách đất đai, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có mặt bàng sản xuất, dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn ngân hàng hoặc dùng giá trị sử dụng đất liên doanh với doanh nghiệp trong và ngoài nước. - Hỗ trợ tài chính, kỹ thuật, thành lạp quỹ khuyến khích phát triển ngành nghề truyền thống. Cần hỗ trợ tài chính cho DNV&N thông qua hình thức thuê mua tài chính, miễn giảm thuế đối với DNV&N mới thành lập và các doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh. - Tiếp tục phát triển đồng bộ các loại thì trường, nhất là thị trường chứng khoán để khai thông nguôn vốn đầu tư, tăng khả năng huy động vốn vào sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh khuyến khích đầu tư trong nước, khuyến khích các tầng lớp dân cư tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. - Tổ chức tuyên truyền đối với công chúng để mọi người hiểu biết về những tác động kinh tế xã hội mà các DNV&N mang lại, nhằm tránh định kiến của xã hội đối với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam nói chung, trong đó có DNV&N. - Nhà nước sớm ban hành các quy định để hoàn thiện chính sách hỗ trợ các DNV&N, giúp chính sách này hoạt dộng được hiệu quả hơn. Nên thực hiện phương châm Nhà nước không can thiệp trực tiếp, tạo ra san chơi bình đẳng với cac chính sắch khuyến khích và hỗ trợ, không nên phân biệt đối xử giũa DNNN và DNV&N. - Chính phủ chỉ đạo các bộ ngành khẩn trương rà soát, thống nhất hoá các văn bản hiện hành về cơ chế cho vay, bảo đảm tiền vay, cơ chế sử lý nọ và mua bán nợ thế chấp, thu hồi nợ vốn vay không phải thông qua một cơ quan tài phán nào, trừ trường hợp có tranh chấp, Khi doang nghiệp phá sản đình chỉ hoạt động ưu ttiên thanh toán vốn vay cho tổ chức tín dụng để hoàn thành trả vốn vay lưu động của dân, có như vậy mới tạo được sợ yên tâm cho tổ chức tín dụng khi đầu tư vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Hoàn thiện các quy định về quỹ bảo lãnh tín dụng nên để quỹ này sớm đi vào hoạt độngtheo cơ chế thị trường, quỹ này đứng ra bảo lãnh cho các DNV&N vay vốn tín dụng tạo cơ hội cho DNV&N khi vay vốn tín dụng. - Nhà nước cần có quy định cụ thể về hình thức tín chấp để bảo lãnh cho DNV&N vay vốn, khuyến khích chính quyền địa phương, các hiệp hội đứng ra thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng để bảo lãnh cho DNV&N, có cơ chế và khuyến khích các loại hình tín dụng khác ra đời để đa dạng hoá các kênh cho vvốn, có thể khuyến khích sự ra đời của các cty Tài chính, của các hiệp hội kinh doanh để bảo lãnh cho doanh nghiệp vvốn tín dụng. - Vấn đề cuối cùng là phải tăng cường công tácc đàp tạo nguồn nhân lực, đọi ngũ quản lý các DNV&N. Trong sự phát triển khá nhanh của quy mô này, đây thực sự là vấn đề bức thiết. Những nàh quản lý cần phải được trang bị những kiến thức một cách bài bản, chu đáo. Yếu tố con người có tính chất rất quan trọng và ta có những bài học rất bổ ích từ những nước đi trước ta như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… 3.3.2 Kiến nghị đối với NHNo & PTNT Việt Nam Mục tiêu nắm lấy cơ hội kinh doanh nhằm vào đối tượng khách hàng là những DNV&N, NHNo & PTNT phải đối mặt với sự cạnh tranh trực tiếp, liên tục từ các ngân hàng thương mại khác. Do đó, cần phải xác định thị trường chủ đạo là nông nghiệp, nông thôn đáp ứng đủ cho khách hàng là các DNV&N, kinh tế trang trại, làng nghề thủ công đủ điều kiện vay vốn. Cần sớm ban hành quy định về thấu chi. Các DNV&N sẽ được sử dụng vượt quá số dư có trên tài khoản tiền gửi của mình một hạn mức đã được thoả thuận. Đây là một sản phẩm mới để các doanh nghiệp lựa chọn, là cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ, nhu cầu vốn phát sinh thường xuyên. Sản phẩm thấu chi giúp các DNV&N có điều kiện tiếp cận vốn NHNO & PTNT một cách nhanh nhất, đơn giản nhất về thủ tục. Hoàn chỉnh các dự thảo quy định về cho vay doanh nghiệp theo dự án IPCAS, tách bạch các chức năng theo ba công đoạn: Quan hệ khách hàng; quản trị rủi ro, quản lý tín dụng. Thực hiện phân cấp gắn liền với trách nhiệm cá nhân, tập trung tín dụng về trụ sở chính đối với các khoản vay lớn, các dự án đồng tài trợ. Kiểm soát trực tuyến thông qua hệ thống tin tập trung về doanh nghiệp. Hợp tác với Hiệp hội DNV&N Việt Nam để ký kết thoả thuận nguyên tắc về phối hợp thông tin về doanh nghiệp, đào tạo và giới thiệu sản phẩm. Xác định chỉ tiêu về vốn đầu tư cho DNV&N rõ ràng. Trên cơ sở các mục tiêu định hướng xây dựng kế hoạch về nguồn vốn, dư nợ cho vay DNV&N. Hoàn chỉnh hệ thống thông tin báo cáo. Chỉnh sửa hệ thống báo cáo thống kê DNV&N, giúp Trụ sở chính nắm bắt thông tin kịp thời, chính xác về tình hình cho vay, xử lý nợ tại chi nhánh, từ đó có biện pháp kịp thời tháo gỡ khó khăn, mở rộng cho vay, hạn chế rủi ro. 3.3.3 Kiến nghị đối với DNV&N Tăng tính chính xác, trung thực trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Đổi mới công nghệ và thiết bị sản xuất kinh doanh, tăng tích luỹ, tăng cường đầu tư để tăng năng lực tài chính, từng bước đáp ứng các điều kiện tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Đổi mới phương pháp điều hành quản lý kinh doanh. Đào tạo và nâng cao trình độ kinh nghiệm chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý, đặc biệt là cán bộ xây dựng dự án, marketing, thanh toán quốc tế. Làm quen và mở rộng tiếp cận loại hình “thuê mua tài chính”. Đây là loại hình tín dụng mới phù hợp với đặc điểm của DNV&N. Xây dựng tốt các dự án phát triển sản xuất kinh doanh có tính khả thi cao. Thực hiện tốt, đầy đủ các quy định của ngân hàng về vay vốn ( hồ sơ vay vốn, tài sản thế chấp để vay vốn, bảo lãnh thực hiện vốn vay, đăng ký giao dịch bảo đảm...) Sử dụng vốn đúng mục đích, hoàn trả nợ gốc và lãi đúng hạn để tạo uy tín và tín nhiệm cơ hội của doanh nghiệp đối với ngân hàng để doanh nghiệp tiếp cận vốn thuận lợi hơn. Phải lựa chọn cho mình một sản phẩm chủ chốt, sản phẩm độc quyền của doanh nghiệp để tạo ra lợi thế kinh doanh cho doanh nghiệp Kết luận Các Doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay đóng góp một vai trò quan trọng vào việc xây dựng và phát triển các nền kinh tế trên thế giới. Đối với Việt Nam, sự ra đời và phát triển của cá DNV&N hiện nay đang đóng góp vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội, đặc biệt là trong quá trình giải quyết nhiều công ăn việc làm cho xã hội và thúc đẩy cạnh tranh. Nền kinh tế sẽ không thể tăng trưởng, phát triển nhanh và bên vững nếu không có sự phát triển của các DNV&N. Như vậy có thể thấy các DNV&N có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế của đất nước. Trong bối cảnh đó, chiến lược phát triển DNV&N phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế là rất quang trọng. Chính vì thế, hiện nay hầu hết các NHTM đều gia tăng cho vay đôi với các DNV&N vì đây là nguồn mang lại lợi nhuận rất lớn cho Ngân hàng. Các Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay gặp rất nhiều khó khăn về vốn, công nghệ, thiết bị, nhân lực, quản trị điều hành thị trường sản phẩm cũng gặp nhiều khó khăn. Vì nhiều lý do khách nhau, cả chủ quan lẫn khác quan, mà việc tiếp cận vốn của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việ Nam là rất khó khăn Tại Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long, việc cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tăng lên trong những năm gần đây nhưng vẫn còn hạn chế so với các DNNN. Vì thế, để phát huy hết tiềm năng và vai trò của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam cần sựu trọ giúp của Đảng, Nhà nước, NHNo&PTNT Việt Nam và chính bản thân các Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Qua tìm hiểu thực tế về hoạt động tín dụng tại Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long và thấy vai trò của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế tôi thấy việc phát triển laọi hình Doanh nghiệp này là tất yếu. Trong luận văn tôi đã đưa ra các quan điểm, các giải pháp và kiến nghị để hạot động cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng được hiệu quả để góp phẩn vào công cuôc phát triển kinh tế của đất nước trong thời kỳ hội nhập.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGi7843i php m7903 r7897ng cho vay 2737889i v7899i Doanh nghi7879p vamp.doc
Tài liệu liên quan